Home Blog Page 822

Đức Phanxicô ở Nhật, một chuyến thăm lịch sử và chiến lược

Đức Phanxicô ở Nhật, một chuyến thăm lịch sử và chiến lược

Đức Phanxicô dâng thánh lễ tại sân vân động bóng chày của Nagasaki, 24-11-2019

courrierinternational.com, Rintaro Hosokawa, 2019-11-23

Ngày 23 tháng 11 Đức Phanxicô đến Nhật. Theo nhật báo kinh tế Nihon Keizai Shimbun, đây là chuyến thăm không phải là không quan trọng. Kể từ ngày Đức Gioan-Phaolô II đến Nhật năm 1981, từ 38 năm nay chưa có giáo hoàng nào đặt chân đến đất nước này. Trong chuyến đi này, Đức Phanxicô sẽ đến thăm hai thành phố Hiroshima và Nagasaki, hai thành phố bị dội bom nguyên tử, ngài sẽ có bài diễn văn cổ động cho hòa bình ở đây. Ở Tokyo, ngài cũng sẽ gặp các nạn nhân của ba vụ tai ương năm 2011, động đất, sóng thần và tai họa hạch nhân.

Từ khi được bầu chọn năm 2013, Đức Phanxicô đã ngỏ ý muốn đi Nhật. Năm 2014, trong một lần đến Vatican, Thủ tướng Nhật Shinzo Abe đã mời Đức Phanxicô đến Nhật. Chương trình đã bị hoãn vì phải thận trọng – Vatican đang cố gắng cải thiện bang giao với Trung quốc – và cũng vì Vatican đang có các vụ tai tiếng lạm dụng tình dục trong Giáo hội.

Nhưng vào tháng 9 năm 2018, Vatican bắt đầu con đường hòa giải với Trung quốc bằng cách ký một thỏa thuận tạm thời về việc bổ nhiệm các giám mục Trung quốc. Rồi phải chờ tân quốc vương lên ngôi để quyết định chuyến tông du Nhật Bản.

Ngày 24 tháng 11, Đức Phanxicô sẽ đến thăm Nagasaki và Hiroshima. Ở Nagasaki, ngài sẽ đọc một bài diễn văn ủng hộ việc giải trừ vũ khí nguyên tử tại Trung tâm Bom Nguyên tử, sau đó ngài sẽ đến thăm Đài tưởng niệm 26 chân phước tử đạo năm 1597, họ bị treo lên thập giá dưới thời bắt đạo của đại tướng quân Hideyoshi Toyotomi. Ở Hiroshima, ngài sẽ có cuộc “gặp gỡ hòa bình” với các nạn nhân sống sót sau vụ dội bom nguyên tử tại Đài tưởng niệm Hòa bình.  Ngày 25 tháng 11, ở Tokyo, ngài sẽ có buổi tiếp kiến với Đức vua Naruhito và Thủ tướng Abe, sau đó ngài sẽ gặp các nạn nhân của vụ động đất năm 2011, và ngài sẽ dâng thánh lễ ở Sân vận động chiều hôm đó. 

Một giáo hoàng gần với mọi người

Xuất thân từ một gia đình trung lưu ở Buenos Aires, Đức Phanxicô là người gần với mọi người: ngay cả khi là Tổng Giám mục, ngài cũng dùng phương tiện di chuyển công cộng, xe buýt, xe điện ngầm. Tất cả các giáo hoàng đều kêu gọi hòa bình, nhưng lời kêu gọi của ngài đặc biệt làm xúc động. Không phải chỉ vì ngài đến thăm một trại tị nạn ở Palestina, nhưng ngài còn đến thăm các nước Phi châu đang bị nội chiến xâu xé. Chung chung, ngài lắng nghe người nghèo, lắng nghe các nạn nhân của các vụ thiên tai và các vụ xung đột vũ trang.

Đứng trước sự tăng cường vũ khí hạt nhân của các cường quốc như Mỹ và Nga, năm 2014 ngài đã gióng lên tiếng chuông báo động khi ngài tuyên bố “nhân loại không học bài học dội bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki”. Ngài hiểu mọi người quan tâm đến Hiroshima và Nagasaki nên sứ điệp của ngài nói với thế giới từ các thành phố này sẽ được chú ý nhiều hơn.

Chuyến đi Nhật của ngài cũng mang tầm quan trọng chiến lược lớn vì Vatican mong số tín hữu của mình gia tăng trên thế giới. Hiện nay con số này là 1,3 tỷ người nhưng đã có các dấu hiệu có một sự suy giảm do già nua, do các chuyển đổi trong các pháo đài truyền thống của Giáo hội công giáo: châu Âu và Châu Mỹ La Tinh.

Đối với Vatican, Á châu vẫn là vùng người công giáo chiếm thiểu số, như thế Á châu là một vùng đất mênh mông cần phát triển. Không giống như vị tiền nhiệm Bênêđictô XVI, trong triều giáo hoàng của mình, ngài chưa đến thăm lục địa này, Đức Phanxicô đã cho thấy ngài đặt một tầm quan trọng ở Á châu, năm 2014 ngài đi thăm Nam Hàn, năm 2015 ngài đi thăm Phi Luật Tân.

Ảnh hưởng của Vatican trên thế giới

Xuất thân từ Dòng Tên là Dòng muốn đi rao giảng Tin Mừng ở Trung quốc và Nhật từ thế kỷ 16, khi còn trẻ, Đức Phanxicô đã mơ đi truyền giáo ở Nhật. Trong một bài diễn văn đọc ở Vatican, ngài đã vinh danh các “tín hữu kitô ẩn giấu”, họ vẫn trung thành với đạo dù đạo công giáo bị cấm ở Nhật từ những năm 1614 đến năm 1873, ngài tuyên bố: “Họ vẫn tiếp tục giữ đạo và cầu nguyện, kinh nghiệm của họ cho chúng ta một bài học”.

Ngày nay con số người công giáo ở Nhật là 440 000 và con số này tiếp tục giảm, chuyến tông du của Đức Phanxicô sẽ có thể giúp việc truyền bá đức tin cho quần đảo này.

Với nước Nhật cũng vậy, chuyến đi này là dịp duy nhất. Vatican là nước nhỏ nhất thế giới nhưng ảnh hưởng của Vatican trên chính trường quốc tế rất lớn. Năm 2015, Đức Giáo hoàng đã là trung gian hòa giải cho việc tái lập bang giao giữa Mỹ và Cuba. Rồi tháng 2 vừa qua, Tổng thống Venezuela, Nicolás Maduro đã viết cho ngài một bức thư xin ngài tái lập đối thoại với các người chống đối chế độ.

Ngoài ra Vatican còn bổ nhiệm các giám mục trên toàn thế giới và mạng lưới các nhà thờ công giáo trải rộng trên hành tinh. Số lượng thông tin của Vatican rất quan trọng, ngay cả các cường quốc cũng phải nễ. Ông Yoshihide Suga, tổng thư ký nội các nói: “Chính quyền Nhật hy vọng chuyến đi của Đức Phanxicô sẽ là cơ hội tăng cường quan hệ của Nhật với Vatican hơn nữa”. Chắc chắn nước Nhật sẽ có lợi thế hơn trong việc hợp tác với Vatican.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Đức Giáo hoàng đến thăm Nhật Bản, một đất nước không để kitô giáo nhập vào

Giáo hội Nhật Bản: Lời của hồng y Hollerich, cựu nhà truyền giáo ở Nhật

Đức Phanxicô tại Trung tâm Bom nguyên tử ngày 24 tháng 11-2019 

Đức Phanxicô đến đồi Nishizaka để vinh danh các thánh tử đạo trong đó có Chủng sinh Paul Miki Dòng Tên Nhật và 25 đồng hữu tử đạo ngày 5 tháng 2 năm 1597. Ngài kêu gọi mọi người có “niềm vui trong sứ mạng.” 

“Tôi đến đây như người hành hương hòa bình, thương xót cho tất cả các người đã chết và bị thương trong ngày khủng khiếp này của lịch sử nhân loại trên quả đất này. Tôi cầu nguyện xin Chúa là Chúa của sự sống hoán cải các tâm hồn về với hòa bình, hòa giải và tình anh em.” Đức Phanxicô tại Hiroshima 24 tháng 11-2019

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (5/8) 

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (5/8)

Trích sách Quả tim thao thức, The restless heart, Ronald Rolheiser 

Nắm vững “Huyễn hoặc”: Tìm kiếm Sự thật

Chúng ta sẽ bớt cô đơn hơn khi chúng ta làm giảm cách biệt giữa những huyễn hoặc chúng ta có về thực tế và thế giới thật. Làm sao để giảm bớt sự bất tương đồng này? Bằng cầu nguyện. Chúng ta sẽ sống cuộc sống thực tại tốt hơn khi để cho cầu nguyện có tiếng nói cho những huyễn hoặc của chúng ta.

Đơn giản, tiến trình đó như thế này: Cầu nguyện làm cho chúng ta liên hệ sâu sắc hơn với Thiên Chúa, và vì Thiên Chúa là Đấng định hình hiện thực sâu đậm nhất, nên càng hòa hợp với tư tưởng của Thiên Chúa, chúng ta càng hòa hợp với thực tại. Cầu nguyện phá tan huyễn hoặc. Để hiểu rõ điều này tôi dùng một ví dụ tương tự. Một bức tượng được định hình chính xác là do người sáng tạo ra nó. Theo đó, nếu muốn hiểu cho trọn bức tượng, chúng ta phải biết đôi điều về ý định của nghệ nhân. Càng hiểu ý định, chúng ta càng hiểu chính xác bức tượng. Giống như vậy, nếu muốn hiểu được hiện thực, chúng ta phải hiểu ý định của Thiên Chúa, nghệ nhân tạo thành hình tượng đặc biệt này. Càng biết về tư tưởng của Thiên Chúa, chúng ta càng hiểu chính xác hơn về thực tại. Qua việc cầu nguyện, chúng ta nhận thức được tư tưởng và ý định của Thiên Chúa. Vì thế, cầu nguyện sẽ dẫn chúng ta vào mối dây liên kết với nhận thức sâu sắc nhất về hiện thực. Chính việc cầu nguyện trao cho chúng ta cơ hội thắng vượt huyễn hoặc để đạt tới sự thật. Sống trong sự thật sẽ làm cho chúng ta vơi bớt cô đơn.

Bởi vậy, một mặt, Chúa Giêsu là người kiên vững nhất trên thế gian này. Tình mật thiết của Ngài với Chúa Cha đã không cho bất kỳ huyễn hoặc không lành mạnh nào lớn lên trong Ngài. Những năm tháng dài cầu nguyện không đơn thuần để Ngài chìm trong cô tịch sáng tạo; mà xua tan tất cả mọi huyễn hoặc và bất thực khỏi sự tự nhận thức và khỏi nhận thức của Ngài về thế giới này. Trong cầu nguyện, Chúa Giêsu không chỉ biết Thiên Chúa, mà còn biết chính Ngài và thế giới. Và đương nhiên Ngài biết chân lý. Nhưng thật oái oăm, Ngài giữ thinh lặng khi Philato hỏi Ngài về ý nghĩa của chân lý.

Cầu nguyện là con đường để thoát khỏi huyễn hoặc tha hóa của chúng ta. Tuy nhiên, kiểu cầu nguyện đưa chúng ta đến với chân lý sâu đậm không ở dạng cầu nguyện hình thức, các lời cầu nguyện dài mạch lạc, suy niệm, chiêm niệm, Kinh Lạy Cha, lần hạt, và những dạng cầu nguyện phụng vụ khác. Các lời cầu nguyện này rõ ràng có một vai trò quan trọng giúp chúng ta đến với sự thật. Nhưng ý nghĩa của việc cầu nguyện còn rộng lớn hơn thế. Thiên Chúa nói với chúng ta ở mọi nơi. Chúng ta cũng vậy, cầu nguyện ở mọi nơi, khi đọc và học hỏi kinh thánh, khi học giáo lý Kitô căn bản, khi học về quan điểm của những người thông thái trong lịch sử, khi lắng nghe ý kiến của người thân cận, khi đọc ra lời Thiên Chúa trong các sự kiện thế tục, và khi lắng nghe sự khôn ngoan chân thực trong khoa học và nghệ thuật. Khi Ngài nói với chúng ta qua tất cả những điều này, chúng ta phải để Thiên Chúa đưa chúng ta ra khỏi huyễn hoặc và ảo tưởng. Khi lắng nghe Thiên Chúa qua cầu nguyện, chúng ta sẽ tháo bỏ được nhiều nỗi cô đơn gây nên bởi huyễn hoặc của chính mình.

Cũng như tất cả những biến chuyển khác để thoát nỗi cô đơn, biến chuyển từ huyễn hoặc để có một đời sống thực tế hơn là việc làm lâu dài. Không có cách thức nào có được kết quả đầu hôm sớm mai, nó chỉ có được sau nhiều giờ, nhiều tháng nhiều năm kiên nhẫn và đấu tranh. Hy vọng khi lớn hơn, chúng ta sẽ khôn ngoan hơn và bớt cô đơn hơn, khi chúng ta biết để cho cầu nguyện dần dần làm xóa tan huyễn hoặc để có thể sống với hiện thực.

J.B. Thái Hòa dịch

Xin đọc thêm: Lời nói đầu sách Quả tim thao thức

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (1/8)

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (2/8)

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (3/8)

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (4/8)

Giáo hội Nhật Bản: Lời của hồng y Hollerich, cựu nhà truyền giáo ở Nhật

Giáo hội Nhật Bản: Lời của hồng y Hollerich, cựu nhà truyền giáo ở Nhật

vaticannews.va/fr, Marie Duhamel, 2019-11-22

Hồng y Jean Claude Hollerich, Tổng Giám mục Luxembourg, ngài đi truyền giáo ở Nhật trong vòng 17 năm, trước khi được được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Luxembourg năm 2011.

Nước Nhật là chặng thứ nhì trong chuyến đi lần thứ tư đến Á châu của Đức Phanxicô, đất nước mà ngay từ khi còn trẻ ngài đã mơ đặt chân đến. Vatican News có cuộc phỏng vấn với hồng y Jean-Claude Hollerich, Tổng Giám mục Luxembourg hiện nay, ngài từng đi truyền giáo ở Nhật 17 năm. Giáo hội Nhật có một lịch sử đặc biệt, đã cự được với các cuộc bách hại trong nhiều thế kỷ. Một Giáo hội ngày nay sống hài hòa với các tôn giáo khác và ngày càng thu hút người trẻ ở Tokyo.

Nước Nhật đặc biệt được các linh mục Dòng Tên đến truyền giáo từ thế kỷ 16. Và 65 năm sau, kitô giáo bị cấm và người công giáo bị bách hại. 

Phỏng vấn hồng y Jean-Claude Hollerich 

Trước hết có nhiều giáo dân cộng tác với các tu sĩ Dòng Tên, những người “doguku, những người cùng sống với”. Đó là các giáo lý viên. Họ thông dịch các bài giảng, và chuẩn bị tinh thần cho giáo dân là các cộng đoàn công giáo sẽ có thể không có linh mục. Trong các cộng đoàn nhỏ còn lại, trẻ em được rửa tội và các giáo lý viên dạy cho các em đọc kinh trong lúc chờ đợi các nhà truyền giáo trở lại. 

Vì vậy chính sức mạnh của cộng đoàn là nền tảng giúp cho sự hiện diện này?

Đó cũng là sức mạnh cảm nhận nhóm của người Nhật. Vì kitô giáo bị cấm, nên nếu trong năm gia đình có một người theo đạo thì tất cả đều bị xử tử. Và như thế áp dụng trong các gia đình ở nhiều vùng khác nhau. Nhưng khi cả gia đình, cả làng đều là người công giáo thì điều này đã không xảy ra: họ sống ẩn giấu.

Có hai thế kỷ người công giáo bị đàn áp. Giáo hội bám rễ trong tinh thần tử đạo này, bây giờ giáo dân Nhật còn giữ trong ký ức tinh thần này không?

Chắc chắn, họ còn giữ trong ký ức, nhất là giáo dân ở thành phố Nagasaki. Nagasaki và Tokyo là các Giáo hội khác nhau. Tokyo là Giáo hội mới được thành lập bởi tầng lớp trung lưu của xã hội. Ở Nagasaki, họ là hậu duệ của tổ tiên kitô hữu. Nhà thờ chính tòa Nagasaki ở Odakami bây giờ là một khu phố của Nagasaki, nhưng trước đây là một làng riêng biệt, người dân hoàn toàn theo đạo công giáo.

Linh mục Bernard Petitjean thuộc Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris đã thấy một nhóm nhỏ tín hữu kitô vào nhà thờ dù họ bị cấm, bị đe dọa giết. Họ đặt cho ngài các câu hỏi và tự xưng mình là tín hữu kitô, họ nói với ngài “chúng ta có cùng một trái tim”.

Chứng từ của các vị tử đạo có tạo nên sức mạnh cho Giáo hội ngày nay không?

Rất nhiều, có các vị tử đạo ở thế kỷ 19 mà chúng ta không biết nhiều, các người này khi họ nói họ là kitô hữu, họ bị bắt bớ, Nhà nước đưa họ đến các trại tập trung, có một trại ở Zuwano, gần Yamaguchi được nhiều người biết đến. Cũng có nhiều tín hữu kitô chết vì đức tin ở thế kỷ 19. Dù vậy ngày nay có sự chung sống tốt đẹp giữa các tôn giáo ở Nhật.

Làm sao giải thích giải thích điều này và làm sao để có một sự chung sống tốt đẹp này?

Người Nhật rất quan tâm đến sự hài hòa. Khi có một tôn giáo mới xuất hiện, trước hết có sự khó chịu vì người dân phải tìm một thế quân bình mới, nhưng một khi mình đã ở trong thành phần của cộng đồng thì mình ở trong sự hài hòa. Họ tôn trọng lẫn nhau, họ giúp đỡ lẫn nhau. Tôi luôn giữ một kỷ niệm trong đầu, khi tôi còn là một tu sĩ Dòng Tên trẻ, tôi chưa chịu chức linh mục, có hồng y Poupard đến. Ngài đi thăm Núi Hiyei, trung tâm của một trong các ngôi chùa Phật giáo lâu đời nhất của Nhật, chùa Tendai (Thiên Thai tông). Sự đón tiếp nồng nhiệt, lịch sự, trong tình huynh đệ thật là tuyệt vời. Các phật tử Nhật hiểu ngài có trải nghiệm thiêng liêng. 

Mối quan hệ của người Nhật với đức tin là gì?

Đa số người Nhật không thuộc về một tôn giáo hoặc họ quên nguồn gốc tôn giáo của họ, nhất là người dân ở Tokyo, một thành phố rất lớn. Nếu trong nhà có ông bà qua đời, họ nhờ các nhà sư làm đám tang. Đây là một xã hội rất thế tục không thuộc về một tôn giáo nào nhưng lại không thù nghịch với đức tin. Người dân cởi mở với tôn giáo. Mọi người đều mừng ngày Tết. Trước giao thừa họ đến chùa Phật để nghe tiếng chuông. Sau đó họ đến các ngôi đền Thần đạo (shinto). Và rất nhiều người trẻ đặt câu hỏi về tôn giáo.

Người công giáo chỉ chiếm 0,35% đa số. Đại đa số các hôn nhân là hỗn hợp. Trong bối cảnh này, việc trao truyền đức tin sẽ không đơn giản?

 

Trong tất cả các giáo xứ đều có lớp giáo lý ngày thứ bảy hoặc chúa nhật và có rất nhiều người trẻ tham dự. Trẻ em được các thanh niên hướng dẫn chơi thể thao trước giờ giáo lý, và đây là một chuyện rất tốt. Ở thành phố luôn có các vụ trở lại. Ở thôn quê thì giảm nhưng ở thành phố thì tăng, tôi làm việc ở môi trường đại học và mỗi năm tôi may mắn rửa tội cho hai hoặc ba sinh viên. Không ai trong số các sinh viên theo đạo. Nhưng tình bạn với các sinh viên làm chuyển biến nhiều chuyện, chúng tôi đi du lịch chung với nhau… Họ hỏi tôi “vì sao cha đến Nhật? Vì sao cha không nhận lương trong khi cha là giáo sư? Vì sao cha không lập gia đình?” Đó là câu hỏi họ đặt ra cho một người truyền giáo: vì sao tôi đến Nhật. Dĩ nhiên chúng tôi không thể giải thích tất cả trong một buổi tối, nhưng bên cốc bia lúc này lúc kia, tôi chia sẻ với họ đời sống của tôi, tôi luôn có người xin tôi rửa tội cho họ.

Có thể có một cái nhìn sai lầm khi đặt câu hỏi về nước Nhật, khi nghĩ về nước Nhật, người ta có cảm tưởng đây là xã hội tiêu thụ, nơi chủ nghĩa cá nhân rất mạnh, nơi có nhịp sống điên cuồng, nơi gia đình truyền thống tan vỡ. Cha nói người trẻ rất quan tâm về tôn giáo, điều này có nghĩa là họ có quan tâm về lâu về dài?

Đúng, tôi xin đơn cử một ví dụ. Khi nói chuyện với một trong các sinh viên xin tôi rửa tội, tôi khám phá ngày xưa anh đi nhà trẻ công giáo. Anh giữ một kỷ niệm bình an khi cầu nguyện, lúc đó anh mới 5 tuổi, và anh muốn tìm lại bình an này, tìm lại cái hạnh phúc này. Vì thế anh xin rửa tội.

Làm thế nào Giáo hội có thể tháp tùng các người trẻ này?

Cũng như ở châu Âu, mình phải gần với họ. Không phải làm việc cho người trẻ nhưng phải gần họ, tôi may mắn được gần họ vì tôi làm trong môi trường đại học, được thấy các thế hệ trẻ khác nhau, và cũng không nên có một hình ảnh cố định về họ “người trẻ thì như vậy, như kia” nhưng phải cởi mở trong gặp gỡ, trong lắng nghe và như Đức Phanxicô thường hay nói, phải “lắng nghe trong thấu cảm”. Các quan hệ đã được thiết lập, tình bạn đã có vì thế tôi rất hạnh phúc khi mỗi năm ở giáo phận Luxembourg, tôi được các gia đình Nhật đến thăm, các sinh viên đến tìm gặp. Thật tuyệt vời khi chúng tôi còn giữ tình bạn này.

Người Nhật chờ đợi gì khi giáo hoàng đến?

Tôi nghĩ họ nghĩ Đức Giáo hoàng là người thánh thiện, người nói một ngôn ngữ mà họ hiểu. Và đó là nhà hiền triết đến từ Tây phương, luôn có khía cạnh này ở Nhật đối với người phương Tây. Và tôi nghĩ họ sẽ rất mong chờ sứ điệp này.

Tôi vẫn còn nhớ lời của một cựu sinh viên Nhật ngoài ba mươi tuổi, anh nói: “Con có một vé đi xem lễ Đức Giáo hoàng cử hành ở Tokyo!”, tôi nói nhưng mà con không công giáo, anh trả lời: “Đúng, nhưng con muốn thấy Đức Giáo hoàng và con muốn tham dự thánh lễ”. Vẫn còn lòng nhiệt huyết này. Người dân chờ một cái gì, người dân chờ lời của sự sống. Như thế, đây là một xã hội hậu-hiện đại ở Tokyo đã mất la bàn. Các giá trị truyền thống của họ vẫn còn và còn nhiều hơn ở châu Âu nhưng nó đã bị sụp đổ từ 20, 30 năm nay. Và người dân muốn biết làm thế nào để hạnh phúc trên quả đất này và đâu là trách nhiệm của chúng ta.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: “Tại Nhật, kitô giáo có một hình ảnh tích cực”

Hồng y Manyo Maeda: Vai trò của Giáo hội trong nước Nhật ngày càng thế tục hóa

Hình ảnh Đức Phanxicô đến Nhật ngày thứ bảy 23 tháng 11-2019, ngày mưa gió!

Ba tin vui cho các người chống đối giáo hoàng

Ba tin vui cho các người chống đối giáo hoàng

international.la-croix.com, Robert Mickens, Rôma,  2019-11-15

Hình: Đức Phanxicô trên chuyến bay từ Rôma đi bangkok ngày thứ ba 19-11-2019

Các cuộc tấn công khó chịu chỉ thúc đẩy Đức Phanxicô nỗ lực cải cách Giáo hội.

Đoán gần đoán xa với Đức Phanxicô thêm một lần nữa.

Từ khi được bầu chọn sáu năm rưỡi nay, Đức Phanxicô chưa bao giờ về quê hương Argentina của mình. Và ngay khi có tin năm 2020 ngài sẽ về Argentina thì ngài lại dửng dưng với ý tưởng này.

Theo thông tin của hãng tin Argentina Telám ngày 13 tháng 11 thì “ngài sẽ quyết định đi Argentina và Uruguay sau này”.

Ngài cho biết chuyến đi Buenos Aires và các vùng khác của đất nước Argentina “sẽ hơi khó” vì các cam kết ngài đã có trong năm tới.

Hứa đi các nước khác?

Cho đến nay, các nhà chức trách Vatican chưa công bố một kế hoạch ấn định nào trong năm 2020.

Chỉ tuần vừa qua, họ cho biết ý định của Đức Phanxicô và Đức Tổng Giám mục giáo phận Cantorbéry, Justin Welby, sẽ có thể đi Nam-Xuđăng. Nhưng chỉ đi “nếu điều kiện chính trị của Nam-Xuđăng thành lập một chính phủ chuyển tiếp đoàn kết dân tộc trong 100 ngày sắp tới”.

Đức Phanxicô sẽ đi đâu năm 2020?

Trong vài ngày qua, trang tin tức Tây Ban Nha Religión Digital cũng đưa tin Đức Phanxicô đã lên kế hoạch cho một chuyến đi khác trong năm tới – Châu Đại Dương. Nhưng người Úc và người Tân Tây Lan không nên hy vọng. Ngài sẽ đến Papua New Guinea và Timor Leste. Và ngái cũng tuyên bố: “Có thể là Indonesia”.

Trong khi đó, người Công giáo ở Hungary đang hy vọng ngài sẽ đến thăm đất nước của họ vào năm tới khi Budapest tổ chức Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 52 (IEC) vào tháng 9 năm 2020. Nhưng, một lần nữa, chưa có tin tức chắc chắn.

Lần cuối một giáo hoàng tham dự Đại hội Thánh Thể (không được tổ chức ở Rôma) là vào năm 1997 khi Đức Gioan-Phaolô II đến Warsaw ở Ba Lan quê hương của ngài.

Nhưng quan trọng hơn, chuyến về quê hương Argentina chỉ là một giấc mơ. Dù nhiều người thất vọng về chuyện này, nhưng đây là tin vui cho những người yêu ngài và hy vọng ngài sẽ là giám mục giáo phận Rôma trong nhiều năm nữa.

Vé về nhà một chiều

Tin vui, đó là dự đoán tôi đã đưa ra cách đây hơn một năm, cụ thể là khi ngài về Buenos Aires là chấm dứt triều giáo hoàng của mình.

Tôi đã viết: “Chúng ta tất cả đều biết khi Đức Phanxicô quyết định rời ‘đấu trường’ là khi ngài tiết lộ kế hoạch đi Argentina trong một chuyến đi sắp tới. Tôi cá là khi ngài đến đó, ngài sẽ tuyên bố về hưu, rủ bỏ chiếc áo chùng trắng giáo hoàng và hộ chiếu Tòa Thánh để trở lại là cha Jorge giữa người nghèo ở Buenos Aires.”

Làm cho việc từ chức của giáo hoàng là “bình thường”

Một phần đó là lý do vì sao Đức Phanxicô đã nói, không nên xem quyết định từ chức của Đức Bênêđictô XVI năm 2013 là một điều gì đó khác thường. Ngài nói, về hưu bây giờ là chuyện bình thường với các giáo hoàng.

Hoàn toàn không phải như vậy. Đức Bênêđictô XVI là giáo hoàng đầu tiên sau nửa thế kỷ tự nguyện từ bỏ chức vụ giáo hoàng. Nếu về hưu thực sự trở thành bình thường đối với các giáo hoàng, thì việc từ chức tiếp theo không thể chờ trong 500 năm nữa. Nhưng Đức Phanxicô có thể đi theo gương Đức Bênêđictô XVI. Và tôi luôn tin vào ý định này của ngài.

Tôi cũng đã viết trong một bài báo cách đây vài tháng: “Cuối cùng Đức Phanxicô cũng sẽ về nhà, có thể trong hai hay ba năm nữa, khi ngài đã đặt một vài nền tảng vững chắc không thể dễ dàng đảo ngược để cải cách Giáo hội.”

Tháng 12 sắp tới ngài sẽ 83 tuổi. Ngài có cả một chương trình bận rộn cho tuổi của ngài, ngài bắt đầu cho thấy có dấu hiệu mệt mỏi của thời gian.

Một sự từ chức năm 2020 hay trong năm sắp tới có thể là một quyết định tốt. Trên thực tế, triều giáo hoàng của ngài cũng đã kéo dài tương tự như triều giáo hoàng của Đức Bênêđictô XVI, chỉ ngắn hơn có tám tháng rưỡi.

Không có khả năng Đức Phanxicô sẽ từ chức trước khi chương trình cải cách giáo triều xong, và ban hành các thủ tục cập nhật cho cuộc bầu chọn giáo hoàng, nhất là các thủ tục chính xác cho việc từ chức của một giáo hoàng.

Nhưng việc cải cách phải được thực hiện năm 2020. Và tài liệu về mật nghị và các chuẩn mực cho việc từ chức có thể đã được viết hay đang viết. Vì thế, như người ta dự đoán, việc từ chức cuối cùng của Đức Phanxicô chắc chắn đã nằm trong chương trình.

Các người chống đối Đức Phanxicô giúp ngài kéo dài triều giáo hoàng của mình

Tuy nhiên có những điều đang xảy ra bây giờ có thể làm cho các dự đoán  bị sai. Các người chống đối ngài, kể cả các vị cao cấp trong thứ bậc Giáo hội công giáo đã gia tăng các tấn công của họ. Dĩ nhiên nhiều người trong số họ là “những người kỳ lạ.” Nhưng một vài hồng y và giám mục khuyến khích họ tiếp tục tấn công Đức Phanxicô bằng mọi cách có thể.

Và quyết định của Đức Phanxicô không về Argentina bây giờ cũng là một tin tốt. Bởi vì Đức Jorge Mario Bergoglio sẽ không buộc phải từ bỏ chức vụ của mình.

Ngay cả khi ngài có thể nghĩ, từ rất sớm, việc từ chức liên tiếp hai lần sẽ đóng góp lâu dài cho thể chế giáo hoàng, chắc chắn ngài cũng hiểu, làm như vậy dưới sự tấn công sẽ gây bất lợi cho các việc khác mà ngài đã làm cho đến bây giờ.

Vì vậy chúng ta hãy để các cuộc tấn công tiếp tục. Các kẻ thù của giáo hoàng rõ ràng là quá chậm hiểu, các tấn công của họ để hạ triều giáo hoàng của ngài chỉ củng cố cho cải cách Giáo hội của ngài.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bản tổng kết đầu tiên chuyến đi của Đức Phanxicô đến Thái Lan

Bản tổng kết đầu tiên chuyến đi của Đức Phanxicô đến Thái Lan

Các nữ tu Thái Lan chờ Đức Phanxicô gần giáo xứ Thánh Phêrô ở quận Sam Phran ngày 22 tháng 11-2019  (ANN WANG)

vaticannews.va/fr, Marie Duhamel, Bangkok, 2019-11-22

Sáng thứ bảy giáo dân Nhật chờ Đức Phanxicô đến thăm đất nước họ, đây là ngày thứ tư trong chuyến đi Á châu của ngài. Ngài sẽ gặp cộng đồng thiểu số công giáo Nhật, một cộng đồng thiểu số còn ít hơn cộng đồng công giáo ở Thái. Tại “đất nước của nụ cười”, Đức Phanxicô đến mừng 350 năm kỷ niệm ngày có Khâm sứ Tòa Thánh đầu tiên của Thái Lan, ngài nhắc lại tinh thần truyền giáo của cha ông với 380 000 tín hữu công giáo Thái.

Nữ phóng viên của Vatican News Marie Duhamel ở Bangkok có bản tường trình.

Một thiếu nữ trở lại đạo công giáo thổ lộ: “Tôi đã khóc suốt buổi lễ, đây là những giọt nước mắt hân hoan.” Người công giáo Thái chưa tin được là Đức Giáo hoàng đã đến thăm họ, làm cho họ được “thấy rõ chưa từng thấy” ở một đất nước có 95% người dân theo đạo phật, với một số người, đây là dịp để họ cho thấy “mình có tồn tại” và làm chứng cho đức tin của mình trước công chúng. Và Đức Phanxicô đến đây cũng vì lý do này, để khuyến khích giáo dân làm môn đệ truyền giáo cho Chúa Kitô. Với các giáo lý viên, các linh mục, tu sĩ nam nữ ngài xin họ say mê yêu Chúa Kitô và trở nên những người chiến đấu vững mạnh cho đức tin của mình, trau dồi tinh thần tông đồ tích cực bằng cách luôn hội nhập tinh thần Tin Mừng; với các giám mục, Đức Phanxicô xin họ đi theo Đức Chúa Thánh Thần như các nhà truyền giáo đầu tiên đã làm; với các bạn trẻ ngài xin họ bám rễ trong đức tin của tổ tiên, những cha ông trước họ đã thấy được bí mật của một tâm hồn hạnh phúc là bám rễ sâu trong Chúa Giêsu.

Đối với tất cả mọi người, Đức Phanxicô xin họ đưa tất cả những người trong xã hội vào gia đình của Chúa, mời tất cả vào bàn: những người bệnh, những người khất thực, những người nghiện ngập hay nạn nhân của nạn buôn người, đây là sứ điệp trong suốt chuyến đi của ngài. Tại Thái Lan, các trường học, bệnh viện, các việc làm của Giáo hội được các phật tử công nhận và xem trọng. Đức Phanxicô đã đề nghị Đức Tăng thống Somdet Phra Maha Munivong của họ một sự hợp tác lớn hơn. Các tôn giáo là ngọn đèn pha của hy vọng, của men bột và của tình huynh đệ: với khoảng hai mươi nhà lãnh đạo tôn giáo, Đức Phanxicô đề nghị với họ một liều thuốc giải độc cho các tác hại tàn phá của nạn toàn cầu hóa… đó là xem gặp gỡ và đối thoại là con đường, hợp tác hỗ tương là hành vi, nhận biết nhau là phương pháp và tiêu chí để cùng nhau phục vụ hòa bình và công chính.

Đức Phanxicô đi thăm một nhóm thiểu số khác: các người công giáo ở Nhật

Sáng thứ bảy 23 tháng 11, Đức Phanxicô sẽ đi Nhật trong chuyến tông du châu Á lần thứ tư của ngài. Tại thủ đô Tokyo, ngài sẽ gặp Đức vua Naruhito và Thủ tướng

Shinzo Abe, các nhà cầm quyền nhưng ngài cũng sẽ gặp các nạn nhân của các vụ động đất,sóng thần và thảm họa hạt nhân ở Fukushima năm 2011. Vấn đề hạt nhân sẽ là vấn đề hàng đầu ở hai thành phố Nagasaki và Hiroshima. Đức Phanxicô đến để bảo vệ sự sống ở đất nước theo truyền thống đạo shinto-phật giáo, nơi mà người công giáo chỉ chiếm 0,42% dân số. Một thiểu số còn nhỏ hơn nhóm thiểu số người công giáo ở Thái Lan.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: “Tại Nhật, kitô giáo có một hình ảnh tích cực”

Đức Phanxicô ở Nhật, đất nước có tỷ lệ người tự tử cao nhất thế giới

Các nữ tu vui mừng được gặp Đức Phanxicô tại giáo xứ Thánh Phêrô ngày 22 tháng 11-2019

 

Sơ Ana Rosa Sivori, ngôi sao thì thầm vào tai Đức Giáo hoàng

Sơ Ana Rosa Sivori, ngôi sao thì thầm vào tai Đức Giáo hoàng

apnews.com, Nicole Winfield, 2016-11-22

Đức vua Thái Lan Maha Vajiralongkorn, Đức Phanxicô, sơ Ana Rosa Sivori và hoàng hậu Suthida trong buổi tiếp kiến riêng ở Dinh Hoàng gia ngày thứ năm 21 tháng 11-2019, Bangkok. (Hình, Văn phòng Hoàng gia và AP)

Sơ để Đức Phanxicô chờ khi sơ nói chuyện thêm với vua và hoàng hậu Thái. Sơ cự nự Đức Phanxicô vì ngài chỉ thăm Bangkok chứ không thăm “nước Thái đích thực.” Và sơ đã cười thầm “anh Jorge” khi sơ phải bỏ thêm thì giờ để dịch tiếng Tây Ban Nha ngẫu hứng của anh mình cho các linh mục và nữ tu Thái hiểu.

Sơ Ana Rosa Sivori là ngôi sao trong chuyến đi của người anh họ mình đến Thái Lan, sơ đảm đương chức vụ chưa từng có của một phụ nữ, thì thầm vào tai giáo hoàng và thông dịch cho ngài, người không nao núng trong trách nhiệm của mình với Giáo hoàng Phanxicô.

Thông thường các phụ tá của giáo hoàng là đàn ông, họ ở trong bóng tối, thể hiện sự tôn kính như bức hoa tường cho vị lãnh đạo Giáo hội công giáo của 1, 2 tỷ giáo dân. Nhưng không phải như vậy với sơ Sivori, người tôn kính Đức Phanxicô như một giáo hoàng, nhưng có sự tự tin của một nữ tu đã phục vụ cho tín hữu Thái hơn nửa thế kỷ nay.

Sơ Sivori, 77 tuổi thuộc Dòng Salê, là phó hiệu trưởng một trường học ở Udon Thani miền Bắc nước Thái. Năm 1966 sơ là nữ tu trẻ từ Argentina đến Thái Lan, thân phụ của sơ và mẹ của Đức Jorge Mario Bergoglio là anh chị em họ nhau.

Sơ nói, từ rất sớm thân sinh của sơ biết sẽ có một cái gì rất đặc biệt với “Jorge”, một cảm nhận mà toàn cả gia đình đều thấy. Sơ Sivori nói với các phóng viên Ý trước chuyến đi: “Cha tôi luôn nói: ‘Không được ai đụng đến Jorge’. Cha tôi có một cảm tình đặc biệt với anh Jorge.”

Đức Phanxicô thường xuyên gởi thư viết tay cho sơ Sivori và gởi cho sơ các gói sách để sơ đọc, phong bì do chính tay ngài viết.

Sơ Sivori lấy làm tiếc vì Đức Phanxicô chỉ đến thủ đô Bangkok, nơi chỉ có các tòa nhà chọc trời và các khách sạn sang trọng không đại diện gì cho phần còn lại của nước Thái. Sơ nói: “Nước Thái thực sự ở ngoài thủ đô.”

Khi vừa xuống máy bay Đức Phanxicô đã có phong cách riêng của mình. Trước khi chào cựu Thủ tướng Surayud Chulanont và người đứng đầu Hội đồng Cơ mật của Quốc vương Maha Vajiralongkorn, được phái đến phi trường để đón Đức Phanxicô, ngài đã vi phạm nghi thức ngoại giao khi ngài ôm hôn sơ Sivori trên hai má khi sơ đang đứng chờ ngài ở chân thang máy bay.

Sự không chính thức này được thực hiện trong suốt thời gian còn lại, nữ tu Sivori đã thay chỗ của giám mục địa phương trên xe chở Đức Phanxicô đi từ chỗ này đến chỗ kia. Dựa trên ngôn ngữ ngoại hình, sơ đã ra dấu và các chi tiết cho anh họ mình.

Các hình ảnh rất ấn tượng vì Đức Phanxicô không có nữ cố vấn và thường thường có một nam tu sĩ thì thầm bên tai mình.

Từ lâu, Đức Phanxicô đã luôn nhấn mạnh Giáo hội công giáo là “phụ nữ” và phụ nữ phải đóng một vai trò quan trọng hơn trong các vị trí lãnh đạo của Giáo hội.

Sự việc cuối cùng ngài để một phụ nữ ở bên cạnh là một sự việc đáng chú ý, đặc biệt ở một đất nước nổi tiếng có nhiều phụ nữ và có nhiều cô gái nạn nhân của việc khai thác và buôn bán người.

Vai trò của nữ tu Sivori đã ở cao điểm vào chiều thứ năm 20 tháng 11 khi sơ đi cùng với Đức Phanxicô trong buổi tiếp kiến riêng với vua Maha Vajiralongkorn và hoàng hậu Suthida ở Dinh Hoàng gia.

Sơ Sivori dịch, mô tả từng chi tiết các món quà Đức Phanxicô trao tặng và dịch lời nhà vua nói cho Đức Phanxicô nghe, sơ luôn có nụ cười nở trên môi.

Vào cuối buổi tiếp kiến, Đức Phanxicô chào gia đình hoàng gia và xuống thang lầu dẫn ra xe. Nhưng sơ Sivori vẫn còn ở lại nói chuyện gần một phút với vua và hoàng hậu trong khi Đức Phanxicô đang chờ sơ. Cuối cùng thì sơ cũng từ giã nhà vua và lên xe ngồi bên cạnh “anh Jorge” ở băng sau.

Ngày hôm sau trong buổi Đức Phanxicô gặp các tu sĩ nam nữ ở giáo xứ Thánh Phêrô, ngoại ô thủ đô Bangkok, sơ dịch các lời của ngài, nhưng như thường lệ, khi gặp “người nhà tu hành của mình”, Đức Phanxicô thường bỏ qua bài diễn văn đã soạn sẵn và nói chuyện tự nhiên với họ, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn trong ơn gọi với họ.

Sơ Sivori đã mất vài giây để viết lại các lời của “anh Jorge” trước khi dịch. Sự chậm trễ này làm Đức Phanxicô nhướng mày nhìn sơ và ra dấu cho sơ tiếp tục.

Sự trao đổi “trong im lặng” này đã tạo nên tràng cười trên các băng ghế, cọng thêm nụ cười chân thành của Đức Phanxicô, ngài xin lỗi đã không thể nói trực tiếp với con chiên của mình.

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc thêm: Gặp nữ tu Ana Rosa Sivori em họ của Đức Phanxicô

Đức Phanxicô gặp nữ tu Ana Rosa Sívori, em họ của ngài ở Thái Lan

Chuyến đi Thái Lan của Đức Phanxicô cũng là chuyến đi đoàn tụ gia đình

Thái Lan: Các nữ tu là “hình ảnh tình mẫu tử của Chúa”

Video phỏng vấn nữ tu Sivori

Hình ảnh Đức Phanxicô và sơ Ana Rosa Sivori trong các ngày Đức Phanxicô ở Thái Lan.

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (4/8)

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (4/8)

Trích sách Quả tim thao thức, The restless heart, Ronald Rolheiser

Nắm vững “Tâm trạng thao thức”: Tìm kiếm Cô tịch

Thậm chí sau khi đã vượt qua được “tha hóa” của mình, chúng ta vẫn phải chịu đựng các dạng cô đơn khác, đặc biệt là “thao thức”. Thao thức có lẽ là dạng cô đơn chúng ta ít nhận ra và ít hiểu biết nhất về nó. Như đã thấy, cô đơn lộ ra trong chúng ta, chính xác là bởi chúng ta, những con người, được dựng nên cho một tình yêu vô tận và một hiệp nhất vô hạn, do đó số phận của chúng ta là phải đi trên cuộc đời hữu hạn này với tâm tư lúc nào cũng bất mãn, đấu tranh và dằn vặt. Đó cũng là dạng đặc biệt nguy hiểm của cô đơn, thường làm tê liệt sinh lực sáng tạo hoặc đẩy chúng ta đi đến những hành động rồ dại.

Vậy làm sao để nắm vững được tâm trạng thao thức một cách sáng tạo? Cũng như trường hợp của tất cả các dạng cô đơn khác, chúng ta không có một giải pháp tức thời nào. Giải pháp sáng tạo cho việc này tùy thuộc vào sự phát triển các kiểu thức sống cụ thể có thể kìm hãm mãnh lực hung hãn tiềm tàng của cô đơn và biến chúng thành sinh lực sáng tạo. Làm sao để thực hiện được điều này? Bằng chính việc đưa “thao thức” của chúng ta vào chiều hướng của cô tịch sáng tạo.

Để làm được điều này, trước hết đòi hỏi chúng ta phải nhận biết, ở đời này, chúng ta không thể nào không thao thức. Chúng ta phải bắt đầu bằng việc chấp nhận chúng ta là người lữ hành đi trên mặt đất này, số phận chúng ta là phần nào thao thức và bất toàn, sống trong một thế giới mà nơi đó tất cả mọi bản giao hưởng đều còn dang dở. Điểm khởi đầu này đóng vai trò then chốt vì chỉ khi chúng ta chấp nhận sự thật hiện sinh này, chúng ta mới có thể dừng lại để không bị quyến dụ qua các giải pháp giả tạo. Bao lâu chúng ta vẫn không chấp nhận thao thức là một phần không thay đổi của kiếp hiện sinh, thì chúng ta vẫn còn tiếp tục tìm kiếm một giải pháp nào đó qua việc mải miết điên cuồng tìm các loại kinh nghiệm khác nhau. Chúng ta sẽ chè chén, tiệc tùng, gặp gỡ mọi người cho đến khi kiệt sức, mà sẽ chẳng bao giờ làm dịu đi ngọn lửa trong tâm hồn chúng ta. Thật vậy, khi mải mê tìm kiếm một trải nghiệm nào đó, phần lớn kết quả lại phản tác dụng, không xoa dịu được nỗi thao thức mà ngược lại, còn làm ngọn lửa thổi bùng và thiêu rụi chúng ta mạnh mẽ hơn. Cố để xoa dịu thao thức bằng việc tăng thêm cường độ và mức độ các giao tiếp cũng chính là hành động thêm dầu vào lửa.

Tuy nhiên, ý thức chúng ta có thể không bao giờ thắng vượt được thao thức trong đời này không có nghĩa là từ bỏ mình để sống theo phái khắc kỷ hay sống trong tuyệt vọng. ở một mức độ nào đó, chúng ta có thể thắng vượt được tâm trạng thao thức, thậm chí ngay cả trong tình trạng hiện tại. Tuy nhiên, không như giải pháp cho sự tha hóa, những giải pháp cho thao thức không mang tính hướng ngoại.

Chính xác thì nó là một định hướng ngược lại, định hướng của sự cô tịch. Để đi đến nắm giữ sự thao thức cách sáng tạo, mỗi người chúng ta phải thực hiện một cuộc lữ hành nội tại, để gặp gỡ chính mình và để gặp gỡ tình yêu và sự phong phú vô tận của Thiên Chúa ở trong chính hiện hữu của chúng ta.

Chúng ta thực hiện việc đi vào nội tâm này như thế nào? Nó phụ thuộc vào bốn điều: từ bỏ những kỳ vọng cứu rỗi sai lầm, đi vào nội tâm, đấu tranh lâu dài, và có một tâm tình cầu nguyện.

Từ bỏ những kỳ vọng cứu rỗi sai lầm

Một nhà hiền triết đã nói: “Cuộc lữ hành dài nhất bắt đầu với chỉ một bước chân.” Cuộc lữ hành nội tâm đến với cô tịch bắt đầu với chỉ một nhận thức, cụ thể là, nhận ra rằng không có giải pháp trọn vẹn và cuối cùng cho tâm trạng cô đơn trong cuộc đời này. Chúng ta được định là sẽ được cứu rỗi trọn vẹn, và không phải cô đơn, chỉ khi vương quốc mà Chúa Giêsu rao giảng đến trong viên mãn. Trong lúc chờ đợi, chúng ta  phải bỏ hết các nỗ lực tìm kiếm viên mãn cầu toàn dựa vào những giải pháp giả tạo và cục bộ. Chúng ta phải đối diện với chính nỗi cô đơn của mình, chấp nhận nó, không chạy trốn nó, không tiếp tục để cho nó thúc đẩy làm đủ thứ việc hao mòn sức lực, và phải biết dừng lại, không xem những giải pháp cho nỗi cô đơn chỉ nằm bên ngoài. Chúng ta phải cố gắng hết sức để không còn hành động điên cuồng và biết nhìn vào nội tâm để tìm câu trả lời. Cuộc lữ hành nội tâm hướng đến cô tịch bắt đầu với bước đầu tiên này.

Bước đầu tiên này không dễ dàng. Nội tâm chúng ta, theo nhiều kiểu khác nhau giống như mảnh đất hoang khô cằn không giọt nước. Tâm hồn và trí tuệ chúng ta như cơn gió sa mạc, nóng rát và cuồn cuộn thổi không ngừng nghỉ, không thương xót, thúc đẩy chúng ta làm một việc gì đó. Như chúng ta đã thấy, nỗi đau của việc ngưng hành động, đi vào trong đơn độc và thinh lặng tựa như cảm nghiệm sống trong luyện ngục. 

Đi vào nội tâm

Một khi đã ngưng chạy trốn cô đơn, chúng ta phải thực hiện bước tiếp theo. Một mình, trong thinh lặng, với tất cả đau đớn đi kèm, chúng ta phải bắt đầu bước sâu vào nội tâm bỏng rát, khô cằn, không giọt nước trong hiện hữu của chính mình. Nếu thực hiện cách đúng đắn thì cuộc lữ hành đến tận cùng này sẽ làm cho chúng ta nối kết được với nước hằng sống mà Đức Kitô đã hứa ban. Nó sẽ làm cho chúng ta liên hệ với sự phong phú vô hạn của tình yêu vô tận. Hơn tất cả mọi thứ, điều này sẽ giúp xoa dịu ngọn lửa cô đơn trong lòng chúng ta. Không có một hành động hướng ngoại nào có thể cho chúng ta được điều đó, vì điều cần thiết để xoa dịu ngọn lửa thao thức đối với sự vô tận chính là mạch nguồn nội tại của chúng ta, nơi nhận lãnh nguồn nước vô tận.

Cụ thể là chúng ta phải làm gì? Ngắn gọn là, mỗi người chúng ta phải đi vào nội tâm sâu thẳm của mình. Đặc biệt những lúc cảm thấy thao thức hằn sâu nhất, phải dừng lại những hành động hướng ngoại và đi vào thinh lặng, thinh lặng đủ lâu cho đến khi cảm nhận thanh thản trong chính thinh lặng và tĩnh mịch. Một khi cảm thấy thanh thản trong thinh lặng tĩnh mịch, chúng ta sẽ bắt đầu lữ hành đến với cô tịch, đến gặp gỡ với vô tận trong tâm hồn sâu thẳm của mình. Tuy vậy, ngay khi chúng ta có hành vi hướng ngoại lại, chắc chắn (và hầu như lúc nào cũng rất nhanh chóng) chúng ta sẽ đánh mất một phần nào hoặc tất cả bình yên mà chúng ta đã cảm nghiệm được trong tĩnh mịch. Lúc đó chúng ta cần trở lại với thinh lặng. Chúng ta sẽ còn phải bắt đầu đi bắt đầu lại việc này rất nhiều lần! Nhưng nếu bền chí đến cùng, thao luyện này sẽ cho chúng ta một mức độ cô tịch đủ để truyền dẫn cách sáng tạo các sức mạnh thao thức trong mình, để rồi chúng ta có thể bình yên chung sống với thao thức đó.

Tuy nhiên phải phân biệt rõ ràng việc tìm kiếm cô tịch này với những kiểu trốn tránh không lành mạnh. Một tiêu chuẩn nhận thức có thể dùng để phân biệt tâm trạng cô tịch lành mạnh với một sự trốn tránh không lành mạnh, đó là tâm trạng cô tịch lành mạnh hướng đương sự đến một tình thấu cảm cao cả, biết quan tâm đến người khác, biết gắn kết mình với thế giới, trong khi sự trốn tránh không lành mạnh dẫn chúng ta tới việc xem mình là trung tâm, lãnh đạm và huyễn hoặc nhiều hơn.

Cũng vậy biến chuyển đi vào cô tịch được hoàn thành tốt nhất khi nó cũng là bước chuyển đi vào cầu nguyện trong sáng. Tuy nhiên nếu chưa được lý tưởng, thì nếu chúng ta thường xuyên làm cho các hành động hướng ngoại có một không gian nghỉ ngơi và chính mình cũng có tâm trạng bình an và tĩnh mịch, ở lại trong thinh lặng cho đến khi cảm thấy thoải mái, thì chỉ việc đó thôi cũng đã giúp chúng ta đương đầu với tâm trạng thao thức rất nhiều. Không kể đến những phương cách tôn giáo, thì một trong những cách tốt nhất để đương đầu với mệt mỏi căng thẳng tinh thần trong thời đại tốc độ này chính là việc dành một ít thì giờ mỗi ngày để ở trong thinh lặng hoàn toàn.

Tuy nhiên, chúng ta không thể thực hiện cuộc lữ hành này cách nhanh chóng. Để bước vào cô tịch đòi hỏi rất nhiều kiên nhẫn và chú tâm. Tâm hồn chúng ta, thật sự là tất cả tâm hồn nhân loại, là mầu nhiệm mà chúng ta chỉ có thể thâm nhập vào đó với lòng tôn kính. Chúng ta biết khi có tương quan với ai đó, chúng ta phải cẩn thận để không bao giờ xâm phạm tự do của họ. Phải luôn đứng trước họ với lòng kiên nhẫn, tôn trọng tự do nội tâm và thiên hướng của họ. Khi liên hệ với người khác, chúng ta nên khuyến khích, thách thức, và thậm chí nên nhẹ nhàng kích động họ đôi chút, nhưng không bao giờ đẩy họ quá mạnh. Chúng ta phải tôn trọng tâm hồn con người như một mầu nhiệm. Triết gia Pascal đã nói rất đúng, tâm hồn có những lý lẽ mà lý trí không thể biết được. Vì thế, khi liên hệ đến tâm hồn con người, chúng ta không được dùng những cách thức nặng nề, những từ nặng lời, và những kết luận định kiến. Phải để cho những nút rối nút vò, những căng thẳng và bứt rứt tự nó thoát ra từ từ. Chúng ta luôn luôn cần phải kiên nhẫn và tôn trọng thật nhiều.

Và đây chính là điểm then chốt cần nhớ khi cố gắng đi trên con đường lữ hành nội tâm hướng đến nơi chốn thâm sâu là tâm hồn chúng ta. Cũng như khi chúng ta thô bạo với người khác, công kích tâm hồn họ cách thiếu trách nhiệm, không tôn trọng và tôn kính đúng mực, thì chúng ta cũng có thể thô bạo và làm hại chính mình khi đi vào nội tâm mà thiếu lòng tôn trọng và kiên nhẫn cho đủ. Tâm hồn chúng ta, cũng như của người khác, là những gì mềm yếu và mỏng manh, là mầu nhiệm cần giữ trong tinh thần tôn kính. Nó cũng có những nút rối vò, những lý lẽ mà trí tuệ không phải lúc nào cũng hiểu được. Do đó, phải có đủ kiên nhẫn và tôn trọng để có lúc phải dừng lại cho những nút rối vò tự tháo ra theo thiên hướng nội tại của chính nó. Không dễ để làm được vậy, vì trong cuộc lữ hành nội tâm cũng như trong các chuyện khác, chúng ta lúc nào cũng muốn có kết quả thật nhanh. Chúng ta khó chờ thời điểm đúng lúc. Tuy vậy, cũng như đối với mọi trưởng thành nhân tính, không thể cưỡng bách kết quả. Chúng ta phải có đủ kiên nhẫn để tôn trọng nhịp hoạt động tự nhiên. Không có đường tắt để đi đến cô tịch.

Đấu tranh lâu dài

Biến chuyển từ thao thức đến cô tịch, hay cuộc lữ hành nội tâm, không bao giờ đạt được hoàn toàn, không bao giờ đạt được một lần là đủ cho mãi mãi. Cô tịch là một điều mà chúng ta sống để hướng tới nhưng không bao giờ nắm bắt trọn vẹn. Như Henri Nouwen đã nói, “Thế giới không chia thành hai loại người, cô đơn và cô tịch”.2 Đúng hơn, trong cuộc đời, chúng ta dao động giữa hai thái cực, dao động từng giờ, từng tuần, từng năm. Đôi khi chúng ta bình yên hơn trong cô tịch, đôi khi chúng ta thao thức hơn. Nhưng trong bản thân, chúng ta có thể cảm nghiệm được sự khác nhau rõ rệt giữa cô đơn và cô tịch. Sự khác biệt đó là gì? Đó là khác biệt giữa việc sống trong tự do hơn là dưới tác động của xúc năng; thanh thản hơn là bồn chồn; kiên nhẫn hơn là nóng vội; hướng nội hơn là hướng ngoại mê cuồng; vị tha hơn là tham lam; tình bằng hữu chân thật hơn là bám víu chiếm hữu; và thấu cảm hơn là lãnh đạm.3

Chúng ta biết chúng ta đang đi vào sự cô tịch khi cảm nhận được mình ít bị tác động của xúc năng và ít bị điều khiển, ít thao thức và mê cuồng, ít tham lam và chiếm hữu hơn. Và có lẽ lần đầu tiên trong đời, chúng ta sẽ thật sự cảm thấy tự do. 

Cầu nguyện tâm tình

Để vỗ về thao thức của mình, chúng ta còn phải dựa vào cầu nguyện, đặc biệt là cầu nguyện tâm tình.

Một định nghĩa cổ điển nói rằng cầu nguyện là “nâng tâm trí và tâm hồn lên với Chúa.” Định nghĩa đó thật tuyệt, nhưng thường thường vấn đề là ở chỗ chúng ta không làm được như vậy. Chúng ta nâng tâm trí lên với Chúa, còn tâm hồn thì không. Chúng ta cầu nguyện vì bổn phận hay để có một nhận thức thấu suốt hoặc tìm tĩnh lặng, nhưng không cầu nguyện để cảm nghiệm được thân tình, để quả tim được chạm đến, được xoa dịu.

Nhưng đó lại là chức năng chính của cầu nguyện, đưa chúng ta vào trong tình mật thiết có thể xoa dịu và làm an bình nội tâm, cũng như một cuộc làm tình chân thực, nó cũng có tác dụng an ủi tâm hồn. Nhưng để được như vậy, chúng ta cần một dạng cầu nguyện đặc biệt.

Trong Phúc âm thánh Gioan, lời đầu tiên Chúa Giêsu nói là một câu hỏi: “Các anh tìm gì?” Ngay từ đầu Phúc âm, Chúa Giêsu đưa ra câu hỏi, và cây trả lời chỉ xuất hiện ở cuối. Câu trả lời là gì? Điều tận cùng chúng ta tìm kiếm là gì?

Câu trả lời là câu nói duy nhất Chúa Giêsu đã nói với bà Maria Madalena vào rạng ngày Phục Sinh, khi bà đi tìm để xức dầu cho xác của Ngài. Vào buổi sáng ngày Chúa sống lại, Maria đến và tìm xem xác Người ở đâu. Bà đã gặp Ngài, nhưng lại không nhận ra mà nghĩ Ngài là người làm vườn. Chúa Giêsu chào bà và lặp lại câu hỏi mà Ngài đã nói lúc khởi đầu Tin mừng: “Bà tìm gì?” Rồi sau đó Ngài cho bà câu trả lời: “Maria!” Ngài yêu dấu gọi tên bà.

Cho tới cùng, đó là điều chúng ta đang tìm kiếm và cần nhất. Chúng ta cần được nghe tiếng Chúa, một tiếng tâm tình, nói với từng người, gọi tên từng người: “Tâm!” “Thảo!” “Lan!” “Dũng!”… Không có gì chữa lành nỗi thao thức chúng ta bằng tiếng nói của Thiên Chúa, vang lên trong sâu thẳm tâm hồn, gọi tên từng người, rồi nói: “Ta yêu mến con!”

Hai năm trước, tôi có đi dự một cuộc tĩnh tâm. Vị hướng dẫn là một người rất có kinh nghiệm, ông bắt đầu bài hướng dẫn đơn giản như sau: “Trong suốt tuần này, tất cả những gì tôi dự định làm là dạy cách bạn cầu nguyện sao cho các bạn có thể mở lòng mình ra theo cách để một lúc nào đó – có lẽ không phải hôm nay, nhưng một lúc nào đó – bạn sẽ nghe thấy Thiên Chúa nói với bạn, “Ta yêu mến con!” Vì trước khi điều này xảy ra, chẳng có gì là hoàn toàn đúng với bạn, nhưng sau khi có được điều này, tất cả mọi sự sẽ đúng với bạn.”

Căn bản những lời này là đơn giản, nhưng ý nghĩa lại không đơn giản. Chúng nói lên một sự thật sâu sắc và không bóp méo được. Cho đến khi chúng ta nghe được bằng cách nào đó, từ thâm sâu cốt lõi hiện hữu của mình, tiếng Thiên Chúa gọi tên chúng ta trong yêu dấu, thì lúc đó, chúng ta mới hết thao thức triền miên, hết chạy theo bất kỳ dạng cảm nghiệm nào với hy vọng nó mang đến bình an trọn vẹn cho mình. Đến tận cùng, chỉ có một điều có thể mang đến bình an toàn vẹn, chỉ có một điều có thể xoa dịu nỗi đau bất trị của thao thức: đó là tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa. Vòng tay yêu dấu của Thiên Chúa còn sâu đậm hơn cái ôm tính dục. Chỉ có độc nhất điều đó mới có thể xoa dịu nỗi thao thức của chúng ta.

J.B. Thái Hòa dịch  

Xin đọc thêm: Lời nói đầu sách Quả tim thao thức

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (1/8)

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (2/8)

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (3/8)

“Tại Nhật, kitô giáo có một hình ảnh tích cực” 

“Tại Nhật, kitô giáo có một hình ảnh tích cực”

cath.ch, Raphael Zbinden, 2019-11-21

Linh mục Antoine de Monjour với các em rước lễ lần đầu ở giáo xứ Tokorozawa

Đức Phanxicô sẽ đến Nhật từ ngày 23 đến 26 tháng 11-2019. Linh mục Antoine de Monjour, linh mục truyền giáo từ 20 năm nay ở xứ mặt trời mọc, ngài ở giáo xứ Tokorozawa-Miyadera, ngoại ô thủ đô Tokyo, là thành viên của Hội Thừa sai Hải ngoại Paris, hoạt động từ những năm đầu của năm 2000. Ngài là quan sát viên đặc biệt về sự phát triển đức tin tại Nhật trong mấy mươi năm vừa qua, linh mục cho biết: “Dù nhỏ, nhưng Giáo hội Nhật có uy thế và hội nhập tốt”.

Xin cha cho biết tình trạng người công giáo Nhật hiện nay.

Linh mục Antoine de Monjour: Giáo hội Nhật là một giáo hội rất nhỏ, thậm chí có người còn cho đây là giáo hội già nua và thu hẹp… Nhưng khó mà ước tính, vì đây là một Giáo hội rất “hỗn hợp” bao gồm không những người Nhật mà còn gồm những người nước ngoài đến làm việc tại Nhật từ những năm 1990. Họ đến khi còn trẻ, đôi khi họ đi cùng với gia đình, hoặc họ lập gia đình với người Nhật, có con được nuôi dạy và lớn lên tại Nhật.

 

Linh mục Antoine de Monjour là thành viên của Hội Thừa sai Hải ngoại Paris (MEP) | © MEP

 

 

Vì thế Giáo hội Nhật có một năng lực…

Một thế hệ công giáo mới bắt đầu tự mình lên căn tính của mình: căn tính “đúp” của những người sinh ra từ cha mẹ “nhiều phía”, Nhật-Phi, Nhật-Việt Nam, Nhật-Pêru, Nhật-Ba Tây và các sắc dân khác…, họ là người công giáo và trao truyền đức tin của mình cho con cái sinh ra trong bối cảnh văn hóa đúp này. Các em bé thường chịu đựng một số kỳ thị hoặc cách biệt nào đó ở trường vì sự “khác lạ” của chúng. Nhưng các em tìm thấy trong giáo xứ nơi cởi mở với các khác biệt của mình. Các khác biệt này không còn bị xem là yếu tố khó chịu, nhưng là một sự phong phú. Từ thế hệ này, với những người sẽ lập gia đình nay mai, chắc chắn trong tương lai sẽ hình thành một phần lớn khuôn mặt của Giáo hội công giáo ở Nhật Bản.

So sánh với các nước kitô giáo phát triển mạnh ở Viễn đông như Trung quốc, Hàn quốc thì nước Nhật trì trệ. Tại sao?

Lịch sử tôn giáo Nhật dính kết sâu đậm với đạo chaman (một loại đạo nhấn mạnh đến liên kết giữa con người với thần linh thiên nhiên, với tâm linh động vật, các em bé sắp sinh, các người bệnh cần chữa lành, giao kết với thần linh….) Đạo Phật đến nước Nhật vào thế kỷ thứ 7, thích ứng dễ dàng với hình thức đặc biệt này của xã hội Nhật, nơi thiên nhiên, văn hóa, thể thao truyền thống, các ngày lễ, ngày hội, các nghi thức của sự sống, tất cả tạo thành một “tinh thần tôn giáo”, hơi đồng bộ và đó là tinh thần của người Nhật. Một người Nhật đã giải thích cho tôi: “Nếu có sự sống là vì có thần linh”. 

“Người Nhật giữ một kỷ niệm đẹp và tôn kính với chuyến đi của Đức Gioan-Phaolô II”

Đứng trước tình trạng này, kitô giáo cần phải có các chọn lựa để đi theo con đường của Chúa Kitô. Đó là một cái gì khó khăn trong xã hội này, khi đời sống đức tin và xã hội hòa lẫn vào nhau theo một nghĩa rộng. Một người tân tòng trong một lớp học Thánh Kinh đã lo lắng: “Nếu tôi trở thành người tín hữu kitô, thì tôi lại càng phải là một ‘công dân Nhật tốt hơn’”.  Điều này cho thấy, đức tin kitô chạm đến chính bản thể của họ. Cũng có nhiều người Nhật rất gần với kitô giáo nhưng họ không rửa tội vì các lý do xã hội và gia đình.

Ngày nay có còn nhiều ngờ vực với tín hữu kitô giáo không?

Nói chung là không. Ngày nay kitô giáo mang một hình ảnh tích cực. Một ngày nọ, có một học sinh trung học đến hỏi tôi. Trước hết tôi hỏi, đối với em, kitô giáo có nghĩa là gì. Em trả lời cho tôi: “Đó là tình yêu cho người anh em”. Em không hiểu thêm điều này có nghĩa là gì, nhưng như thế cho biết em nghĩ kitô giáo là một điều gì tốt!

Kitô hữu Nhật Bản có thể mang lại điều gì cho phần còn lại của người Nhật không?

Cũng giống như các nơi khác, kitô giáo là chứng nhân của sự sống. Năm 1995 khi nước Nhật bị trận động đất Kobé, tín hữu kitô đã cho thấy khả năng huy động và gởi thiện nguyện viên đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi quốc tịch đến giúp các nạn nhân. Và họ cũng cho thấy khả năng này trong lần động đất ngày 11 tháng 3 năm 2011.

Theo cha, chuyến viếng thăm của Đức Giáo hoàng có mang lại một thay đổi nào trong cái nhìn, trong sự quan tâm đến kitô giáo nơi người Nhật không?

Người Nhật giữ một kỷ niệm đẹp và tôn kính với chuyến đi của Đức Gioan-Phaolô II”. Do đó họ khá cởi mở và hiếu kỳ và họ cũng rất vinh dự được Đức Phanxicô đến thăm. Chắc chắn họ biết ngài sẽ tuyên bố một lời rõ ràng và kiên định về sự sống, về hòa bình, về vũ khí hạt nhân và về thiên nhiên, nhưng không phải để làm họ bất bình. Từ đó để có một bước “nhảy vọt” để quan tâm, tôi không thể nói điều này hôm nay.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: “Giáo hội Nhật Bản đang tìm một sức sống mới”

Linh mục Tiziano Tosolini kể mong chờ của người Nhật nơi Đức Phanxicô

Đức Phanxicô ở Nhật, đất nước có tỷ lệ người tự tử cao nhất thế giới

Đức Phanxicô khuyến khích các bạn trẻ Thái Lan bám rễ trong đức tin

Đức Phanxicô khuyến khích các bạn trẻ Thái Lan bám rễ trong đức tin

cath.ch, Maurice Page, 2019-11-22

Trong bài giảng thánh lễ tại nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Lên Trời ngày thứ sáu 22 tháng 11, trước các bạn trẻ Thái Lan, Đức Phanxicô tuyên bố: “Các con thừa hưởng một di sản truyền giáo rất đẹp, đó là di sản thiêng liêng quý báu của các con.” Hơn 10,000 bạn trẻ đã tham dự thánh lễ này.

Từ tòa giảng của nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Lên Trời, Đức Phanxicô nói với các bạn trẻ: “Tòa nhà này là chứng nhân đức tin vào Chúa Giêsu Kitô của tổ tiên các con, một tòa nhà rất đẹp nói lên lòng trung thành của cha ông các con, được bám rễ sâu đậm trong lòng nên đã thôi thúc họ thực hiện các công trình của lòng thương xót. Nhưng ngày nay tòa nhà này còn đẹp hơn khi được xây dựng bằng các viên đá sống.” Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Lên Trời được nhà truyền giáo Pháp Linh mục Pascal xây và được một kiến trúc sư Pháp vẽ. Để ngọn lửa này không tắt và để giữ cho “mắt và tim còn tồn tại”, Đức Phanxicô khuyến khích các bạn trẻ bám rễ trong đức tin của tổ tiên, của cha mẹ, ông bà và cô thầy giáo: “Các con không giam hãm trong quá khứ, nhưng học hỏi để có can đảm của tổ tiên, giúp các con ứng phó với các tình huống lịch sử mới”.

Đức Phanxicô nói tiếp: “Các con thừa hưởng một di sản truyền giáo rất đẹp, đó là di sản thiêng liêng quý báu của các con. Các con là thế hệ mới với các hy vọng, các vấn đề, các giấc mơ mới.” Đức Phanxicô kêu gọi các bạn trẻ vượt lên các nghi ngờ của mình để giữ niềm vui sống và bám rễ trong Chúa Kitô, tin tưởng nhìn về tương lai mà không hãi sợ.

Đức Phanxicô đúng thật là “người hành hương vì hòa bình”

Các bạn trẻ tham dự thánh lễ đã tích cực đón nhận lời của Đức Phanxicô. Giống như thiếu nữ trẻ Thái Lan Sukana, cô “rất rất hạnh phúc được có mặt ở đây hôm nay.” Cô nữ sinh trường trường học công giáo đã chờ 7 tiếng đồng hồ để tham dự thánh lễ ở nhà thờ chính tòa.

Anh Paul đi cùng nhóm của mình ở Chiang Mai, miền bắc Thái Lan, nhóm của anh gồm cả trăm thanh thiếu niên công giáo tuổi từ 15 đến 17, anh cho biết: “Mọi người đến đây để nghe lời khuyên bảo của Đức Giáo hoàng”. Cùng với các bạn, tất cả đã mất bốn ngày đường để đến thủ đô Bangkok, đi thăm các thánh đường tôn kính các vị tử đạo hay nơi sống của các nhà truyền giáo trước đây.

Còn với sơ Blandine, một nữ tu Pháp từ Việt Nam đến, sơ cho biết: “Thật là một niềm vui lớn khi thấy các bạn trẻ đã thức dậy, vì hôm qua các em còn rụt rè hô ‘Hoan hô giáo hoàng’ nhưng hôm nay thì bầu khí khác hẳn!”

Còn nữ tu Marivan từ Phi Luật Tân đến, sơ ngạc nhiên trước ánh nhìn nghiêm túc của giáo hoàng: “Chúng tôi thấy rõ ngài đang mang Giáo hội trong lòng và ngài trông cậy vào chúng tôi để cùng phụ ngài mang lấy Giáo hội. Kinh nghiệm này là một kinh nghiệm rất quý báu cho Thái Lan! Ngài đúng là người hành hương vì hòa bình!”

Về phần Linh mục Trung quốc Pierre Xue, cha hướng dẫn một nhóm giáo dân Trung quốc đến Thái Lan, cha cho biết: “Đây là một khích lệ lớn cho người Trung quốc vì chúng tôi sống trong hoàn cảnh rất khó khăn và đau khổ khi đến gặp Đức Phanxicô. Tất cả chúng tôi đều khởi hành từ Trung quốc vì ngài không thể đến thăm đất nước chúng tôi, vẫn còn quá nhiều bó buộc”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: “Nếu chúng ta áp dụng sứ điệp của Đức Phanxicô thì nước Thái Lan sẽ thay đổi”

Tại Thái Lan, Đức Phanxicô gặp nhiều khuôn mặt của Giáo hội công giáo

Hình ảnh Đức Phanxicô dâng thánh lễ tại nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Lên Trời ngày thứ sáu 22 tháng 11-2019

Nữ tu Marie-Louise bảo vệ trẻ em ở Thái Lan

Nữ tu Marie-Louise bảo vệ trẻ em ở Thái Lan

vaticannews.va, Marie Duhamel, Bangkok, 2019-11-22

Nữ tu Marie-Louise, nữ tu Marie-Agnès và 37 trẻ em Karen hát trong thánh lễ cho giới trẻ ở nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Lên Trời Bangkok, 22-11-2019

Nữ phóng viên Marie Duhamel của Vatican News đã có buổi phỏng vấn nữ tu Marie-Louise, thư ký Hội Dòng Chị em Thánh Phaolô thành Chartres ở Thái Lan. Nữ tu điều khiển hai trường học gần nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Lên Trời ở Bangkok.

Đức Phanxicô, người nhiệt tình bảo vệ người di dân, khi mới đến Thái Lan, ngài bày tỏ hy vọng cộng đồng quốc tế sẽ hành động “có trách nhiệm và có tầm nhìn xa” để giải quyết các vấn đề dẫn đến cuộc di dân bi thảm của các ông, các phụ nữ này, để họ được ra đi “một cách an toàn, có trật tự và có quy định”. Thái Lan là đất nước có biên giới chung với các nước Miến Điện, Lào, Campuchia. Trong những năm vừa qua Thái Lan đã đón hàng triệu người di cư, đặc biệt là khi Bangkok có chính sách thị thực hộ chiếu rất phóng khoáng. Tuy nhiên Thái Lan không tham gia trong Công ước về tình trạng người tị nạn, vì thế những người này không có quyền bảo vệ pháp lý, họ bị loại ra ngoài các dịch vụ chung (trường học, y tế..v.v.) nhưng nhất là đặt họ ở trong một tình trạng nguy hiểm. Đức Phanxicô mong muốn mọi nơi đều có “cơ chế hiệu quả được đưa ra” để bảo vệ phẩm giá cũng như quyền của người di dân và người tị nạn.

Ở Thái Lan, nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em đã và vẫn là một tai ương mặc dù đã có nhiều tiến bộ. Sáng thứ năm 21 tháng 11, khi gặp các nhà cầm quyền Đức Phanxicô đã ghi nhận họ cũng đã có các cố gắng trong lãnh vực này, cũng như các cơ quan đã làm việc không mệt mỏi. 30 năm sau Công ước về quyền trẻ em và trẻ vị thành niên, Đức Phanxicô kêu gọi phải “quyết tâm làm việc liên tục và nhanh chóng trước nhu cầu bảo vệ trẻ em, cho sự phát triển về mặt xã hội và trí tuệ của các em, đưa các em đến trường cũng như sự tăng trưởng về mặt thể lý, tâm lý và thiêng liêng” vì trong một tầm mức lớn, “tương lai của dân tộc chúng ta tùy thuộc vào cách chúng ta đảm bảo cho con em mình một tương lai có phẩm giá”.

Trong thánh lễ đầu tiên sáng thứ năm ở Sân vận động Quốc gia tại Bangkok, Đức Phanxicô đã xin các thành viên của Giáo hội trở thành nhà truyền giáo, nhất là truyền giáo bên cạnh “các trẻ em này, các phụ nữ bị khai thác trong thị trường mại dâm, trong nạn buôn người, phẩm giá đã bị biến dạng, họ không còn đúng là con người của họ.”

Nữ tu Marie-Louise là thư ký của Hội Dòng Chị em Thánh Phaolô thành Chartres ở Thái Lan. Trong cộng đoàn của sơ, nhiều nữ tu làm việc trong mạng lưới “Talitha Kum” để giúp các nạn nhân của nạn buôn người. Nữ tu Marie-Louise đảm trách hai trường trung học gần nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Lên Trời.

Phỏng vấn nữ tu Marie-Louise

Vấn đề này thật khủng khiếp và rất trầm trọng vì Thái Lan là bước khởi đầu, nước quá cảnh và là mục tiêu của nạn buôn người; nhất là ở Á châu, cũng như nước Phi Luật Tân cũng gặp một vấn đề như vậy.

Cái gì có thể làm thay đổi?

Đó là chính quyền vì Thủ tướng là một quân nhân, ông rất cứng rắn trong việc chống nạn buôn người. Vì thế chính sách và hình phạt rất nghiêm khắc.

Cả cho những người đi khai thác cũng như những người lợi dụng trẻ em, những người đưa các em vào mạng lưới…

Đúng, đúng như vậy.

Sơ nói cũng có tăng cường kiểm soát ở biên giới?

Đúng, vì Thái Lan là một đất nước mở, rất nhiều người đến và đi. Rất nhiều người không có hộ chiếu vì thế cần phải kiểm soát ở biên giới rất nghiêm nhặt. Các cha mẹ có con và không thể bắt chúng làm việc phải gởi các con đến trường nào có thể nhận chúng.

Sơ nói có một loại kiểm tra dân số qua việc ghi tên trẻ em vào trường?

Đúng, đúng như vậy.

Có phải bây giờ những người không có con buộc phải đăng ký để có thể làm việc ở Thái Lan?

Đúng, đối với kỹ nghệ hay công ty nào muốn trả tiền cho những người này, họ phải đăng ký theo đúng luật lệ. Có một loại thẻ chứng minh nhân dân hay hộ chiếu để làm việc.

Sơ có trường công, trường tư cho các nam nữ học sinh, sơ có làm việc trên các vấn đề này với trẻ em, cha mẹ và các thầy cô giáo không?

Đối với chúng tôi, chúng tôi làm việc trên lãnh vực bảo vệ, phòng ngừa. Chúng tôi cho cha mẹ thông tin, như thế vấn đề thật sự rất gần gũi với chúng tôi, phải chú ý đến trẻ em khi các em ở nhà, các em đã dùng thì giờ như thế nào trên điện thoại, trên internet… Cha mẹ phải trông chừng các em.

Chuyện gì xảy ra trên internet?

Như bà biết đó, bây giờ có rất nhiều ứng dụng lôi cuốn trẻ em, chúng chụp hình cơ thể mình và đăng trên internet để kiếm tiền. Trẻ em nghĩ rằng điều này không sao, người ta không đụng đến cơ thể mình… Nhưng vấn đề nghiêm trọng, vì các hình này lan truyền khắp nơi, cũng như các hình khiêu dâm.

Như thế sơ nói các em tự đặt mình vào tình trạng nguy hiểm?

Đúng.

Các trường học ở đây, tại trung tâm Bangkok được bảo vệ tốt hơn… Nhưng khi các em ra khỏi trường, các em có bị nguy hiểm không?

Có, tôi nghĩ là có.

Sơ làm gì cho các em để hướng dẫn các em tự bảo vệ mình?

Chúng tôi khuyên các em không ăn uống bất cứ gì của người các em không quen biết mời… và ngay cả những người quen biết, phải cẩn thận. Và cả trong môi trường chung quanh. Ví dụ khi đi dự tiệc với bạn bè, phải chú ý đến những gì mình uống.

Bởi vì họ có thể dụ dỗ dùng ma túy và lợi dụng tình dục, hoặc họ có thể bắt cóc?

Cả hai, vì vấn đề này đã có ở Thái Lan, ở Bangkok.

Tôi thấy có nhiều pa-nô ngoài đường nói “không nói chuyện với người lạ”, “cẩn thận các hình ảnh”…

Đúng, vì chúng tôi ở trong khu vực du lịch, có nhiều người nước ngoài, nhiều khách du lịch, họ đặt câu hỏi với trẻ em và chụp hình với các em. Và sau đó chúng tôi không biết họ làm gì với các hình này, vì thế chúng tôi phải nói với các em không chụp hình với người nước ngoài, với khách du lịch.

Sơ nói tất cả là công việc phòng ngừa, cảnh báo, sơ cũng nói với tôi các nam giáo sư không được đụng đến học sinh, việc nhận thức này có hiệu quả không?

Có, họ rất ý thức về vấn đề này, bởi vì việc này không ở xa các em và chuyện này có thể xảy ra.

Chúng ta ở đây là trung tâm Bangkok. Các vùng nghèo hơn có phức tạp, khó khăn và nguy kịch hơn không?

Có, vì đôi khi cha mẹ gởi con còn nhỏ về thành phố làm việc, có khi họ gởi về cả Bangkok. Và họ không biết chuyện gì xảy ra cho con cái họ. Trẻ em gởi tiền về cho cha mẹ, và cha mẹ nghĩ chúng làm việc đàng hoàng, nhưng không phải lúc nào cũng như vậy… Đôi khi các em bán thân, các em làm điếm vì gia đình các em rất nghèo. Vấn đề này vẫn còn vì đối với nhiều người, nhất là ở nông thôn, có một khoảng cách giáo dục và…

… và không được thông tin?

Đúng như vậy. Có rất nhiều khoảng cách, chính vì vậy chúng tôi đang cố gắng mở trường ở các bang nghèo nhất, nhất là ở miền núi.

Mạng “Talitha Kum” đã thành lập được 10 năm. Các sơ làm những việc gì ở trung tâm “Talitha Kum” cho các nạn nhân này?

Talitha Kum” là mạng của các nữ tu của tất cả các dòng. Cùng nhau chúng tôi làm việc chung để phòng ngừa, để thông tin, để làm cho các bạn trẻ ý thức.

Như thế là không nhất thiết ở trong các trường công giáo, có thể ở trong tất cả các trường học?

Ở các trường công cũng vậy.

Các sơ có giúp các em đã rơi vào bẫy làm điếm không? Sơ đã nói với tôi, đặc sủng của các nữ tu Dòng Chúa Nhân Lành là giúp các nạn nhân của nạn buôn người, nhất là các nạn nhân làm điếm. Sơ nói sơ có mở một trường ở Chiang Mai?

Đúng vậy… Và đã hơn hai mươi năm. Nhóm đầu tiên là các cô gái, chúng tôi chuộc lại từ cảnh sát vì đó là các em bị bán làm điếm hay trong nạn buôn người. Và cảnh sát xin chúng tôi nhận các em này. Nhóm đầu tiên có khoảng ba mươi em. Do đó chúng tôi mở một trường để bảo vệ các em. Và chúng tôi cũng gom các em ở chung quanh vùng núi, vì có vấn đề như tôi đã nói với bà, đó là cách biệt trong giáo dục: khi các em học xong tiểu học, các em không tiếp tục lên trung học được. Bây giờ ở trường này có 400 học sinh, 400 nữ sinh.

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc thêm: “Nếu chúng ta áp dụng sứ điệp của Đức Phanxicô thì nước Thái Lan sẽ thay đổi”

Đức Phanxicô được cộng đoàn người dân tộc thiểu số Karen đón tiếp nồng hậu, người Karen chỉ có khoảng 250.000 người ở Thái Lan. Ca đoàn hát mừng Đức Phanxicô.

Bài mới nhất