Home Blog

Javier Cercas, tiểu thuyết gia chống giáo sĩ: “Tôi ghen tị với những người có đức tin trong máu huyết.”

Javier Cercas, tiểu thuyết gia chống giáo sĩ: “Tôi ghen tị với những người có đức tin trong máu huyết.”

lemonde.fr, Marieta Frías (Viện Cervantes, Paris), 2025-10-12

“Tôi ghen tị với những người có đức tin trong máu huyết”: Javier Cercas, tiểu thuyết gia chống giáo sĩ, nói chuyện với Tổng Giám mục Celestino Migliore, đại sứ Vatican tại Paris

Vô thần và không ưa tôn giáo, năm 2023, Vatican mời nhà văn Tây Ban Nha Javier Cercas tháp tùng Đức Phanxicô đi Mông Cổ. Từ kinh nghiệm này, ông viết tác phẩm “Kẻ điên của Chúa ở tận cùng thế giới”, một tác phẩm vừa có tính chất du ký, vừa có hơi hướng tâm linh ly kỳ, được nhà xuất bản Actes Sud ấn hành gần đây. Tại Viện Cervantes, Paris, cuộc trò chuyện sôi nổi của ông với Tổng Giám mục Celestino Migliore, Sứ thần Tòa Thánh tại Pháp từ năm 2020, diễn ra ngày 8 tháng 9.

Tác giả tự nhận mình là “người vô thần, chống giáo sĩ, theo chủ nghĩa thế tục hiếu chiến và duy lý ngoan cố”, ông đã mất đức tin khi còn là thiếu niên. Ông viết quyển tiểu thuyết Kẻ điên của Chúa ở tận cùng thế giới, một tác phẩm tâm linh ly kỳ về chuyến đi Mông Cổ năm 2023 với Đức Phanxicô, theo lời mời của ngài. Giữa “kẻ điên của Chúa” – Giáo hoàng Argentina – và “kẻ điên không có Chúa” – nhà văn Tây Ban Nha – có hai điểm chung: tình yêu văn chương và những câu hỏi – hay câu trả lời – về mầu nhiệm phục sinh của thân xác và cuộc sống đời đời.

Trong chuyến đi Mông Cổ với Đức Phanxicô, ông đã gặp nhiều nhân vật tôn giáo và Công giáo. Liệu từ một người không tin Chúa như ông, ông có trở nên kitô hữu hơn một chút không?

Tác giả Javier Cercas: Quyển sách là cuộc phiêu lưu phi thường, nó đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời tôi. Mông Cổ là xứ sở rất kỳ lạ, nhưng tôi nghĩ Vatican còn kỳ lạ hơn! Tôi theo đạo công giáo cho đến năm 14 tuổi, rồi tôi trở thành người vô thần. Cá nhân tôi xem đức tin là một loại trực giác thi ca, cho phép mình nhận ra ý nghĩa mà người khác không thấy. Nhưng Đức Phanxicô lại nghĩ đức tin là một ơn. Tôi nghĩ hai quan điểm này không mâu thuẫn nhau, nhưng bổ sung cho nhau.

Tuy nhiên, đức tin không thể bị quyết định và không phải là vấn đề của ý chí. Tôi ghen tị với những người có đức tin ăn sâu vào bản chất, như mẹ tôi hay các nhà truyền giáo tôi gặp. Đức tin mang lại cho họ sức mạnh và một tinh thần thanh thản. Nhưng, dù tôi muốn lấy lại đức tin, tôi không biết cách nào để lấy lại. Vì có đức tin khó hơn nhiều so với việc không có đức tin, nên tôi vẫn là người vô thần!

Có phải vì Tòa Thánh muốn nói chuyện với mọi người theo một cách khác nên đã mời một nhà văn vô thần?

Tổng Giám mục Migliore: Dù có thái độ chống giáo sĩ, nhưng trong quyển sách, tác giả Javier Cercas nhận thấy người Phương Tây vẫn thấm nhuần di sản văn hóa của Giáo hội Công giáo, dù họ có thích hay không. Vatican muốn chọn một người không cùng chung giáo phái, nhưng lại tiếp cận Giáo hội với một tâm trí thấu hiểu. Thật sai lầm khi nghĩ rằng ngày nay Giáo hội không còn hấp dẫn ai: rất nhiều triết gia, nhà văn, nghệ sĩ và những người bình thường tìm đến Phúc âm vì họ tìm thấy câu trả lời cho những câu hỏi thường ngày của họ ở đó – sinh, tử, đau khổ, tình bạn, công việc, v.v.

Vấn đề là, trong những thế kỷ gần đây, Giáo hội có thể đã nghĩ mình nắm giữ chân lý, và xa lánh đối thoại với xã hội. Điều quan trọng là chúng ta phải kết nối lại với văn hóa ngày nay, vì, mặc dù tinh thần Công giáo đã thấm nhuần trong xã hội, nhưng nhiều người không còn biết Công giáo là gì nữa. Vì thế chúng ta cần đối thoại để hiểu nhau.

Javier Cercas, ông nói các nhà truyền giáo ông gặp ở Mông Cổ đã có ảnh hưởng sâu đậm trên ông. Vì sao?

Javier Cercas: Dù là tín hữu kitô, người có đức tin hay người vô thần, tôi nghĩ không thể không ngưỡng mộ những người “điên cuồng vì Chúa”. Đức Phanxicô thậm chí còn nói về một Giáo hội truyền giáo. Theo tôi, lời của ngài mang tính cách mạng theo nghĩa ngài mời gọi Giáo hội đưa Chúa Giêsu Kitô ra khỏi phòng thánh, đặt Chúa Giêsu Kitô vào trung tâm thế giới. Trở về với Kitô giáo của Chúa Kitô, với các sách Phúc Âm, là điều Đức Phanxicô muốn làm. Người nghèo, các cô gái mại dâm ở chung quanh Chúa Giêsu Kitô; Ngài bị đóng đinh vì Ngài là người nguy hiểm, người đã nói: “Ta đến không mang lại hòa bình, nhưng mang gươm giáo.”

Tuy nhiên, ở Rôma và Tây Ban Nha, những gì chúng ta thấy không phải là Kitô giáo cách mạng như chúng ta biết, nhưng một Công giáo gắn chặt với quyền lực và giới giàu có. Đức Phanxicô muốn Giáo hội trở về nguồn gốc của nó. Liệu ngài có thành công trong cuộc cách mạng này không?

Tổng Giám mục Celestino Migliore: Không, ý tưởng cho rằng một giáo hoàng nắm giữ quyền lực tuyệt đối thật nực cười. Có lẽ chúng ta không cần một giáo hoàng, mà là 20 giáo hoàng để mang lại cuộc cách mạng!

Thậm chí một số người còn kêu gọi Giáo hội tìm lại tinh thần của thời kỳ hầm mộ. Ngài nghĩ gì về điều này?

Tổng Giám mục Celestino Migliore: Theo một số báo, chúng ta có cảm tưởng Giáo hội đang ở bờ vực sụp đổ. Nhưng khi đến các nơi thờ phượng, chúng ta nhận ra có một cơn khát thiêng liêng: năm nay tại Pháp có hơn 18.000 tân tòng xin rửa tội, một số hoàn toàn không có tôn giáo nào. Để mang lại cuộc cách mạng, tốt hơn nên có giáo dân hơn là có giáo hoàng, và làm sao để các tín hữu tin chắc cần phải trở về với Phúc âm để sống. Ở Pháp, Giáo hội đang chuyển từ hướng dẫn sang nuôi dưỡng: có rất nhiều sáng kiến cho những ai muốn tin, đặc biệt là trong giới trẻ, nhằm khuyến khích một đức tin thực tế, giúp ích cho mọi người. Tôi thực sự lạc quan về tương lai của Giáo hội, một Giáo hội đặc biệt sáng tạo và can đảm ở Pháp, bất chấp những vụ bê bối.

Javier Cercas: Các nhà truyền giáo tôi gặp đại diện cho sự trở lại với Kitô giáo của Chúa Kitô. Họ chính xác noi theo những gì Chúa Giêsu đã làm với các tông đồ đầu tiên của Ngài: từ bỏ tất cả và đi đến tận cùng trái đất. Ở đó họ không gây chiến, họ giúp đỡ người bệnh, người già, phụ nữ bị lạm dụng, và chỉ có vậy. Đó là một Kitô giáo rất cấp tiến. Nhưng dù Giáo hội đã tồn tại qua mọi đế chế trong 2.000 năm, tôi không lạc quan như Tổng Giám mục Migliore: ngày nay, ít người có tầm nhìn như vậy về Công giáo.

Tổng Giám mục Celestino Migliore: Tôi muốn cấp tiến hơn một chút so với ông. Tầm nhìn của ông hơi thiên về giáo sĩ. Tất cả chúng ta đang chờ đợi điều gì ở đây để mang đến cuộc cách mạng này? Là tín hữu kitô, tất cả chúng ta đều được kêu gọi để thành nhà truyền giáo. 

Giáo hội ngày nay tạo ấn tượng họ nói chuyện nhiều hơn với giới trẻ, chẳng hạn qua việc phong thánh cho Carlo Acutis, người có biệt danh “lập trình viên của Giáo hội”. Liệu ngôn ngữ của Giáo hội đã lỗi thời chưa?

Javier Cercas: Tôi nghĩ ngôn ngữ của Giáo hội đã lỗi thời. Quyển sách mới nhất của Đức Phanxicô, Chào đón Thơ ca! (Vive la poésie!, Ares) mời gọi chúng ta tôn vinh ngôn ngữ, nhưng thực tế phức tạp hơn. Chúa Kitô mang tính cách mạng vì lời của Ngài rất mạnh và mới mẻ. Nhưng, ngoài việc lỗi thời, đó còn là một ngôn ngữ khó hiểu, không ai hiểu được. Ví dụ khái niệm về tính công đồng… Có lẽ, để diễn đạt ý tưởng chuyển từ Giáo hội chiều dọc sang chiều ngang, tốt hơn nên nói về “dân chủ hóa” thể chế, theo nghĩa từ nguyên của nó: tính công đồng là quyền năng của dân Chúa. Trong Sách Công vụ Tông đồ, các môn đệ của Chúa Giêsu đã gặp nhau để thảo luận các vấn đề. Vậy tại sao không nói và lắng nghe?

Tổng Giám mục Celestino Migliore: Giống như phần lớn từ vựng của chúng ta, thuật ngữ “công nghị” (synodality) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, diễn tả ý tưởng cùng nhau bước đi. Nó không nhằm mục đích đặt Giáo hội vào mô hình dân chủ nghị viện, nhưng đúng hơn là ở trong tình trạng huynh đệ và lắng nghe nhau. Tôi nghĩ giáo dân không nên đòi hỏi được giáo sĩ hóa, về phần các linh mục, họ sẽ được hưởng lợi từ việc thế tục hóa.

Javier Cercas, ông cho rằng các nhà báo phỏng vấn Giáo hoàng chỉ quan tâm đến các vấn đề chính trị, còn chiều kích tôn giáo thường bị bỏ qua…

Javier Cercas: Đúng vậy, điều này làm tôi vô cùng ngạc nhiên. Chủ đề chính trong quyển sách của tôi là liệu mẹ tôi có gặp lại cha tôi sau khi chết hay không, nói cách khác, đây là câu hỏi về sự phục sinh của thân xác. Theo quan điểm của tôi, đây là bí ẩn cốt lõi của Kitô giáo và nền văn minh chúng ta: sự sống đời đời. Mẹ tôi, một tín hữu mộ đạo, bà tin chắc bà sẽ đoàn tụ với cha tôi sau khi chết. Khi tôi đến Vatican, tôi nói tôi muốn thảo luận vấn đề này với Giáo hoàng, ai cũng sững sờ nhìn tôi: “Chưa bao giờ có ai hỏi ngài điều này cả!” Nhưng đồng thời, điều này cũng dễ hiểu: chúng ta hình dung một nhà báo nói với tổng biên tập của ông, ông muốn viết một bài về sự phục sinh của thân xác… Nhưng đó lại là bản chất của Kitô giáo. Ngày nay, Giáo hội không còn nắm giữ quyền lực chính trị như trước nữa. Giáo hoàng trước hết và trên hết là nhà lãnh đạo tinh thần, chứ không phải nhà lãnh đạo chính trị. Không muốn hạ thấp chiều kích chính trị của Giáo hội, tôi muốn nói thêm về chiều kích tinh thần của Giáo hội. Và Giáo hoàng đã trả lời câu hỏi của tôi theo một cách vừa bất ngờ vừa tất yếu. Aristotle hẳn sẽ rất hài lòng với câu trả lời này.

Tổng Giám mục Celestino Migliore: Từ ngữ rất quan trọng, không chỉ là quyền lực kinh tế. Đó là lý do vì sao Giáo hội Công giáo vẫn tồn tại hơn hai ngàn năm sau khi thành lập. Một ngày nọ, tôi đang đi du lịch ở Hàn Quốc. Một mục sư Hàn Quốc hỏi tôi liệu Giáo hoàng có dừng chân ở Bình Nhưỡng để kêu gọi dỡ bỏ lệnh cấm vận với Bắc Triều Tiên hay không. Tôi trả lời Đức Gioan Phaolô II có thể tuyên bố điều tương tự như ngài đã tuyên bố ở Cuba: “Cầu mong Cuba mở cửa với thế giới và thế giới mở cửa với Cuba!” Vị mục sư uống xong ly nước rồi rời đi…

Xét cho cùng, thưa ông Cercas, Đức Phanxicô đã để lại ấn tượng gì cho ông?

Javier Cercas: Đức Phanxicô là một nhân vật cực kỳ phức tạp, với tính cách rất khó tính và độc đoán. Ngài không phải là một giáo hoàng hoàn hảo, không tì vết, nhưng là người đang đấu tranh với chính mình, ý thức sâu sắc về những điểm yếu và tội lỗi của mình, ngài đã chiến đấu đến chết để trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình. Điều đầu tiên ngài nói sau khi được bầu làm giáo hoàng “ngài là kẻ có tội”. Nhưng Giáo hội không phải là nơi của những người chiến thắng, đó là nơi của những người lầm đường lạc lối. Suy cho cùng, Chúa Giêsu đã chọn tông đồ Phêrô, người đã phản bội Ngài ba lần, làm người đầu tiên đứng đầu Giáo hội! Hơn nữa, chúng ta không phải là cùng một con người trong suốt cuộc đời. Montaigne đã nói: “Sự khác biệt giữa chúng ta và chính mình cũng lớn như giữa chúng ta và người khác.” Tôi nghĩ Đức Phanxicô là phiên bản Bergoglio hoàn hảo nhất có thể.

Còn Đức Lêô XIV thì sao?

Tổng Giám mục Celestino Migliore: Mỗi giáo hoàng đều có cá tính riêng. Kế nhiệm Đức Phanxicô không dễ dàng, nhưng điều tôi ấn tượng về Đức Lêô là sự tự do nội tâm của ngài, chắc chắn đây là lợi thế của ngài. Mặc dù ngài ít nói hơn nhiều so với người tiền nhiệm, nhưng ngài là người thông thái, người sẽ tiếp bước Đức Phanxicô và đóng góp những gì ngài có.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Vì sao Đức Lêô cho phép Hồng y Burke cử hành Thánh lễ La-tinh tại Vatican?
Đức Lêô XIV thấy sứ mệnh truyền giáo ngày nay như thế nào
Javier Cercas, tiểu thuyết gia chống giáo sĩ: “Tôi ghen tị với những người có đức tin trong máu huyết.”

Vì sao Đức Lêô cho phép Hồng y Burke cử hành Thánh lễ La-tinh tại Vatican?

Vì sao Đức Lêô cho phép Hồng y Burke cử hành Thánh lễ La-tinh tại Vatican?
americamagazine.org, Colleen Dulle, 2025-10-24
Đức Lêô XIV và Hồng y Raymond L. Burke (Hoa Kỳ) tại Dinh Tông tòa ngày 22 tháng 8. Văn phòng báo chí Vatican xác nhận cuộc gặp nhưng không tiết lộ chi tiết. Nguồn: Ảnh CNS/Vatican Media
Ngày 25 tháng 10, Đức Lêô cho phép Hồng y Burke cử hành Thánh lễ la-tinh truyền thống tại Đền thờ Thánh Phêrô. Đây là lần đầu ngài được cử hành nghi lễ tiền Công đồng Vatican II tại đây, sau hai năm bị từ chối (2023–2024).
Thánh lễ được cử hành tại Bàn thờ Ngai Tòa Thánh Phêrô, phía sau bàn thờ chính của Đền thờ. Từ năm 2021, các Thánh lễ tiền Công đồng chỉ được cử hành ở Nhà nguyện Clementine, nơi an táng Thánh Phêrô. Việc thay đổi địa điểm có thể do đáp ứng số giáo dân hành hương hơn 1.000 người ghi tên, Nhà nguyện Clementine không đủ sức chứa.
Các tín hữu trung thành với Thánh lễ cổ xem đây là dâu hiệu Đức Lêô có thể nới lỏng các hạn chế của Đức Phanxicô ban hành năm 2021.
Nguồn gốc Thánh lễ la-tinh
Thánh lễ tiền Công đồng Vatican II còn gọi là Nghi lễ Tridentine, được ban hành sau Công đồng Trent năm 1570 nhằm thống nhất phụng vụ Công giáo toàn cầu. Trước đó, Thánh lễ được cử hành khác nhau tùy từng vùng, với nhiều ngôn ngữ và hình thức khác nhau.
Từ thế kỷ IV, các giáo hoàng cố gắng chuẩn hóa phụng vụ, nhưng phải đến thời Cải cách Kháng Cách và máy in ra đời, công việc này mới khả thi. Thánh lễ Tridentine được cử hành rộng rãi gần 400 năm, gần như không thay đổi.
Khi tiếng La-tinh dần dần biến mất khỏi đời sống hàng ngày, nhiều tín hữu không còn hiểu Thánh lễ. Từ thế kỷ XIX, các Giám mục xuất bản sách lễ song ngữ La-tinh bản địa để giúp giáo dân dự thánh lễ. Đồng thời, nhiều thần học gia đề nghị đưa phụng vụ trở lại gần với nghi lễ thời sơ khai, khuyến khích giáo dân tham gia tích cực hơn.
Công đồng Vatican II đã đáp ứng những thay đổi này. Thánh lễ được phép dùng ngôn ngữ địa phương; linh mục quay mặt về giáo dân, đọc lời cầu nguyện lớn tiếng và cộng đoàn tham gia với các bài hát, bài đọc và lời cầu nguyện.
Từ cải cách đến thích nghi
Phần lớn tín hữu đón nhận các thay đổi Đức Phaolô VI ban hành năm 1969 nhưng vẫn có một số phản ứng. Một số người, như Tổng Giám mục Marcel Lefebvre và Hội Thánh Piô X (SSPX) bác bỏ hoàn toàn Công đồng Vatican II. Một số khác chỉ muốn duy trì Thánh lễ cổ.
Đức Gioan Phaolô II cho phép một số nhóm cử hành Thánh lễ Tridentine nếu họ chấp nhận giáo huấn Công đồng. Ngài lập Ủy ban đối thoại với SSPX. Sau đó, Đức Bênêđictô XVI tiếp tục nỗ lực này, ngài ban hành tự sắc Summorum Pontificum (2007) cho phép linh mục cử hành Thánh lễ cổ mà không cần phải xin phép Giám mục. Ngài gọi đây là “hình thức ngoại thường” của cùng một phụng vụ, bên cạnh “hình thức thông thường” theo Công đồng Vatican II.
Quyết định này làm cho nhiều người trẻ Công giáo tìm đến thánh lễ cổ, họ cảm nhận ở đó sự trang nghiêm và vẻ đẹp sâu lắng.
Những hạn chế của Đức Phanxicô
Năm 2021, sau khi tham khảo với các Giám mục toàn cầu, Đức Phanxicô ban hành tự sắc Traditionis custodes (Cử hành thánh lễ theo phụng vụ tiền Công đồng) siết chặt việc cử hành Thánh lễ Tridentine. Ngài cho rằng một số người đã lợi dụng Thánh lễ cổ để chống Công đồng Vatican II, gây chia rẽ trong Giáo hội. Theo quy định mới, linh mục phải được giám mục địa phương chấp thuận mới được phép cử hành Thánh lễ La-tinh. Thánh lễ này không được tổ chức trong các nhà thờ giáo xứ, và không được thành lập cộng đoàn mới chuyên về nghi lễ cổ.
Traditionis Custodes cũng xác định Thánh lễ theo Công đồng Vatican II là “biểu hiện duy nhất” của Nghi lễ Rôma, khác hẳn quan điểm “hai hình thức song song” của Đức Bênêđictô XVI.
Phản ứng của Hồng y Burke
Hồng y Raymond Burke người ủng hộ Thánh lễ trước Công đồng và thường chỉ trích Đức Phanxicô gọi tự sắc Traditionis Custodes là “khắt khe và mang tính cách mạng”. Ngài xin Vatican công bố toàn bộ kết quả khảo sát của các Giám mục.
Tháng 7 năm 2025, nhà báo Diane Montagna công bố bản tóm tắt được cho là của khảo sát này, cho thấy đa số Giám mục không ủng hộ việc siết chặt Thánh lễ cổ. Vatican không xác nhận tính xác thực của tài liệu, nhưng thừa nhận nó “có thể” liên quan đến quá trình ra quyết định của Đức Phanxicô.
Việc tài liệu bị rò rỉ làm gia tăng áp lực lên Đức Lêô XIV, buộc ngài phải đối diện với cuộc tranh luận đang kéo dài chung quanh Thánh lễ La-tinh.
Tình thế tiến thoái lưỡng nan của Đức Lêô XIV
Từ khi được bầu (ngày 8 tháng 5 năm 2025), Đức Lêô XIV nhận nhiều thư xin nới lỏng các hạn chế với Thánh lễ La-tinh. Trong một phỏng vấn, ngài nói: “Giữa Thánh lễ Tridentine và Thánh lễ Vatican II, thật khó để biết hướng đi đúng. Đây là vấn đề phức tạp.” Ngài lo ngại việc phụng vụ bị biến thành công cụ chính trị, chia rẽ cộng đoàn: “Nhiều người lợi dụng phụng vụ để thúc đẩy các mục tiêu khác. Đó là điều đáng buồn.”
Ngài cho biết muốn gặp những người yêu mến nghi lễ trước Công đồng “trong tương lai gần”, có thể ám chỉ cuộc gặp với Hồng y Burke ngày 22 tháng 8. Ngài cũng gợi ý một “con đường trung dung”: duy trì Thánh lễ theo Công đồng Vatican II nhưng phục hồi sự trang nghiêm, tính linh thiêng, dùng vừa phải tiếng La-tinh và các yếu tố truyền thống.
Ngài nói: “Những lạm dụng trong việc cử hành Thánh lễ Vatican II làm cho nhiều người tìm đến Thánh lễ Tridentine để tìm chiều sâu cầu nguyện. Nếu chúng ta cử hành đúng tinh thần phụng vụ Vatican II, có lẽ khoảng cách giữa hai hình thức sẽ thu hẹp hơn.”
Tuy nhiên ngài thừa nhận: “Vấn đề đã trở nên quá phân cực. Mọi người không còn lắng nghe nhau. Khi phụng vụ trở thành công cụ của ý thức hệ, chúng ta đánh mất tinh thần hiệp thông trong Giáo hội.”
Têrêxa Trần Tuyết Hiền dịch
Vì sao Đức Lêô cho phép Hồng y Burke cử hành Thánh lễ La-tinh tại Vatican?
Đức Lêô XIV thấy sứ mệnh truyền giáo ngày nay như thế nào
Javier Cercas, tiểu thuyết gia chống giáo sĩ: “Tôi ghen tị với những người có đức tin trong máu huyết.”

Đức Lêô XIV thấy sứ mệnh truyền giáo ngày nay như thế nào  

Đức Lêô XIV thấy sứ mệnh truyền giáo ngày nay như thế nào

Hình ảnh Antoine Mekary | ALETEIA

fr.aleteia.org, Camille Dalmas, 2025-10-16

Đức Lêô XIV là nhà truyền giáo ở Peru, gần đây ngài nói lên tầm nhìn của ngài về việc loan báo Tin Mừng. Quan điểm độc đáo và sâu sắc này rất quan trọng khi Giáo hội cử hành Tuần lễ Truyền giáo Thế giới.

Trong thánh lễ mừng Năm Thánh Truyền giáo ngày 5 tháng 10, Đức Lêô có bài giảng theo chương trình về sứ vụ truyền giáo. Ngài đã chia sẻ những suy tư tốt đẹp về việc loan báo Tin Mừng ở thời chúng ta, theo ngài, công cuộc cứu rỗi được mời gọi bước vào “kỷ nguyên mới” của việc truyền giáo.

1. Một Giáo hội hoàn toàn truyền giáo

Linh mục Matthieu Dauchez. © ANAK tnk

Tiếp bước Đức Phanxicô, đặc biệt theo Tông huấn Niềm vui Tin mừng Evangelii Gaudium (2013), Đức Lêô nhấn mạnh “toàn thể Giáo hội là truyền giáo”, vì thế sứ mệnh truyền giáo không phải là trách nhiệm của một số ít người. Phát biểu trước các Giám mục ngày 12 tháng 9, ngài nhấn mạnh đến tầm quan trọng khuyến khích giáo dân nên là nhà truyền giáo trong giáo phận của mình.

Vì vậy, theo ngài, mỗi chúng ta được mời gọi để làm mới lại chính mình “ngọn lửa ơn gọi truyền giáo”. Lặp lại lời Đức Phanxicô hay nói “Giáo hội phải đi ra, phải có khả năng mang Tin Mừng đến các vùng ngoại vi”, ý tưởng được Đức Lêô phát triển trong buổi tiếp kiến dành cho các Hội Truyền giáo Giáo hoàng ngày 22 tháng 5, kêu gọi tất cả tín hữu vượt ra khỏi ranh giới giáo xứ, giáo phận và quốc gia riêng của mình.

2. Sứ mệnh: Phục vụ kín đáo và vô vị lợi

Ngài cũng nhấn mạnh đến khía cạnh vô vị lợi căn bản của các nhà truyền giáo, không sợ bị cho là “người hầu vô dụng” nhưng ẩn danh khi thực hiện sứ mệnh. Ngài nhấn mạnh: “Đức tin không áp đặt bằng vũ lực hay bằng các việc phi thường nhưng đức tin có khả năng làm được những điều không tưởng.”

Đức Lêô đặc biệt khuyến khích chúng ta dấn thân giúp người đau khổ, con đường “thầm lặng và dường như không hiệu quả, nhưng là con đường chậm rãi nuôi dưỡng đức tin”.

3. Các nhà truyền giáo được kêu gọi “ở lại”.

Các nhà truyền giáo Đức Mẹ Vô Nhiễm đến Mozambique, tại Domué ngày 10 tháng 5 năm 2023. Hỗ trợ Hiệp hội Giúp đỡ các Giáo hội gặp Khó khăn

Đức Lêô nhấn mạnh: “Ngày nay, ranh giới của sứ mệnh không còn mang tính địa lý như trước đây, sứ mệnh gắn liền với ý tưởng ra đi đến những vùng đất xa xôi, nhưng ngày nay nghèo đói, đau khổ và khát vọng hy vọng đến với chúng ta. Gần đây Tông huấn Dilexi te khẳng định “tình yêu dành cho người nghèo bảo đảm cho Tin Mừng của một Giáo hội trung thành với trái tim Thiên Chúa.”

Vì thế theo ngài, sứ mệnh đang bước vào một kỷ nguyên mới, sứ mệnh phải học cách “ở lại” nơi mình đang ở và mở rộng ra với người di cư qua chào đón, lòng trắc ẩn và tình liên đới. Trong sứ điệp Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn công bố tháng 7 vừa qua, Đức Lêô tuyên bố: “Ngày nay người di cư và người tị nạn Công giáo có thể trở thành những nhà truyền giáo của hy vọng tại các quốc gia chào đón họ”.

Động lực mới này áp dụng cho cả khía cạnh tâm linh: trong bài phát biểu với các tu sĩ Dòng Thánh Augustinô, ngài thúc giục vun đắp đời sống nội tâm, không “xa lánh chính mình, nhưng trở về với chính mình, từ đó lên đường truyền giáo với động lực và nhiệt huyết mạnh mẽ hơn”.

4. Hợp tác truyền giáo

Đức Lêô đã truyền giáo ở Peru gần 15 năm, ngài không kêu gọi chấm dứt việc gởi các nhà truyền giáo ra nước ngoài, nhưng làm chứng cho “cái đẹp của ơn gọi” đã truyền cảm hứng cho rất nhiều người, đã làm chứng cho đức tin của mình khi ở xa quê hương: “Qua việc hội nhập văn hóa tại vùng đất truyền giáo, các nhà truyền giáo được kêu gọi sống trong các nền văn hóa địa phương với lòng tôn trọng thiêng liêng, hướng đến điều tốt lành tất cả những gì họ thấy tốt đẹp và cao quý, mang đến cho giáo dân lời tiên tri của Phúc Âm. Sự có mặt là cơ hội trao đổi, làm mới diện mạo của Giáo hội và truyền cảm hứng cho một Kitô giáo cởi mở, sôi động và năng động hơn”. Ngài khuyến khích các cộng đồng ở Nam bán cầu cẩn thận phân định động lực ơn gọi của những người muốn trở thành nhà truyền giáo.

5. Khơi dậy ngọn lửa truyền giáo tại Châu Âu

Hình ảnh Sebastien Desarmaux / Godong

Về Châu Âu, ngài nhấn mạnh đến nhu cầu của một “động lực truyền giáo mới”, khuyến khích việc phát triển các đề xuất mới, có khả năng khơi dậy lòng nhiệt thành, đặc biệt nơi giới trẻ. Khi tiếp các bạn trẻ Châu Âu tháng 8 vừa qua, ngài kêu gọi họ cam kết bảo vệ phẩm giá của mọi người không trừ một ai.

Vì mục đích này, ngài kêu gọi người Công giáo Châu Âu không quay lưng lại với quá khứ, tháng 6 vừa qua, ngài đã gởi thư cho các linh mục Pháp. Trong thư, ngài kêu gọi họ lấy kinh nghiệm của các tiền bối đáng kính để nuôi dưỡng “động lực truyền giáo mới”, nhưng không hoài niệm. Ngài chất vấn họ: “Thánh Têrêsa có phải là thánh bổn mạng của sứ mệnh truyền giáo tại chính nơi ngài sinh ra không?”.

Marta An Nguyễn dịch

Vì sao Đức Lêô cho phép Hồng y Burke cử hành Thánh lễ La-tinh tại Vatican?
Đức Lêô XIV thấy sứ mệnh truyền giáo ngày nay như thế nào
Javier Cercas, tiểu thuyết gia chống giáo sĩ: “Tôi ghen tị với những người có đức tin trong máu huyết.”

Chúng ta cần chứng nhân để tin

Chúng ta cần chứng nhân để tin

la-croix.com, Arnaud Alibert, 2025-10-24

Trong những ngày gần đây, tác giả Arnaud Alibert, Tổng biên tập báo La Croix nhận thấy có hai chứng từ đức tin các giáo dân đang cần: xuất bản một ấn bản Kinh Thánh mới và cuộc gặp huynh đệ giữa các nam nữ tu sĩ tại Paris ngày thứ bảy 24 tháng 10 và chúa nhật 25 tháng 10.

Có rất nhiều định nghĩa về đức tin nhưng định nghĩa tôi thích nhất: đức tin là cuộc phiêu lưu. Chắc chắn đức tin không nguy hiểm nhưng táo bạo, đức tin triển khai năng lượng trong hầu hết lãnh vực của đời sống: các mối quan hệ, các khao khát tin tưởng; đời sống chính trị, nơi chúng ta chờ các lời nói tin cậy về tương lai của mình; sự tiến triển của thế giới, khi chúng ta không còn tin vào hòa bình, cánh chim bồ câu bay lượn như tấm màn che phủ chân trời. Như thế còn điều gì hữu ích hơn, thiết yếu hơn cho đức tin là có các nhân chứng bên cạnh? Tin tức tuần này cho chúng ta điều được dọn lên chiếc đĩa.

Đó là quyển sách. Đúng, một quyển sách, chúng ta có thể nói như vậy. Nhà xuất bản Éditions du Cerf xuất bản một bản dịch mới của quyển Kinh Thánh Giêrusalem nổi tiếng. Tựa đề bí ẩn, Evangelion, ám chỉ bốn sách Phúc âm, các Thánh Vịnh, các lời cầu nguyện Do Thái của Chúa Giêsu, trong khi chờ đợi phiên bản đầy đủ sẽ xuất bản vào năm 2027. Đọc Kinh Thánh, lắng nghe lời Chúa, giống như giải cơn khát bên suối nước trong sau một ngày đi bộ đường dài. Đức tin được nuôi dưỡng qua những giây phút này. Liệu đó có phải là điều thiết yếu nhất, đến mức đặt những công việc chính đáng của cuộc sống chúng ta xuống hàng thứ yếu, tin tưởng hơn là làm việc không? Tôi vội vàng chuyển sang đoạn văn làm nổi bật sự mâu thuẫn này, bữa ăn nổi tiếng tại Nhà Marta, nơi Mary, em gái bà thích ngồi nghe Chúa hơn là lăng xăng làm việc. Các bản dịch xưa đều nói Mary đã chọn “phần tốt hơn”. Bản dịch mới sẽ nói gì?

Với một công thức tôn trọng bản gốc tiếng Hy Lạp, bây giờ độc giả sẽ đọc: “Chính Maria đã chọn phần tốt lành, phần sẽ không bị lấy mất.” Những hoạt động hàng ngày của chúng ta, dù tốt đẹp – chúng ta trân trọng sự tinh tế này – sẽ qua đi, nhưng tất cả những gì chúng ta đã gặt hái được như Lời Chúa -kho tàng thiêng liêng của cuộc đời chúng ta – sẽ không bị lấy mất. Cuộc phiêu lưu của đức tin là nguồn an ủi.

Các người chọn đời sống thánh hiến dự hội nghị được tổ chức ngày thứ sáu và thứ bảy, 24 và 25 tháng 10 tại Paris đều hiểu rõ điều này. Họ là chứng nhân cho lòng khao khát đức tin của chúng ta. Họ cũng bị giằng xé giữa những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống trần thế và tiếng gọi của đức tin. Chúng ta thường nghĩ những người độc thân không con cái có cuộc sống tự do hơn. Đây là hình ảnh sáo rỗng, không phù hợp với câu chuyện Phúc âm.

Ngày nay, chúng ta thường nới lỏng ngôn ngữ để mô tả cuộc sống hàng ngày của họ, đôi khi được đánh dấu bởi sự thái quá của việc dùng quyền bính. Hàng loạt vụ lạm dụng tinh thần trong Giáo hội không chỉ dừng lại ở cổng tu viện. Ai còn tin được? Linh mục Dòng Tên Patrick Goujon cũng là nạn nhân, là một trong những tiếng nói trong cuộc tranh luận về vấn đề này, đã nhấn mạnh đến sự căng thẳng len lỏi trong đời sống tu trì: đúng vậy, tu sĩ là người “đặc biệt” nhưng họ không “cao siêu”. Điều này đúng trong quan hệ của họ với giáo dân, và thậm chí còn đúng hơn giữa chính các nam nữ tu sĩ: mỗi người, trong cộng đồng của mình, cần nghĩ rằng người kia là anh chị em mình cũng đang đi tìm. Để tiếp tục cuộc phiêu lưu…

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Các anh hùng ẩn danh tạo nên Giáo hội

Người bạn Vásquez vẽ chân dung thân mật của Đức Lêô trong một quyển sách mới

Người bạn Vásquez vẽ chân dung thân mật của Đức Lêô trong một quyển sách mới

Người bạn Vásquez vẽ chân dung thân mật của Đức Lêô trong một quyển sách mới

belgicatho.be, Bài viết của nhà báo Elise Ann Allen trên Crux, 2025-10-29

Armando Jesús Lovera Vásquez giới thiệu quyển sách mới về tình bạn của ông với Đức Lêô ngày 18 tháng 10 năm 2025. (Hình ảnh: Armando Jesús Lovera Vásquez.)

Một quyển sách mới vẽ chân dung sâu sắc và thân mật về tình bạn lâu dài giữa Đức Lêô và một trong những người bạn thân thiết nhất của ngài, mang đến một cái nhìn mới về ngài, minh chứng tình bạn chân thành có thể là thuốc chữa lành cho một thế giới bị phân cực như thế nào.

Trong buổi ra mắt quyển sách bằng tiếng Tây Ban Nha Từ Robert đến Léon (Da Roberto a Leon), tác giả Armando Jesús Lovera Vásquez phát biểu: “Tình bạn là nền tảng của nhân loại. Tình bạn thiết yếu cho cuộc sống con người, có khả năng xây các cây cầu mới và chữa lành vết thương. Có rất nhiều điều chia sẻ tình bạn.” Cựu tu sĩ Dòng Thánh Augustinô Lovera đã gặp Cha Robert Prevost năm 1991 và gọi ngài là “người bạn tâm hồn của mình, amigo de alma” cho biết theo linh đạo Dòng Thánh Augustinô, tình bạn là nơi gặp gỡ và là niềm vui vô bờ.

Trong phần giới thiệu ngắn gọn quyển sách, Đức Lêô trích dẫn bài diễn văn của ngài tại buổi canh thức trong Năm Thánh dành cho Giới trẻ vào mùa hè, ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của tình bạn với Chúa Kitô là nền tảng của đức tin.

Linh mục Dòng Augustinô Juan Antonio Cabrera Montero có bài suy tư dài về khái niệm tình bạn của Dòng Augustinô trong buổi ra mắt sách tại Rôma, ngài cho rằng tình bạn đích thực là điều mà thế giới hiện đại đã đánh mất, nhưng: “Đó là ơn gọi của Giáo hội, một cách để xây dựng các cộng đồng sống động, nơi các mối liên kết không dựa trên quyền lực hay tiện ích. Đó là nguồn mạch của sứ mệnh, vì tình bạn mở ra với Thiên Chúa và phục vụ nhân loại. Đó là một ơn vì tình bạn nhân bản hóa và thánh hóa chúng ta. chúng ta cần tái khám phá ý nghĩa đích thực của nhân loại, của trải nghiệm về Chúa Kitô với các tông đồ, chứ không chỉ với họ. Tình bạn là trải nghiệm sâu sắc, là trường học của cuộc sống, mở ra một con đường để theo đuổi dù có những chia re. Trong thế giới bị phân mảnh, chúng ta cần tái khám phá tình bạn không chỉ cùng nhau đồng hành qua thời gian, nhưng còn hướng dẫn nhau đến cõi vĩnh hằng.”

Được Truyền thông Loyola xuất bản, quyển sách dày 171 trang gồm 18 chương kể lại trải nghiệm của Đức Lêô về việc ngài được bầu làm giáo hoàng, nguồn gốc Augustinô của ngài, tầm quan trọng của tình bạn, các giai thoại về bạn bè, gia đình, và tình bạn của ngài với Lovera.

Lovera sinh ra tại Iquito, một giáo hạt đại diện vùng Amazon do các tu sĩ Augustinô điều hành ở Peru, ngài vào dòng tu và quyết định theo đuổi ơn gọi truyền giáo. Ngài gia nhập nhà đào tạo Tomás de Villanueva ở Trujillo, nơi ngài gặp Cha Robert Prevost, đã trở thành người thầy, người bạn thân thiết của ngài.

Trong buổi giới thiệu quyển sách tại Rôma, tu sĩ Lovera cho biết những chương quan trọng nhất là chương thứ hai, kể lại việc Đức Lêô chấp nhận ngài được bầu làm giáo hoàng như một hành động tin tưởng vào Thiên Chúa và sự quan phòng của Chúa và chương 17, chia sẻ suy tư về cha mẹ của Đức Lêô: ông bà Louis và Mildred Prevost.

Trong chương thứ hai, tác giả kể, khi nghe Hồng y Dominique Mamberti phát âm tên “Robertum” từ ban công Đền thờ Thánh Phêrô, ông biết ngay lập tức đó là người bạn lâu năm của mình, Robert Francis Prevost, ông viết: “Tôi cảm thấy như có một lưỡi dao sắc nhọn đâm xuyên tâm hồn tôi. Tôi đã quỳ xuống và khóc, suy ngẫm về những khoảnh khắc chúng tôi chia sẻ với nhau, cũng như ‘bí quyết’ của tân giáo hoàng về cách ở bên người khác và kết nối với họ.”

Lovera nhớ lại, trước khi được bổ nhiệm làm hồng y, khi được hỏi ngài thích làm gì khi có thì giờ rảnh rỗi, Đức Lêô trả lời: “Tôi thích đọc sách, đi bộ, du lịch và khám phá những địa điểm mới, nhưng điều tôi trân trọng nhất là được ở bên bạn bè. Gặp gỡ người khác nhau và khám phá tài năng của họ. Điều đó thực sự làm tôi phong phú thêm. Với tư cách là tu sĩ dòng Augustinô, sống trong cộng đoàn là một trong những ơn tốt đẹp nhất cuộc đời tôi. Chia sẻ kinh nghiệm, mở lòng với người khác, cùng nhau xây dựng… thật vô giá. Khám phá món quà tình bạn đưa chúng ta đến với chính Chúa Giêsu. Có một tình bạn chân thành thật tuyệt vời. Tôi tin đó là một trong những món quà cao cả nhất Chúa đã ban cho chúng ta.”

Sau khi liên lạc được với bạn là tân giáo hoàng, ông tâm sự với ngài, ông đang cân nhắc để viết một quyển sách về ngài, tập trung vào tình bạn của họ, và Đức Lêô đã chúc lành cho ông.

Tác giả Lovera giải thích: “Mục tiêu của quyển sách là để độc giả thấy ở ngài những gì chính ngài đã thấy: Một người bạn trao tặng tình bạn của mình, và cùng với đó là tình bạn của Chúa Giêsu, Đấng mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.”

Trong buổi ra mắt, ông mô tả: “Bạn Lêô của tôi là người nhút nhát, khiêm nhường nhưng rất thông minh, có năng khiếu ngôn ngữ, người luôn thể hiện lòng biết ơn và sẵn sàng cho sứ mệnh mới được giao phó với tư cách là Giáo hoàng. Ngài cũng là người thân thiết với Giáo hoàng Phanxicô và rất buồn trước một số lời chỉ trích Đức Phanxicô. Tôi là người đảm nhận vai trò kế nhiệm Đức Phanxicô với nhiều kinh nghiệm trong quản trị và xây dựng cầu nối với những người có tư tưởng khác biệt. Tôi không phá hủy bất cứ điều gì; tôi xây dựng trên những gì đã có, tôi làm điều này bằng cách tạo ra cơ hội để lắng nghe. Tôi muốn cánh cửa của giáo phận luôn mở rộng cho tất cả mọi người. Quá trình lắng nghe cần có thời gian, đôi khi có thể gây khó chịu và bị cho là thiếu hành động. Chúng ta phải là những cây cầu. Việc Đức Lêô được đào tạo về khái niệm tình bạn theo tinh thần của Thánh Augustinô sẽ rất cần thiết không chỉ cho tính cách mà còn cho cả việc quản trị.”

Trong 12 năm làm Bề trên Tổng quyền Dòng Augustinô, Đức Prevost “không bao giờ hành động như một nhà cai trị xa cách hay một viên chức. Ngài luôn hành động như người anh em giữa các anh em, với trách nhiệm làm người đứng đầu và đưa ra quyết định, nhưng luôn luôn bằng lý trí”.

Một nền quản trị tốt được chi phối bởi tinh thần hữu nghị

 Tác giả Lovera giải thích: “Chúng ta duy trì mối quan hệ với những người mà chúng ta phải yêu mến, những người mà chúng ta phải hiểu rõ, vì thế phong cách quản trị của Đức Lêo trên cương vị giáo hoàng sẽ là ‘một chính phủ lấy cá nhân làm trọng tâm.’”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Chúng ta cần chứng nhân để tin

Người bạn Vásquez vẽ chân dung thân mật của Đức Lêô trong một quyển sách mới

Các anh hùng ẩn danh tạo nên Giáo hội

Các anh hùng ẩn danh tạo nên Giáo hội

Các anh hùng ẩn danh tạo nên Giáo hội
famillechretienne.fr, Antoine-Marie Izoard, 2025-10-30
Franciszka, Stanislawa, Barbara, Wladyslawa, bốn trong số bảy người con của ông bà Jozef và Wiktoria Ulma đã mất năm 1944 tại Ba Lan. – Ảnh Viện tưởng niệm quốc gia Ba Lan.
Những vị tử đạo thời hiện đại, những chứng nhân kín đáo, những “vị thánh nhỏ bé” của đời sống thường nhật: sự thánh thiện được thể hiện ở khắp mọi nơi. Và mỗi chúng ta được mời gọi để sống sự thánh thiện ấy, từng bước một. Tổng biên tập Antoine-Marie Izoard viết thông điệp trong bài xã luận Ngày Lễ Các Thánh.
Thế hệ của người công giáo bùng nổ ở tuổi từ 40 đến 70, không nhất thiết được nuôi dạy theo giáo lý chính thống về giáo lý hay phụng vụ. Nhưng trong tinh thần học giáo khoa thời đó, ít nhất họ được dạy noi gương các thánh. Dù một số nhân vật nổi bật của Giáo hội đã ngã xuống một cách dữ dội và chính đáng từ bệ của họ, nhưng lời kêu gọi nên thánh vẫn còn đó và càng cấp bách hơn. Hơn nữa, các Kitô hữu của thế kỷ 21 phải phấn đấu để nên giống Chúa. Các cuộc phong thánh tiếp tục nối tiếp nhau, nhắc chúng ta sự thánh thiện là con đường mở ra cho tất cả mọi người, phù hợp với từng thời đại. Minh chứng là việc phong chân phước, phong thánh gần đây cho trẻ em, cho các cặp vợ chồng, cho toàn bộ gia đình, cho các thánh trẻ người Ý Carlo Acutis và Pier Giorgio Frassati vào tháng 9. Điều tương tự cũng đúng với các thánh được Đức Lêô phong giữa tháng 10: ba linh mục, ba nữ tu và một giám mục. Đức Lêô nhấn mạnh khi ngài nâng họ lên bàn thờ: “Họ không phải là anh hùng hay nhà vô địch của một lý tưởng nào đó, nhưng họ là những con người đích thực.” Lịch sử có thể cho biết liệu Ashur Sarnaya có phải là thánh hay không. Dù sao, người đàn ông Iraq 45 tuổi này, bị sát hại bên ngoài nhà riêng ở Lyon ngày 10 tháng 9, ông là nạn nhân của một kẻ cuồng tín chỉ vì một lý do: ông chia sẻ đức tin kitô giáo trên mạng xã hội TikTok. Các nhà điều tra bắt đầu nghĩ rằng đây chính là lý do vì sao người đàn ông ngồi xe lăn bị giết trực tiếp trên mạng xã hội.
Về phần chúng ta, dù chúng ta phải luôn chuẩn bị cho sự tử đạo, nhưng trước tiên chúng ta cố gắng hướng tới sự thánh thiện bằng những bước chân nhỏ nhưng kiên quyết, nhận ra những người chung quanh đang đến gần và soi sáng cho chúng ta. Đức Giám mục Emmanuel Gobilliard của Digne đã nói rất đúng trong tựa đề cuốn sách mới nhất của ngài “Những anh hùng của Phúc Âm đang ở giữa chúng ta”. Thay vì viết lại Tân Ước, ngài chia sẻ những cuộc gặp gỡ của ngài với các giáo dân mà ngài nhận thấy họ là nhân vật trong Phúc Âm: những người chăn chiên bên máng cỏ, Thánh Gioan Tẩy Giả, Thánh Phêrô, hay người phụ nữ Samari. Trong một quyển sách khác xuất bản gần đây, bà Bénédicte de Saint-Germain của báo La Croix đã vẽ chân dung các “trụ cột vô danh của Giáo hội, họ là một phần của Giáo hội, dù họ không được chú ý. Họ có trách nhiệm lo cho người quá cố, phụ trách các em giúp lễ, chỉ huy ca đoàn, họ là người cha, người mẹ đơn thân chuyên tâm lần hạt Mân Côi, họ trung thành làm các việc yêu thương nhỏ bé của mình, họ là các vị thánh nhỏ bé”. Giống như họ, dù chúng ta không được vinh danh trên bàn thờ, không được ghi trong Sổ bộ Tử đạo Rôma, chúng ta vẫn có thể đóng góp phần mình cho Giáo hội.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Chúng ta cần chứng nhân để tin

Người bạn Vásquez vẽ chân dung thân mật của Đức Lêô trong một quyển sách mới

Các anh hùng ẩn danh tạo nên Giáo hội

Xã hội chúng ta đang chết dần chết mòn vì thiếu một đời sống tâm linh đích thực

Xã hội chúng ta đang chết dần chết mòn vì thiếu một đời sống tâm linh đích thực

la-croix.com, Cécile Renouard, Nữ tu Dòng Đức Mẹ Lên trời, Giáo sư tại Khoa Loyola Paris

Nữ tu Cécile Renouard, tiến sĩ triết học, đồng sáng lập và chủ tịch Cơ sở Chuyển tiếp Franck Ferville. Sơ vừa ra mặt quyển sách Thời của những kẻ săn mồi (L’Ère des prédateurs, nhà xuất bản Gallimard). Trong chuyên mục hàng tuần của sơ trên báo La Croix, sơ mạnh mẽ lập luận: “Đời sống tâm linh vẫn có chỗ đứng trong thế giới chúng ta, một thế giới bị đánh dấu bởi sự tàn bạo kinh tế không nương tay, không biết xấu hổ của các nhà lãnh đạo.”

Trong quyển sách này, ông Giuliano Da Empoli đề cập đến một buổi họp ra mắt Quỹ Obama: chương trình gồm các buổi hội thảo ăn tối về các chủ đề được định sẵn, do các điều phối viên chủ trì; trình bày các sáng kiến địa phương, một buổi hòa nhạc, một cuộc gặp với Hoàng tử Harry; tham gia một buổi thiền buổi sáng (tùy ý). Tác giả nhấn mạnh đến đề xuất này, ông mô tả là “thức tỉnh”, có phần ngây thơ và lạc lõng với các hoạt động kiểu Borg của các nhà lãnh đạo thế giới, những người chỉ quan tâm đến chiến thắng của chủ nghĩa tư bản vô độ và tàn bạo, nhưng không quan tâm đến dân chủ và công bằng xã hội.

Quyển sách rất hấp dẫn, và những lời phê bình đã ngắm đúng mục tiêu, nhưng bài phân tích có thể bị cường điệu hóa, khi những người như tôi đã chứng kiến rất nhiều dự án kinh tế và văn hóa trên thực địa được thực hiện bởi các bên liên quan quan tâm đến việc nuôi dưỡng gắn kết và đoàn kết lãnh thổ: những sáng kiến đa dạng này chỉ là muối bỏ bể so với làn sóng phản sinh thái và xã hội, nhưng dù sao sáng kiến này củng cố năng lực và sức mạnh để chúng ta cùng hành động, chính xác hơn, chúng đòi hỏi sự phối hợp tốt hơn của chính phủ để tạo điều kiện cho việc mở rộng quy mô. Hơn nữa, việc cố gắng tách rời hành động chính trị khỏi bất kỳ tham chiếu tâm linh nào, như các nhà khoa học chính trị dường như đang làm, cũng là một hoạt động đáng ngờ.

Những cuộc đấu tranh cho tự do và công lý do Gandhi và Ambedkar ở Ấn Độ, Mandela và Desmond Tutu ở Nam Phi, Vaclav Havel và Lech Walesa ở Đông Âu, Aimé Césaire và Léopold Sédar Senghor, Jean Moulin và Simone Weil lãnh đạo, tất cả đều nhờ đức tin mạnh mẽ và chiều sâu nội tâm của những người truyền cảm hứng cho họ. Thiền định có thể bị cho là phương pháp phát triển cá nhân vị kỷ; nó có thể bị lợi dụng, hời hợt và xuyên tạc. Nhưng ngoài những nghiên cứu cho thấy lợi ích của thiền và các phương pháp giúp kết nối với bản thân và thiên nhiên đối với sức khỏe tâm thần, vốn tự nó đã là một luận cứ cho một công việc tốt, nhưng chúng ta phải nhận ra xã hội chúng ta đang chết dần chết mòn vì thiếu một linh đạo sâu sắc và chân chính, một con đường tâm linh mà tu sĩ Dòng Tên Benjamin Buelta mô tả là “sự huyền bí của đôi mắt mở”, một tâm linh không dung túng cho đau khổ và bất công, nhận ra giới hạn của năng lực hành động cá nhân, khai thác nguồn lực bên trong để tiếp tục, ngày này qua ngày khác, cuộc chiến hàng ngày nhằm kết nối sự sáng suốt và hy vọng. Vì vậy, hơn bao giờ hết, chúng ta nên thiền để nuôi dưỡng những cam kết chính trị của mình!

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Chung quanh Đức Lêô là ai?

Chung quanh Đức Lêô là ai?

fr.aleteia.org, Anna Kurian, 2025-10-25

Hình ảnh: Alberto Pizzoli

Kín đáo là một trong những nét đặc trưng của nhân cách Đức Lêô. Sáu tháng sau khi được bầu làm Giáo hoàng, một kín đáo nào đó vẫn còn tiếp tục trong vòng thân cận và sổ địa chỉ cá nhân của ngài. Trang Aleteia giới thiệu các nhân vật nổi tiếng trong mối quan hệ tin cậy này.

Nhiều người hiếu kỳ muốn biết ngài thân thiết với ai. Trong gia đình, ngài rất thân với anh John Prevost, hơn ngài một tuổi, hiện sống ở Mỹ. Trong một phỏng vấn tháng 8 năm ngoái, ông cho biết ông giữ liên lạc hàng ngày với ngài, hai anh em tiếp tục chơi ô chữ trực tuyến Wordle Words With Friends. Ông cho biết ngài dự định thường xuyên về nghĩ ở Dinh Castel Gandolfo.

Trong gia đình thiêng liêng Augustinô của ngài, Đức Lêô giữ quan hệ chặt chẽ với linh mục Tây Ban Nha Alejandro Moral Anton, kế nhiệm ngài đứng đầu Dòng Augustinô năm 2013. Linh mục tâm sự: “Giữa chúng tôi có lòng tin tưởng lớn lao, chúng tôi giữ tình bạn lâu dài. Robert là người rất tôn trọng. Bên tách cà phê, chúng tôi có thể thảo luận thoải mái với ngài mọi chủ đề.” Ngài thân thiết với tân Bề trên Tổng quyền Dòng Augustinô Joseph Farrell.

Nhà báo Mỹ Christopher White, 62 tuổi, kể trong quyển tiểu sử ông viết về Đức Lêô: “Một ngày sau cuộc bầu cử, tôi viết cho ngài trên WhatsApp hỏi ngài yêu thích đội bóng chày nào – Cubs hay White Sox? Ngài gởi tin nhắn trả lời ngay lập tức: Sox”.

Tại Vatican, tình bạn giữa ngài và Cha Manuel Dorantes, giám đốc Borgo Laudato Si ở Castel Gandolfo rất thân thiết. Giống như ngài, linh mục Tổng giáo phận Chicago di cư từ Mêxicô qua Hoa Kỳ năm 11 tuổi, có bằng quản lý, được Đức Phanxicô bổ nhiệm vào vị trí này vài tháng trước khi ngài qua đời. Kể từ khi được bầu, Đức Lêô quan tâm và ủng hộ Trung tâm sinh thái do người đồng hương của ngài điều hành, ngài đã làm lễ khánh thành và đến thăm nhiều lần.

Hai thư ký của Giáo hoàng

Đức Lêô có hai thư ký riêng hỗ trợ công việc hàng ngày của ngài. Người đầu tiên là linh mục Peru Edgard Iván Rimaycuna Inga, 36 tuổi. Linh mục đến từ Giáo phận Chiclayo (giáo phận Đức Lêô điều hành từ năm 2015 đến năm 2023) Linh mục cộng tác với Đức Lêô cho đến năm 2017, sau đó linh mục về Rôma học tại Giáo hoàng Học viện Kinh Thánh. Khi Tổng Giám mục Prevost lãnh đạo Bộ Giám mục năm 2023, ngài đưa linh mục trẻ về làm việc với ngài.

Gần đây, ngài có một thư ký thứ hai: linh mục Marco Billeri, 41 tuổi, luật sư giáo luật của Giáo phận San Miniato, Tuscany, nước Ý, linh mục là thẩm phán giáo hội và linh mục quản xứ. Linh mục rất thận trọng, theo tinh thần của Đức Lêô: “Càng ít nói càng tốt.”

Sự ủng hộ của Đức Lêô dành cho hai nhà báo

Đức Lêô duy trì mối quan hệ tin cậy với một số nhà báo. Trong các nhà báo này, nổi bật là Paola Ugaz, người Peru, đã điều tra phong trào Sodalicio, vạch trần những vụ bê bối lạm dụng và tham nhũng nghiêm trọng dù bầu khí rất thù địch. Bà tâm sự: “Năm 2019, tôi là nhà báo bị truy tố nhiều nhất ở Peru, một danh hiệu đáng buồn. Tôi là mục tiêu của những lời dối trá, quấy rối trực tuyến và đe dọa giết người… Đức Robert Prevost và các Giám mục Peru đã hỗ trợ tôi rất nhiều. Không chỉ qua tình bạn của ngài, ngài còn giúp tôi gặp Đức Phanxicô nhiều lần để cảnh báo về tình hình. Cùng với Paola Ugaz, Elise Ann Allen, phóng viên người Mỹ của trang web Công giáo Crux ở Rôma cũng bị điều tra. Cả hai đều nằm trong số các nhà báo được Đức Lêô đích thân chào đón trong buổi tiếp kiến dành cho báo chí ngày 12 tháng 5.”

Sau đó, ngài dành cuộc phỏng vấn chính thức đầu tiên cho bà Elise Ann Allen, bà đã gặp ngài ba giờ tại Dinh mùa hè Castel Gandolfo.

Trong hàng ngũ Hồng y đoàn

Trong Giáo hội Hoa Kỳ, có ba Hồng y được các quan sát viên cho là gần gũi với Đức Lêô. Đầu tiên là Hồng y Joseph Tobin, Tổng Giám mục Newark, ngài được phái đoàn hành hương Chính thống giáo và Công giáo Hoa Kỳ đón tiếp. Người thứ nhì là Tổng Giám mục Chicago Blaise Cupich. Người thứ ba là Hồng y Sean O’Malley, cựu Tổng Giám mục Boston, nhân vật hàng đầu trong cuộc chiến chống lạm dụng.

Về phía Giáo hội Pháp, Hồng y Jean-Marc Aveline, Tổng Giám mục Marseille là tiếng nói quan trọng của Đức Lêô. Chuyến đi gần đây của Đức Lêô đến Ostia để gặp thủy thủ đoàn của Bel Espoir, con tàu của Tổng Giáo phận Marseille hạ thủy là dấu hiệu cho thấy điều này. Một nguồn tin Rôma cho biết: “Ngài rất quý trọng Hồng y Aveline. Hai ngài quen biết nhau khi Hồng y Prévost còn làm việc ở Bộ Giám mục.”

Tuy nhiên theo chuyên gia này: “Đức Lêô vẫn là một ẩn số, ngài không tiết lộ sở thích của ngài. Ngài thận trọng và tôn trọng, tử tế với tất cả mọi người. Cho đến nay, ngài bổ nhiệm quá ít người để chúng ta có thể nhìn thấy sự việc rõ ràng hơn.” Việc lựa chọn người kế nhiệm ngài làm người đứng đầu Bộ Giám mục là một điều bất ngờ. Một số hồng y đã được đề cập, nhưng cuối cùng ngài chọn Đức ông người Ý Filippo Iannone, một luật sư giáo luật và là thành viên cấp cao của Giáo triều, để đảm nhiệm vị trí chiến lược này.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Lêô XIV thực sự là ai?

Chung quanh Đức Lêô là ai?

Xã hội chúng ta đang chết dần chết mòn vì thiếu một đời sống tâm linh đích thực

Đức Lêô XIV thực sự là ai?

Đức Lêô XIV thực sự là ai?
belgicatho.be, Andrea Gagliarducci, 2025-10-27
Ngày thứ năm 23 tháng 10, trước các thành viên tham dự Hội nghị Thế giới các Phong trào Bình dân, qua đó họ đã làm sáng tỏ một câu hỏi trọng tâm: Đức Lêô XIV thực sự là ai?
Đây là câu hỏi gần như ai cũng đặt ra, kể cả những câu hỏi nhỏ nhất kể từ khi Giáo hoàng còn rất trẻ bắt đầu triều của ngài, có thể nói các phát biểu của ngài trong thời gian này đã làm cho ngài giống người tiền nhiệm gây nhiều tranh cãi của ngài.
Bài phát biểu trước các Phong trào bình dân này làm chúng ta nhớ bài phát biểu của Đức Phanxicô trong nhiều khía cạnh. Tất cả các điểm mạnh của Đức Phanxicô đều được nhắc đến, từ ý tưởng sự việc được thấy rõ từ vùng ngoại vi hơn là từ trung tâm, đến sự ủng hộ các cuộc đấu tranh của các phong trào quần chúng về đất đai, nhà ở và việc làm, cho đến việc đi tìm giải pháp từ dưới lên của các phong trào quần chúng, vì các giải pháp không thể là đặc quyền của giới ưu tú.
Đây là lần thứ hai trong một tháng, ngài lặp lại lời của Đức Phanxicô. Lần đầu tiên là việc công bố Tông huấn Ngài đã yêu thương Dilexi Te, một lời khuyên với giọng điệu và cách tiếp cận đặc trưng của Đức Phanxicô, Đức Lêô cho thấy ngài kế thừa dự án của người tiền nhiệm, mọi thứ phải được điều chỉnh cho phù hợp với môi trường, khí hậu và nền giáo dục khác.
Tuy nhiên, trong bài phát biểu trước các phong trào quần chúng, các nhận xét là của Đức Lêô, hoặc ít nhất là của các biên tập viên trong hậu trường của ngài, họ trích dẫn từ Đức Phanxicô, vì thế chúng ta có thể cho rằng Đức Lêo đã chấp thuận hình thức và nội dung của bài viết.
Thực tế bài diễn văn gởi các phong trào bình dân vừa tiếp nối vừa mâu thuẫn với triều của Đức Lêô cho đến nay. Khi nói đến các phong trào bình dân, Đức Lêô nói đến một thế giới Nam Mỹ độc đáo, mà một số người tóm tắt là “Diễn đàn Xã hội được mang đến Vatican”. Ngài đã làm điều điều này từ góc nhìn của một Giám mục truyền giáo ở Nam Mỹ, nhưng ngài vẫn đón nhận cuộc đấu tranh này, nhìn lại văn hóa nguyên thủy của các dân tộc tham gia vào các phong trào bình dân.
Trong một thông điệp gởi đến Mạng lưới các Dân tộc Bản địa và các thần học gia Thần học Bản địa ngày 14 tháng 10, Đức Lêô khẳng định tầm quan trọng của các nền văn hóa nguyên thủy, nhưng ngài nhấn mạnh “mọi phân định về mặt lịch sử, xã hội, tâm lý hoặc phương pháp luận của chúng ta đều tìm thấy ý nghĩa tối hậu trong sứ mệnh tối cao là làm cho Chúa Giêsu Kitô được biết đến.” Không đề cập đến Chúa Kitô trong các bài diễn văn gởi các các phong trào bình dân, ngài liên tục tái khẳng định vị trí trọng tâm của Chúa Kitô trong các bài viết và nhận xét của ngài bên ngoài văn bản, chẳng hạn cuộc đối thoại của ngài với những người tham dự Năm Thánh của các Nhóm Thượng Hội đồng. Ngài đề cập đến văn minh tình yêu mà Chúa Giêsu mong muốn, nhưng văn minh tình yêu này mang một cấu trúc xã hội hơn là thực tế.
Bài phát biểu trước các phong trào quần chúng đã đánh thức những người đi tìm bằng mọi giá sự liên tục giữa Đức Phanxicô và Đức Lêô. Ngay lập tức, họ xem các nhận xét này là bằng chứng không thể chối cãi về sự liên tục hoàn hảo, và khẳng định những ai thấy có khác biệt giữa Đức Phanxicô và Đức Lêô XIV thì người đó đã nhầm. Nhưng những điểm không liên tục vẫn còn đó, trong các biểu tượng liên tục bị phủ nhận trong suốt triều Đức Phanxicô, từ chiếc áo mozzetta đỏ Đức Lêô mặc ngay ngày đầu tiên ngài ra ban-công Đền thờ Thánh Phêrô cho đến nghi lễ Nhà nước trong chuyến đi Dinh Quirinal của Tổng thống Cộng hòa Ý ngày 14 tháng 10. Tại Quirinal, Đức Lêô dùng danh hiệu Giáo chủ Ý. Trong quyển sách Lêo XIV: Công dân Thế giới, Nhà truyền giáo Thế kỷ 21, ngài đã đưa ra một định nghĩa khác về tính công đồng, điều này cho thấy ngài không có ý định áp dụng tất cả các cấu trúc và kế hoạch Đức Phanxicô đã đặt ra liên quan đến các vấn đề công đồng.
Vậy Đức Lêo XIV thực sự là ai?
Ngài có phải là Giáo hoàng phương Tây, am hiểu các biểu tượng và sống giáo lý của Giáo hội theo truyền thống không? Hay ngài là người kế nhiệm Đức Phanxicô, chịu ảnh hưởng phần nào từ kinh nghiệm của ngài trong vai trò Giám mục truyền giáo ở Châu Mỹ la-tinh mà ngài hoàn toàn hiểu rõ các chủ đề và vấn đề của họ?
Đức Lêô có phải là Giáo hoàng đặt Chúa Kitô vào trọng tâm, hay một vị tái khẳng định sự ủng hộ của mình với các phong trào quần chúng mà không nhắc đến Chúa Kitô không?
Ở đây, chúng ta cần phải nói thêm một chút. Vào đầu triều, Đức Phanxicô kế thừa truyền thống, theo đó, tại mỗi cuộc gặp với các Giám mục trong các chuyến đi ad limina, Giáo hoàng đều có bài phát biểu, thường do Phủ Quốc vụ khanh soạn thảo. Năm 2015, trong chuyến đi ad limina của các Giám mục Đức, Đức Phanxicô đã có bài phát biểu được soạn sẵn và theo thông lệ bài phát biểu được Văn phòng Báo chí Tòa thánh công bố. Bài phát biểu này công kích gay gắt Giáo hội Đức, đặc biệt nhấn mạnh đến việc mất mát tín hữu. Đức Phanxicô không muốn tấn công trực diện Giáo hội Đức. Bản thân tiến trình công nghị 2021-2024, phần lớn đã cấu thành phản ứng của ngài với Đường lối Công nghị của Dân Chúa tại Đức. Đức Phanxicô có lẽ đã nghĩ việc đặt Giáo hội vào trạng thái công nghị thường trực sẽ làm giảm bớt những động lực tiến bộ của Đức.
Ngài đã sai
Tuy nhiên, tình hình này đã làm cho Đức Phanxicô đã phải bỏ qua việc chuẩn bị các bài phát biểu của ngài. Ngài chỉ tổ chức các cuộc họp kín với các Giám mục, nói chuyện với tất cả mọi người, do đó tránh các văn bản viết bên ngoài vòng tín hữu của ngài, có thể phản bội lại tư tưởng của ngài. Đức Lêô XIV vẫn tiếp tục – cho đến ngày nay – làm việc với cấu trúc đã có từ trước, với các bóng tối như Đức Phanxicô, với một thế giới ngày nay không muốn lùi bước, vì bất kỳ bước lùi nào cũng đồng nghĩa với việc cắt xén, thậm chí là phản bội, công trình mà ngài đã thúc đẩy.
Đức Lêô XIV vẫn chưa có đội ngũ biên tập viên riêng. Ngài thực sự chưa có. Đối diện với quá nhiều vấn đề, ngài dễ dàng hài lòng với một văn bản đã viết sẵn, dù được hay không được xác minh hoặc chỉnh sửa trước.
Câu hỏi ban đầu vẫn còn đó: Đức Lêô XIV thực sự là ai? Các quyết định của chính phủ vẫn chưa định nghĩa ngài – mới chỉ có Giám mục Filippo Iannone được bổ nhiệm làm người kế nhiệm ngài đứng đầu Bộ Giám mục – trong khi tuần trăng mật với giới truyền thông dường như bị ảnh hưởng mỗi khi ngài phát biểu một cách ngẫu hứng.
Đức Lêô là Giáo hoàng của thế hệ mới, nhưng đôi khi ngài lại suy nghĩ giống như người thế hệ cũ. Ngài sẽ làm gì để có đội ngũ riêng, kể cả những người viết diễn văn cho ngài?
Đó chính là câu hỏi.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

“Tôi nghĩ ngài đã hiểu”: Đức Lêô gặp Hiệp hội nạn nhân bạo lực tình dục

“Tôi nghĩ ngài đã hiểu”: Đức Lêô gặp Hiệp hội nạn nhân bạo lực tình dục

20minutes.fr, Ban Biên tập, 2025-10-21

Ngày thứ hai 20 tháng 10, Đức Lêô đã có cuộc gặp “tự do và cởi mở” với một Hiệp hội nạn nhân bạo lực tình dục.

Theo tin tức của ông Tim Law, đồng sáng lập và thành viên Hội đồng quản trị “Chấm dứt Lạm dụng của hàng Giáo sĩ” (ECA), ngày thứ hai Đức Lêô đã có cuộc gặp với Hiệp hội, đây là bước khởi đầu đầy hứa hẹn: “Mục tiêu của chúng tôi là thiết lập mối quan hệ với ngài và đạt được cam kết cho các cuộc thảo luận đang diễn ra.” Hiệp hội quốc tế có trụ sở tại Hoa Kỳ.

Không khoan nhượng

Cuộc họp, ban đầu dự kiến kéo dài 20 phút nhưng đã kéo dài một giờ, có sự tham dự của đại diện các nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng từ hơn 30 quốc gia.

Họ xin ngài mở rộng quy tắc “không khoan nhượng” với lạm dụng tình dục đang có hiệu lực tại Hoa Kỳ ra toàn thế giới.

Theo hiến chương của các Giám mục Hoa Kỳ, linh mục hoặc phó tế Công giáo sẽ bị cách chức vĩnh viễn khi hành vi lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên của họ được xác minh hoặc thừa nhận. Việc này rất khó khăn, vì có sự phản đối mạnh mẽ  với một luật phổ quát ở một số khu vực trên thế giới.

Giáo hoàng “cởi mở”

Ông Tim Law giải thích: “Mục tiêu của chúng tôi là cùng thảo luận với các Bộ và Ủy ban đang tranh luận về những vấn đề này để xác định nơi nào có phản đối. Chúng ta có thể làm gì để khắc phục và cần tham gia vào cuộc thảo luận. Đức Lêô cởi mở với ý tưởng này.”

Hội đồng Giám mục Châu Âu (ECA) đã viết thư cho Giáo hoàng ngay sau khi ngài đắc cử vào tháng 5 để xin gặp ngài, điều mà ông Tim Law cho rằng là “lịch sử”: “Chúng tôi đã từng viết thư cho các giáo hoàng trước đây, vì vậy việc ngài hồi âm là điều đáng kinh ngạc.”

Các cuộc thảo luận cũng tập trung vào báo cáo của Ủy ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên được công bố tuần trước, trong đó nhấn mạnh, cùng với những vấn đề khác, “sự phản kháng về mặt văn hóa” trong Giáo hội Công giáo đang cản trở cuộc chiến chống bạo lực ở nhiều giáo phận trên thế giới.

Ông Tim Law lưu ý: “Các nạn nhân trong nhóm chúng tôi cho biết ngài đã có những lời lẽ tốt đẹp, nhưng chưa có hành động. Ngài gật đầu, như thể ngài đồng ý. Tôi không muốn gán ghép lời nói cho ngài, nhưng tôi nghĩ ngài đã hiểu.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Lần đầu tiên Đức Lêô XIV tiếp một tổ chức quốc tế nạn nhân các vụ lạm dụng

 Đức Lêô tiếp một một nhóm nạn nhân bị lạm dụng: “Chúng tôi được lắng nghe và được nâng đỡ”

Bài mới nhất