Home Blog Page 823

Á châu có phải là giai đoạn kế tiếp trong việc cải cách của Đức Phanxicô không?

Á châu có phải là giai đoạn kế tiếp trong việc cải cách của Đức Phanxicô không?

international.la-croix, Michael Sainsbury, 2019-11-19

Hình: Đức Phanxicô đến thủ đô Bangkok ngày thứ tư 20 tháng 11-2019

Đức Phanxicô đã chọn khu vực Amazon để thử nghiệm các động thái như phong chức cho các ông đã lập gia đình, chuyến đi của ngài đến châu Á có phải là bước khởi đầu mới cho việc cải cách giáo hội không?

Cụ thể, đa số các giám mục tham dự Thượng hội đồng Amazon đều chấp nhận phong chức cho các ông đã lập gia đình trong các hoàn cảnh đặc biệt ở các vùng xa xôi, khi có một số tín hữu mong muốn được dự thánh lễ và nhận Mình Thánh Chúa mà họ không có các linh mục đến dâng thánh lễ trong nhiều tháng, thậm chí có khi nhiều năm.

Ở đây chúng ta có thể hiểu vấn đề cơ bản của việc hạn chế hàng giáo sĩ phải là linh mục độc thân. Mục đích chính của kitô giáo là mang Chúa Kitô đến thông qua công việc mục vụ của hàng giáo sĩ và việc lãnh nhận bí tích. Khi giới hạn công việc mục vụ cho nam tu sĩ độc thân, Giáo hội đã hạn chế chính khả năng của mình để hoàn tất các việc này như Giáo hội mong muốn. Các chỉ trích gay gắt thậm chí cho rằng đây là dị giáo, nhưng đây là loại thảm kịch của những người bảo thủ, vì thế chúng ta không nên đến đó.

Chúng ta cần theo dõi nơi Đức Phanxicô đang đi để hiểu rõ ràng các ý tưởng của ngài “triệt để” như thế nào. Vì thế chúng ta cần suy nghĩ điều này: lần cuối cùng một thượng hội đồng nghiên cứu vấn đề chịu chức của các ông đã lập gia đình là năm 1971, thượng hội đồng thứ ba của Đức Phaolô-VI. Trước sự rụng rời của những người cấp tiến – và của những người lo lắng về số lượng đã suy giảm của chức tư tế -, Đức Phaolô-VI đã tái khẳng định tình trạng độc thân linh mục năm 1967.

Năm 1970, một nhóm các học giả công giáo cao cấp, trong số đó có hồng y Joseph Ratzinger, sau này là Giáo hoàng Bênêđictô, đã viết cho Đức Phaolô-VI:

“Chúng tôi ký tên dưới đây, những người thông qua sự tin tưởng của các giám mục Đức, cảm thấy buộc phải đệ trình các cân nhắc sau đây cho các giám mục Đức.”

“Các suy tư của chúng tôi liên quan đến sự cần thiết cần phải xem xét lại khẩn cấp và một cái nhìn sáng suốt về luật độc thân của Giáo hội la-tinh đối với nước Đức và toàn thể Giáo hội…”

Nhưng thượng hội đồng năm 1971 đã ủng hộ giáo hoàng về luật độc thân, dù có một thiểu số đáng kể chống lại ngài, và vấn đề vẫn còn nằm yên trong 48 năm cho đến khi Đức Phanxicô đặt lại vấn đề.

Tài liệu cuối cùng của Thượng hội đồng Amazon cho thấy có nhiều người trong vùng đã gặp “khó khăn vô cùng” để gặp một linh mục, để dự một thánh lễ và rước lễ.

Đề nghị cuối cùng là “phong chức các ông được cộng đoàn tín nhiệm” và đã có kinh nghiệm phong phú trong cương vị phó tế và nhận sự đào tạo chức thánh đầy đủ, đã có gia đình hợp pháp và ổn định.”

Đức Hồng y Michael Czerny tuyên bố: “Không một linh mục nào được phong chức mà không phải là phó tế, vì thế đề nghị này không phải là một “thay đổi lớn” trong Giáo hội.

Điều này sẽ được quyết định trong một tài liệu Đức Phanxicô sẽ đưa ra từ đây đến cuối năm. Theo trang chính thức của Vatican, “các kết luận này rất được tín hữu mong chờ, liệu có mở một con đường cho các linh mục được lập gia đình, hay ít nhất ở những vùng mà các giáo phái tin lành, giáo phái phúc âm càng ngày càng bành trướng không”.

Sự bành trướng của các giáo phái phúc âm

Rõ ràng Đức Phanxicô đã chọn vùng Amazon xa xôi để làm nơi thử nghiệm các cải cách có ý nghĩa rộng hơn đối với thế giới đang phát triển, nơi Giáo hội phát triển và thịnh vượng và ngài thấy đó là tương lai của Giáo hội. Điều này đặc biệt phù hợp với nước Ba Tây, quốc gia có nhiều người công giáo nhất, nhưng đức tin bị tấn công do các tín hữu kitô các giáo phái phúc âm mà số lượng của họ gia tăng nhanh chóng.

Bây giờ với sự gia tăng cũng của các giáo phái phúc âm, nơi các nhóm người công giáo sống ở các vùng xa cũng là một vấn đề lớn ở châu Á.

Ở Thái Lan, nơi Đức Phanxicô đến thăm trong những ngày sắp tới có bảy bộ lạc lớn miền núi. Có hàng ngàn người công giáo trong số các sắc dân thiểu số Hmong, Karen, Akha và Lisu. Các nhóm này và các nhóm dân tộc thiểu số khác trải rộng trên các vùng núi ở Đông Nam Á từ Ấn Độ đến Băng-la-đét, từ Miến Điện, Thái Lan, Lào đến Việt Nam cũng như miền Nam Trung quốc.

Người Hàn quốc cũng gởi các nhà truyền giáo đến Nam Á và Đông Nam Á. Bản báo cáo đầu năm của báo The Economist cho biết, các giáo phái phúc âm và ngũ tuần phát triển nhanh chóng ở châu Á hơn các vùng khác trên thế giới, với hơn 200 triệu người gia nhập năm 2015, so với năm 1970 chỉ có 17 triệu người.

Điều này phù hợp với lập luận của Đức Phanxicô về việc phong chức cho các ông đã lập gia đình.

Và cũng cần tự hỏi liệu xem Trung quốc có thể là một quốc gia mà người ta dự đoán sẽ có các linh mục lập gia đình hơn dự trù không. Ít nhất có hai giám mục mà Đức Phanxicô đưa trở lại với Tòa Thánh đã có gia đình. Với các ví dụ này, chắc chắn là có các linh mục khác, và có thể là các linh mục trên khắp nước Trung quốc có các thoả thuận gia đình “không quy ước”, không phù với bậc sống độc thân của linh mục.

Giáo hội Trung quốc khó tìm cho đủ số linh mục và giám mục, trong khi gần đây Đảng cộng sản nắm quyền đã cấm các trẻ vị thành niên tham dự thánh lễ, theo học các lớp Kinh Thánh và các sinh hoạt tôn giáo khác.

Như Đức Phanxicô đã lưu ý trong ngày khai mạc thượng hội đồng: “Nếu mọi thứ vẫn tiếp diễn, nếu chúng ta dành thời gian họp để nói rằng ‘mọi thứ luôn được thực hiện như vậy’, thì ơn sẽ biến mất, sẽ bị ngộp dưới đống tro bụi của sợ hãi, của lo lắng để bảo vệ nguyên trạng”.

Tất nhiên, một trong các trở ngại chính cho bất cứ một thay đổi nào, đó là chủ nghĩa giáo quyền lan tràn trong hầu hết các nước Á châu, nơi các nhà lãnh đạo tôn giáo – những người thích hào quang giả tạo và phô trương – xem mình là thành phần của giới tinh hoa chọn lọc và rùng mình hãi sợ khi nghĩ đến việc cho phép người nào “kém hơn” vào trong hàng ngũ của họ. Điều trớ trêu là chắc chắn những người như vậy sẽ là những người thua cuộc.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: “Tại Nhật, kitô giáo có một hình ảnh tích cực”

“Một thanh niên trẻ không thể nào về hưu lúc 20 tuổi!”

“Một thanh niên trẻ không thể nào về hưu lúc 20 tuổi!”

Ngỏ lời với các bạn trẻ trong đêm canh thức 20 tháng 11, Đức Phanxicô nhắn nhủ: “Một thanh niên trẻ không thể nào về hưu lúc 20 tuổi!”

fr.aleteia.org, 2019-11-21

Đức Phanxicô đang ở Bangkok, trong một sứ điệp gởi các bạn trẻ ngày 20 tháng 11-2019, Đức Phanxicô kêu gọi “các bạn trẻ khoan về hưu ở tuổi 20. Để có một hạnh phúc ‘phi thường’, các bạn trẻ phải dấn thân hết mình.” Tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh, Đức Phanxicô đã thâu một đoạn video ngắn gởi các bạn trẻ công giáo đang họp nhau cầu nguyện trong một buổi canh thức.

Ngài nói: “Cha biết đêm nay các con có buổi canh thức cầu nguyện. Các con có bạn đi, có bạn cầu nguyện. ‘Đi và cầu nguyện’, đó là hai chuyện rất đẹp mà chúng ta phải luôn thực hành. Một người trẻ không thể về hưu lúc 20 tuổi: họ phải luôn tiến bước đi tới. Chính khi dấn thân thì họ mới có được một hạnh phúc ‘phi thường’”.

Đức Phanxicô xin các bạn trẻ: “Các con sống đời của mình, xây dựng đời của mình, hành động và đi tới”.

Ngài khuyến khích: “Các con sẽ có thể buồn vì mình té hoài, nhưng điều này không quan trọng. Quan trọng là các còn “đừng nằm bẹp dưới đất. Sau khi té, các con đứng dậy ngay lập tức và để người khác giúp mình, nâng mình dậy”.

Đức Phanxicô nhắc các bạn trẻ: “Để đi, các con cần có một tấm lòng mở ra với Thiên Chúa: chỉ có một mình Ngài là Đấng cho các con sức mạnh để không ngừng lại”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Thái Lan: Đức Giáo hoàng mong muốn gần với phật tử

Tại Thái Lan, Đức Phanxicô kêu gọi chống “nạn nô lệ tình dục”

Đức Phanxicô gặp các Giáo hội Á châu tại Thái Lan

Hình ảnh các bạn trẻ ở Tòa Sứ Thần Tòa Thánh Bangkok ngày 20 tháng 11-2019

“Ngôi nhà Abraham”, dự án chưa từng có của ba tôn giáo đơn thần

“Ngôi nhà Abraham”, dự án chưa từng có của ba tôn giáo đơn thần
fr.aleteia.org, Arthur Herlin, Rôma, 2019-11-16
Đức Phanxicô gặp Đại giáo sĩ Imam al-Tayeb ngày 15 tháng 11 tại Dinh Tông tòa Vatican.
Ngày 15 tháng 11, Đại giáo sĩ Imam al-Tayeb, thuộc Giáo hội Al Azhar Ai cập, khi thăm viếng Vatican đã giới thiệu với Đức Phanxicô dựa án chưa từng có được đặt tên là “Ngôi nhà Abraham.”
Công trình dự trù xây dựng ở Tiểu Vương quốc Ả-Rập Thống nhất cùng trên một địa điểm ba nhà thờ, một nhà thờ công giáo, một nguyện đường hồi giáo và một nguyện đường do thái giáo. Phối hợp ba tôn giáo đơn thần, cổ động cho tình huynh đệ nhân loại.
Chín tháng sau khi gặp ở Abou Dabi để ký một tài liệu kêu gọi tình huynh đệ giữa các tôn giáo, Đức Phanxicô và Đại giáo sĩ Imam al-Tayeb lại gặp nhau thêm một lần nữa tại Vatican. Đức Phanxicô đã tiếp đại giáo sĩ cùng với phái đoàn gồm có phó Thủ tướng Tiểu Vương quốc Ả-Rập Thống nhất Saif Bin Zayeb ở Dinh Tông Tòa. Sau nghi thức trao đổi nồng hậu, Đại giáo sĩ đã giới thiệu với Đức Phanxicô một dự án chưa từng có ở bán đảo Ả rập: một khu phức hợp liên tôn giáo theo kiến trúc hiện đại sẽ được xây ở  Sadiyaat. Dự án được công bố trong chuyến thăm lịch sử của Đức Phanxicô ở Tiểu Vương quốc Ả-Rập Thống nhất và bây giờ được hình thành. Sau khi hoàn thành, công trình này sẽ là một nơi độc đáo trong bán đảo Ả rập.
Được đặt tên là “Ngôi nhà Abraham”, nơi tập hợp một nhà thờ, một nguyện đường hồi giáo và một nguyện đường do thái giáo. Các tòa nhà mang một phong cách rất thanh thoát và kiến trúc hình khối. Cả ba tôn giáo đơn thần sẽ có một hội đồng thường trực của “tình huynh đệ nhân loại” nhằm cổ động tài liệu được Đức Giáo hoàng và Đại giáo sĩ ký cho các tôn giáo khác.
Sau khi trình bày các kế hoạch kỹ thuật số của kiến trúc, Đại giáo sĩ Ahmed al-Tayeb đã trao cho Đức Phanxicô một quả cầu gốm trên đó là hình ảnh một phụ nữ trên lưng con lạc đà. Theo cách nói đùa, giáo sĩ nói đây là hình ảnh tượng trưng cho người đàn ông phục vụ phụ nữ. Đức Giáo hoàng đã cười ra dấu tán thành và tặng lại giáo sĩ bức khắc cây ô-liu kèm theo một con chim bồ câu. Ngài tuyên bố: “Đây là biểu tượng của hòa bình và chúng ta phải làm việc theo đường hướng này.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

“Nếu chúng ta áp dụng sứ điệp của Đức Phanxicô thì nước Thái Lan sẽ thay đổi”

“Nếu chúng ta áp dụng sứ điệp của Đức Phanxicô thì nước Thái Lan sẽ thay đổi”

Chứng từ của nữ tu Eudoxie Ngongo (giữa), người Công-gô, phó Tỉnh Dòng Xaviê Đức Bà Truyền giáo ở một giáo xứ ngoại vi thủ đô Bangkok.

fr.zenit.org, Anita Bourdin, 2019-11-19

Đức Phanxicô thăm bệnh viện Thánh Lu-i tại thủ đô Bangkok ngày thứ năm 21-11-2019

Nữ tu Eudoxie Ngongo khẳng định: “Nếu người công giáo cũng như người hồi giáo, người phật tử đều nghe sứ điệp của Đức Phanxicô và đem ra áp dụng thì nước Thái Lan sẽ không còn như cũ.”

Trong cuộc phỏng vấn của Vatican News ngày 20 tháng 11-2019, nữ tu Ngongo nói về đối thoại liên tôn giáo và công việc của các nhà truyền giáo.

Nữ tu cho biết: “Thật giống như Thánh Phêrô đến với chúng tôi, chúng tôi thật sự xúc động y như các tín hữu kitô đầu tiên khi họ được các thánh tông đồ đến thăm”.

Nữ tu kể: “Dù nóng nực, dù đường dài đến phi trường nhưng rất nhiều người kể cả trẻ con, người lớn tuổi đều kiên nhẫn đứng chờ Đức Phanxicô. Họ hét vang: ‘Hoan hô Đức Giáo hoàng! Hoan hô Đức Giáo hoàng!’ Thật xúc động không tả được.”

Nữ tu giải thích: “Ở Thái Lan Phật giáo chiếm 90% dân số nên đối thoại liên tôn giáo bắt đầu từ gia đình, nơi phật tử và người công giáo trở lại sống chung với nhau. Trong ca đoàn sẽ hát lễ ngày mai có cả phật tử, tin lành và người vô thần cùng hát. Cùng sống chung không là vấn đề và đối thoại liên tôn được cụ thể hóa qua việc đón tiếp Đức Giáo hoàng.”

Sơ xác nhận: “Ở một đất nước mà người công giáo chỉ có 1% nhưng Giáo hội rất năng động. Ở Bangkok, chúng tôi thấy rõ Giáo hội công giáo sinh động. Các nhà dòng địa phương quản trị các các trường to lớn, nơi đa số học sinh là phật tử, học sinh công giáo chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Nhưng sứ điệp kitô cũng được truyền tải, chẳng hạn trước khi bắt đầu vào lớp, các học sinh cầu nguyện. Các cha mẹ muốn gởi con mình vào trường công giáo vì họ biết các trường này nghiêm túc.”

Ở thủ đô Bangkok, Giáo hội có mặt ở các khu phố ổ chuột để mang lại tương lai cho những người sống ở đó, nhất là cho trẻ em.

Sơ Ngongo ghi nhận: “Chúng tôi xây dựng các trường học, các trung tâm y tế, còn các nhóm Caritas địa phương thì đi thăm người nghèo và người bệnh. Các nữ tu chúng tôi cũng làm việc với các bà mẹ phật tử ở các khu phố ổ chuột để giúp họ chăm sóc con cái cho họ.”

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc thêm: Thái Lan: Các nữ tu là “hình ảnh tình mẫu tử của Chúa”

Tại Thái Lan, Đức Phanxicô gặp nhiều khuôn mặt của Giáo hội công giáo

 

Thái Lan: Các nữ tu là “hình ảnh tình mẫu tử của Chúa”

Thái Lan: Các nữ tu là “hình ảnh tình mẫu tử của Chúa”

cath.ch, 2019-11-21

Ngày thứ năm 21 tháng 11, khi đi thăm bệnh viện Thánh Lu-i tại thủ đô Bangkok, Đức Phanxicô đã vinh danh các nữ tu làm việc tại đây, các sơ cho thấy “hình ảnh tình mẫu tử của Chúa”.

Trên đường đến bệnh viện có một pa-nô khổng lồ có hình của ngài, Đức Phanxicô được đám đông đứng hai bên lề đường chào ngài, nhiều hơn là các lần di chuyển trước. Nữ tu Ana Rosa Sivori, em họ ngài luôn ở bên cạnh ngài để thông dịch. Hiện diện tại đây có ít nhất 900 giáo dân Việt Nam, có vào khoảng 4500 giáo dân Việt Nam đến Thái Lan để gặp ngài.

Tại chỗ, Đức Hồng y Francis Xavier Kriengsak Kovitvanit, giáo phận Bangkok và giám đốc bệnh viện đứng chờ Đức Phanxicô. Nữ tu đảm trách nhân viên bệnh viện trong đồng phục y tá tặng hoa cho ngài. Sau đó ngài được đưa đến Thính phòng, tại đây có vào khoảng 700 nhân viên bệnh viện, các bác sĩ, y tá, các nhân viên phục vụ khác mặc đồng phục trắng và xanh, với mũ đội trên đầu đang chờ ngài.

Một biểu tượng của “Giáo hội đi ra”

Trong bài diễn văn của mình, Đức Phanxicô khen ngợi: “Thật là một hạnh phúc được tận mắt nhìn thấy công việc phục vụ quý giá mà Giáo hội làm cho người dân Thái Lan.” Đức Phanxicô đặc biệt “trìu mến” chào các nữ tu Dòng Chị em Thánh Phaolô thành Chartres, các nữ tu có phương châm của mình: “Nơi nào có đức ái, nơi đó có Chúa hiện diện” (Ubi caritas, Deus ibi est).

Và thật vậy, qua chứng từ của các nữ tu, các sơ cho thấy “khuôn mặt tình mẫu tử của Chúa đang nghiêng mình nâng các trẻ em dậy”. Đức Phanxicô nhiệt tình cám ơn: “Cha mong các sơ luôn làm nhiều hơn công việc tông đồ này, và tất cả các công việc tương tự khác, đây là dấu chỉ và biểu tượng của một Giáo hội đi ra, mong muốn sống sống sứ mạng của mình, quyết tâm mang tình yêu Chúa Kitô đến những người đau khổ và chữa lành cho họ”.

Công việc từ thiện chính xác là nơi người tín hữu kitô được gọi “không những để làm chứng” ơn gọi trong cương vị người môn đệ truyền giáo mà đặc biệt là “đối đầu” lời chứng của mình với lời chứng của các thể chế của họ. “Các sơ đã thực hiện một trong các công việc của lòng thương xót, vì sự dấn thân của các sơ trong lãnh vực y tế vượt lên việc săn sóc bình thường và xứng đáng của y tế.”

Đồng hành với người bệnh trong “đau khổ của họ”

Sau bài phát biểu, Đức Phanxicô đến các phòng bệnh để gặp các bệnh nhân và những người khuyết tật. Đức Phanxicô mong “cùng đồng hành với họ dù chỉ một chút trong đau khổ của họ”.

Bệnh viện Thánh Lu-i ở Bangkok là cơ sở y tế tư với mục đích không lợi nhuận, được Đức Tổng Giám mục Pháp Louis Vey xây năm 1898, mới đầu do các nữ tu Dòng Chị Em Thánh Phaolô thành Chartres điều hành, nhưng bây giờ được giao cho các bác sĩ chuyên gia cao điều hành, tuy nhiên các nữ tu vẫn còn làm việc tại đây.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Giáo xứ Pháp ngữ Bangkok chuẩn bị đón Đức Phanxicô“Một thanh niên trẻ không thể nào về hưu lúc 20 tuổi!”

Đức Phanxicô thăm bệnh viện thánh Lu-i, Bangkok 21-11-2019

Hình ảnh Đức Phanxicô thăm bệnh viện Thánh Lu-i

Thái Lan: Đức Giáo hoàng mong muốn gần với phật tử

Thái Lan: Đức Giáo hoàng mong muốn gần với phật tử

cath.ch, 2019-11-21

Sáng thứ năm 21 tháng 11, Đức Phanxicô đã gặp Đức Tăng Thống Somdej Para Mata Muneewong, ngỏ lời với Đức Tăng Thống, Đức Phanxicô mong muốn củng cố một “đối thoại cởi mở và tôn trọng” giữa hai tôn giáo. Đặc biệt ngài hy vọng tín hữu hai tôn giáo có các sáng kiến chung, mới và cụ thể về các công việc từ thiện.

Tại ngôi chùa Rajabophit trang trí lộng lẫy với mạ vàng và thảm đỏ, Đức Phanxicô đã bày tỏ lòng thành kính trước sự khoan dung của các phật tử và nói chung là của tất cả người dân Thái. Vì từ khi kitô giáo đến đất nước Thái Lan từ bốn thế kỷ rưỡi nay, dù người công giáo chỉ là nhóm thiểu số, nhưng họ được tự do giữ đạo. Ngài ca ngợi, “tín hữu công giáo và phật tử đã sống hòa thuận với nhau trong nhiều năm”. Bên ngoài chùa Rajabophit, hàng trăm giáo dân tay cầm tràng hạt và cờ Vatican đứng chờ Đức Phanxicô.

Ngồi trên chiếc ghế bành dưới bức tượng của Đức Phật, bên cạnh 20 vị tăng thống Phật giáo của Hội đồng tối cao tăng đoàn Sangha và phái đoàn đại diện công giáo, tất cả đều đi chân trần như phong tục của người phật tử khi đến các nơi thờ phượng, Đức Phanxicô khuyến khích hai tôn giáo theo đuổi con đường “tin tưởng lẫn nhau và sống trong tình huynh đệ” như họ đã thực hiện được.

Chiêm niệm chung

Đức Phanxicô cũng nói lên ước mong “củng cố đối thoại cởi mở và tôn trọng để “phục vụ cho hòa bình và lợi ích chung” của toàn dân tộc. Nhờ các trao đổi học thuật “để sự hiểu biết lẫn nhau ngày càng tăng và nhờ chiêm niệm, một truyền thống chung mà cả hai đạo đều có, chúng ta có thể lớn lên trong việc cùng sống gần nhau.”

Đặc biệt ngài hy vọng tín hữu hai tôn giáo có các sáng kiến chung, mới và cụ thể về các công việc từ thiện. Nhất là ngài mong muốn có các dự án cụ thể để giúp những người nghèo nhất, để “xây dựng căn nhà chung của chúng ta đã bị đối xử không tốt”. Đức Phanxicô tuyên bố: “Chúng ta sẽ hợp sức đóng góp để xây dựng một nền văn hóa của lòng trắc ẩn và gặp gỡ, ở đây cũng như các nơi khác trên thế giới”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Đức Phanxicô gặp các Giáo hội Á châu tại Thái Lan

Tại Thái Lan, Đức Phanxicô kêu gọi chống “nạn nô lệ tình dục”

Đức Phanxicô gặp Đức Tăng Thống Somdet Phra Maha Munivong tại chùa Rajabophit.

Đức Phanxicô gặp nữ tu Ana Rosa Sívori, em họ của ngài ở Thái Lan

Đức Phanxicô gặp nữ tu Ana Rosa Sívori, em họ của ngài ở Thái Lan

fr.aleteia.org, Dolors Massot, 2019-11-20

Nữ tu Ana Rosa Sívori, 77 tuổi sẽ thông dịch cho Đức Phanxicô trong thời gian ngài ở Thái Lan. Nữ tu Ana Rosa thuộc Dòng truyền giáo Salê đã ở Thái Lan từ năm 1966 là em họ bên ngoại của Đức Phanxicô.

Khi người nữ tu trẻ người Argentina Ana Rosa Sivori lên đường đi truyền giáo ở Thái Lan năm 1966, xơ không hình dung mình sẽ gặp anh họ của mình trong hoàn cảnh như thế này. Năm nay đã 77 tuổi, nữ tu Ana Rosa được chọn để thông dịch tiếng Thái cho Đức Phanxicô trong chuyến tông du Thái Lan của ngài.

Đã ở Thái Lan từ 50 năm nay, xơ vẫn tiếp tục viết thư cho người anh họ “Jorge” của mình. Xơ nói với hãng tin ANS: “Tôi thua anh Jorge năm tuổi. Anh là cậu bé chăm chỉ học và rất mê đá banh. Gia đình chúng tôi rất gần nhau và chúng tôi thường có các buổi gặp mặt gia đình.”

Người anh họ của nữ tu đi tu, làm linh mục, rồi giám mục, rồi hồng y còn xơ thì vẫn ở Thái Lan, xơ phụ trách giáo dục các nữ học sinh ở một trong các trường của Dòng Salê đảm trách. Dù luôn bận công việc, nhưng hai anh em họ Phanxicô và Ana Rosa không bao giờ ngưng liên lạc với nhau.

Trong thời gian chuẩn bị chuyến tông du của Đức Phanxicô đi Thái Lan và Nhật, xơ ngỏ ý xin anh họ để mình làm thông dịch tiếng Thái. Xơ cho biết: “Đức Phanxicô đã nói với các người trong ban tổ chức để tôi làm thông dịch trong chuyến đi Thái của ngài. với tôi, đây là cả một ngạc nhiên và niềm tự hào cho tôi”.

Với các bài dịch các bài diễn văn và các bài giảng, xơ sẽ được các giáo sư Tây Ban Nha và các tu sĩ của Đại học Chulalongkorn giúp.

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc thêm: Chuyến đi Thái Lan của Đức Phanxicô cũng là chuyến đi đoàn tụ gia đình

Video giới thiệu nữ tu Ana Rosa Sívori

Hình: Đức Phanxicô gặp em họ Ana Rosa Sívori của ngày ngày thứ tư 20 tháng 11 tại Bangkok.

 

 

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (2/8)

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (2/8)

Trích sách Quả tim thao thức, The restless heart, Ronald Rolheiser

Hướng đến hành động mạo hiểm hơn, yếu mềm hơn, cho người khác khoảng không gian tự do hơn, vui thú hơn, cống hiến cao cả hơn. 

2- Mềm yếu

Một trong những trở lực lớn nhất đối với tình mật thiết là khuynh hướng tin rằng người khác sẽ yêu chúng ta vì chúng ta hấp dẫn và mạnh mẽ. Vì thế, trong cuộc đời, chúng ta thường cố gắng gây ấn tượng với người khác để họ thích chúng ta hơn là cho họ thấy con người thật của chúng ta, mềm yếu, dịu dàng, và đáng yêu. Chúng ta luôn luôn cố gắng gây ấn tượng đặc biệt kỳ lạ để cho người khác phải yêu chúng ta.

Giống như dân thành Babel, chúng ta luôn luôn cố gắng xây các ngọn tháp càng ngày càng cao để áp đảo người khác, để họ phải yêu chúng ta. Việc chối từ không chấp nhận tính mềm yếu này, là một trong những nguyên do lớn nhất của cô đơn. Vì không chấp nhận chính mình mềm yếu, chúng ta thường không tận hưởng tình bằng hữu và mật thiết với người chung quanh, thay vào đó, chúng ta dùng tài năng, thành tựu, sức mạnh như vũ khí để chắn đỡ bản thân khi đối diện với người khác. Trong vòng thân thuộc gia đình, bạn bè chúng ta, tài năng, sức mạnh, sức hấp dẫn, thông minh, hóm hỉnh, quyến rũ, khả năng nghệ thuật cũng như cơ bắp, không còn là tặng vật đẹp đẽ làm phong phú cuộc sống như thiên chức định sẵn của chúng, thay vào đó chúng trở nên vũ khí của chiến tranh, đối tượng của ghen tỵ, và là mãnh lực tạo ra ghen tương, chia rẽ chúng ta với người khác. Trong cộng đoàn, gia đình, và bạn bè, chúng ta liên tục phô trương sức mạnh, tài năng và thành tựu của mình, như một cuộc diễn hành quân sự với đầy đủ vũ khí chiến tranh. Điều ngạc nhiên là khi đã làm xong, chúng ta lại tự hỏi tại sao kết cục, chúng ta bị xa lánh, và rồi mỗi người cứ mãi lảm nhảm loại ngôn ngữ lạ lẫm của riêng mình.

Chúng ta chỉ có được tình mật thiết và tình yêu khi không còn biểu dương tài năng và biết từ bỏ khuynh hướng xây tháp Babel mới. Chỉ khi đó, chỉ khi chúng ta trở nên mềm yếu và để cho người khác thấy được chúng ta cùng chia sẻ sự mong manh như họ, thấy được rằng sức mạnh, tài năng, và thành tựu của chúng ta không phải là những mối hại mà là tặng vật đẹp đẽ làm phong phú đời sống của họ, chỉ khi đó người khác mới đến với chúng ta trong tình bằng hữu và mật thiết đích thực. Trong biến chuyển để tránh “tha hóa”, một trong những điều đầu tiên mà chúng ta phải học là phải biết mạo hiểm để trở nên yếu mềm hơn.

Tuy nhiên, tính mềm yếu này không nên bị nhầm lẫn với yếu đuối. Yếu mềm thật sự không có nghĩa biến mình thành tấm thảm bị người khác dẫm lên, một người nhu nhược, không danh dự, lạc lối và để mọi người thấy rõ hết tất cả các lỗi lầm và yếu đuối của mình. Tính yếu mềm cũng không được nhầm lẫn với ý niệm “cứ khai ra hết” hay bất cứ dạng nào theo kiểu tự lột trần tâm lý. Đúng hơn, yếu mềm có nghĩa là đủ mạnh mẽ để biểu lộ chính con người thật của mình, với tất cả sức mạnh và yếu đuối, không thêm không bớt. Yếu mềm có nghĩa là đủ mạnh để có thể biểu lộ chính mình mà không cần những chống đỡ giả dối, không cần phô trương giả tạo về sự khả tín của chúng ta. Tóm lại, yếu mềm là đủ mạnh để chân thành và dịu dàng với người khác. Cũng như Chúa Giêsu, con người yếu mềm là con người quan tâm người khác đến mức để chính mình trở nên yếu chỉ vì lòng quan tâm đó mà thôi. Bất cứ lúc nào chúng ta cảm nhận thấy mình hụt hẫng vì thiếu tình mật thiết trong đời sống, bất cứ lúc nào chúng ta cảm thấy cuồng hoảng và tha hóa, chúng ta nên xem lại chúng ta có biết mềm yếu hay không. Có thể chúng ta đã không mềm yếu đủ để được yêu.

  1. Khoảng không gian tự do

Biến chuyển từ tha hóa đến hội nhập còn tùy thuộc mỗi người chúng ta có tạo được một “khoảng không gian tự do” trong các mối quan hệ của mình, một ý thức tự do dành cho người khác.

Như đã thấy, một trong những mối nguy của tâm trạng cô đơn là do chúng ta quá cô đơn, quá cần tình cảm đến tuyệt vọng, và rồi có xu hướng chiếm hữu quá đáng, đòi hỏi quá đáng trong các mối quan hệ của mình, làm cho người khác cảm thấy ngột ngạt do tính chiếm hữu và đòi hỏi của chúng ta. Tôi chắc rằng tất cả chúng ta đều có trải nghiệm về hai điều này. Ví dụ, trong các mối quan hệ thương yêu nhất của mình, tất cả chúng ta đều có ý hướng tự nhiên muốn chiếm hữu, ghen tỵ với người khác, đòi hỏi người khác một sự độc quyền quá mức là người đó chỉ được yêu thương chúng ta mà thôi. Ngược lại tất cả chúng ta đều có trải nghiệm sự chiếm hữu quá đáng từ người khác, những đòi hỏi quá mức về thời gian và độc quyền, những ghen tương, khó tính của người ta, những điều cho chúng ta cảm giác ngột ngạt.

Bởi vậy, trong các mối quan hệ, chúng ta cần tôn trọng tự do của người khác để tạo cho họ khoảng không gian tự do: một khoảng trời tự do ở đó họ cảm thấy mình được yêu mà không bị bóp nghẹt; một khoảng không gian tự do mà họ cảm thấy mình được tự do phát triển theo thiên hướng nội tại của mình.

Đây có lẽ là điều khó làm nhất trong bất kỳ mối quan hệ nào. Tâm hồn chúng ta tự động vươn ra cố để chiếm lấy những gì nó mong mỏi. Vấn đề nảy sinh là dù vui thích khi được yêu, nhưng lại không vui thích khi bị chiếm hữu. Có lẽ dấu ấn lớn nhất chứng minh sự trưởng thành chính là khả năng biết yêu thương người khác mà vẫn để họ được tự do thật sự. Chính điều đó, chứ không phải những hành động tình dục, mới tạo thành tình yêu cao cả. Một nhà hiền triết vô danh đã nói: “Nếu con yêu điều gì đó, hãy để nó tự do. Nếu nó quay lại, nó là của con. Nếu nó không quay lại, thì nó chưa từng và chẳng bao giờ là của con cả.” Thật đúng làm sao và cũng khó thực hiện làm sao!

Tuy nhiên, không nên nhầm lẫn tạo một khoảng không gian tự do cho người khác với việc tùy tiện và hờ hững trong quan hệ. Khoảng không gian tạo nên do lãnh đạm, tách biệt và xa cách đơn giản chỉ là khoảng không gian trống rỗng, không thể làm nền tảng cho tình yêu. Để người khác được tự do không có nghĩa là chúng ta không quan tâm. Chúng ta phải quan tâm, và quan tâm thật nhiều. Thật vậy, chính bởi vì chúng ta quan tâm thật nhiều, nên mới không áp đặt, xâm phạm lên tự do của người khác, tôn trọng đến mức chúng ta không quan tâm đến những đau đớn mà mình có thể phải chịu.

Có một ẩn dụ dễ thương mà chính xác đến kinh ngạc về những gì xảy đến trong một mối thân tình tốt đẹp. Một tình thân tốt đẹp có thể so sánh với hai con nhím trong cơn bão tuyết. Bất cứ lúc nào chúng ở quá xa nhau, chúng đều cảm thấy lạnh. Nhưng khi đến gần nhau quá, thì những chiếc gai của chúng sẽ làm tổn thương nhau. Chúng bắt buộc phải giữ một cân bằng rất tinh tế giữa khoảng cách và gần gũi.

Đời sống gia đình và cộng đoàn cũng đòi hỏi sự tinh tế này, một cân bằng khó đạt được. Chúng ta cần phải gần gũi nhau nếu không sẽ cảm thấy lạnh lẽo. Nhưng cũng không bao giờ nên gần nhau đến mức chiếm hữu quá đáng và bắt đầu bóp nghẹt tự do của người khác.

Thoát được tha hóa hay không tùy thuộc vào khả năng tạo cho người khác một khoảng không gian tự do, trong đó chúng ta có thể sống cách sáng tạo giữa áp lực gần gũi và giữ một khoảng cách cần thiết.

 

J.B. Thái Hòa dịch

Xin đọc thêm: Lời nói đầu sách Quả tim thao thức

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (1/8)

 

Đức Phanxicô gặp các Giáo hội Á châu tại Thái Lan

Đức Phanxicô gặp các Giáo hội Á châu tại Thái Lan

fr.zenit.org, Marina Droujinina, 2019-11-20

Các phái đoàn đại diện Việt Nam, Trung quốc, Ấn Độ, Phi Luật Tân đến Thái Lan gặp Đức Phanxicô

Ngày thứ tư 20 tháng 11, trang mạng của Hội Thừa sai Hải ngoại Paris cho biết, trong  chuyến tông du Thái Lan từ 20 đến 23 tháng 11, Đức Phanxicô sẽ gặp các đoàn đại diện các nước Việt Nam, Trung quốc, Ấn Độ, Phi Luật Tân, dự kiến có hàng chục ngàn người đến Thái Lan gặp ngài.

Theo Đức Hồng y Thái Lan François-Xavier Kriensak Kovitvanit, Thái Lan được chọn đóng vai trọng tâm trong vùng giúp anh chị em giáo dân các nước khác ở Đông Nam Á đến cùng chúng tôi để gặp giáo hoàng.

Từ đầu, Bangkok đã là căn cứ truyền giáo cho toàn vùng Á châu, nhất là các công việc truyền giáo ở Việt Nam và Trung quốc. Trang mạng của Hội cho biết: “Ngay cả ngày nay, trụ sở Hội Thừa sai Hải ngoại Paris tại Bangkok vẫn là nơi gặp gỡ, nơi chúng ta có thể gặp các linh mục làm việc trên toàn Đông Nam Á đến nghỉ ngơi hoặc giao lưu sau những ngày dài ở các vùng miền núi.”

Đối với các nhà truyền giáo và các cộng đoàn này, chuyến đi Thái Lan của Đức Phanxicô có một “giá trị biểu tượng.” Linh mục Miguel, giám đốc chủng viện Lux Mundi ở quận Sam Phran cho biết: “Biểu tượng đặc biệt vì Đức Phanxicô là giáo hoàng Dòng Tên đầu tiên, một Dòng có lịch sử đặc biệt trong việc truyền giáo ở Á châu.”

Sáng thứ sáu 22 tháng 11, Đức Phanxicô sẽ đến quận Sam Phran để gặp các gia đình công giáo và các giám mục Thái Lan ở nhà thờ Thánh Phêrô không xa chủng viện, chỉ cách thủ đô Bangkok hai mươi phút xe. Quận Sam Phran là thủ đô biểu tượng của hàng giáo sĩ Thái Lan. Ngoài nhà thờ và chủng viện, ở đây có đài tưởng niệm chân phước Nicholas Bunkerd Kitbamrung (1895-1944) chết vì bệnh lao trong tù và được Đức Gioan-Phaolô II phong chân phước ngày 5 tháng 3 năm 2000.

Ở Thái Lan, các nhà truyền giáo công giáo hoạt động chủ yếu trong lãnh vực giáo dục qua các trường học, trong khi giáo hội tin lành hoạt động trong lãnh vực y tế.

Hầu hết các linh mục trẻ Thái Lan được đào tạo ở đại chủng viện Lux Mundi, họ đến từ các tỉnh bang miền Bắc và gần như tất cả đều trở lại gần đây.

Ngược với người Việt Nam và Phi Luật Tân, người Thái Lan không bao giờ trở lại hàng loạt. Linh mục trẻ người Thái John Pattawee cho biết: “Đối với người Thái, đạo công giáo có quá nhiều bó buộc. Thánh lễ mỗi chúa nhật, cấm chuyện này, cấm chuyện kia… Điều này không tương hợp với văn hóa địa phương, một văn hóa rất tự do.” Ngoài các lý do lịch sử giải thích việc truyền giáo không thành công ở Thái, còn có thái độ của các nhà vua Thái khi đón tiếp các nhà truyền giáo, họ cấm các nhà truyền giáo không được giảng bằng tiếng Thái.

Với các nhà truyền giáo này cũng như với hàng giáo sĩ, việc Đức Phanxicô đến Thái Lan là một khích lệ lớn lao cho họ trong công việc khó khăn của họ”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Linh mục người Pháp Nicolas Lefébure bên cạnh người Karen ở Thái Lan

Giáo xứ Pháp ngữ Bangkok chuẩn bị đón Đức Phanxicô

Hình ảnh đồng bào công giáo Việt Nam sang Thái gặp Đức Phanxicô (Vietcatholic)

20191119_091406

Đức Phanxicô tại Tòa Sứ thần Tòa Thánh Bangkok ngày thứ tư 20 tháng 11-2019

Giáo xứ Pháp ngữ Bangkok chuẩn bị đón Đức Phanxicô

Giáo xứ Pháp ngữ Bangkok chuẩn bị đón Đức Phanxicô

lepetitjournal.com, Catherine Vanesse, 2019-11-19

Hình: Linh mục Nicolas Lefébure trong ngày kỷ niệm 350 năm thành lập Tòa Khâm sứ Xiêm tháng 5-2019.

Cộng đồng công giáo Thái Lan chuẩn bị đón Đức Phanxicô đến thăm đất nước vào ngày 20 đến 23 tháng 11, một chuyến viếng thăm tạo niềm vui lớn cho giáo xứ Pháp ngữ ở Bangkok.

Linh mục Nicolas Lefébure đã ở Thái Lan từ 14 năm nay, và 2 năm gần đây ngài làm việc ở Giáo xứ Pháp ngữ Bangkok do Hội Thừa sai Hải ngoại Paris đảm trách tại nhà nguyện Hiển Linh. Linh mục Nicolas Lefébure người gốc thành phố Rouen nước Pháp, ngài làm việc trong vòng 10 năm ở các cộng đồng thiểu số ở Mae Sot trước khi được chuyển đến Bangkok.

Hình: Linh mục Nicolas Lefébure cùng với người dân tộc Karen trong y phục truyền thống năm 2011.

Ngài nói với báo Lepetitjournal.com vài ngày trước chuyến đi của Đức Phanxicô: “Tôi sống 10 năm ở trong các làng không có điện, ngủ trong các căn nhà bằng gỗ. Ở thủ đô Bangkok, người nước ngoài làm việc trong các công ty quốc tế, đó là môi trường phát triển giáo dục trong một lãnh vực nhất định, sự cách biệt với các bộ lạc rất quan trọng, dù đức tin vẫn là vậy”.

Báo Lepetitjournal.com: Chuyến đi của Đức Phanxicô có ý nghĩa gì với tín hữu kitô?

Linh mục Nicolas: Mọi tín hữu kitô đều mong gặp Đức Giáo hoàng một lần trong đời, dù đó là Ngày Thế giới Trẻ, dù là chuyến hành hương về Rôma hay trong thánh lễ ở một nước khác. Vì thế việc Đức Giáo hoàng đến Thái Lan là một niềm vui, một biến cố lớn đối với tín hữu kitô ở đây.

Chuyến thăm này cũng nhắc cho chúng tôi nhớ, chúng tôi không một mình trong góc của mình, đây là biểu tượng hiệp thông cho các cộng đoàn khác nhau, phân tán và đa dạng. Các tín hữu kitô chỉ chiếm 0,6% dân số Thái Lan, có những gia đình người Trung quốc, Việt Nam, các dân tộc thiểu số Karen, Hmong, Aka…, những người nước ngoài v.v… Trong Giáo hội công giáo, chúng tôi được mời gọi để chia sẻ đức tin trong cộng đồng, chúng tôi tụ họp lại với nhau ngày chúa nhật: trên thực tế, chiều kích cộng đoàn rất quan trọng. Dĩ nhiên mỗi người sống mối quan hệ cá nhân của mình với Chúa, nhưng quan trọng cũng là lắng nghe đức tin của người khác, cùng sống hòa hợp với nhau trong cộng đoàn. Với tôi, Đức Giáo hoàng đại diện cho người bảo vệ đức tin. Giáo xứ Pháp ngữ ở Bangkok không làm những gì mình muốn, các nhà truyền giáo trên miền núi cũng không. Hành vi và lời nói của chúng tôi phải phù với Giáo hội phổ quát. Đức Giáo hoàng đại diện cho đơn vị hiệp nhất mà chúng tôi cần, ngài đến thăm chúng tôi và tụ họp lại các người hành hương để xây dựng các cây cầu giữa các cộng đồng.

Cá nhân tôi, tôi thường học hỏi nơi các bài giảng của Đức Phanxicô, cách chú giải Tin Mừng của ngài. Đó là nhà lãnh đạo Giáo hội mà chúng ta dễ đến gần, ngài là bằng chứng của sự tiếp đón ân cần. Ngài đã gây ngạc nhiên trong thời đầu giáo triều của ngài khi ngài đến thăm các thành phố ổ chuột, chính vì thế mà giáo dân chờ ngài, họ muốn người lãnh đạo gần mình, không có một thần học quá trừu tượng, nhưng có một thái độ mục vụ thời sự. 

Giáo xứ Pháp ngữ Bangkok đã chuẩn bị cho chuyến thăm này như thế nào?

Tất cả các ngày chúa nhật, chúng tôi cầu nguyện cho giáo hoàng. Khi ngài đến, chúng tôi chứng kiến một sự thay đổi nhỏ, vì lần này chúng tôi sẽ có thể cầu nguyện với ngài, một bước tiến trong lời cầu nguyện, một sự xích lại gần nhau.

Ngoài ra còn có sự chuẩn bị trong một ước muốn sâu sắc, chúng tôi khuyến khích nhau ghi tên tham dự các buổi lễ. Một nhóm nhỏ 25 người trẻ sẽ tham dự thánh lễ ngày thứ sáu 22 tháng 11 ở nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Lên Trời ở Bangkok cùng với 5000 người trẻ khác. Ngày thứ năm một nhóm 170 người trẻ khác sẽ dự thánh lễ ở Sân vận động Quốc gia.

Cha có tiếc khi Đức Phanxicô không đến thăm các dân tộc thiểu số trong thời gian ngài ở đây không?

Không. Tôi nghĩ rằng mình phải chấp nhận trong trường hợp này. Ngài cũng sẽ đến thăm người bệnh ở bệnh viện Thánh Lu-i, chúng ta có nên thêm ngài phải đến thăm các thành phố ổ chuột, hay tiếp xúc với người tị nạn, các dân tộc thiểu số không?

Ngài đã có quan điểm đủ mạnh trong các bài giảng, bài diễn văn của ngài thật sự rõ ràng, thậm chí còn gây phiền toái, ngài tố cáo nền kinh tế hiện đại. Theo tôi, việc ngài gặp Đức Tăng Thống Somdet Phra Maha Munivong là một biểu tượng rất mạnh, nhất là đối với người Thái Lan. Việc ngài luôn quan tâm đến người nghèo, người di dân… là đã được biết đến. Mặt khác, bài diễn văn của ngài về việc xây cầu, về gặp gỡ với các khác biệt mang tính cách ngôn sứ hơn, gương mẫu hơn, rõ ràng hơn trong đối thoại liên tôn giáo và tình huynh đệ của con người.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Linh mục Niphot Thianwihan, người phục vụ các cộng đồng thiểu số ở Thái Lan

Thái Lan: Nhóm giáo lý viên Karen được gặp Đức Phanxicô

Các hình ảnh đầu tiên Đức Phanxicô đến thủ đô Bangkok ngày thứ tư 20 tháng 11-2019

Bài mới nhất