Home Blog Page 824

Gặp nữ tu Ana Rosa Sivori em họ của Đức Phanxicô 

Gặp nữ tu Ana Rosa Sivori em họ của Đức Phanxicô

“Những gì ngài nói, ngài dạy, ngài sống với nó mỗi ngày”

fr.zenit.org, Marina Droujinina, 2019-11-20

Nữ tu Ana Rosa kể: “Người Thái Lan rất mến ngài, qua “sự gần gũi với giáo dân, qua tính đơn giản và nhất quán của ngài… vì những gì ngài nói, ngài dạy, ngài sống với nó hàng ngày.” Nữ tu Ana Rosa Sivori, thuộc Dòng truyền giáo Salê, sơ là em họ bên ngoại và người thông dịch cho Đức Phanxicô trong mấy ngày ngài ở Thái Lan. Sơ Ana Rosa 77 tuổi và sống ở Thái Lan từ 50 năm nay. Sơ làm việc ở các trường nữ sinh Đức Mẹ, một trong năm trường học do các Nữ tử Đức Mẹ Phù trợ đảm trách.

Sơ kể tiếp: “Điều này thấy rõ: ngài có một lối sống rất đơn sơ, rất khắc khổ và người dân ở đây yêu mến ngài vì thế. Họ nói ngài gần như là người giống họ, hòa đồng với mọi người, không tách biệt với những người thấp hơn mình. Đó là các phật tử đã nói về ngài như vậy”.

Ngày 19 tháng 11, sơ Ana Rosa trả lời các câu hỏi của Vatican News. Trong chuyến đi của Đức Phanxicô, sơ là người thông dịch và sẽ là người ngài chào và ôm hôn khi ngài từ phi cơ bước xuống.

Sơ cho biết: “Rất nhiều phật tử nói họ yêu mến ngài. Họ nghe ngài khi ngài lên tiếng. Họ nói ngài diễn tả rõ ràng, đơn giản, mọi người có thể hiểu. Hôm nay mọi người đều bị nhiễm ‘cơn sốt giáo hoàng’ và họ không giả vờ! Tất cả đều muốn nhìn ngài, rất nhiều người muốn về thủ đô Bangkok để gặp ngài! Và chúng tôi nói với họ: các bạn chuẩn bị, vì những gì ngài nói với bạn, những gì các bạn thấy sẽ khuyến khích mỗi người chúng ta trong đời sống cá nhân của mình.”

Nữ tu Ana Rosa kể, việc Đức Phanxicô đến đây được xem như một “ơn lành rất lớn cho người Thái Lan: chúng tôi hy vọng chuyến đi của ngài sẽ mang lại một chiều kích khác trong đời sống của mỗi người, một chiều kích không tầm thường nhưng là chiều kích thiêng liêng.”

Trong chuyến đi của mình, ngài sẽ gặp các người bệnh, các người khuyết tật, nhân viên y tế ở bệnh viện công giáo Thánh Lu-i. Nữ tu nói: “Ở thủ đô Bangkok có hai bệnh viện công giáo trực thuộc giáo phận. Bầu khí công giáo nổi bật trong hai bệnh viện này và người dân thích đến đây.”

Sơ kể tiếp: “Đức Phanxicô sẽ đến bệnh viện Thánh Lu-i, vì bệnh viện này kết hiệp với Tòa sứ thần. Các bệnh nhân đa số là phật tử nhưng họ rất mong gặp ngài, bởi vì họ được biết ngài là một con người rất đặc biệt. Họ nhìn thấy ngài trên đài truyền hình và họ ghi tên xin gặp ngài.”

Nói về liên hệ cá nhân của mình với giáo hoàng, sơ Ana Rosa cho biết, lần cuối sơ gặp Đức Phanxicô là vào tháng 3 năm 2018. Sơ kể, “trên điện thoại, ngài hỏi đời sống của tôi như thế nào ở Thái Lan. Chúng tôi nói chuyện bình thường như hai người bạn lâu ngày không gặp nhau, không có gì là đặc biệt.”

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc thêm: Đức Phanxicô gặp nữ tu Ana Rosa Sívori, em họ của ngài ở Thái Lan

Chuyến đi Thái Lan của Đức Phanxicô cũng là chuyến đi đoàn tụ gia đình

Sơ Ana Rosa Sivori đón Đức Phanxicô tại chân máy bay.

Hình: Đức Phanxicô và sơ Ana Rosa gặp nhau ở phi trường quốc tế Bangkok ngày thứ tư 20 tháng 11-2019.

 

Linh mục người Pháp Nicolas Lefébure bên cạnh người Karen ở Thái Lan

Linh mục người Pháp Nicolas Lefébure bên cạnh người Karen ở Thái Lan

tendanceouest.com, 2011-08-05

Hình: Linh mục Nicolas Lefébure trong y phục truyền thống bên cạnh các bạn trẻ người Karen.

Linh mục Nicolas Lefébure người gốc thành phố Rouen nước Pháp, từ năm năm nay (2011) linh mục ra đi truyền giáo cho người Karen ở miền núi Thái Lan.

Linh mục chịu chức năm 2005 tại giáo phận Rouen, đầu tháng 8 năm 2011, linh mục rời vùng biên giới Miến Điện và cùng một nhóm nhỏ các bạn trẻ người Karen tham dự Ngày Thế giới Trẻ ở Madrid từ 16 đến 21 tháng 8 năm 2011. 

Một đời phục vụ cho người dân tộc thiểu số Karen

Linh mục Nicolas Lefébure thuộc Hội Thừa sai Hải ngoại Paris và thuộc giáo phận Rouen, ngày nhận chức phó tế, Linh mục hiểu mình được gọi để đi truyền giáo ở Thái Lan: “Đây là sứ mạng được giao phó cho chúng tôi suốt đời. Có một câu của Hội Thừa sai Hải ngoại Paris nói ‘ad extra, ad gentes, ad vitam’ có nghĩa là ‘ra nước ngoài, đến một dân tộc, cho suốt đời’, câu này đã tác động mạnh đến chúng tôi”.

Ở phía đầu bên kia thế giới, cách thủ đô Bangkok 600 cây số về phía Bắc, linh mục truyền giáo đi thăm khoảng ba mươi làng miền núi. Các gia đình kitô hữu ở đây thuộc nhóm thiểu số. Linh mục cho biết: “Công việc của chúng tôi là giúp các làng này phát triển, gìn giữ truyền thống và văn hóa của họ. Tôi cũng dâng thánh lễ và dành thời gian chia sẻ các sinh hoạt gia đình với họ. Người Karen không có gì nhiều, nhưng họ rất ân cần, chính vì vậy việc tôi đến nhà thăm họ là rất quan trọng.”

Con đường không dễ dàng thoải mái để hội nhập vào dân tộc này, đầu tiên hết là hàng rào ngôn ngữ. Linh mục Lefébure dành năm đầu tiên học tiếng Thái để có thể nói chuyện với họ.

Nếu trong thời gian về quê hương của mình, linh mục Lefébure tìm lại các thói quen cũ thì với các bạn trẻ Karen, đây là cả một thay đổi lớn. Linh mục giải thích: “Người Karen có một lối sống rất đơn giản, họ ngồi trên sàn, ăn trên sàn, ngủ trên sàn. Về mặt văn hóa, kiến trúc, ẩm thực ở đây là cả một mới lạ với họ. Với họ, ăn phô-mai là một cuộc ‘phiêu lưu!’

Không phải chỉ là một cuộc hành hương của các bạn trẻ người Karen, nhưng còn là một chuyến đi du lịch mang chiều kích văn hóa: “Họ sẽ đến gặp các cộng đoàn Pháp, nơi tôi ngày xưa là chủng sinh hoặc thầy phó tế”.

Sau Paris và Rouen, Linh mục Lefébure còn dành cho họ nhiều ngạc nhiên, cha sẽ đưa họ đi thăm đan viện Thánh-Wandrille, Etretat, Núi Thánh Micae. Sau đó họ sẽ trực chỉ Madrid, Tây Ban Nha để tham dự Ngày Thế giới Trẻ với Giáo hoàng.

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc thêm: Giáo xứ Pháp ngữ Bangkok chuẩn bị đón Đức Phanxicô

Linh mục Tiziano Tosolini kể mong chờ của người Nhật nơi Đức Phanxicô

Linh mục Tiziano Tosolini kể mong chờ của người Nhật nơi Đức Phanxicô

acistampa.com, Simone Baroncia, Osaka, 2019-11-19

Linh mục truyền giáo, nhà văn kể niềm mong chờ Đức Phanxicô như thế nào của tín hữu kitô và kể cả người ngoài công giáo.

Với chủ đề “Bảo vệ mọi sự sống”, Đức Phanxicô sẽ đến thăm đất nước Nhật từ ngày 23 đến 26 tháng 11. Trong chuyến đi lần thứ 32 của mình, sau khi đến Thái Lan ngày 20 đến 23 tháng 11, Đức Phanxicô đến Nhật và ngài sẽ gặp các giám mục ở đây. Đức Tổng Giám mục giáo phận Nagasaki, Joseph Mitsuaki Takami, chủ tịch hội đồng giám mục Nhật giải thích:

“Chúng tôi mong chờ Đức Phanxicô, ngài là sự khích lệ mạnh mẽ cho đức tin của chúng tôi trong một xã hội có rất nhiều vấn đề: tỷ lệ tự tử gia tăng nơi người trẻ, vấn đề phá thai và án tử hình được ủng hộ mạnh mẽ”.

Vào cuối chuyến thăm, Đức Phanxicô sẽ gặp các tu sĩ Dòng Tên ở đây, một dấu ấn không phai mờ trong lịch sử công giáo ở đất nước này. Thái Lan và Nhật là hai nước có tỷ lệ người công giáo rất thấp, chỉ chiếm 0.5% dân số, nước Thái Lan có không đến 400 000 người công giáo, nước Nhật có khoảng 540 000 người, đa số theo Thần đạo và Phật giáo trong bối cảnh xã hội rất thế tục.

Để hiểu mong chờ của người Nhật trong chuyến đi này, chúng tôi phỏng vấn linh mục Tiziano Tosolini, cha đã sống ở Nhật trên 20 năm nay và là giám đốc Học viện Châu Á ở Osaka, tác giả sách về lịch sử các vụ trở lại đạo công giáo:

“Nước Nhật là nước có dân số gần như hoàn toàn theo Thần đạo và Phật giáo. Cùng với Thánh Phanxicô Xaviê, đạo công giáo đến Nhật năm 1549 và ngày nay có khoảng 400 000 tín hữu (0,1% dân số). Vì thế tác động của đạo công giáo trên mặt xã hội và truyền thông là rất ít. Đa số người Nhật chỉ thấy Đức Phanxicô hiếm hoi trên các đài truyền hình Nhật, ngay cả người dân cũng không biết vai trò lãnh đạo tinh thần của ngài trong Giáo hội công giáo.

Vì thế chuyến thăm của ngài được xem như chuyến thăm của một nhân vật danh tiếng, người dân không biết gì nhiều về ngài. Riêng đối với tín hữu kitô Nhật, chuyến tông du của giáo hoàng đến Nhật (lần thứ nhì sau chuyến tông du của Đức Gioan-Phaolô II năm 1981) là sự hỗ trợ và khích lệ quý báu cho đức tin của họ, đây cũng là dịp quan trọng để người dân biết đến đạo công giáo và chứng từ của đạo trong xã hội Nhật Bản”.

Khẩu hiệu của chuyến đi “Bảo vệ mọi sự sống” có ý nghĩa gì đối với người Nhật? 

“Bảo vệ mọi sự sống” là câu trích trong Thông điệp Chúc tụng Chúa Laudato Sì. Các giám mục Nhật giải thích, mỗi người chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Chúa và giống Chúa và quả đất chúng ta được Chúa  tạo dựng, “Người dựng nên quả đất mà không để hoang vu, nặn ra nó cho muôn loài cư ngụ” (Is 45.18). Để bảo vệ sự sống, không những chỉ tôn trọng phẩm giá con người mà còn phải tôn trọng tạo dựng. Nhưng căn nhà chung của chúng ta đau khổ vì sự khai thác không trách nhiệm của con người, và Chúa cùng đau khổ với những người nghèo nhất và những người sống bên lề. Giáo hội Nhật bằng mọi cách dấn thân bảo vệ tất cả những gì đã được tạo dựng, đáp ứng các vấn đề làm thương tổn đến con người, loan báo Tin Mừng về sự sống và cầu nguyện cho hòa bình thế giới. 

Là kitô hữu ở Nhật có nghĩa là gì?

Là kitô hữu ở Nhật có nghĩa là sống Lời Chúa trong niềm vui đời sống hàng ngày. Tuy nhiên ơn gọi này mang một tầm quan trọng ở Nhật vì xã hội Nhật không phải là xã hội kitô giáo. Vì thế người công giáo Nhật ý thức hơn về đức tin của mình, họ có thể nói như Thánh Phaolô: ‘Tôi biết tôi tin vào ai’, đôi khi họ gặp các khó khăn khi làm chứng đức tin của mình với người khác. Các khó khăn này phát sinh từ các quy tắc đạo đức và quy tắc cộng đồng khác nhau của xã hội Nhật Bản.

Làm thế nào đức tin kitô giáo tồn tại được sau các cuộc đàn áp?

Đức tin kitô bị bách hại trong vòng 250 năm (từ năm 1614 đến năm 1873). Trong các thế kỷ này, đạo công giáo bị xem là “đạo xấu xa” và hàng ngàn người công giáo Nhật bị giết, bị tra tấn, họ buộc phải bội giáo. Rất nhiều tín hữu kitô vì tránh bách hại mà phải bỏ làng ra đi để sống ẩn náu, vì thế có hiện tượng được gọi là ‘kitô hữu ẩn giấu’ (kakure kurishitan), ngoài việc cử hành bí tích trong các phòng bí mật hay nhà riêng, các biểu tượng kitô giáo được ngụy trang theo các biểu tượng phật giáo. Năm 1865, sau khi nước Nhật mở cửa lại với thế giới Tây phương, các nhà truyền giáo Pháp tìm thấy các hậu duệ của các kitô hữu cổ đại trong một nhà thờ ở thành phố Nagasaki. Lúc đó họ có khoảng 20 000 người. 

Vì sao cha viết sách kể các kinh nghiệm trở lại đạo?

Trở lại đạo vẫn là một cái gì huyền ẩn, một phép lạ thực sự mà Chúa tiếp tục làm trong tâm hồn con người, một sự kiện chính xác, vì chỉ có Chúa là nguồn, không tùy thuộc vào ý chí, vào nguyên tắc, vào ý thức hệ của con người. Đọc hay nghe cách như thế nào mà những người được đánh động bởi tình yêu của Chúa, họ đã nhận ra văn hóa của mình, cũng như truyền thống, các mối quan hệ với người khác và với chính mình theo một cái nhìn khác, chính xác hơn, rõ ràng hơn, giúp chúng ta trước hết đối chiếu các câu chuyện kể này với lòng kính sợ, ngạc nhiên, với lòng tôn kính những gì họ đã sống qua. Các kinh nghiệm này cũng giúp chúng ta khám phá cách hỗ trợ cho các cuộc trở lại khác, học để tháp tùng những người này trên hành trình trưởng thành đức tin kitô giáo của mình.

Xin cha cho biết, dựa trên các cơ sở nào mà đối thoại liên tôn có thể tiếp tục?

Đối thoại liên tôn mà Giáo hội là người quảng bá duy nhất ở Nhật phải tiếp tục trong sự hiểu biết và gặp gỡ chân thành với các tôn giáo khác có trong nước. Phải cố gắng hợp tác với các tôn giáo khác để xây dựng một thế giới và thiết lập một cuộc gặp gỡ hòa bình hơn, cơ bản hơn và thực tế hơn. Nhưng đồng thời Giáo hội phải trung thành với nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, với xác tín đây là câu trả lời cho những ai đi tìm cho những câu hỏi về đức tin và hiện sinh sâu đậm của mình.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Đức Phanxicô ở Nhật, đất nước có tỷ lệ người tự tử cao nhất thế giới

“Giáo hội Nhật Bản đang tìm một sức sống mới”

Đức Phanxicô gặp một nhóm người cao niên trước khi đi Thái Lan

Đức Phanxicô gặp một nhóm người cao niên trước khi đi Thái Lan

acistampa.com, Angela Ambrogetti, 2019-11-19

Chiều thứ ba 19 tháng 11-2019, trước khi lên đường đi Bangkok, Đức Phanxicô gặp một nhóm người cao niên do Dòng các nữ tu Tiểu muội Người nghèo phụ trách.

Đức Phanxicô trên máy bay đi Thái Lan.

Phi hành đoàn chuyến bay của Đức Phanxicô gốm có bốn phi công và sáu tiếp viên. Phi công trường là ông Alberto Colautti và phi công phó là ông Carlo Mariani, 62 tuổi. Ngoài phái đoàn Vatican đi cùng với Đức Phanxicô còn có 70 ký giả Ý và quốc tế cùng đi. Đội bay dành cho các chuyến bay đặc biệt của hãng hàng không Alitalia cũng có mặt trên máy bay. Chuyến đi Bangkok sẽ là chuyến bay giáo hoàng thứ 178 do hãng thực hiện.

Vào lúc 18 h 20, sau khi rời Vatican, Đức Phanxicô lên xe ra phi trường quốc tế Rome-Fiumicino. Lúc 18h, trước khi rời Nhà Thánh Marta, Đức Phanxicô gặp một nhóm người cao niên do các nữ tu Dòng Tiểu muội Người nghèo phụ trách ở nhà Thánh Phêrô ở Vincoli. Nhóm do hồng y Krajewski, Giám đốc Cơ quan từ thiện giáo hoàng hướng dẫn.

Khi rời lãnh thổ Ý, Đức Phanxicô đã gởi cho Tổng thống Ý Sergio Mattarella một điện tín chào mừng dân Ý đã có “lời chúc thân tình và hợp tác với nhau vì lợi ích chung.”

Trên máy bay khi các ký giả hỏi Đức Phanxicô khi nào ngài về Argentina, ngài vừa đưa tay chỉ lên trời vừa trả lời: “Tôi không biết!”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Chi tiết chương trình chuyến đi Thái Lan và Nhật Bản của Đức Phanxicô

Đức Phanxicô ở Nhật, đất nước có tỷ lệ người tự tử cao nhất thế giới

Đức Phanxicô ở Nhật, đất nước có tỷ lệ người tự tử cao nhất thế giới

agensir.it, Patrizia Caiffa, 2019-11-19

Đức Phanxicô ở Nhật, đất nước có tỷ lệ người tự tử và các người trẻ “hikikomori” cao nhất thế giới, “hikikomori” là những người có vấn đề tâm lý xã hội-gia đình, họ sống cắt đứt với người khác và với thế giới bên ngoài, thường họ sống trong phòng nhiều tháng, thậm chí cả nhiều năm, chỉ ra ngoài khi có việc gì cần thiết nhất.

“Bảo vệ mọi sự sống” là khẩu hiệu chuyến tông du lần thứ 32 đến Nhật của Đức Phanxicô vào ngày 23 đến 26 tháng 11. Một chủ đề trọng tâm của nhiều khía cạnh khác nhau: đây là xã hội có tỷ lệ người tự tử cao nhất thế giới (30 đến 35 000 người mỗi năm), nhất là nơi các người trẻ. Hiện tượng “hikikomori” cũng phát xuất từ đây: ít nhất có 500 000 người sống ngoài lề xã hội. Từ Tokyo, linh mục truyền giáo Andrea Lembo của cơ quan PIME kể cho chúng tôi nghe câu chuyện của những người này.

Tình bạn giữa linh mục người Ý và một người trẻ “hikikomori”

Linh mục Andrea đã nối kết tình bạn với một người trẻ “hikikomori” và đã cứu sống anh. Đó là câu chuyện của linh mục Andrea Lembo, 45 tuổi, quê quán Treviglio, Bergame, nước Ý bề trên của cơ quan PIME trong 10 năm ở Tokyo. Nhà truyền giáo nói tiếng Nhật và tiếng Ý và khi kể chuyện những ngày tháng sôi động của mình, ánh mắt ngài đầy cả nhiệt tình. Trong đất nước truyền giáo yêu thương mà ngài mơ trước khi đi, linh mục Andrea đã gặp một dân tộc để truyền giáo nhưng ngài cũng biết cả bóng tối của nó. Nước Nhật là nước có tỷ lệ người tự tử cao nhất thế giới (cứ mỗi 15 phút có một người tự tử và mỗi năm có đến từ 30 đến 35 000 người tự tử, dù chính phủ có một chiến dịch để phòng ngừa). Ở các trạm xe điện ngầm nhiều người qua lại nhất Tokyo, nhà nước dựng lên các rào cản rất cao để chận người tự tử nhảy xuống đường ray.

Linh mục Andrea kể: “Thật không may, con số người tự tử giảm, nhưng số tuổi của họ cũng giảm, đã có em bé 12 tuổi tự tử. Tôi nghe các thầy cô giáo đọc lời khuyên này trong lớp: “Nếu các em muốn tự tử thì không tự tử trên các đường dây này và lúc này”. Thậm chí nhà nước còn phạt các gia đình có người tự tử vì họ đã làm chậm công việc của xã hội. Điều không thể chấp nhận ở một đô thị có 30 triệu người dân với công nghệ cao nhất và hiệu năng nhất thế giới, với 28 trạm xe điện ngầm và xe lửa hoàn hảo. Linh mục cho biết: “Không một gia đình nào mà không trải qua thảm kịch này.” 

Những người “hikikomori” tự cô lập với thế giới bên ngoài

Nhật cũng là nơi hiện tượng “hikikomori” ra đời, các người trẻ tự cô lập với thế giới bên ngoài, tự giam mình trong một phòng, việc tiếp xúc với thế giới bên ngoài chỉ qua mạng Internet.

Thường thì họ là nạn nhân của các vụ sách nhiễu ở trường, các học sinh không thành công ở trường, không tìm được việc hoặc bị cho nghỉ việc.  Trong những năm đầu tiên đi làm, người Nhật phải đáp ứng với các kỳ vọng rất cao, với nhịp điệu học và làm việc rất căng thẳng. Phải ở trường mỗi ngày trong tuần, phải làm việc 12 giờ mỗi ngày ở công sở, rất ít ngày lễ. Không phải ngẫu nhiên mà các toa xe điện ngầm tuyệt đối cấm nói chuyện điện thoại, vì mọi người ngủ, ngay cả ngủ đứng. Lo âu để hoàn hảo, để cầu toàn gần như điên cuồng và phải luôn tử tế lịch sự, không được để lộ cảm xúc ra ngoài làm cho người Nhật thường không có khả năng xử lý với thất bại, với khủng hoảng, họ xem đó là nhục nhã.

Và đôi khi từ cô lập đến trầm cảm, đến tự tử, con đường thật ngắn ngủi.

Chủ đề chuyến đi của Đức Phanxicô đến Nhật từ 23 đến 26 tháng 11 là “Bảo vệ mọi sự sống.” 

Linh mục Andrea Lembo và thiện nguyện viên

 Linh mục là một người bạn

Linh mục Andrea kể câu chuyện gặp các người trẻ của cha bên cạnh cốc bia và món sushi: “Các người trẻ không biết linh mục là ai. Chúng tôi nói đó là người hiểu các chuyện của tâm hồn”. Chính tại giáo xứ đầu tiên của cha ở ngoại ô Tokyo là nơi cha gặp Ko He, lúc đó anh chưa đến 20 tuổi. Anh đang học năm thứ hai đại học, anh quyết định bỏ học, bỏ gia đình, anh thuê một ô nhỏ trong một quán cà-phê Internet với giá 500 yên mỗi ngày (khoảng 4 âu kim) để tách biệt khỏi thế giới bên ngoài. Linh mục biết các lần anh đi ra ngoài là chỉ để làm điếm với các con trai khác. Đó là cách duy nhất anh kiếm tiến để trả cho sự cô lập của mình. Linh mục cho biết: “Anh bị khai thác, bị sỉ nhục trong những bữa tiệc ngu ngốc gọi là ‘tiệc tình yêu’. Để thuyết phục anh bỏ những chuyện này, tôi nói, gia đình của anh và tôi không đáng phải chịu đựng đau khổ vì anh muốn tự tử.

“Một tình bạn rất đẹp đã ra đời và trong vòng hai năm, tôi đã tìm cách đưa anh ra khỏi quán cà-phê Internet. Bây giờ anh là thiện nguyện viên giúp giáo xứ và làm việc trong một trung tâm cho người cao niên”.

 

Sự nghèo khổ bị che giấu

800 người công giáo ghi danh ở giáo xứ nhỏ của mình. Đây là nhà thờ công giáo duy nhất ở Fuchu, một khu phố giàu ở Tokyo, nơi sự nghèo khổ được che giấu.

Các người bị cô lập là những người bị nặng nhất vì họ không có thói quen đi chữa trị tâm lý.

Trong một vài trường hợp, chúng tôi đến các bác sĩ tâm thần, họ chữa bệnh bằng thuốc: “Các bà mẹ nhờ các cô thầy nhắc con họ uống thuốc, những đứa bé mới 6, 7 tuổi vì chúng phải hoàn hảo.” Các trung tâm “chăm sóc trái tim” với các tâm lý gia thiện nguyện chỉ mới ra đời gần đây. Linh mục Andrea thừa nhận: “Theo tôi, việc quản lý các vụ tự tử nơi người trẻ là một gánh nặng. Mỗi lần có chuyện này xảy ra, chúng tôi phải làm việc lại, chúng tôi phải xem lại các sự kiện ở mọi cấp bậc và thường chúng tôi cảm thấy thất bại trong công việc của mình”. Một linh mục Nhật đã sống kinh nghiệm này trong gia đình của cha, ngài nói với tôi: “Vì cha là người nước ngoài nên cha không thể hiểu vì sao”. Ở Nhật, tự tử bắt nguồn từ một phong tục cổ xưa của các chiến binh thua trận; vì vậy nó có lẽ vẫn còn được chấp nhận về mặt văn hóa và xã hội. Linh mục Andrea giải thích: “Họ cho rằng đó là một cách để thoát khỏi địa ngục cuộc sống, với sự hiện đại và với chế độ làm việc căng thẳng, họ phải chịu áp lực xã hội quá mạnh. Trong một xã hội dựa trên đạo Khổng, con người là cá thể phục vụ cho cộng đoàn, điều này có nghĩa là không được làm cho xã hội xáo trộn và không còn là gánh nặng cho người khác”.

Sự lựa chọn của tương lai

Một đặc nét khác của xã hội Nhật là muốn bắt con cái mình chọn cho mình một tương lai xã hội và nghề nghiệp ở một tuổi quá nhỏ, vào khoảng 10 tuổi.

“Các người trẻ phải có quyền tự do chọn lựa con đường riêng của mình”. Bà

Yumi Takahashi, nhà giáo và là nhà sáng lập “Trường niềm vui”, một chương trình của giáo xứ miễn phí nhằm giúp các em không có tiền học có thể đến học vào các ngày thứ bảy hàng tuần. Bà cho biết: “Tôi hy vọng chuyến đi của Đức Phanxicô sẽ có một tác động tích cực không những cho người công giáo mà cho tất cả các bạn trẻ, ngay cả những người chưa biết ngài. Đức Phanxicô là con người của hòa bình, ngài giúp các bạn trẻ mở rộng chân trời ra với toàn thế giới, để họ quan tâm đến các vấn đề xã hội”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: “Giáo hội Nhật Bản đang tìm một sức sống mới”

Hồng y Manyo Maeda: Vai trò của Giáo hội trong nước Nhật ngày càng thế tục hóa

 

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (1/8)

Hướng đến một con đường thiêng liêng cho tâm trạng cô đơn (1/8)

Trích sách Quả tim thao thức, The restless heart, Ronald Rolheiser 

Không có giải pháp trong chốc lát

Chúng ta biết cô đơn có nhiều dạng và là mãnh lực sáng tạo tiềm tàng trong đời sống chúng ta. Nhận thức được điều này, tự nó đã là một giá trị. Tuy nhiên, đó chỉ là bước đầu đi đến nắm bắt được cô đơn cách sáng tạo. Muốn nắm vững được nó cần nhiều hơn thế. Chúng ta cần có một điều vượt trên nhận thức trí tuệ về tất cả ý nghĩa khác nhau, các hiểm nguy cũng như thuận lợi tiềm tàng của tâm trạng cô đơn. Để có thể nắm vững nỗi cô đơn một cách sáng tạo cần phải có lối sống cụ thể rõ ràng. Qua nỗ lực khắc nghiệt và đấu tranh đau đớn, trong cuộc sống chúng ta cần phải phát triển một vài mô thức sống cụ thể, giúp chúng ta đương đầu với nỗi đau cô đơn và chuyển tải tác động gây tê liệt tiềm tàng của nỗi cô đơn thành sức mạnh sáng tạo.

Điều chúng ta cần là một hình thức thiêng liêng về cô đơn: một linh đạo phân biệt những dạng khác nhau của cô đơn và cho chúng ta định hướng cụ thể để theo đó chúng ta có thể tuần tự biến cô đơn từ mãnh lực hủy hoại thành mãnh lực sáng tạo trong đời sống chúng ta.

Và tiếp theo đó chúng ta cần đến một nỗ lực, dù chưa thành hình và ít ỏi, để nhắm theo hướng đó, một định hướng có thể mang đến cho chúng ta một đường hướng thiêng liêng.

Nắm vững “Tha hóa”: Tìm kiếm Kết hợp

Ở nhiều mức độ khác nhau, tất cả chúng ta đều hụt hẫng vì chúng ta thiếu tính mật thiết với người khác. Không phải vấn đề “Chúng ta có bị tha hóa không?”, mà là mức độ. Không một ai có được hòa hợp trọn vẹn. Chúng ta nói nhiều về tình yêu và chia sẻ, có lẽ nói nhiều hơn bất cứ đề tài nào. Tuy thế, những lúc chúng ta thực sự cố gắng để trao nhau tình yêu, thì hiếm khi chúng ta có được nó, đôi lúc những gì có được chỉ là tuyệt vọng vô bờ bến. Chúng ta là một đám người cô đơn, cố gắng trong tuyệt vọng để yêu thương người khác, nhưng thường chẳng đạt được bao nhiêu.

Làm sao để chúng ta vượt lên được “tha hóa”? Để vượt lên, chúng ta cần một hội nhập hướng đến kết hợp trọn vẹn mình vào trong cuộc sống và vào trong thế giới của người khác. Tính mật thiết liên kết ở đây, vượt lên các ranh giới cuộc sống riêng của chúng ta. Nhưng làm sao có được? Biến chuyển từ “tha hóa” đến hội nhập không phải là điều chúng ta đạt được ngày một ngày hai và cũng không phải đạt được một lần là giữ được mãi mãi. Việc này đòi hỏi tùy theo mức độ, cụ thể là, tùy theo mức độ mà chúng ta có thể thực hiện sâu đậm hơn một số chiều hướng thâm nhập cụ thể: hướng đến hành động mạo hiểm hơn, yếu mềm hơn, cho người khác khoảng không gian tự do hơn, vui thú hơn, cống hiến cao cả hơn.

  1. Mạo hiểm

Một trong những mãnh lực lớn nhất giữ chúng ta cách ly với người khác chính là nỗi sợ. Tất cả chúng ta đang bị giam cầm, nhiều hay ít, vì chúng ta nghĩ mình xấu xí, mặc cảm hổ thẹn, chính điều này làm cho chúng ta sống trong nỗi sợ, sợ hãi về nhiều thứ. Nhưng nỗi sợ chính yếu là sợ mình không được yêu, sợ người khác ruồng bỏ mình, sợ không đủ tốt đẹp. Cũng vậy chúng ta mang tâm thức hổ thẹn: hổ thẹn về cơ thể mình, hổ thẹn về những góc tối trong tâm thức mình, và ở một mức độ nào đó, hổ thẹn về cả con người mình. Vì thế, trong mọi mối quan hệ, tất cả chúng ta, những con người cẩn trọng, luôn luôn cân nhắc cẩn thận tất cả mọi khía cạnh trước khi mạo hiểm mở lòng mình ra.

Chúng ta không đủ mạnh mẽ, hay đủ tự chủ, hay không chắc chắn về tính dễ thương của mình để có thể mạo hiểm đặt mình vào một tình trạng bấp bênh. Nỗi sợ bị loại bỏ trong chúng ta quá lớn đến nỗi chúng ta sớm làm cho chính mình không sẵn sàng với tình yêu trước khi chúng ta có thể bày tỏ chính mình cách chân thành và cởi mở, đồng thời mạo hiểm chấp nhận mình có thể bị chối từ. Chúng ta sớm để mình sống trong cô đơn trước khi mạo hiểm xem mình có bị người khác làm tổn thương hay không.

Và rồi chúng ta đi qua cuộc đời mà không bao giờ tỏ ra mình thực sự cảm nhận và quan tâm đến mức như thế nào. Vì nỗi sợ hãi và hổ thẹn, chúng ta đùa giỡn với việc này, đùa giỡn bằng sức mạnh, hờ hững và tự chủ. Chúng ta đùa giỡn khi không nói với người khác chúng ta cần họ biết bao. Biết bao lần trong cuộc đời, nỗi sợ, đủ mọi kiểu, đã ngăn không cho chúng ta nói với ai về những gì chúng ta thật sự cảm nhận về họ? Biết bao lần nỗi sợ bị chối từ đã ngăn không cho chúng ta hướng đến, cách cởi mở và tự do, một mối quan hệ mà chúng ta mến yêu và muốn có vô cùng? Biết bao lần chúng ta để mặc việc đi bước đầu hay đào sâu mối quan hệ mà chúng ta muốn có cách khủng khiếp, cho người khác hoặc cho hoàn cảnh.

Chúng ta tất cả đều rụt rè, thật sự là vậy! Chúng ta sống trong sợ hãi và hổ thẹn. Đôi khi chúng ta không nhận ra những cảm giác này, hoặc chúng mang vỏ ngoài như tự chủ, quay cuồng, hay hung hăng. Nhưng chúng, nỗi sợ hãi và hổ thẹn, luôn luôn có ở đó, ngăn không cho chúng ta vươn ra, và khép kín chúng ta trong xa lánh và cô đơn.

Theo đó, nếu chúng ta muốn có tình thân mật với người khác, một trong những việc đầu tiên phải làm là mạo hiểm nhiều hơn. Chỉ khi nào chúng ta dám mạo hiểm đủ để ai đó có thể làm tổn thương mình, lúc đó chúng ta mới mạo hiểm đủ để ai đó có thể yêu thương mình. Khi trang bị cho mình sẵn sàng chịu tổn thương, thì tận cùng đó chính là lúc chúng ta đủ sẵn sàng để được yêu thật sự. Thay vì sợ hãi và hổ thẹn, thay vì nhìn nhận mình có thể bị chối từ và tổn thương, chúng ta phải vươn mình ra. Chúng ta phải liên tục chân thành thúc đẩy mình hơn, cởi mở hơn trong các mối quan hệ, bớt phụ thuộc vào hoàn cảnh đưa đẩy, và đẩy mình đến nói với người khác, cho họ biết mình quan tâm đến họ và họ có ý nghĩa với chúng ta biết chừng nào.

Bất cứ lúc nào cảm nhận nỗi đau “xa lánh”, hụt hẫng vì thiếu tình mật thiết với người khác, điều đầu tiên chúng ta phải xem lại lòng mình là liệu chúng ta có biết mạo hiểm trong các mối quan hệ hay không. Liệu chúng ta có mạo hiểm đủ hay không? Liệu chúng ta có quá sợ hãi bị chối từ hay không? Liệu chúng ta có đùa giỡn với những mối quan hệ hay không? Liệu chúng ta có đề phòng quá đáng trong các mối quan hệ đến nỗi không đủ sẵn sàng để được yêu hay không?

Khi dám bày tỏ trọn con người mình trong tình bạn và tình yêu, thì đó là lúc chúng ta đang mạo hiểm. Có những lúc chúng ta sẽ biến mình thành kẻ ngốc, có lúc sẽ bị chối từ, và có lúc sẽ bị tổn thương. Tuy nhiên, hầu hết những lúc mạo hiểm như vậy, thì lòng chân thành và mềm yếu của chúng ta sẽ được chấp nhận, tri ân, và đón nhận vô điều kiện vì một tình thân sâu đậm và tình mật thiết sẽ làm cho chúng ta được thỏa lòng.

J.B. Thái Hòa dịch  

Xin đọc thêm: Lời nói đầu sách Quả tim thao thức

“Giáo hội Nhật Bản đang tìm một sức sống mới”

“Giáo hội Nhật Bản đang tìm một sức sống mới”

la-croix.com, Claire Lesegretain, Tokyo, 2019-11-18

Nhân dịp chuyến đi Nhật Bản của Đức Phanxicô vào ngày 23 tháng 11 sắp tới, báo La Croix có bài phỏng vấn linh mục Olivier Chegaray, Hội Thừa sai Hải ngoại Paris (MEP) sống ở Nhật từ 50 năm nay, linh mục cho biết người công giáo Nhật rất mong chờ chuyến đi này, nhất là mong Đức Phanxicô giúp họ sáng tạo hơn.

 La Croix: Xin cha giải thích, làm thế nào mà hơn bốn thế kỷ rao giảng Tin Mừng, người công giáo Nhật Bản chỉ có không đến 0,5% dân số.

Linh mục Olivier Chegaray: Trong một cuộc họp về vấn đề này năm 2016, các tín hữu Nhật đưa ra nhiều giải thích: tính cứng nhắc và thiếu sáng tạo của tổ chức giáo hội; hố ngăn cách văn hóa giữa xã hội và Giáo hội; cách tiếp cận quá trí tuệ trong khi người Nhật rất cụ thể; thiếu đào tạo cho giáo dân (ngoài thành phố Tokyo, nước Nhật rất chậm về điểm này)…

Cuối cùng, người công giáo Nhật cảm nhận họ ở vào thế bế tắc. Để thoát ra họ chờ ở Đức Phanxicô, người rất nổi tiếng và được người dân ở đây yêu mến, họ sẽ không ngần ngại đi ra khỏi tâm lý bình thường để nói lên những gì không đúng. Cụ thể là các trường công giáo quá ưu tú và chưa có đủ tinh thần truyền giáo, các giám mục thì không chú ý đủ đến những gì đang xảy ra trong đất nước và bộ máy quan liêu của giáo phận thì quá xâm lấn…

Cái gì đã thay đổi Giáo hội kể từ chuyến thăm của Đức Gioan-Phaolô II năm 1981?

Năm 1981, người nước ngoài vẫn còn lãnh đạo Giáo hội Nhật, và Giáo hội chưa thật sự thấm nhuần tinh thần Công đồng Vatican II. Giáo hội được đánh dấu bởi hai thượng hội đồng quốc gia năm 1987 và năm 1993. Thượng hội đồng đầu tiên có tên là “Nice”, Hi ngh khuyến khích quc gia v truyn giáo (National Incentive convention for evangelization) đã giúp cho các giám mục Nhật có hai định hướng lớn: loan báo đức tin kitô cho người không tin và làm việc hướng tới việc thiết lập một xã hội gần gũi với người thấp bé.

Thượng hội đồng “Nice” đã giúp cởi mở hơn và tiếp xúc với các thực tế, và cũng là dịp để cải cách tất cả các cấu trúc của Giáo hội, cho tới lúc đó Giáo hội bị chia thành từng vùng giao cho các Dòng hay các tổ chức truyền giáo nước ngoài trông lo.

Và thượng hội đồng thứ nhì?

Thượng hội đồng này nói về vấn đề gia đình. Nhưng trong thượng hội đồng năm 1987, hố ngăn cách giữa các giám mục tiến bộ (chủ yếu là các giáo phận ở các thành phố lớn) và các giám mục bảo thủ (các giáo phận phía Tây và Kyushu) đã có thể vượt lên được, nhưng năm 1993 thì hố ngăn cách này đã không vượt lên được.

Các giám mục tiến bộ quan tâm đến các tình huống gia đình khác nhau, đã không đồng ý với các giám mục bảo thủ, muốn xây dựng gia đình theo mô hình kitô giáo. Thượng hội đồng năm 1993 đã chia rẽ đến mức mà từ đó hội đồng giám mục Nhật Bản không dám đề cập đến vấn đề gây chia rẽ này. Ngày nay Giáo hội được quản lý tốt hơn nhưng có vẻ lạnh nhạt.

Không có các sự kiện bên ngoài nào làm thay đổi Giáo hội trong bốn thế kỷ qua?

Có, đặc biệt là sự hiện diện ồ ạt của người di dân, họ đến trong từng đợt kế tiếp nhau. Trong những năm 1980 là các phụ nữ Phi Luật Tân đến, thường thường đó là vợ của các nông dân hoặc những người làm việc trong các quán bar: một số trung tâm của giáo phận được mở ra để giúp họ học tiếng Nhật và làm quen với văn hóa Nhật.

Trong những năm 1990, con cái của những người di dân Nhật qua Châu Mỹ La Tinh làm ăn và thường những người này theo đạo công giáo, khi họ về nước tìm việc làm, các giáo xứ đã có nhiều sáng kiến để chào đón họ. Đầu những năm 2010, người Việt Nam và Phi Luật Tân được “huấn luyện” trong các nhà máy làm việc trong các điều kiện rất bấp bênh: họ làm cho giáo xứ đông lên và giáo xứ giúp họ về mặt tinh thần và vật chất.

Các sự kiện khác cũng làm thay đổi Giáo hội, nhất là vụ tấn công của tà phái Aum ở trạm xe điện ngầm Tokyo năm 1995 – từ đó rất khó để nói về tôn giáo vì người dân sợ bị lèo lái. Và tai nạn hạt nhân ở Fukushima năm 2011 cũng là dịp để Giáo hội giúp đỡ các nạn nhân mà không bị cho là chiêu dụ, trong dịp này Giáo hội đã hợp tác với các phật tử trong tinh thần hiểu biết và hài hòa.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Chi tiết chương trình chuyến đi Thái Lan và Nhật Bản của Đức Phanxicô

Hồng y Manyo Maeda: Vai trò của Giáo hội trong nước Nhật ngày càng thế tục hóa

Tại Nhật, Đức Phanxicô có thể sẽ không đồng ý với chính phủ về chương trình hạt nhân và hòa bình

Stéphanie Fugain: “Hãy dành thì giờ để sống tốt hơn”

Stéphanie Fugain: “Hãy dành thì giờ để sống tốt hơn”

lepelerin.com, Corinne Renou-Nativel, 2019-11-14

Bà Stéphanie Fugain, ca sĩ của ban Big Bazar, sau cái chết của con gái bà năm 2002, bà đã thành lập Hội Laurette-Fugain. Một dấn thân mà bà dốc hết sức lực để theo đuổi.

Ai là người đầu tiên bà nghĩ đến khi sáng sớm? Trong một thời gian lâu, tôi chỉ nghĩ đến con gái Laurette của tôi. Bây giờ tôi nghĩ đến những người thân đã ra đi mà tôi không còn ôm vào lòng như cha tôi, mẹ tôi.

Cái gì còn lại trong tuổi thơ của bà? Vòng ôm của mẹ tôi, mùi hương của bà.

Tội nho nhỏ của bà? Tôi cần được yêu thương, tôi cảm thấy hài hòa với những người chia sẻ đời sống với tôi. Tôi tự cho tôi là keo dính!

Cái gì làm cho bà tốt hơn? Dẫn dắt cuộc chiến đấu của tôi với Hội Laurette-Fugain để chống căn bệnh ung thư máu và làm sao để mọi người ý thức, họ cho máu, cho tiểu cầu, huyết tương, tủy sống để cứu mạng sống người khác. Sự dấn thân này giúp tôi tin tưởng vào người khác, vào cuộc sống, vào tình yêu trong một xã hội ngày càng ít giá trị.

Điều gì làm bà dễ giận? Sự phù phiếm của xã hội quá thừa mứa.

Bà có một giờ thinh lặng, bà sẽ làm gì? Tôi sẽ tận hưởng tất cả những gì tôi cảm nhận, tôi buông bỏ hết.

Câu châm ngôn của bà? Hãy dành thì giờ để sống tốt hơn.

Một nơi để lấy lại sức? Vùng đồng quê giữa cây cối, bông hoa và chim muông.

Bà có một hối tiếc? Tôi không muốn có. Nếu không làm sao có thể chấp nhận cuộc sống đã quyết định tất cả cho chúng ta chứ không phải chúng ta quyết định cho cuộc sống?

Đối với bà, Chúa Giêsu… là? Một huyền nhiệm. Tôi thích ý tưởng này và mỗi người có riêng huyền nhiệm của mình.

Đức Phanxicô tiếp bà, bà muốn nói với ngài chuyện gì? Thực tế là tôi đặt niềm tin vào con người. Đó là niềm tin của tôi.

Bà được ban cho sự sống đời đời. Bà có ký nhận không? Không, tôi muốn đi xem những gì đang xảy ra ở phía bên kia. và cũng phải nhường chỗ cho người khác.

Bà cầu nguyện cho ai? Tất cả những người tôi yêu thương. Tôi có thể cầu nguyện ở giữa rừng, ở ao của tôi, trước một cái cây, ở nhà thờ, tôi thích những nơi thờ phượng, ở đó tôi tìm được bình an thấm nhập vào lòng tôi.

Thiên Chúa đến với bà, bà nói gì với Ngài? “Đã đến lúc chúng ta gặp nhau! Con muốn làm sáng tỏ một vài điểm, con muốn biết tất cả đau khổ này có thể biến mất khỏi hành tinh và đời sống hàng ngày của chúng con không.”

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc thêm: Cécile de France: “Tôi cảm thấy bình yên với chính mình”

Guillaume de Tonquédec: “Các nhà thờ giúp chúng ta khỏi bị hỗn độn”

Vincent Delerm: “Cha mẹ để cho tôi có thì giờ tìm con đường của tôi”

Mai táng gặp vấn đề (3-3), Thánh Antôn Pađua

Mai táng gặp vấn đề (3-3), Thánh Antôn Pađua

Trích sách Tiểu sử Thánh Antôn Pađua, Françoise Bouchard, nxb. Salvator

Một nhà thờ chứa “vòm”

Quốc gia góp phần

Đoàn hành hương ngày càng đông nên nhà nguyện của đan viện không đủ chỗ chứa, cần phải xây thêm một nhà thờ lớn hơn và người dân Pađua đồng ý xây. Đối với họ, không thể để Thánh Antôn ở nơi nào khác hơn là ở đan viện Đức Mẹ Maria nên họ quyết định nới rộng ra. Nhà cầm quyền chọn Thánh Antôn là thánh bảo vệ chính thức thành phố và hàng năm thành phố sẽ mừng lễ vào ngày Thánh Antôn qua đời, 13 tháng 6, một tuần trước và một tuần sau ngày 13 tháng 6. Ngày hôm đó nhà cầm quyền dân sự, các tu sĩ và giáo dân sẽ tụ họp nhau ở mộ Thánh Antôn. Nghị viện cam kết trả 4000 quan tiền chi phí vật liệu và nhân lực để dựng một bức tượng lớn ở quảng trường chính. Kiến trúc sư danh tiếng Nicolas Pisano được chọn để lên kế hoạch và giám sát việc thực hiện kể cả làm lại nhà thờ cũ.

Công việc bắt đầu nhưng thường bị gián đoạn vì các xáo trộn tiềm ẩn của ông Ezzelino, ông tiếp tục trị vì trong thành phố. Công việc chỉ được tiếp tục sau khi ông này tự tử khi những người thánh chiến bắt ông giam tù, từ đó cả vùng được bình an và tự do. Đến năm 1259 công việc xây cất bắt đầu lại. 

Bề trên Tổng quyền ngạc nhiên

Năm 1263, phần trước của đền thánh được xây xong. Mồ thánh được dời để khách hành hương có chỗ cầu nguyện và thợ được yên tĩnh làm việc. Việc di dời theo tinh thần đặc biệt của Dòng Phanxicô, chính bề trên Tổng quyền Bonaventure đích thân tham dự. Như thế một vị thánh tương lai di dời mộ của một vị thánh khác, đó là ngày 8 tháng 4 năm 1263. Tất cả nghị viên thành phố đi cùng với quan tổng trấn của mình, tất cả tu sĩ đi cùng với giám mục của mình, và hồng y Guido, giám mục giáo phận Bologne là đại diện tông tòa tham dự buổi di dời do bề trên Tổng quyền Bonaventure chủ sự.

Khi quan tài được mở ra, mọi người vui mừng, họ ngửi mùi thơm ngọt ngào lan tỏa vào không gian, mùi hương của các hoa lài, hoa hồng, hoa huệ trộn lẫn với mùi hương trầm bàng bạc. Niềm vui nhường chỗ cho thất vọng khi họ thấy xác của ngài đã thành bụi và xương đã bị tách rời. Nhưng họ lại phấn khởi khi thấy đầu còn tóc, hàm và răng và nhất là cái miệng. Cha bề trên Tổng quyền Bonaventure rất xúc động, ngài gỡ cái lưỡi ra và nói với  đám đông: “Ôi cái lưỡi đã chúc tụng Chúa luôn mãi, đã giảng cho người khác biết Chúa, bây giờ chúng ta biết cái lưỡi này có giá trị trước mắt Chúa như thế nào!” Ngài cung kính hôn và xin làm một bình thánh tích đặc biệt để đựng. Rồi ngài tách ra ba lô, bụi, xương và áo quần, các thánh tích này được đặt trong hòm đựng thánh tích bằng bạc.

Công việc xây dựng tiếp tục với sự quyên góp tiền bạc, vật dụng, nhân lực từ tất cả các quốc gia.

Lễ Hiện Xuống năm 1310, các tu sĩ Dòng Phanxicô họp tổng tu nghị lần thứ 36. Họ quyết định đem “vòm” vào giữa cung thánh để có thể xây một nhà nguyện sang trọng cho nơi ở cuối cùng của Thánh Antôn. Bề trên Tổng quyền Gonzalve chủ sự việc di dời này.

Lời khấn của hồng y

Năm 1349, đền thánh sắp xong. Giáo hoàng Clément X khi đó đang bị tù ở Avignon, ngài quyết định năm sau tổ chức năm thánh để xin Chúa cho bệnh dịch hạch đang tàn phá Âu châu được chấm dứt. Ngài chỉ định hồng y Guy de Montfort mở các ngày lễ ở Rôma. Hồng y lên đường đi Ý. Như ngày xưa khi Thánh Antôn rời vùng Midi miền nam nước Pháp, ngài đã dừng ở Cuges. Hồng y vị vướng vào căn bệnh khủng khiếp này, dù được săn sóc nhưng căn bệnh ngày càng nặng. Ngài nhớ các tu sĩ Dòng Phanxicô dự định di dời thi thể của Thánh Antôn vào ngày 14 tháng 2 năm 1350. Ngài xin Chúa chữa lành cho mình và hứa sẽ chủ sự buổi lễ này. Ngài được lành ngay và không để lại di chứng nào. Ngài cám ơn người dân đã săn sóc, chữa trị, cầu nguyện cho mình và hứa mang thánh tích vị thánh mà họ yêu quý về.

Tôn kính thánh tích

Hồng y có mặt ở Pađua ngày 14 tháng tháng 2 năm 1350. Trong nhà thờ đủ mọi tầng lớp xã hội và tôn giáo tụ họp, ngài đặt hòm thánh tích giữa ngôi nhà nguyện trong đền thánh, bây giờ đền thánh có tên là Đền thờ Thánh Antôn. Các thánh tích chính ở ngôi mộ ban đầu của ngài. Nhưng hồng y mang bức tượng bán thân bằng bạc để đựng hàm và một xương cánh tay. Còn lưỡi thì đã để trong mặt nhật bằng thủy tinh và bạc. Để kết thúc buổi lễ, hồng y dâng thánh lễ trên mộ Thánh Antôn. Còn người dân ở Cuges, họ không quên lời hứa của mình: họ gởi đến một phần cái sọ mà họ cung kính giữ. Các địa phương khác trên khắp nước cũng nhận một số thánh tích: đầu tiên là Lisbon nơi “Fernand trở thành thầy Antôn”, Venise, Vienne (Áo), Bourges… Dù ngày 13 tháng 3 năm 1652, chính quyền Pađua cấm bất kỳ sự tách rời nào thêm một lần nữa dù là một phần của hòm thánh tích, nhưng các tu sĩ nam nữ cũng lấy được từ các mảnh y phục của Thánh Antôn hay các vật dụng đã chạm vào cơ thể ngài.

Một giai điệu của tất cả các phong cách

Chúng ta có thể nói gì về đền thờ Thánh Antôn mà khách hành hương gọi là đền thờ “Vị Thánh”? Có thể định nghĩa một phong thái của nhà thờ không? Chắc chắn là không, vì nhà thờ được xây từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 15, qua sự phát triển kiến trúc kế tiếp nhau, nên cuối cùng là một sự hòa hợp của nghệ thuật la mã, gô-tic và ả rập-byzantin. Đền thờ bên ngoài giống đền thờ Thánh Máccô ở Venise, đền thờ này lấy cảm hứng từ đền thờ Thánh Sophia ở Constantinople. So sánh này giải thích cho sáu mái vòm lớn có thánh giá ở trên, bốn tòa tháp đa giác có cửa sổ và vương miện mũi tên; tòa tháp lớn nhất trong số các tòa tháp này có chân đèn làm bệ cho tượng thiên thần thổi kèn trôm-pét. Mái nhà khổng lồ có hai gác chuông hình bát giác, một trong hai gác chuông này là chuông nhà thờ của đan viện Mẹ Maria. Các tu sĩ giữ chuông này vì đây là chuông nhắc người dân nhớ đến giờ đi nghe Thánh Antôn giảng, nhắc các sinh viên đi học thần học.

Một viện bảo tàng của tất cả

Chúng tôi không thể mô tả chi tiết những điều kỳ diệu được tập hợp ở bên trong ngôi đền thờ nguy nga này với ba lòng nhà thờ dài 115 mét, rộng 55 mét và vòm cao nhất là 38 mét. Ngay khi bước vào đền thờ, khách hành hương có cảm tưởng các nhân vật nổi tiếng nhất trong giới nghệ thuật đã để lại dấu ấn của mình ở đây, kể cả “Donatello” và các đồ đệ của ông Titien, Sansovino, Mantegna đều ganh đua tài năng và sự khéo léo của họ, mỗi người mang nét đẹp nhất của mình vào công trình này. Các thợ nề, thợ đục đẽo, thợ đóng gỗ quý, thợ chạm trỗ, họa sĩ, điêu khắc gia, thợ làm kiếng, tất cả cùng làm việc hài hòa với nhau, họ dùng các vật liệu tốt nhất và đa dạng nhất; đá quý, cẩm thạch, sắt, đồng, vàng, bạc, thủy tinh, pha lê… làm cho các mái vòm, các khung kiếng, cửa sổ, cột trụ, các tấm đan, các bức chạm, các cột nến, các thập giá… và trên dưới ba trăm bức tượng có nét đẹp rất đặc biệt. Hầu hết các tác phẩm này mang hình ảnh trong Tân và Cựu ước hay cuộc đời và các phép lạ của Thánh Antôn.

Nơi thu hút nhiều người đến thăm nhất là nhà nguyện “Thánh Antôn” ở phía nam, phải đi qua một cầu thang có bảy cấp bằng đá cẩm thạch. Bàn thờ bằng đá cẩm thạch có dạng ngôi mộ đựng hài cốt của Thánh Antôn. Ở trên là ba tượng bằng đồng, tượng ở giữa là Thánh Antôn, hai bên là Thánh Bonaventure và Thánh Louis d’Anjou, giám mục giáo phận  Toulouse.

Cũng nên nhắc ở đây, ngược với nhà nguyện huy hoàng này là nhà nguyện khiêm tốn hơn ở bên cạnh: một phần của ngôi nhà thờ cũ Mẹ Maria, chính nơi đây là nơi Thánh Antôn hát “giờ kinh” và giảng dạy thần học cho sinh viên của đan viện… Đây cũng là nơi an nghỉ của thầy Luc Belludi, người đồng hành với Thánh Antôn, nơi này cũng như nhà của thầy vì gia đình thầy tặng cho nhà Dòng miếng đất trên đó xây vương cung thánh đường. Một trong bảy nhà nguyện này có chưng mặt nhật bằng pha lê và đồng đựng lưỡi, một cái xương cánh tay và cằm, và một số vật dụng trang hoàng.

Như thế vương cung thánh đường Thánh Antôn ở Pađua pha trộn các kiểu kiến trúc hài hòa và các tác phẩm nghệ thuật khác nhau. Nơi đây quy tụ khách hành hương đủ mọi nguồn gốc, mọi thời, mọi nơi, họ đến đây trong những ngày lễ trọng nhất là ngày 13 tháng 6 hàng năm, có thánh lễ ở ngôi mộ, có đoàn rước thánh tích trong thành phố. 

Một vị thánh cho đủ mọi thể loại

Sự thống nhất trong đa dạng này phù hợp với hình ảnh Thánh Antôn. Antôn khi còn là Fernand, là người uyên bác của Dòng Thánh Âugutinô; rồi sau đó Antôn qua Dòng Thánh Phanxicô để có một đời sống khiêm nhường và suy niệm hơn. Đó là linh mục quên mình mà cha bề trên nào cũng muốn có họ trong đan viện mình, nhưng vì đức ái họ phải để Antôn ở trong ẩn thất. Từ thời của mình, Antôn đã được những người tài giỏi đương thời ngưỡng mộ về tài hùng biện, về kiến thức của ngài. trở thành người có khả năng hoán cải những người dị giáo, nhưng khi có thể, ngài thích lui về trong thinh lặng để tìm nguồn năng lực. Antôn cũng là vị tử đạo vì mong ước, dù gặp giông bão, dù phải lạc đến một nơi không chủ định, cuối cùng Antôn cũng được quay về sống yên bình bên cạnh các tu sĩ anh em của mình.

Nét đa dạng này chúng ta tìm thấy trong sự thánh thiện của Antôn. Thánh thiện do sự tinh tuyền trong đời sống phong phú qua cầu nguyện, qua giảng dạy cho các anh em, qua sức mạnh của lời nói đứng trước người cao cả nhất cũng như người thấp bé nhất, qua phép lạ ngài làm khi còn sống cũng như sau khi qua đời. 

Thánh Antôn, xin nhìn đến các khốn khổ của chúng con!

Vì thế bao nhiêu là lý do để chúng ta xin ngài cầu bàu:

“Lạy Thánh Antôn, ngài ở gần Chúa, ngài biết rõ trung bình tuổi của các tín hữu Pháp và một phần của châu lục Âu châu! Ngài biết rõ con cháu chúng con, những em vị thành niên, những em thanh niên, các bạn trẻ không thấy có lý do gì để đến nhà thờ! Đa số các em nhận giáo lý theo một “khuôn” nhưng đầy thiếu sót, có khi còn không nhận gì! Và bây giờ trong một số trường công giáo, để không đi ngược với những người không tin, các lớp khơi dậy đức tin không còn bắt buộc, học sinh nào muốn học thì không dám đến sợ bạn cười.

Lạy Thánh Antôn, ngài thấy xã hội vỡ mộng của chúng con không còn cột mốc! Ngài thấy đâu đâu từ báo chí, truyền hình, internet… cũng cổ động yêu tiền, yêu quyền lực, ma túy, rượu, tình dục với tất cả lệch lạc đề cao lý thuyết về ‘giới tính’, một chuyện chưa từng có.

Ngài thấy rõ sự đau buồn của các gia đình bị tan vỡ, các vấn đề đủ loại ở các gia đình gọi là gia đình ‘hàn gắn’. Không ngạc nhiên gì khi trẻ con bị phân tâm trong một gia đình không ổn định, ít có động lực dấn thân, xây dựng một gia đình hay đáp lại lời kêu gọi của Chúa. Cũng không có gì ngạc nhiên khi các ý tưởng của những người ủng hộ phá thai, trợ tử có được con đường của mình trong một số nơi chủ trương ‘vừa lòng mọi người’ để loại ra khỏi xã hội những người không sinh lợi (trẻ em chưa sinh, người bệnh hoặc người quá già!).

Lạy Thánh Antôn, xin lắng nghe lời cầu nguyện của chúng con!

Lạy Thánh Antôn, xin tiếp tục nâng đỡ chúng con trong các lo lắng nhỏ của chúng con được đề cập đến ở phần đầu quyển sách này. Cho tất cả chúng con, thật là dễ chịu khi tìm lại được chìa khóa hay mắt kiếng… Nhưng vì ngài khéo léo trong nghệ thuật làm cho chúng con tìm lại những gì đã đánh mất, xin cho chúng con tìm lại được của cải cao quý mà chúng con gọi là đức tính: đức tin, đức cậy, đức ái. Các đức tính này làm cho chúng con có cùng Cha và là anh em trong Chúa Giêsu Kitô, và làm nảy sinh ra tất cả các đức tính khác, những đức tính cần thiết cho đời sống hàng ngày, ‘đời sống chung’ của chúng con như lòng tốt, lòng rộng lượng, sốt sắng, khiêm nhường, đơn sơ, dịu dàng, ngay thẳng, chừng mực, công chính, trung tín, khiết tịnh…) vì các đức tính này giúp chúng con quy về Chúa Kitô và khám phá khuôn mặt của Ngài nơi từng anh em của chúng con.

Lạy Thánh Antôn, nếu Chúa muốn giữ cái lưỡi nguyên vẹn của ngài cho chúng con, cái lưỡi của lời, xin ngài tiếp tục rao giảng trong thầm lặng. Hoán cải những người không tin và mang lại sự thật cho những người sống trong lầm lỗi. Xin ngài củng cố đức tin cho những người có lòng tin. Xin ngài mang lại hy vọng, niềm vui, sức khỏe, thịnh vượng cho những người đang gặp thử thách. Xin ngài mang an bình vào nơi bất hòa, xin mang công lý cho các nạn nhân của việc khai thác lợi nhuận, của cho vay nặng lãi hay các lạm dụng quyền lực… Lạy Thánh Antôn, ngài là vị thánh của đa dạng, xin lắng nghe đủ loại cầu xin của chúng con. Qua lời cầu bàu của ngài, chúng con có thể có được tất cả. Vì nếu các bạn thánh của ngài trên trời chuyên về một lãnh vực thì xin cho chúng con chứng nghiệm Thánh Antôn là thánh được mọi người cho là “thánh của tất cả mọi người”.

Lạy Thánh Antôn, xin cầu bàu cho chúng con!”

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc thêm: Mai táng gặp vấn đề (1-3), Thánh Antôn Pađua

Mai táng gặp vấn đề (2-3) Thánh Antôn Pađua

Lời nói đầu sách Tiểu sử Thánh Antôn Pađua 

Ngày Thế giới Người nghèo: 1.500 người nghèo và vô gia cư vào bàn với Đức Phanxicô

Ngày Thế giới Người nghèo: 1.500 người nghèo và vô gia cư vào bàn với Đức Phanxicô

Sau thánh lễ Ngày Thế giới Người nghèo cử hành tại Đền thờ Thánh Phêrô, Đức Phanxicô đãi người nghèo và các thiện nguyện viên bữa ăn trưa tại Hội trường Phaolô VI . Thực đơn là các món ăn được đạo hồi cho phép (halal) để người hồi giáo ăn không gặp vấn đề.

parismatch.com, 2019-11-17

Sau thánh lễ Ngày Thế giới Người nghèo cử hành tại Đền thờ Thánh Phêrô, Đức Phanxicô đãi người nghèo và các thiện nguyện viên bữa ăn trưa tại Hội trường Phaolô VI . Thực đơn là các món ăn được đạo hồi cho phép (halal) để người hồi giáo ăn không gặp vấn đề.

Trong thánh lễ Đức Phanxicô giảng: “Suy nghĩ của tôi dành cho những người có sáng kiến đoàn kết để mang lại hy vọng cụ thể cho những người thiệt thòi nhất. Gần đây, tôi đau lòng khi đọc các thống kê về nạn nghèo khổ. Cả xã hội dửng dưng với người nghèo.” Sau đó ngài cũng cám ơn các thiện nguyện viên, đội ngũ y tế đã chăm sóc miễn phí cho người nghèo ở Vatican. Ngài cũng chỉ trích lối sống vội vã, ám ảnh với các chủ đích muốn có cho bằng được, xem những người ở ngoài xã hội là một cái gì phiền toái. Một cái gì phải vứt bỏ. Có bao nhiêu người lớn tuổi, trẻ em chưa được sinh ra, bị cho là vô dụng. Chúng ta tiếp tục vội vã đi con đường của mình, không quan tâm đến hố ngăn cách, đến sự tham lam của một nhóm người làm nặng thêm sự nghèo khổ của người khác”.

Anh Oscar, một người di dân người Lituani sống ở Ý từ mười ba năm nay cho biết: “Con cám ơn Đức Giáo hoàng và Vatican vì Vatican giúp cho người nghèo rất nhiều, giúp thuốc men, thức ăn, áo quần và nhiều thứ khác”. Anh Lamin Jarra, một người di dân Gambie nói: “Chúng con kiếm sống khó khăn, nhiều khi làm 7, 8 giờ có khi 10 giờ chỉ được 30 âu kim, đời sống chúng con thật vất vả”.

Anh Lorenzo Ferraro, thiện nguyện viên phục vụ bữa ăn cho biết: “Quan trọng là chúng ta mở lòng ra với những người yếu đuối, những người cùng khốn”.

Lasanha và gà trong thực đơn

Bữa ăn này được Hội đồng Giáo hoàng đặc trách Phúc Âm hóa tổ chức và Đức Tổng Giám mục Rino Fisichella ra thực đơn đặc biệt. Món salanha với nước sốt không có thịt heo, gà chiên với kem nấm và khoai tây, tráng miệng, trái cây, cà phê.

Mở đầu bữa ăn, Đức Tổng Giám mục Fisichella lên tiếng: “Trong bữa ăn hôm nay, chúng tôi không dùng thịt heo để nấu ăn, mọi người có thể ăn uống an toàn”.

Tháng vừa qua, một cơn bão quốc gia chưa từng có đã xảy ra, đặc biệt là ở tỉnh Émilie-Romagne, sau khi Tân Giám mục Matteo Maria Zuppi của giáo phận Bologne đã phục vụ tại quảng trường món tortellini không có thịt heo mà chỉ dùng thịt gà, để mừng lễ thánh bổn mạng của thành phố. Người dân thành phố Emilie tức giận và hai phe được thành lập ngay lập tức, một bên theo chủ nghĩa thuần túy bảo vệ thực đơn có từ hàng thế kỷ, một bên là những người thích ứng các thực đơn truyền thống nhưng với văn hóa mới của các người di dân.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Thứ sáu Lòng thương xót: Đức Phanxicô thăm bệnh xá ở Quảng trường Thánh Phêrô

Đức Phanxicô khánh thành trung tâm tiếp nhận người vô gia cư gần Vatican

Hình: Bữa ăn trưa tại Hội trường Phaolô VI

Bài mới nhất