Home Blog Page 825

Linh mục Dòng Tên Kakichi Kadowaki: Thiền và Kinh Thánh

Linh mục Dòng Tên Kakichi Kadowaki: Thiền và Kinh Thánh

 

Nhân dịp Đức Phanxicô có chuyến tông du đến nước Nhật vào ngày 23 tháng 11, chúng tôi xin trích dịch lời giới thiệu sách Thiền và Kinh Thánh (Le Zen et la Bible, Kakichi Kadowaki, nxb. Albin Michel, 1983) của linh mục Dòng Tên Kakichi Kadowaki để hiểu tiến trình tìm hiểu Thiền và Kinh Thánh của ngài.

Linh mục Kakichi Kadowaki (1926-2017) biết đạo công giáo khá trễ trong cuộc đời. Khi suy nghĩ các Bài tập Linh thao, ngài phát hiện có mối liên hệ họ hàng giữa đời sống tu sĩ kitô giáo với đời sống các thiền sư. Và trong ánh sáng này, một cách dọc Kinh Thánh mới đã mở ra cho ngài với xúc cảm, cơ thể và nội tạng. Cuối cùng qua kinh nghiệm riêng của mình, ngài đưa ra sự hợp lưu của việc ngồi thiền và tĩnh tâm theo tinh thần I-Nhã.

Linh mục Kakichi Kadowaki là tu sĩ Dòng Tên, giáo sư triết học ở Đại học  Sophia, Tokyo, ngài cố gắng vượt lên các khác biệt rõ ràng giữa hai linh đạo lớn để giúp chúng ta gần gũi hơn với cuộc hành trình thiêng liêng.

“Tôi đang ở Đức vài năm để nghiên cứu về nhà thần nghiệm Đức thời Trung cổ, Thầy Eckhart. Khi ở đó tôi được giáo sư thần học Joseph Ratzinger, (sau này là hồng y, rồi giáo hoàng) mời thuyết trình về “Thiền và Kitô giáo” trước một nhóm sinh viên tiến sĩ của ngài. Trong phần trình bày của tôi, tôi giới thiệu Thiền ngược với suy nghĩ của Thánh Tôma Aquinô và dù tiếng Đức của tôi không giỏi, giáo sư và sinh viên cũng ngồi chăm chú nghe. Khóa học mà tôi tham dự được tổ chức hàng năm vào cuối các học kỳ. Tất cả chúng tôi ở lại đêm ở khách sạn và chúng tôi thảo luận với nhau hàng giờ. Vào cuối buổi, giáo sư Ratzinger nói với tôi: “Sẽ rất thú vị nếu cha so sánh các quan điểm của Thiền với các quan điểm của Kinh Thánh. Nếu cha có thể làm, thì đây là một sự kiện, không những cho đối thoại giữa Thiền và kitô giáo mà còn liên hệ đến việc trao đổi ý thức hệ giữa Đông và Tây.” Nhận xét này đã đánh động đến tôi sâu đậm, vì lúc đó tôi chưa có một khái niệm nhỏ nào về các điểm có thể giống nhau giữa Sách Thánh và tư tưởng Zen. Sau đó, chuyện này hoàn toàn đi ra khỏi đầu tôi và cả một thời gian dài, tôi không suy nghĩ đến.

Các Công án của Thiền là Vô Môn (các câu hỏi-trả lời), một hình thức đối thoại đặc biệt trong Thiền Lâm Tế (Zen Rinzai). Chúng có một chỗ trong truyền thống Phật giáo Đại thừa và chúng ta có thể xem đó là quá trình khéo léo của Thiền thừa hưởng minh triết đặc biệt của người Trung quốc. Sách Thánh của kitô giáo là Tân Ước được viết cách đây 2000 năm là thông điệp cứu rỗi của Chúa Giêsu Kitô mang đến cho người do thái.

Các phương pháp đào tạo, nền tảng tư tưởng Phật giáo và Kitô giáo thì khác nhau. Phật giáo cho rằng mọi tạo vật đều có Phật tính. Kitô giáo khẳng định đức tin được Chúa Kitô mạc khải, sự tồn tại của Chúa Ba Ngôi trong một Thiên Chúa duy nhất và dạy, trời và đất đều được Thiên Chúa duy nhất này tạo dựng. Một bên nhìn Lịch sử theo vòng luân chuyển, một bên nhìn theo đường thẳng của Lịch sử cứu độ. Hai bên hoàn toàn khác nhau trên nhiều điểm. Trên thực tế, các Công án của Zen và Sách Thánh của kitô giáo hoàn toàn khác nhau, dường như không có khả thể nào để tìm các điểm giống nhau trên cơ sở. Đó là suy nghĩ và ý tưởng của tôi đã không thay đổi sau nhiều năm thực hành Zen.

Tuy nhiên khi từ Đức trở về, tôi bắt đầu chú tâm vào việc thực hành Thiền mà trước đây tôi chỉ mới chạm vào. Khi kinh nghiệm về Thiền của tôi lớn dần, tôi nhận ra một sự thật kỳ lạ: tôi phát hiện ra, dù bên ngoài mang những nét rất khác nhau, nhưng cả Công án và Sách Thánh có một sự tương đồng đáng ngạc nhiên.

Mới đầu trải nghiệm này đi một con đường kín đáo thậm chí chính tôi cũng không nhận ra một cách rõ ràng. Khi tôi bắt đầu ngồi thiền (zazen, suy nghĩ ở tư thế ngồi) tôi nhận ra ngay từ đầu, tôi có thể đọc Sách Thánh lặng lẽ hơn, hiểu được chiều sâu của nó dễ dàng hơn. Mới đầu tôi không hiểu vì sao ngồi thiền lại giúp tôi hiểu ý nghĩa Sách Thánh dễ dàng hơn. Tuy nhiên với kinh nghiệm lặp đi lặp lại, tôi bắt đầu suy nghĩ và cuối cùng tìm được một câu trả lời có tính cách tâm lý: khi ngồi thiền, tâm trí tỉnh lặng, ý nghĩa thiêng liêng của Sách Thánh có cơ hội thấm nhập sâu thẳm hơn trong tâm hồn. Chắc chắn ngồi thiền có tác dụng này trong việc đọc Sách Thánh mà lý do thật sự vẫn còn ẩn giấu đối với tôi. Lúc đó tôi chưa hình dung được có một sự tương đồng nội tại giữa các Công án và Kinh Thánh. Sau này khi tôi tham dự các khóa tu thiền, tôi ngạc nhiên khám phá tôi thích Sách Thánh hơn và nhận ra ý nghĩa các đoạn mà trước đây tôi hoàn toàn không hiểu được; như thể các vảy từ đôi mắt rơi xuống. Kinh nghiệm này được lặp lại nhiều lần, tôi bắt đầu thấy các Công án và Thánh Kinh có một cái gì đó chung.

Trong quyển sách này, trước hết tôi mô tả tôi đã gặp thiền như thế nào. Kể từ khi bắt đầu thực hành, tôi thực sự đã học được từ Thiền: sự thanh lọc cơ thể và tâm hồn hoàn toàn, một con đường chiêm nghiệm sâu đậm, một sự hợp nhất của cầu nguyện và đời sống hàng ngày và còn nhiều chuyện khác nữa. Trong số này tôi đã chọn bốn chuyện giống nhau giữa các Công án và Kinh Thánh, các đặc nét mà Thiền và đời sống tu trì kitô giáo có điểm chung. Và đó là nội dung của phần đầu tiên: những gì Thiền dạy chúng ta. Tôi thêm nhiều Công án và các đoạn Thánh Kinh và thảo luận về các đặc điểm chung của chúng.

Và “cơ thể như độc giả của Công án và Thánh Kinh” là chủ đề chính của tác phẩm (trong thực tế, chủ đề đã được nói lên trong phụ đề). Và phần thứ nhì: “Các Công án và Thánh Kinh” cũng là trọng tâm của quyển sách. Tuy nhiên các Công án và Sách Thánh không những chỉ được nghiên cứu trong phần này; dù chủ đề hoặc quan điểm có thể thay đổi, nhưng chúng là những ghi chú nổi bật đi suốt quyển sách. Hơn nữa, như tôi đã trình bày chi tiết trong phần thứ nhì, sự việc đọc các Công án và Sách Thánh cùng với toàn cơ thể, chứ không phải chỉ với cái đầu là điểm quan trọng được đề cập đến trong quyển sách này. Vì lý do này, tôi đã điều chỉnh một thuật ngữ mà vị thánh Phát giáo Nichiren đã dùng: “Cơ thể là người đọc (shikidoku) trong tiếng Nhật hiện đại: ngôn ngữ đức tin (shindoku”).

Tôi đã nhận giáo huấn kitô giáo khi học giáo lý. Nhưng chỉ một mình giáo lý không mà thôi, dù nó cần thiết để đi vào đức tin, nhưng nó khôngcó khả năng làm cho tôi hiểu sâu đậm. Chính qua các Bài tập Linh thao của Thánh I-Nhã mà tôi có được kiến thức sâu sắc và cốt lõi nhất về kitô giáo và tôi học cách thực hành nó với cơ thể của mình. Sau này khi tôi bắt đầu thực hành Thiền, tôi khám phá các Bài tập Linh thao và tiếp tâm (sesshin) của Thiền rất giống nhau. Và tôi nghĩ rất nhiều giảng dạy tôi nhận được từ Thiền đã giúp tôi đổi mới cách thực hành các Bài tập Linh thao. Phần thứ ba của quyển sách “Các Bài tập Linh thao và tiếp tâm Thiền” xuất phát từ kinh nghiệm cá nhân này.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Thiền và Kinh Thánh (Le Zen et la Bible, Kakichi Kadowaki, nxb. Albin Michel, 1983)

Thái Lan: Nhóm giáo lý viên Karen được gặp Đức Phanxicô

Thái Lan: Nhóm giáo lý viên Karen được gặp Đức Phanxicô

 

vaticannews.va, Olivier Bonnel, Vatican, 2019-11-19

Tối thứ ba 19 tháng 11 Đức Phanxicô lên đường đi Thái Lan và sau đó là Nhật Bản. Ngài là giáo hoàng thứ nhì đặt chân đến các quốc gia này sau Đức Gioan-Phaolô II năm 1981 ở Nhật và năm 1984 ở Thái Lan.

Ở Thái Lan Giáo hội công giáo là một cộng đồng thiểu số và Đức Phanxicô đến để khuyến khích họ.

Nhân dịp kỷ niệm 350 năm ngày thành lập Tòa Khâm sứ Tòa Thánh Xiêm năm 1669, Đức Phanxicô có chuyến đi hai ngày đến Thái Lan. Thái Lan là nước có 90 đa số là phật tử và tín hữu kitô chỉ chiếm 1% đa số. Mục đích đầu tiên của chuyến tông du này là để nâng đỡ đức tin của nhóm thiểu số này. Đức Phanxicô đã viết thông điệp gởi các tín hữu Thái Lan tháng 5 vừa  qua: “Tôi cầu nguyện để anh chị em lớn lên trong thánh thiện và tiếp tục truyền bá nước Chúa trị đến, nâng đỡ nhau trong tình liên đới, huynh đệ và khát vọng tốt lành, sự thật và công lý ở đất nước xinh đẹp của anh chị em”. 

Dân tộc thiểu số Karen

Cộng đồng công giáo địa phương phân chia giữa hai nhóm, nhóm sống ở các thành phố lớn và nhóm thiểu số Karen sống ở miền núi phía bắc Thái Lan. Trên khắp đất nước, họ chỉ có 250 000 người dân. Một nhóm dân thiểu số ở chân đồi dãy Hy Mã Lạp Sơn, người Karen ban đầu là người du mục, sống bằng nghề săn bắn, câu cá và trồng trọt. Họ gom lại ở trong các ngôi làng nhỏ, sống xa thế giới bên ngoài, họ có kiến thức quý giá về thiên nhiên. Lối sống của họ vẫn còn giữ truyền thống nhưng họ liên tục bị đe dọa bởi sự phát triển kinh tế và xã hội trong nước, bị lên án nên một số người phải bỏ trốn về thành phố ở.

Linh mục người Karen đầu tiên

Người Karen nhận Tin Mừng cách đây 60 năm nhờ lòng nhiệt tình của linh mục Joseph Quintard thuộc Hội Thừa sai Hải ngoại Paris. Linh mục đến ở thành phố Maesot, miền Đông-Bắc Thái Lan. Ở thành phố Maewé cách đó 200 cây số, linh mục mở một trường học và một căn nhà tiếp nhận, ngài dâng thánh lễ ở đây. Một trung tâm truyền giáo ra đời và được linh mục Alain Bourdery tiếp tục từ năm 2004, linh mục cũng được Hội Thừa sai Hải ngoại Paris đào tạo và sống tại Thái từ 20 năm nay. Linh mục Alain tiếp tục công việc của người tiền nhiệm. Một sứ vụ mang hoa quả ngày nay vì đã có một linh mục người Karen được chịu chức vào tháng 5 năm 2019 vừa qua, một niềm vui lớn cho toàn cộng đồng. 

Chuyến đi Rôma khó quên

Tháng 9 vừa qua, nhân chuyến tông du sắp đến của Đức Phanxicô, linh mục Alain Bourdery đã cùng với chín giáo lý viên Karen của giáo phận đi hành hương Rôma. Một khoảng khắc khó quên của họ, những người chưa bao giờ rời miền Bắc nước Thái.

Tại Rôma, ngày 25 tháng 9 trong ngày tiếp kiến chung, linh mục Alain nhận tin nhắn mời nhóm đến Nhà Thánh Marta để gặp Đức Phanxicô. Một trong các giáo lý viên kể: “Chúng tôi chờ và cánh cửa mở ra, ngài đến với chúng tôi. Không cận vệ, không thư ký, ngài tiếp chúng tôi 30 phút. Chúng tôi cùng cười với nhau. Rồi ngài nói: ‘Các con chờ cha’. 5 phút sau ngài trở lại với hai chiếc túi lớn: mỗi người được ngài tặng một bức tượng”

Một kỷ niệm khó quên và ngoài mong chờ của các bạn trẻ công giáo Thái, được Đức Giáo hoàng lắng nghe mình.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Người tị nạn thất vọng về chuyến đi Thái Lan của giáo hoàng

 Chi tiết chương trình chuyến đi Thái Lan và Nhật Bản của Đức Phanxicô

Mai táng gặp vấn đề (2-3) Thánh Antôn Pađua 

Mai táng gặp vấn đề (2-3) Thánh Antôn Pađua

Trích sách Tiểu sử Thánh Antôn Pađua, Françoise Bouchard, nxb. Salvator

 

Người tu sĩ khiêm nhường đầy vinh dự

Các lời thỉnh cầu đồng nhất

Người dân Pađua cùng vui, cùng tự hào với nhau vì có được Thánh Antôn ở trong thành phố của mình, và qua lời cầu bàu của ngài, bao nhiêu ơn được đổ xuống trên những người đến cầu nguyện trên mộ ngài. Giám mục Jacques Corrado, quan tổng trấn, các hiệp hội, trường Đại học, các nhà quý tộc và người dân thường thỉnh cầu xin giáo hoàng mở án phong thánh cho Antôn. Một tháng sau, họ gởi một phái đoàn đến Spolète nơi giáo hoàng đang ở đó. Chúng ta đã biết giáo hoàng Grêgôriô IX yêu mến các tu sĩ Dòng Phanxicô, đặc biệt với Antôn nên lập tức nhận lời thỉnh cầu. Ngài bổ nhiệm một hội đồng ở Pađua dưới quyền của giám mục, hội đồng này gồm hai bề trên Dòng Biển Đức và Dòng Đa Minh trong thành phố và vài linh mục trong giáo phận. Ngài cũng bổ nhiệm một hội đồng thứ nhì ở Rôma gồm các tu sĩ, các giám chức do hồng y người Pháp Jean d’Abbeville đứng đầu. Sáu tháng sau, hội đồng ở Pađua đã nhận các chứng từ phép lạ và chuyển về Rôma, Rôma cũng nhận không dưới 47 phép lạ. Một con số đủ lớn để Ủy ban Phong thánh đề nghị với giáo hoàng tuyên bố phong thánh cho Antôn.

Các người chống đối đầu hàng

Trong số các hồng y có một số chống tiến trình quá nhanh này. Dưới mắt họ tiến trình này đốt cháy các giai đoạn “bậc đáng kính” và “chân phước”. Một chuyện chưa từng xảy ra trong Giáo hội! Hồng y chống đối nhất một đêm nằm mơ một giấc mơ kỳ lạ. Ngài thấy giáo hoàng chuẩn bị buổi lễ trên bàn thờ của một ngôi thánh đường mới. Vì không thấy thánh tích trên bàn thờ như nghi thức đòi hỏi, ngài hỏi các hồng y chung quanh. Không ai có. Khi đó hồng y thấy giáo hoàng đến gần một thi thể có phủ khăn liệm và xin đem đến cho mình thánh tích. Khi mở khăn liệm lên thì đó là thi thể Antôn!… Đây chỉ là giấc mơ. Nhưng khi thức dậy, hồng y hiểu Chúa muốn thuyết phục mình phải để cho Antôn được phong thánh ngay. Và sự thay đổi ý kiến của hồng y đã chấm dứt mọi kháng cự. Giáo hoàng ấn định ngày phong thánh là ngày 30 tháng 5, ngày lễ Chúa Hiện Xuống ở Spolète, nơi ngài vẫn đang còn ở đó. 

Ngọn đuốc trên chân nến

Ngày 30 tháng 5 năm 1232, một đám đông vĩ đại tràn về nhà thờ chính tòa Spolète, các bức tường nhà thờ được bọc nhung và lụa với ánh sáng rực rỡ muôn màu. Không thể biết hết họ từ đâu tới, từ các tỉnh bang nước Ý, từ các nước Âu châu và dĩ nhiên là từ Bồ Đào Nha, quê hương của Thánh Antôn và miền nam nước Pháp, nơi Thánh Antôn đưa nhiều người dị giáo trở lại đạo công giáo. Từ trên ngai của mình, giáo hoàng Grêgôriô IX không giấu được xúc động khi nghe bốn mươi bảy phép lạ được một thầy đọc xướng lên. Rồi ngài đứng dậy, hai tay giang ra, mắt hướng về trời, ngài long trọng tuyên bố:

“Vinh danh Thiên Chúa Ba Ngôi, với uy quyền tông tòa và sau khi hội ý với anh em hồng y, chúng tôi xin ghi chân phước Antôn vào danh sách các thánh và chúng tôi ấn định ngày lễ sẽ là ngày 13 tháng 6.”

Sau đó mọi người hát kinh Tạ ơn Te Deum mà theo truyền thống là kinh kết thúc buổi lễ. Nhưng ngay sau đó, giáo hoàng xướng điệp ca “O Doctor optime” và tất cả giáo sĩ hát theo ngài. Sáng kiến bất ngờ này làm cho mọi người xác tín: Antôn xứng đáng được Giáo hội nâng lên bậc “tiến sĩ Giáo hội”, danh hiệu này Antôn sẽ nhận bảy thế kỷ sau.

Sau buổi lễ, giáo hoàng Grêgôriô IX công bố hai sắc chỉ chứng thực việc phong thánh:

– ngày 1 tháng 6 năm 1232 gởi hàng giáo sĩ và giáo dân Pađua: “Chúng tôi muốn làm nhụt chí người dị giáo và khuyến khích đức tin tín hữu kitô… Chúng tôi muốn thành phố cao quý Pađua là ngọn đuốc trên chân nến để các thị trấn lân cận đi theo ánh sáng này;

– ngày 22 tháng 6 là ngày dành cho Giáo hội hoàn vũ, là ngày ca ngợi người bảo vệ tinh thần kitô: Chúng tôi đã từng kính mến đức thánh thiện trong đời sống của Thánh Antôn và những điều tuyệt vời trong sứ vụ của ngài vì ngài đã thực hiện một cách cao cả nhất dưới mắt chúng ta!… Khi ngài còn sống ở trần thế, ngài đã rất thánh thiện. Bây giờ ngài ở trên trời, ngài còn tỏa sáng với vô số phép lạ đến mức mà sự thánh thiện của ngài đã cho thấy qua các dấu hiệu chắc chắn nhất. Chúng tôi xin anh chị em, chúng tôi xin loan báo cho anh chị em… Chúng tôi xin anh chị em khuyến khích tín hữu có lòng sốt mến và tôn kính Thánh Antôn.”

Lisbon ăn mừng

Trong việc phong thánh này, chúng ta không thể bỏ qua sự kiện kỳ lạ xảy ra ở Lisbon cũng cùng ngày cùng giờ. Ngày 13 tháng 6 khi giáo hoàng chính thức tuyên bố phong thánh ở Spolète cho Thánh Antôn thì tất cả người dân ở Lisbon cảm thấy bị thôi thúc phải đi ra khỏi nhà. Họ vừa đi vừa hát vừa nhảy mừng, họ đến gặp nhau ở các nơi công cộng. Bỗng nhiên họ nghe tiếng chuông nhà thờ đổ mà không ai rung chuông. Khi đó họ cũng chưa được chính thức thông báo là Antôn đã được phong thánh, sau này khi biết ra, họ hiểu Chúa đã loan báo tin vui này cho thành phố quê hương của Antôn. Chúng ta không ngạc nhiên khi người dân ở đây muốn mừng lễ ngày này và họ muốn được mừng ở nhà thờ chính tòa nơi ngày xưa khi còn nhỏ Antôn hay đến cầu nguyện và trong thời gian Antôn ở với các tu sĩ Dòng Biển Đức. Dĩ nhiên những người hạnh phúc nhất, những người tự hào nhất là gia đình thân thuộc của Antôn. Trước hết là hai chị Feliciana và Maria cùng các con của họ. Có thể có sự hiện diện của người cha nhưng không thấy các nhà viết tiểu sử nhắc đến người mẹ. Tuy nhiên chúng ta biết mẹ của Thánh Antôn đã chia sẻ vinh dự của con mình, ít nhất là sau khi Antôn qua đời vì trên mộ của bà có hàng chữ: “Nơi đây an nghỉ mẹ của Thánh Antôn” (Hic jacet mater sancti Antoniil). 

Hương hoa và ơn liên tục

Chúng ta biết, vừa khi Thánh Antôn qua đời, khách hành hương đã ùn ùn đến viếng mộ ngài. Tất cả những ai đến gần đều ngửi cùng một mùi thơm như lần dời thi thể từ đan viện Arcella về đan viện Mẹ Maria. Lời cầu nguyện của họ được nhận và rất nhiều phép lạ đền bù cho tấm lòng kính mến của họ. Quyển sách này đã kể lại một số khá đủ. Tôi xin ghi lại đây lời ghi nhận của tác giả Bản thảo của đan viện Ancône: “Nếu một sử gia kể lại tất cả phép lạ Thánh Antôn đã làm thì sợ e rằng số lượng phép lạ sẽ làm cho độc giả mệt mỏi; tầm cao lớn của các phép lạ này sẽ làm xáo trộn và gây nghi ngờ cho những người yếu tâm trí.”

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc thêm: Mai táng gặp vấn đề (1-3), Thánh Antôn Pađua

Lời nói đầu sách Tiểu sử Thánh Antôn Pađua 

 

Mai táng gặp vấn đề (1-3), Thánh Antôn Pađua 

Mai táng gặp vấn đề (1-3), Thánh Antôn Pađua

Trích sách Tiểu sử Thánh Antôn Pađua, Françoise Bouchard, nxb. Salvator

 Đồng minh kết hiệp

Một bí mật chóng được khám phá

Các tu sĩ đan viện Arcella rất mừng với đặc ân được ở bên cạnh Antôn trong những giây phút cuối, được săn sóc về cả thể xác và tinh thần cho người sắp chết. Họ muốn giữ thi thể ngài trong đan viện của mình nhưng lại sợ các tu sĩ đan viện Đức Mẹ Maria với lý do đến tôn kính ngài sẽ đưa thi thể ngài đi. Như thế điều quan trọng là không tiết lộ tin ngài đã qua đời để họ có thể chôn ngài trong nhà thờ sau buổi lễ hoàn toàn trong vòng tuyệt đối riêng tư. Họ tính như vậy mà quên trẻ con của khu vực “Tête-du-Pont”, khi chơi trong các con đường lân cận, chắc chắn các em sẽ thấy ‘xe bò’ chở Antôn đến đây trong tình trạng sắp chết không giấu ai được. Và danh tiếng người làm phép lạ các em đã nghe gia đình kể làm cho các em thấy mình có bổn phận phải loan báo cho mọi người biết, không những trong khu phố của mình mà cho cả thành phố. Và các em họp lại với nhau như đàn chim, đi khắp thành phố và ở các nơi công cộng của thành phố Pađua vừa đi vừa la hét: “Cha Thánh Antôn đã qua đời! Cha Thánh Antôn đã qua đời!”. Như thế trẻ con tự phát loan tin Antôn qua đời cho mọi người biết. Cũng chính các em là người đầu tiên “phong thánh” cho Antôn, không chờ Giáo hội phong thánh chính thức!

Những người khách tự phát

Ngay ngày hôm sau, tất cả người dân từ làng mạc, thị trấn, thành phố bên cạnh đều biết tin Antôn qua đời. Từ khắp nơi, người dân đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi môi trường tụ họp trước cửa đan viện Arcella. Suốt ngày, họ thay phiên nhau cầu nguyện, dâng phó ý chỉ của mình cho Thánh Antôn. Họ không ra về mà không có thánh giá, khăn tay, nhẫn, dây thắt lưng đã được chạm vào thi thể của ngài. Những người không vào được vì quá đông thì móc vật dụng của mình vào một cây dài thòng qua cửa sổ để vẫy trên giường Thánh Antôn… Rất nhiều vật dụng được cho là thánh tích xứng đáng với lòng nhiệt thành của họ. Không phải vì giá trị nội tại cho họ nhưng cho sứ thấm nhập, qua tiếp xúc này họ như được thấm nhập vào sự thánh thiện của Thánh Antôn. Vì thế lòng mộ đạo của cả một dân tộc đã vượt thời gian qua các thể thức quen thuộc này, biểu lộ lòng tin tưởng vào lời cầu bàu các thánh. Khi cầu nguyện trước thánh tích, các người dân giàu lòng can đảm này tin tinh thần của các thánh khi gặp Chúa, các ngài sẽ xin Chúa cho mình ơn mình mong muốn. 

Máu nóng tăng lên

Ngôi nhà thờ đan viện nào sẽ giữ thi thể của Thánh Antôn? Các tu sĩ đan viện Arcella nghĩ vinh dự này thuộc về họ vì Thánh Antôn đã qua đời ở nhà họ. Và Dòng “Nữ tu Khó nghèo” cũng đồng ý với họ vì hai Dòng thân nhau. Trong mục đích này, các bề trên hai Dòng cử một phái đoàn đến nhà cầm quyền dân sự của thành phố xin làm áp lực trên giám mục của họ. Và các tu sĩ đan viện Đức Mẹ Maria cũng làm như vậy. Đối với họ, Thánh Antôn đã chọn đan viện của họ là nơi cuối cùng trong sứ mạng rao giảng và ngài cũng mong về đây để chết.

Giám mục đã rất bối rối, vì quyết định của mình sẽ làm cho một bên vui, một bên buồn. Thêm nữa ngài ý thức người dân ở Tête-du-Pont – đã quên các cuộc cãi vã của tổ tiên -, họ quyết tâm ngăn chặn mọi xâm nhập vào đan viện, thậm chí họ còn bố trí những người có vũ trang chận mọi ngõ ngách vào đan viện. Còn các tu sĩ thì đóng ván vào cửa lớn, cửa sổ để làm rào chắn. Cẩn thận họ còn để thi thể Thánh Antôn vào quan tài và giấu trong một hố phủ đất lên.

Những người của phía đan viện Đức Mẹ Maria cũng quyết thực hiện mục đích của mình. Họ cũng dùng vũ khí để cố chiếm lại thi thể. Ban đêm họ cố gắng ba lần nhưng không được. Với tình trạng này, nếu máu nóng tăng lên thì sẽ rất nguy hiểm, máu có thể đổ. Chúng tôi sẽ không đi vào chi tiết việc cãi cọ này. Để làm dịu hai bên, giám mục đề nghị hoãn một thời gian chờ bề trên Tỉnh dòng về quyết định, ngài đang vắng mặt ở Bologne. Đề nghị này được cả hai bên đồng ý.

Một bài học chừng mực

Tuy nhiên các tu sĩ đan viện Arcella bắt đầu ý thức phần trách nhiệm của mình trong các vụ lộn xộn này. Dòng “Nữ tu Khó nghèo” cũng cảm thấy mình có tội. Vì họ là chứng nhân của một việc y như bài học của Thánh Antôn. Ngày hôm sau ngài qua đời, sơ Olivia, một trong các nữ tu của Dòng đã đến quỳ trước thi thể ngài. Sơ xin ngài cho mình ơn được chịu ở đời này tất cả đau khổ vì tội mà theo lẽ sơ phải chịu vào đời sau. Ngoài mong chờ của sơ, lời xin của sơ được nhận lời ngay lập tức, sơ cảm thấy toàn cơ thể bị đau, một cơn đau tột cùng đến mức dù cố gắng hết sức sơ cũng không đứng dậy được. Mẹ bề trên hoảng sợ thấy sơ đau như vậy phải gởi sơ vào bệnh xá.

Suốt ngày hôm sau cơn đau cũng không giảm. Khi đó sơ nhớ lại lời cầu xin của mình với Thánh Antôn. Sơ hiểu ngài cho sơ bài học khiêm nhường và chừng mực để đừng có thành kiến về sức của mình và năng lực của mình. Lúc đó sơ chỉ có một ước mong: xin ngài chữa lành cho mình. Vì không thể đứng dậy, sơ xin sơ y tá về phòng mình lấy một mẫu áo của Thánh Antôn mà sơ đã lén lút cắt một mảnh. Sơ để mẫu áo này trên người và mọi đau đớn biến mất, sơ trở lại cuộc sống bình thường trong cộng đoàn.

Hướng đến thoa dịu

Sự kiện này đã thuyết phục được các sơ Dòng “Nữ tu Khó nghèo” hiểu sự chiến đấu của họ là không phù hợp. Các tu sĩ đan viện Arcella đồng ý với quyết định khôn ngoan của các sơ. Bây giờ họ tìm cách làm sao thuyết phục người dân thuận theo, vì người dân đã sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ quan điểm của các tu sĩ. Sau ba ngày chiến đấu, cuối cùng bề trên Tỉnh dòng đến Pađua, cha đồng ý với lập luận của các tu sĩ đan viện Mẹ Maria. Cha ấn định ngày tang lễ vào ngày thứ ba 17 tháng 6 là ngày di chuyển thi hài Thánh Antôn về đan viện Mẹ Maria. Để tránh mọi nguy cơ đụng độ, quan tổng trấn áp dụng các biện pháp nghiêm nhặt, còn tất cả những ai dùng vũ khí phải nộp phạt rất cao. Ông bắt người dân khu phố Tête-du-Pont không được ra khỏi nhà trong thời gian tang lễ và đe dọa tịch thu tài sản của họ nếu họ nổi loạn. Một biện pháp có hiệu quả ngay. Sau khi tình trạng được ổn định, giám mục chấp nhận cử hành buổi lễ và hẹn tất cả trước cổng đan viện Arcella. 

Một và chỉ một quả tim

Sáng thứ ba 17 tháng 6, đám đông tụ họp như giờ đã định. Tất cả người dân Pađua và các vùng lân cận cùng có mặt, cùng đập một nhịp đập của trái tim. Và khi các tu sĩ lấy quan tài từ đất ra, họ đặt quan tài trước cổng. Mọi người vui mừng chào đón và đoàn rước bắt đầu. Quan tài được chính quan tổng trấn và những người có chức vị trong thành phố khiêng đi đầu. Sau đó là giám mục và hàng giáo sĩ, bề trên Tỉnh dòng, các tu sĩ đan viện Arcella, các tu sĩ các đan viện trong thành phố, các Dòng, các học sinh của trường Đại học danh tiếng…

Cuối cùng là đám đông, người giàu người nghèo trong cùng một tinh thần anh em vừa đi vừa hát thánh ca và thánh vịnh. Họ mang nến nhiều nhất có thể, họ vét hết các cửa hàng đến mức đoàn rước như một biển lửa khổng lồ. Suốt đường đi, những người có tuổi, những người bệnh không thể đi theo đoàn thì họ ở trước nhà vỗ tay khi đoàn rước đi qua. Trong thành phố, người dân trang hoàng mặt tiền nhà của mình đủ loại hoa màu trắng, màu tượng trưng cho sự tinh tuyền của Thánh Antôn. Các người đi theo đoàn rước hoặc những người đứng xem đều ngạc nhiên ngửi thấy mùi nước hoa dịu ngọt bàng bạc trong không gian cho đến khi buổi lễ chấm dứt. Sự kính mến còn tăng gấp bội với người bệnh, thậm chí cả những người nặng nhất cũng hét lên vui mừng vì họ được lành bệnh. 

Một và chỉ một niềm vui

Giữa vô số dấu hiệu cho thấy sức mạnh làm phép lạ của Thánh Antôn vẫn còn sau khi ngài qua đời là trường hợp của bà Cunizza. Bà Cunizza là một phụ nữ nghèo, bà bị gù lưng và dị dạng, bà phải đi sát đất. Khi nghe tin Thánh Antôn qua đời, bà cố gắng đi theo đám tang. Bà chỉ đi theo quan tài một chút, đủ giờ để xin Thánh Antôn chữa lành. Bỗng khối u trên lưng bà biến mất, cơ thể duỗi ra, các khớp dây thần kinh được nối lại và các khớp xương mềm lại. Bà hét lên vì mừng và không ngớt lời cám ơn “vị thánh.” Chẳng mấy chốc tin vui được lan truyền từ hàng này đến hàng kia trong đoàn rước vô tận này, mọi người tung hô Thánh Antôn.

Một và chỉ một lòng mến mộ

Sau thánh lễ, giám mục đặt thi thể của Thánh Antôn vào trong một quan tài vừa khám phá sáng hôm đó khi đào đất. Theo một số người, hòm này chứa xương các vị tử đạo. Như thế, Antôn được xem như người tử đạo vì ao ước, được chôn trong ngôi mộ thánh hóa của các vị tử đạo bằng máu. Tang lễ chỉ là bước khởi đầu của một loạt thăm viếng vô tận trước mộ Thánh Antôn. Đúng vậy, ngay ngày hôm sau tất cả người dân Pađua đều muốn đến cầu nguyện bên mộ ngài. Để tránh lộn xộn, chính quyền quyết định làm theo tua. Mỗi ngày cho mỗi nhóm, mỗi khu phố, mỗi Dòng, mỗi tổ chức, cho trường Đại học, cho người dân trong thành phố, cho người dân vùng lân cận, cho người nước ngoài… Tất cả đi từng đoàn băng qua thành phố, họ đi chân đất và đội thánh giá trên đầu kể cả giám mục và quan tổng trấn. Các ngọn nến được thắp lên tạo thành khối lửa khổng lồ, đôi khi khối nến còn được chạm trỗ tuyệt đẹp trong sáp. Khách hành hương mang trên vai hoặc quá nặng thì để trên xe bò. Khu phố đầu tiên đến viếng mộ là phố Tête-du-Pont. Giám mục muốn dành vinh dự cho khu phố này. đặc biệt là các tu sĩ Dòng Phanxicô vì họ đã vượt lên đau buồn khi không giữ được thi thể Thánh Antôn như lòng họ mong ước. Và các tu sĩ đan viện Đức Mẹ Maria cũng biết ơn anh em mình, họ cùng đến gặp nhau trong đoàn rước này.

Một đức tin đổi mới

Từng ngày, đoàn hành hương này nối tiếp đoàn hành hương kia. Tất cả những ai đến viếng, dù là người có đạo hay người hiếu kỳ đều cảm thấy bình an và hân hoan. Họ cầu nguyện, họ khóc lóc. Họ cảm thấy đức tin được đổi mới và thế nào họ cũng quay về với chính mình, đi xưng tội và có một cuộc sống kết hợp với Tin Mừng. Vì thế ngay cả sau khi qua đời, Thánh Antôn vẫn tiếp tục cải hóa các tâm hồn và đưa họ về với Chúa. Các phép lạ đã đánh dấu trong suốt cuộc đời của Antôn đã không ngừng lại sau khi ngài qua đời, ngược lại là đàng khác. Người ta càng nhắc đến phép lạ thì đám đông càng chạy đến mộ ngài. Và càng cầu nguyện thì càng được phép lạ do lời cầu bàu của ngài. Chúng tôi không thể nêu lên ở đây, vì như thế danh sách sẽ vô tận. Nhưng chúng ta biết có rất nhiều loại phép lạ: lành bệnh, trở lại, được che chở, gặp phải tình huống không thể giải quyết được, sinh con khó khăn, ơn tha thứ… đó là không kể các trường hợp không thể giải thích được vẫn nằm trong tận sâu thẳm lòng họ.

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc thêm: Về trời (1-2) Thánh Antôn Pađua

Về trời (2-2), Thánh Antôn Pađua

Lời nói đầu sách Tiểu sử Thánh Antôn Pađua 

Sống theo ơn gọi

Sống theo ơn gọi

Ronald Rolheiser, 2019-11-11

Có ơn gọi có nghĩa là gì? Thuật ngữ này được dùng trong giới tu hành cũng như trong giới thế tục và mọi người đều nghĩ ý nghĩa của nó đã rõ ràng. Vậy thì ơn gọi là gì?

Nhà tâm lý học Thụy Sĩ Karl Jung đã định nghĩa như sau: “Ơn gọi là một yếu tố phi lý giúp cho con người tự giải phóng khỏi bầy đàn và các đường mòn xưa cũ”. Nhà giáo nổi tiếng Frederick Buechner thì cho rằng: “Ơn gọi là niềm vui của bạn đáp trả cho cơn đói của thế giới.”

Nhà báo thời danh David Brooks suy nghĩ về ơn gọi trong quyển sách gần đây của ông Ngọn núi thứ nhì (The Second Mountain) cho chúng ta vài câu trích dẫn này của Jung và của Buechner, sau đó ông viết: Ơn gọi không phải là cái gì chúng ta chọn. Ơn gọi chọn chúng ta. Khi chúng ta cảm nhận ơn gọi như một khả thể trong đời sống của mình, thì chúng ta cũng cảm nhận mình không có chọn lựa, và chúng ta chỉ có thể hỏi: đâu là trách nhiệm của tôi ở đây? Đây không phải là câu hỏi mà chúng ta chờ trong cuộc sống, nhưng đúng hơn đó là câu hỏi mà cuộc sống chờ chúng ta. Hơn nữa, theo nhà báo Brooks, một khi chúng ta hiểu ơn gọi của mình, thì chúng ta không thể quay lưng với ơn gọi, và chúng ta sẽ nhận ra, mình sẽ có lỗi nếu mình quay lưng. Ông trích dẫn lời của nhà thơ William Wordsworth để hỗ trợ:

Lòng tôi đầy tràn, Tôi không khấn hứa

Nhưng lời khấn hứa, Được tạo cho tôi

Liên kết với tôi mà tôi không biết

Lời khấn hứa đó được trao cho tôi

Và tôi phải nên, và tôi phải theo

Nếu không tôi sẽ vô cùng phạm tội.

Ông Brooks gợi ý rất nhiều chuyện có thể giúp tâm hồn chúng ta nhận thức được ơn gọi của mình: âm nhạc, kịch nghệ, nghệ thuật, tình bạn, được ở bên cạnh trẻ con, được đẹp và nghịch lý thay, là nạn nhân của bất công. Ông còn đưa ra thêm hai quan sát: quan sát đầu tiên, chúng ta chỉ thấy và hiểu rõ ràng tất cả những chuyện này khi chúng ta lớn tuổi và khi chúng ta nhìn lại đàng sau đời sống, đàng sau các lựa chọn của mình; và thứ hai, dù tiếng gọi là một cái gì thiêng liêng, một cái gì thần nghiệm nhưng cách chúng ta thực sự sống với nó thường lộn xộn, trệch đường, bị lãng phí và chung chung là không cảm thấy linh thiêng gì cả.

Đúng vậy, tôi đã khá lớn tuổi và tôi nhìn lại đàng sau. Câu chuyện ơn gọi của tôi có giống như các mô tả này không? Chủ yếu là giống.

Lớn lên trong nền văn hóa công giáo la mã của những năm 1950 và đầu những năm 1960, tôi thuộc thế hệ công giáo mà mỗi em bé lớn lên được hỏi một cách nghiêm túc: “Tôi có ơn gọi không?” Ở thời buổi đó, câu hỏi này chủ yếu muốn nói: “Tôi có được gọi để làm linh mục, làm tu sĩ nam nữ không?” Trên thực tế, lập gia đình hay ở độc thân không được xem là ơn gọi, chỉ là chuyện thứ yếu. Ơn gọi cao cả là đời sống thánh hiến.

Vì vậy khi lớn lên trong môi trường này, tôi nghiêm túc đặt câu hỏi sau: “Tôi có ơn gọi làm linh mục không?” Và câu trả lời đến với tôi, không phải trong một cái nhìn sâu sắc, hay một cái gì quảng đại của trái tim, hay cuốn hút theo một lối sống nào đó. Không có gì trong các điều này. Câu trả lời đến với tôi như cái móc trong lương tâm tôi, như thử có một cái gì mà tôi không thể quay lưng cả về mặt đạo đức lẫn tôn giáo. Điều này đối với tôi như một bắt buộc, một trách nhiệm. Mới đầu tôi chiến đấu và cự lại với câu trả lời này. Đó không phải là những gì tôi muốn.

Nhưng đó là những gì tôi cảm thấy tôi được gọi. Có một cái gì đòi hỏi vượt ngoài các giấc mơ riêng của tôi. Đó là tiếng gọi. Dù khi đó tôi mới 17 tuổi, tôi quyết định vào Dòng Anh Em Hiến Sĩ Đức Mẹ Vô Nhiễm và tôi được đào tạo để làm linh mục. Tôi ngờ ít có nhà cố vấn hay tâm lý nào đặt tin tưởng vào một quyết định như vậy với tuổi của tôi hồi đó; nhưng sau 50 năm, với một độ lùi, tôi nghĩ đó là quyết định trong trắng nhất và bất vụ lợi nhất tôi đã làm trong đời.

Và tôi không bao giờ nhìn lại. Tôi không bao giờ nghiêm túc cân nhắc việc từ bỏ cam kết này dù đôi khi tôi có đủ loại cảm xúc bất an, ám ảnh, khuấy động, chán nản và tội nghiệp mình, ám ảnh và hành hạ tôi. Tôi chưa bao giờ hối tiếc quyết định này. Tôi biết đây là những gì tôi được gọi để làm và tôi hạnh phúc theo cách mà các chuyện này diễn tiến. Nó mang lại cho tôi sự sống và giúp tôi phục vụ người khác. Và với các đặc điểm, các tổn thương và các yếu đuối cá nhân, tôi ngờ tôi sẽ tìm một con đường cũng sâu đậm như ơn gọi này đã cho tôi trong cuộc sống và trong cộng đoàn, dù nó có thể mang lợi ích cá nhân.

Tôi chỉ chia sẻ câu chuyện cá nhân để có thể hữu ích trong việc minh họa khái niệm ơn gọi. Nhưng đời sống tu trì và chức thánh chỉ là một ơn gọi. Có rất nhiều ơn gọi khác, tất cả đều lành mạnh và quan trọng. Ơn góp có thể là một nghệ sĩ, một nhà nông, một văn sĩ, một bác sĩ, một người cha, một người mẹ, một người vợ, một cô giáo, một người bán hàng và vô số các việc khác. Ơn gọi chọn chúng ta và làm lời khấn cho chúng ta – và các lời khấn này đặt chúng ta vào nơi này ở đây, nơi mình được đặt tốt nhất để phục vụ người khác và để có hạnh phúc.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Đức tin và giờ hấp hối

Cuộc đấu tranh hụt hẫng với tính khiêm nhường

Đức Phanxicô với Bệnh viện Nhi đồng Bambino Gesù

Đức Phanxicô với Bệnh viện Nhi đồng Bambino Gesù

agensir.it, 2019-11-16

Trong buổi tiếp kiến với bệnh nhân và nhân viên Bệnh viện Nhi đồng Bambino Gesù, Đức Phanxicô lên tiếng: “Không có thuốc chữa nếu không có nghiên cứu”. Và ngài ban phép lành cho các bàn tay của các bác sĩ, các y tá.

Lên tiếng trước cộng đoàn của Bệnh viện Nhi đồng Bambino Gesù, Đức Phanxicô cho biết: “Trong những năm tới, cần phải đầu tư thêm vào các cấu trúc và kỹ thuật công nghệ. Chúng ta cần sự dấn thân của tất cả mọi người, vì Bệnh viện Nhi đồng vẫn là bệnh viện đặc biệt của Tòa Thánh với trẻ em, qua phong cách yêu thương các em bé, chúng ta làm chứng cụ thể cho tinh thần Phúc âm, hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Giáo hội”.

Nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày thành lập Bệnh viện, ngày thứ bảy 16 tháng 11, Đức Phanxicô đã có buổi tiếp kiến với cộng đồng Bệnh viện Nhi đồng tại Hội trường Phaolô VI, có khoảng 6000 người tham dự. Ngỏ lời với các bác sĩ chuyên gia, các bác sĩ phẫu thuật và các y tá, Đức Phanxicô mời gọi họ “dùng bàn tay của mình làm công cụ chăm sóc và luôn ý thức về ơn ban của Chúa trên bàn tay mình”.

Ngài nói thêm: “Khả năng chữa lành cũng là một món quà Chúa ban cho anh chị em cũng như cho các bệnh nhân được giao phó cho anh chị em. Đồng thời xin anh chị em đừng bỏ lỡ sự đóng góp chuyên môn và nhiệt tình của anh chị em vì đó là đặc trưng của Bệnh viện Nhi đồng chúng ta”.

Sau khi ban phép lành cho các bàn tay chăm sóc các em bé trên “con đường của bệnh tật, của nhập viện”, Đức Phanxicô nhấn mạnh đến “sự sẵn sàng chia sẻ kiến thức và kỹ năng của mình với nhân viên y tế của các quốc gia gặp khó khăn nhất”. Ngài cũng nói đến “việc đáp trả lại những gì mình đã được ban cho một cách dồi dào và nhận được bao nhiêu là sự phong phú của nhân loại. Mọi người đều học lẫn nhau. Đây là những gì Bệnh viện Nhi đồng đã làm ở nước ngoài”.

Trong các lời của Đức Phanxicô, có một xác tín: “Sự  nghiên cứu càng hiệu quả thì sự trợ giúp càng tốt. Sẽ không có thuốc chữa nếu không có nghiên cứu. Và tương lai của y khoa sẽ không có, nếu không có nghiên cứu. Tôi ngưỡng mộ niềm hăng say và nhiệt tình mà anh chị em đã đặt vào công việc nghiên cứu và săn sóc, tôi mong anh chị em sẽ không bao giờ đánh quên hình ảnh em bé đau khổ đàng sau mẫu thử nghiệm hay không nghe tiếng khóc của cha mẹ ngay trong phòng thử nghiệm của anh chị em. Bí ẩn sự đau khổ của trẻ em sẽ không ngừng nói lên trong lương tâm ý thức và động lực trong sự dấn thân của anh chị em cho nhân loại và cho nghề nghiệp của mình”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Đức Phanxicô khánh thành trung tâm tiếp nhận người vô gia cư gần Vatican

Thứ sáu Lòng thương xót: Đức Phanxicô thăm bệnh xá ở Quảng trường Thánh Phêrô

Buổi tiếp kiến với cộng đồng Bệnh viện Nhi đồng tại Hội trường Phaolô VI

Đức ông Guido Marini cùng với Đức Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô

Đức ông Guido Marini cùng với Đức Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô

ekai.pl, 2019-11-15

Đức ông Guido Marini trong một thánh lễ với Đức Phanxicô. Hình: Donatella Giagnori / EIDON / REPORTER

Trong một cuộc phỏng vấn với tuần báo Ý Gente Veneta, Đức ông Guido Marini, trưởng ban nghi lễ phụng vụ giáo hoàng từ 12 năm nay nhắc đến các kỷ niệm của Đức ông bên cạnh Đức Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô, Đức ông cho biết: “Đối với tôi, được gần gũi với giáo hoàng là một ân huệ.”

Với giáo hoàng hiện nay, linh mục Marini đã có tâm trạng bình an trong nước mắt, khi đó là ở phòng thánh của Nhà Nguyện Sixtine, giám mục giáo phận Rôma vừa được bầu chọn và đang mặc áo chùng trắng trong phòng thánh. Đức Phanxicô nói với cha Marini: “Cha phải kiên nhẫn với tôi vì tôi hơi giống một linh mục thường”. – Một tháng sau, tôi gặp ngài cũng trong căn phòng này. Tôi hỏi ngài: “Cha còn nhớ cha nói gì với con chiều hôm đó không?” Ngài trả lời: “Cha không nhớ gì hết, ngày hôm đó cha không nhớ gì hết vì cha quá xúc động và hãi sợ. Nhưng còn con, con còn kinh hoàng hơn cha”, ngài vừa nói vừa cười.

Khi được hỏi nếu gần gũi với giáo hoàng có làm thay đổi cuộc đời của cha không, cha Marini thú nhận, trên hết, đây là một ân huệ cho đức tin của cha. – Mỗi lần tôi ở gần người mặc áo trắng này, tôi đều bị choáng ngợp không những vì cảm xúc bình thường của con người mà trên hết là sự kết hợp với đức tin. Một ơn ban khác là thấy được sự phức tạp và vĩ đại của Giáo hội. Ở phương Tây, chúng ta bị mệt mỏi, nhưng ở các nơi khác trên thế giới, chúng tôi thấy có một sức sống và hoa trái nở rộ rất lớn; điều này cho thấy tác động của Chúa Thánh Thần”.

Linh mục Marini cho biết, chuẩn bị các nghi thức phụng vụ của giáo hoàng trước công chúng cần phải chuẩn bị một tháng trước và phải để ý đến nhiều chi tiết. Trong số các buổi phụng vụ có giáo hoàng, linh mục Marini nhắc lại một kỷ niệm phụng vụ trong ngày Thứ Sáu Tuần thánh với Đức Bênêđictô XVI. Khi thay áo phụng vụ trong phòng thánh, Đức Bênêđictô XVI cho biết “hôm nay mọi sự không suông sẻ vì cha đã đọc lầm một bài đọc, mà con biết trong một vài tu viện của Dòng Biển Đức, khi một tu sĩ đọc sai thì ông phải quỳ gối trước ca đoàn, như dấu hiệu của lòng ăn năn. Đó là việc cha phải làm hôm nay: quỳ xuống và đợi khi nào con ra dấu thì cha mới đứng dậy”, ngài vừa nói vừa cười. Tôi khi nào cũng ngạc nhiên trước đức khiêm tốn của ngài.

Còn với Đức Phanxicô, một ngày nọ trong thánh lễ với giáo dân, ngài quay qua tôi và nói: “Con nhìn về phía bên trái; con thấy người cha đang bế con trai mình trên vai. Chúa cũng làm như vậy với chúng ta!”

Còn với Đức Phanxicô, một ngày nọ trong thánh lễ với giáo dân, ngài quay qua tôi và nói: “Con nhìn về phía bên trái; con thấy người cha đang bế con trai mình trên vai. Chúa cũng làm như vậy với chúng ta!”

Marta An Nguyễn dịch

Hình minh họa:

  

Linh mục Dòng Tên Juan Antonio Guerrero Alves đứng đầu bộ kinh tế

Linh mục Dòng Tên Juan Antonio Guerrero Alves đứng đầu bộ kinh tế

la-croix.com, Nicolas Senèze, Rôma, 2019-11-15

Ngày thứ năm 14 tháng 11, linh mục Dòng Tên Juan Antonio Guerrero Alves, 60 tuổi được Đức Phanxicô bổ nhiệm làm bộ trưởng bộ Kinh tế, bộ đã không có người đứng đầu từ tháng 7 năm 2017. Linh mục Guerrero người Tây Ban Nha ít được mọi người biết, ngài đặc trách lo 360 tu sĩ Dòng Tên ở Rôma và các cơ quan khác trực thuộc Dòng Tên ở Giáo triều và các cơ sở của Tòa Thánh.

Từ hai năm rưỡi nay từ khi Đức Hồng y George Pell về Úc để lo các vụ kiện tụng thì bộ Kinh tế không có người đứng đầu. Thêm nữa, từ một năm rưỡi nay, nhân vật số hai là Giám mục Alfred Xuereb lại đi làm Sứ thần Tòa Thánh ở Đại Hàn.

Mặc dù Vatican đảm bảo việc quản lý kinh tế của Tòa Thánh vẫn được bình thường, nhưng các tin tức rò rỉ gần đây cho thấy Vatican gặp khó khăn trong việc kiểm soát các khoản tài chánh do giáo hoàng yêu cầu, có nguy cơ gây nguy hiểm cho việc cải cách của ngài.

Sau một thời gian dài suy nghĩ, ngày thứ năm 14 tháng 11, Đức Phanxicô đã chỉ định linh mục Dòng Tên Juan Antonio Guerrero Alves vào chức vụ này, một chức vụ quá phơi bày mà một số người đã từ chối vì không muốn là đích nhắm của những người rất mạnh, những người mà cuộc cải cách làm họ bực mình.

Hội nhập những người bị loại trừ vào hệ thống kinh tế

Trong hành lang Vatican, người ta nói đây là lựa chọn cá nhân của giáo hoàng, linh mục Guerroro vừa về Rôma được hai năm, ít người biết đến ngài, dù linh mục đặc trách lo 360 tu sĩ Dòng Tên ở Rôma và các cơ quan khác trực thuộc Dòng Tên ở Giáo triều và các cơ sở của Tòa Thánh. Ở chức vụ này, linh mục đã đặt nền móng cho các quan hệ giữa dòng và bộ Truyền thông và chuẩn bị sát nhập Đại học Gregoria với các Viện Thánh Kinh và Đông phương.

Vì thế đây là một linh mục có kinh nghiệm vững chắc mà Đức Phanxicô muốn ngài về làm các công việc tài chánh cho Tòa Thánh. Tốt nghiệp ngành kinh tế tại Đại học tự trị Madrid, cựu giáo sư luân lý xã hội ở Giáo hoàng Học viện Comillas, ngài cũng làm việc ở một khu phố nghèo ở Madrid và suy tư về sự hội nhập những người bên lề vào hệ thống kinh tế.

Linh mục Guerrero là bề trên Giám tỉnh Castille năm 2008, một trong các tỉnh dòng quan trọng của Dòng Tên, ngài tái tổ chức lại Dòng trước khi đi  Mozambique năm 2015 làm linh mục thủ quỹ, ngài đã điều phối nhiều dự án, trong đó có việc xây một ngôi trường mà sau đó ngài điều khiển.

Tầm nhìn rất thực tiễn về kinh tế

Ngài là cựu giám đốc nhà tập ở Castille và cũng là người hướng dẫn thiêng liêng, thông thạo các Bài tập Linh thao của Thánh I-Nhã mà ngài giảng cho các giám mục Tây Ban Nha tháng 1 vừa qua, cũng như Đức Hồng y Bergoglio đã từng giảng năm 2006.

Linh mục Guerrero có một tầm nhìn rất thực tiễn về kinh tế, với mối quan tâm cho người nghèo và cho những người sống bên lề, ngược với tầm nhìn tự do và có tính cách kế toán như đôi khi vị tiền nhiệm của ngài đã có và lối sống của những người ở cấp cao nhất Vatican đã càng ngày càng khó hiểu với người công giáo, dù cho Đức Phanxicô đã chủ trương mọi sự phải minh bạch.

Một giáo hoàng mà linh mục Guerrero sẽ trực tiếp làm việc nhưng cha lại xin đừng bổ nhiệm mình làm giám mục để một khi làm xong nhiệm vụ, linh mục có thể về lại Dòng Tên làm việc.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Gặp tân Bộ trưởng Kinh tế, linh mục Dòng Tên Juan Antonio Guerrero Alves

Gặp tân Bộ trưởng Kinh tế, linh mục Dòng Tên Juan Antonio Guerrero Alves

Gặp tân Bộ trưởng Kinh tế, linh mục Dòng Tên Juan Antonio Guerrero Alves

international.la-croix.com, 2019-11-14

Đức Phanxicô đã bổ nhiệm linh mục Dòng Tên người Tây Ban Nha Juan Antonio Guerrero Alves, 60 tuổi làm bộ trưởng Kinh tế, ngài sẽ nhậm chức vào tháng 1 năm 2020.

Thông thường, người đứng đầu một bộ như vậy sẽ được bổ nhiệm làm giám mục, nhưng linh mục Arturo Sosa, bề trên tổng quyền Dòng Tên đã xin Đức Phanxicô không nâng linh mục Guerrero lên hàng giám mục để ngài có thể trở lại sứ vụ Dòng Tên bình thường sau khi phục vụ tại giáo triều Rôma.

Bộ Kinh tế đã vắng chức bộ trưởng từ năm ngoái khi cựu bộ trưởng, hồng y George Pell bị giam và bị buộc tội với năm tội tấn công tình dục đối với trẻ em.

Từ năm 2017, cha Juan Guerrero là Đại diện Bề Trên cả đặc trách các Nhà và Công việc Liên tỉnh Dòng Tên tại Rôma và là Tổng Cố vấn của Dòng.

Tân bộ trưởng tuyên bố với Vatican News: “Là tu sĩ Dòng Tên, tôi vui mừng khi nhận nhiệm vụ trực tiếp từ Đức Giáo hoàng. Đây là một đặc ân để thực hiện ơn gọi của tôi.”

“Lời khấn vâng lời đã luôn dẫn tôi đến những con đường bất ngờ mà tôi chưa bao giờ dám phiêu lưu. Và vì thế tôi rất biết ơn. Với tôi, đức vâng lời là một đặc ân để được gặp Chúa”.

Cha Juan Guerrero Alves sinh ngày 20 tháng 4 – 1969 tại Mérida, Tây Ban Nha, ngài vào Dòng Tên năm 1979, thụ phong linh mục năm 1992.

Ngài đậu bằng thạc sĩ kinh tế, triết học, thần học và nói các thứ tiếng Ý, Anh, Tây Ban Nha, Pháp và Bồ Đào Nha.

Năm 2008 ngài được bầu làm Giám tỉnh Tỉnh Dòng Castille ở Tây Ban Nha, Dòng Castille có hơn 600 tu sĩ Dòng Tên. Năm 2014, ngài được gởi đến Mozambique làm thủ quỹ và là người điều phối các công việc của Dòng Tên.

Năm 2017 ngài được gởi về Rôma làm Đại diện Bề Trên cả đặc trách các Nhà và Công việc Liên tỉnh Dòng Tên tại Rôma và là Tổng Cố vấn của Dòng, giám sát 360 tu sĩ Dòng Tên và các sứ vụ khác như Giáo hoàng Học viện Gregoria, Viện Kinh Thánh Giáo hoàng, Viện Đông phương Giáo hoàng, báo L’Observatoire của Vatican, báo La Civiltá Cattolica, Centro Aletti, Trường Cao đẳng Nga, Trường Cao đẳng Bellarmino, Trường Cao đẳng Gesù và bộ Truyền thông (Radio Vatican).

Linh mục Guerrero cho biết: “Việc bổ nhiệm này là một điều hoàn toàn bất ngờ. Mới đầu tôi rất lo và cảm thấy mình bị tê cứng. Nhưng tôi đón nhận với tấm lòng khiêm nhường, với lòng tin tưởng vào Chúa, vào nhóm đã làm việc ở bộ Kinh tế. Tôi sẽ hợp tác để phục vụ sứ mệnh này với tất cả khả năng của tôi”.

“Mong muốn của tôi là được biết và làm việc với nhóm của bộ Kinh tế. Tôi hy vọng sẽ đóng góp vào sự minh bạch về kinh tế của Tòa Thánh và giúp sử dụng một cách có hiệu quả của cải và nguồn tài nguyên để phục vụ sứ mạng truyền giáo quan trọng của Giáo hội”.

Linh mục Sosa, bề trên Tổng quyền Dòng Tên bày tỏ niềm vui của Dòng Tên luôn sẵn sàng phục vụ giáo hoàng và Tòa Thánh.

Việc bổ nhiệm linh mục Guerrero chỉ một ngày sau khi Tối cao Pháp viện Úc quyết định xử lại vụ án của hồng y Pell, năm 2017 hồng y bị cáo buộc lạm dụng tình dục hai em bé giúp lễ trong những năm 1990.

Năm 2017, Hồng y Pell đã xin nghỉ việc trong tư cách là người đứng đầu bộ Kinh tế để về Úc đối diện với các cáo buộc lạm dụng tình dục. Nhiệm kỳ năm năm của ngài đã chính thức kết thúc vào ngày 24 tháng 2 vừa qua. Chức vụ này đã bị bỏ trống cho đến ngày bổ nhiệm linh mục  Guerrero.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

“Con muốn làm linh mục như Đức Gioan-Phaolô II”

“Con muốn làm linh mục như Đức Gioan-Phaolô II”

fr.aleteia.org, Ban biên tập, 2019-11-15

Trong chương trình “Giọng hát trẻ em” (La Voz Kids) của Mêhicô, em Luis Ernesto, một trong các thí sinh dự thi cho biết, sau này lớn lên em muốn làm linh mục như giáo hoàng Gioan-Phaolô II.

Một câu trả lời bất ngờ làm cho mọi người ngạc nhiên. Người dẫn chương trình Alain Chabat hào hứng: “Trẻ con thật tuyệt vời!” Em Luis Ernesto là bằng chứng hiển nhiên. Em Ernesto tham dự chương trình “Giọng hát trẻ em” quốc gia, một chương trình giúp trẻ em thể hiện tài năng âm nhạc của mình trước một ban giám khảo gồm các chuyên gia. Sau phần trình diễn của thí sinh, thường các giám khảo hay hỏi nguyện vọng của các em, sau này lớn lên các em sẽ làm nghề gì. Em Luis Ernesto đã làm cả phòng thi và hàng triệu khán giả kinh ngạc khi em trả lời: “Sau này con muốn làm ca sĩ và làm linh mục như Đức Gioan-Phaolô II”.

“Con hãy giữ điều này trong trái tim con.”

Một câu trả lời làm cho các giám khảo không thể bỏ qua. Và khi một trong các giám khảo hỏi em lý do vì sao, em đơn sơ trả lời: “Vì con muốn mọi người đều tốt và thế giới có hòa bình”.

Và thế là cả ba giám khảo đến gần em, vây quanh em để hỏi nhiều hơn. Một trong các giám khảo đã rất xúc động và đã khuyên em: “Con đừng bao giờ ngưng hát và nhất là đừng bao giờ quên cảm nhận của con ngày hôm nay. Khi chúng ta già đi, chúng ta thường quên những gì chúng ta đã có trong lòng khi còn nhỏ. Con tiếp tục hát và con luôn nhớ con là ai, và còn giữ điều này trong lòng con luôn mãi”.

Dù em Luis Ernesto không được chọn, nhưng chứng từ đức tin mạnh mẽ của em đã làm mọi người xúc động và họ sẽ còn ghi nhớ mãi.

Marta An Nguyễn dịch

Bài mới nhất