Đức Phanxicô tin tưởng vào ‘sự khôn ngoan của con người’ để tránh leo thang chiến tranh

78

Đức Phanxicô tin tưởng vào ‘sự khôn ngoan của con người’ để tránh leo thang chiến tranh

 

Đức Phanxicô trong cuộc phỏng vấn trên chương trình tin tức Ý Tg1

Trong cuộc phỏng vấn với chương trình tin tức Tg1 của Ý, Đức Phanxicô nói về khả năng xảy ra xung đột toàn cầu. Khi đề cập đến một số chủ đề, ngài nói chúng ta không được quen với chiến tranh và ngài chỉ trích việc buôn bán vũ khí. Ngài xác nhận ngài sẽ đi Dubai dự hội nghị COP28 từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 12. Ngài nói về kết quả tích cực của Thượng hội đồng, thêm chỗ cho phụ nữ nhưng không phong chức và duy trì bậc sống độc thân của linh mục.

vaticannews.va, Vatican News, 2023-11-01

Theo ngài, sự leo thang toàn cầu của cuộc chiến nổ ra ở Israel và Palestine “là một khả năng,” nhưng ngài hy vọng điều này sẽ không xảy ra vì ngài tin vào “sự khôn ngoan của con người”. Nhận xét của ngài được đưa ra trong cuộc phỏng vấn dài với ông Gianmarco Chiocci, giám đốc chương trình tin tức Ý Tg1, được phát ngày thứ tư 1 tháng 11 trên đài truyền hình công cộng RaiUno của Ý.

Israel và Gaza

Về tình hình ở Trung Đông, một lần nữa ngài khẳng định: “Mọi chiến tranh đều là một thất bại. Không có gì được giải quyết bằng chiến tranh. Không có gì. Mọi thứ đều đạt được nhờ hòa bình và đối thoại.” Ngài  nói tiếp: “Những người của Hamas tiến vào kibbutzim, họ bắt con tin. Họ giết người dân. Và sau đó là phản ứng. Người Israel đi tìm con tin để giải cứu. Trong chiến tranh, cái tát này kích động cái tát khác. Người này mạnh và người kia còn mạnh hơn, và cứ thế tiếp tục. Chiến tranh là một thất bại. Tôi cảm thấy đó như một thất bại thêm nữa. Hai dân tộc phải chung sống. Với giải pháp khôn ngoan đó: hai dân tộc, hai quốc gia. Hiệp định Oslo: hai quốc gia được phân định rõ ràng và Giêrusalem với một vị trí đặc biệt”.

Nhắc lại lời cầu nguyện cho hòa bình vào tuần trước, ngài lặp lại thế giới đang trải qua giờ phút rất đen tối: “Rõ ràng là thiếu khả năng suy nghĩ và tôi nói thêm: thất bại thêm một nữa. Mọi chuyện đã như vậy kể từ Thế chiến thứ hai, từ năm 1945 cho đến nay, hết thất bại này đến thất bại khác, vì chiến tranh vẫn chưa dừng lại. Nhưng vấn đề nghiêm trọng nhất vẫn là công nghiệp vũ khí. Trong một cuộc họp, tôi gặp một người am hiểu về đầu tư, ông nói với tôi, ngày nay đầu tư có nhiều thu nhập nhất là đầu tư vào các nhà máy sản xuất vũ khí.”

Đức Phanxicô cho biết, hàng ngày ngài đều nói chuyện qua điện thoại với các tu sĩ ở Gaza: “Tôi gọi cho linh mục Joseph, người Ai-cập mỗi ngày và cha nói với tôi, ‘giáo xứ chúng con có 563 người, tất cả là tín hữu kitô và một số người hồi giáo. Các em bé bị bệnh được các nữ tu của Mẹ Têrêxa chăm sóc’. Trong giáo xứ nhỏ bé này có 563 người. Mỗi ngày tôi cố gắng đồng hành cùng họ. Hiện tại, tạ ơn Chúa, lực lượng Israel đã tôn trọng giáo xứ này.”

Không được phép quen với chiến tranh và chủ nghĩa bài-do thái

Đức Phanxicô nói: “Tôi còn nhớ thời điểm rất khó khăn vào đầu triều, khi chiến tranh bùng nổ ở Syria với một lực lượng như vậy, và tôi đã tổ chức buổi cầu nguyện ở quảng trường có tín hữu kitô và người hồi giáo tham dự, họ mang theo thảm để quỳ cầu nguyện. Đó là thời điểm rất khó khăn. Với tôi, đó là chuyện không dễ chịu để nói ra. Khổ thay chúng ta đã quen với chiến tranh. Chúng ta không được phép quen với chiến tranh.”

Về khả năng leo thang toàn cầu, ngài nhấn mạnh: “Nó sẽ là sự kết thúc của nhiều thứ và nhiều cuộc đời. Tôi nghĩ khôn ngoan con người sẽ ngăn chặn được những điều này. Đúng, có khả năng xảy ra, và cuộc chiến này bao gồm chúng ta vì ý nghĩa của Israel, Palestine, Đất Thánh, Giêrusalem. Nhưng cuộc chiến ở Ukraine cũng ảnh hưởng đến chúng ta vì Ukraine ở gần. Nhưng còn nhiều cuộc chiến khác bị bỏ quên: Kivu; Yêmen; Myanmar với người Rohingya tử đạo. Thế giới đang có chiến tranh và ngành công nghiệp vũ khí đứng đằng sau.”

Đức Phanxicô cũng nói về chủ nghĩa bài do thái, không may nó vẫn bị che giấu: “Chẳng hạn, chúng ta thấy các người trẻ làm đây làm đó điều gì. Trong trường hợp này đúng là rất nghiêm trọng, luôn có điều gì đó bài do thái; và không phải lúc nào người ta cũng thấy gương nạn diệt chủng Holocaust diễn ra trong Thế chiến thứ hai, sáu triệu người do thái bị giết, bị bắt làm nô lệ và vẫn chưa qua đi. Tôi không biết giải thích thế nào và cũng không có lời giải thích nào, đó là sự thật tôi nhìn thấy và tôi không thích chút nào”.

Xung đột ở Ukraine

Khi được hỏi về phản ứng của Ukraine trước các sáng kiến hòa bình của Tòa Thánh, ngài trả lời: “Tôi nghĩ đến người dân Ukraine, ngày nay chúng ta không được phán xét họ. Nhân dân Ukraine là dân tộc tử đạo, thời Stalin, họ đã bị đàn áp rất nặng nề. Họ là những người tử đạo. Tôi có đọc một quyển sách tưởng niệm về chuyện này và về cuộc tử đạo khủng khiếp, Siberia… Ukraine là dân tộc đã đau khổ rất nhiều và bây giờ bất cứ điều gì cũng làm họ sống lại quá khứ này. Tôi hiểu họ và tôi đã tiếp tổng thống Zelensky, tôi hiểu, nhưng chúng ta cần có hòa bình. Xin dừng lại! Xin dừng lại một chút để tìm kiếm thỏa thuận hòa bình, các thỏa thuận là giải pháp thực sự cho vấn đề này. Cho cả hai.”

Đức Phanxicô kể: “Vào ngày thứ hai của cuộc chiến ở Ukraine, tôi đã đến sứ quán Nga, tôi cảm thấy tôi phải đến đó và tôi nói tôi sẵn sàng đi gặp tổng thống Putin nếu điều này có thể giúp ích… Tôi có cuộc đối thoại tốt với sứ quán Nga. Tôi đưa một danh sách các tù nhân, và họ đã được thả. Họ cũng thả một số tù nhân ở Azov. Nhưng đối thoại ngừng ở đó. Khi đó ông Serguei Lavrov, ngoại trưởng Nga viết cho tôi: ‘Xin cám ơn ngài đã đến, nhưng không cần thiết.’ Tôi muốn đi đến cả hai nơi.”

Thảm kịch của người di cư

Đức Phanxicô tuyên bố: “Tôi là con trai của người di cư, nhưng tôi nghĩ ở Argentina có 46 triệu người như chúng tôi và chỉ có 6 triệu người bản địa, không hơn. Những người còn lại đều là người di cư. Đây thực sự là một đất nước của những người di cư: người Ý, người Tây Ban Nha, người Ukraina, người Nga và nhiều người từ Trung Đông đến. Cha tôi làm việc ở Ngân hàng Ý và ông di cư, ông ở đó và chết ở đó. Với tôi, trải nghiệm di cư là một trải nghiệm rất mạnh, không liên quan gì đến thảm kịch hiện tại. Trong thời hậu chiến đã có những tình trạng di cư rất bi đát, nhưng ngày nay nó vẫn còn quá bi đát, có 5 quốc gia chịu thiệt hại nặng nề nhất của việc di cư, đó là: Síp, Hy Lạp, Malta, Ý và Tây Ban Nha. Các nước này đón nhận người di cư nhiều nhất. Tôi luôn khuyên đọc quyển sách Người em trai nhỏ (tiếng Tây Ban Nha là Hermanito) của một người di cư phải chờ ba năm để đi từ Ghana đến Tây Ban Nha. Đây là một quyển sách ngắn kể về sự tàn khốc của việc di cư. Những gì chúng ta chứng kiến ở Calabria gần đây thật khủng khiếp. Châu Âu phải thể hiện tình đoàn kết với năm quốc gia không thể đón nhận tất cả những người này và các chính phủ châu Âu phải đối thoại. Có những ngôi làng nhỏ trống trải chỉ có 10-15 người già, họ cần người làm việc. Chúng ta cần một chính sách di cư phù hợp với người di cư, đón nhận họ, hỗ trợ họ, thăng tiến và hòa nhập họ vào việc làm. Để họ hòa nhập. Và một chính sách di cư như vậy sẽ rất tốn kém. Nhưng tôi nghĩ đến nước Thụy Điển, quốc gia đã làm rất tốt trong thời các chế độ độc tài ở Mỹ Latinh… Một chính sách nhập cư phải mang tính xây dựng, vì lợi ích của đất nước và người dân của nó, và của toàn châu Âu. Tôi đánh giá cao việc Chủ tịch Ủy ban Châu Âu đã đến Lampedusa để xem xét tình hình: Tôi đánh giá cao việc bà đang cố gắng tự mình giải quyết vấn đề.” 

Phụ nữ trong Giáo hội

“Ở Vatican, có nhiều phụ nữ làm việc. Chẳng hạn, phó thống đốc Nhà nước Vatican là một nữ tu, thống đốc có vai trò chung hơn nhưng chính nữ tu là người điều khiển. Trong Hội đồng Kinh tế có sáu hồng y và sáu giáo dân; trong số sáu giáo dân có năm người là phụ nữ. Rồi đã có các thư ký thay cho các Đức ông: thư ký của bộ Đời sống thánh hiến là phụ nữ; của bộ Phát triển Nhân bản Toàn diện là phụ nữ; trong ủy ban chọn giám mục có ba phụ nữ vì phụ nữ hiểu những điều mà chúng tôi không hiểu, phụ nữ có một bản năng đặc biệt với hoàn cảnh, và điều đó là cần thiết. Tôi nghĩ họ phải tham gia vào công việc bình thường của Giáo hội.”

Về việc phong chức cho phụ nữ, ngài nói: “Đây là vấn đề thần học chứ không phải vấn đề hành chính. Phụ nữ có thể làm bất cứ điều gì trong Giáo hội; kể cả thống đốc, không có vấn đề gì. Nhưng từ quan điểm thần học và mục vụ, đây là hai điểm khác nhau: nguyên tắc Phêrô, có nghĩa là nguyên tắc thẩm quyền; và nguyên tắc Thánh Mẫu, nguyên tắc quan trọng hơn vì Giáo hội là nữ, Giáo hội là hiền thê, Giáo hội không phải là nam, Giáo hội là nữ. Cần phải có thần học mới hiểu được điều này, và quyền lực của Giáo hội nữ và phụ nữ trong Giáo hội mạnh mẽ và quan trọng hơn quyền các mục tử nam. Đức Maria quan trọng hơn Phêrô vì Giáo Hội là nữ. Nhưng nếu chúng ta muốn quy điều này thành chủ nghĩa chức năng thì chúng ta sẽ thua.” 

Thượng hội đồng và bậc sống độc thân

Theo Đức Phanxicô, kết quả của Thượng hội đồng về tính đồng nghị là “tích cực”. Ngài nói: “Chúng tôi đã tự do thảo luận. Và đó là điều tốt, chúng tôi đã thành công triển khai tài liệu cuối cùng, tài liệu này phải được nghiên cứu trong phiên họp thứ hai vào tháng 10 năm 2024. Giống như Thượng hội đồng gia đình, Thượng hội đồng này cũng gồm hai giai đoạn. Tôi nghĩ chính xác chúng tôi đã thực thi tính đồng nghị mà Thánh Phaolô VI mong muốn vào cuối Công đồng, vì ngài đã nhận ra Giáo hội phương Tây đã mất đi chiều kích đồng nghị mà Giáo hội Đông phương vẫn còn giữ được.”

Trả lời câu hỏi về luật độc thân linh mục, ngài giải thích: “Đó là luật tích cực, không phải là luật tự nhiên: các linh mục trong Giáo hội công giáo Đông phương được phép kết hôn, trong khi ở các Giáo hội phương Tây, tôi nghĩ đó là kỷ luật có từ thế kỷ 12”, đánh dấu sự khởi đầu của cuộc sống độc thân. Nhưng đó là một luật có thể được dỡ bỏ mà không có vấn đề gì. Tôi không nghĩ điều này hữu ích. Vì vấn đề là hoàn toàn khác. Linh mục phải là người cha, phải hòa nhập vào cộng đoàn. Tôi nhớ có lần tôi tìm được một linh mục 65 tuổi của ba ngôi làng nhỏ trên núi, mỗi làng có năm trăm người. Tôi nói với linh mục: “Nhưng làm sao cha làm được? Cha có biết hết họ không? Cha mỉm cười nói với tôi: ‘tôi còn biết tên các con chó của họ.” Các linh mục này hội nhập, đúng là những người cha của cộng đoàn. Khi linh mục hơi “làm cao” một chút, chúng ta thua.

Về chủ đề các cặp đồng tính, ngài nói: “Khi tôi nói ‘mọi người, mọi người, mọi người’, tôi nói đến những con người. Giáo hội tiếp đón mọi người, mọi người và không hỏi bạn là người như thế nào. Rồi, trong nội tâm, mỗi người lớn lên và trưởng thành trong sự thuộc về giáo hội kitô của mình. Đúng là bây giờ nói về chuyện này như nói về thời trang. Giáo hội đón nhận mọi người. Nhưng là một chuyện khác khi có những tổ chức muốn vào. Nguyên tắc như sau: Giáo hội tiếp nhận tất cả những ai có thể chịu phép rửa. Các tổ chức không thể được rửa tội. Con người, được.” 

Lạm dụng trong và ngoài Giáo hội

Trong cuộc phỏng vấn, Đức Phanxicô giải thích ngài đang tiếp tục công việc của Đức Bênêđíctô XVI: “Rất nhiều công việc ‘dọn dẹp’ đã được thực hiện. Gồm tất cả các trường hợp lạm dụng và thậm chí có một số trường hợp từ Giáo triều và họ đã bị cho nghỉ. Đức Bênêđictô XVI đã can đảm trong việc này. Ngài đã tự mình giải quyết vấn đề và thực hiện nhiều biện pháp trước khi giao cho người kế nhiệm. Các lạm dụng, dù là lương tâm, tình dục hay các lạm dụng khác đều không thể dung thứ. Nó đi ngược với Tin Mừng; Tin Mừng là phục vụ chứ không lạm dụng và chúng ta thấy nhiều tòa giám mục đã làm rất tốt việc nghiên cứu vấn đề lạm dụng tình dục cũng như các loại lạm dụng khác”. Chúng ta không có văn hóa làm việc chống các vụ lạm dụng: chẳng hạn các con số thống kê tôi nhận được của một tổ chức quốc tế về vấn đề này, có 42 đến 46% các vụ lạm dụng xảy ra trong gia đình, trong khu phố và thường bị che giấu. Thật khủng khiếp.

Đức Phanxicô công nhận, dù Giáo hội đã làm được rất nhiều điều trong cuộc chiến chống nạn ấu dâm, nhưng “vẫn còn rất nhiều việc phải làm”.

Thời điểm khó khăn nhất

Khi được hỏi thời điểm khó khăn nhất trong triều của ngài là gì, Đức Phanxicô trả lời: “Có lẽ khó khăn và khắc nghiệt khi tôi phải phản đối cuộc chiến ở Syria, các lời tôi nói tại quảng trường. Tôi không biết phải làm gì, rất khó khăn. Tôi không quen với những việc như thế này và cũng sợ mắc sai lầm, làm tổn hại. Thật khó khăn. Cũng có một số khoảnh khắc dễ dàng, một số không dễ dàng. Nhưng Chúa luôn giúp tôi tìm giải pháp, hoặc ít nhất là cho tôi kiên nhẫn, chờ đợi để giải quyết”.

Đối với Giáo hội sẽ tiếp nối triều của ngài, Đức Phanxicô nói: “Chỉ có Chúa mới biết, nhưng luôn có hoài niệm quá khứ trong các thể chế cũng như trong Giáo hội. Đó là những người muốn đi lui, những “kẻ lạc hậu”. Họ không chấp nhận Giáo hội đang tiến lên, đang chuyển động. Vì Giáo hội luôn chuyển động nên phải phát triển. Và cách tồn tại của Giáo hội cũng phải phát triển theo ba nguyên tắc cao đẹp của Thánh Vincent de Lérins, người cha của thế kỷ thứ nhất, Giáo hội phải phát triển từ gốc, giống như cái cây lớn lên, nhưng luôn gắn liền với cội rễ, một Giáo hội tách khỏi cội rễ thì sẽ đi lui và đánh mất truyền thống lành mạnh của mình, đó không phải là chủ nghĩa bảo thủ. Truyền thống ngày càng phát triển. Và Giáo hội phải tiến về phía trước. Chúng ta hãy nghĩ đến án tử hình. Ngày nay chúng ta nói án tử hình là không có đạo đức. Chúng ta cũng lớn lên trong chế độ nô lệ. Ngày xưa, nô lệ là chuyện bình thường. Ngày nay, điều này không còn đúng nữa. Lương tâm đạo đức cũng ngày càng lớn mạnh… Sở hữu vũ khí nguyên tử.”

Khi được hỏi điều gì làm ngài sợ hãi, Đức Phanxicô trả lời: “Những sợ hãi nhỏ đến. Chuyện này chuyện kia đến. Cuộc chiến ở Đất Thánh làm tôi sợ. Nó sẽ chấm dứt như thế nào? Nhưng trước mặt Chúa, tất cả sẽ hạ xuống. Nhưng không phải các nỗi sợ biến mất. Nhưng phải nói, nỗi sợ là con người. Cũng là một chuyện tốt khi có những nỗi sợ.”

Trả lời câu hỏi của những người gọi ngài là “giáo hoàng cánh tả”, ngài nói: “Tôi không thích các nhãn hiệu cánh hữu và cánh tả. Đây là những thẩm định không có thật. Thẩm định thực sự là: nó có nhất quán hay không nhất quán? Những điều họ gợi ý có phù hợp với cội nguồn hay xa lạ? Chúng ta nghĩ đến Thánh Phaolô, ngài đưa ra mọi danh xưng cho mọi chuyện vì ngài là người đổi mới. Nhưng ngài không nói gì đến cánh tả, đến cộng sản.”

“Tôi sẽ đi dự hội nghị COP 28 ở Dubai”

“Đúng, tôi sẽ đi Dubai. Tôi sẽ đi từ ngày 1 tháng 12 đến ngày 3 tháng 12. Tôi sẽ ở đó ba ngày. Tôi nhớ khi tôi đến Nghị viện châu Âu ở Strasbourg, tổng thống Hollande đã cử bộ trưởng Môi trường Ségolène Royal đến đón tôi. Và bà hỏi tôi, ‘cha đang chuẩn bị gì đó cho môi trường phải không? Xin cha làm trước cuộc họp ở Paris.’ Tôi đã gọi cho một số nhà khoa học, họ nhanh chóng hành động. ‘Laudato sí’ được phát hành trước cuộc họp ở Paris. Và cuộc gặp ở Paris là cuộc gặp đẹp nhất. Sau Paris, mọi người đều thụt lùi và cần phải có can đảm để tiến về phía trước.”

Sau “Laudato si”, năm nhà lãnh đạo lớn của ngành dầu mỏ yêu cầu mở một cuộc họp. Tất cả để biện minh cho chính mình… cần có can đảm. Một quốc gia ở một hòn đảo ở Thái Bình Dương mua đất ở Samoa để tái định cư vì trong hai mươi năm nữa họ sẽ không còn tồn tại, biển sẽ nhận chìm họ. Nhưng chúng ta không muốn tin vào điều này. Chúng ta vẫn có thể ngừng mọi thứ. Tương lai của chúng ta, của con cháu chúng ta bị đe dọa. Chúng ta phải có trách nhiệm. Tôi muốn nói đến những ngư dân ở San Benedetto del Tronto (ở vùng Marche, nước Ý). Có những người dũng cảm đến nói với tôi, họ đã vớt hàng tấn nhựa thải và không ném chúng ra biển lại, họ tốn tiền một chút để dọn biển, chúng ta đã kém trong việc bảo vệ tạo vật.

Ngài tâm sự lần cuối ngài đi biển là năm 1975, ngài rất thích biển. Ngài cũng kể trước khi biết mình có ơn gọi, ngài đã đính hôn với “một cô gái rất dễ thương. Cô ấy làm việc ở rạp chiếu phim. Sau đó, tổng giám mục Rosario tìm thấy cô trong một giáo xứ cùng với chồng và các con.”

Đức tin và sức khỏe

Khi được hỏi liệu đức tin của ngài có bao giờ dao động hay không, Đức Phanxicô trả lời: “Theo nghĩa mất đức tin thì không. Nhưng theo nghĩa không cảm nhận được đức tin, bước đi trên những con đường tối tăm và khi đó tôi hỏi Chúa ở đâu? Đôi khi tôi cảm thấy Chúa ẩn mình hay tôi xa Chúa. Và Chúa ở đâu, Chúa ơi? Vì sao Chúa không giải quyết vấn đề này? Và khi đó tôi nghe Chúa nói, trong tận sâu thẳm tâm hồn tôi, vì Ta không có cây đũa thần. Chúa không phải là nhà ảo thuật, không. Chúa là một chuyện khác.”

Còn về sức khỏe, ngài nói: “Tôi đau đầu gối và tình trạng được cải thiện dần, tôi đã bước đi được một chút. Tôi bị mổ hai lần. Và bây giờ tôi khỏe. Tôi có thể ăn những gì tôi muốn.” 

Maradona, Messi và Pelé

Cuối cùng, trả lời câu hỏi về hai cầu thủ vĩ đại của bóng đá Argentina, Diego Maradona hay Lionel Messi. Ngài thú nhận ngài thích người thứ ba là Pelé. Tôi đã theo dõi Maradona, ông là cầu thủ tuyệt vời. Nhưng với tư cách là người thì ông thất bại. Ông rơi vào lưới của những người thần tượng ông và không giúp ông được gì. Ông đến gặp tôi năm đầu tiên tôi làm giáo hoàng và rồi ông qua đời. Thật lạ, nhiều vận động viên kết thúc cuộc đời không tốt. Messi rất đứng đắn. Ông là người quý phái, nhưng với tôi Pelé là người quý phái nhất. Một người có trái tim. Tôi đã nói chuyện với ông một lần trên máy bay khi tôi ở Buenos Aires, chúng tôi nói chuyện với nhau. Một người có lòng nhân vĩ đại. Cả ba đều tuyệt vời. Mỗi người có đặc nét riêng của họ. Messi hiện tại đang rất tốt. Và Pelé đã rất tốt.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch