Tôi tha thứ cho Đức Bênêđíctô. Tôi hy vọng những người khác cũng có thể
Tôi xem Đức Bênêđíctô như người thánh thiện nhưng không hoàn hảo, ngài đã làm hết khả năng của ngài.
Đức Phanxicô ôm giáo hoàng danh dự Bênêđíctô XVI trước khi gặp những người lớn tuổi tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày 28 tháng 9 năm 2014. Một báo cáo được chờ đợi từ lâu về lạm dụng tình dục ở giáo phận Munich của Đức gần đây đã quy lỗi cho Đức Bênêđíctô trong việc xử lý bốn vụ lạm dụng khi ngài làm tổng giám mục trong những năm 1970-1980. (Ảnh AP / Gregorio Borgia, File)
religionnews.com, Thomas Reese, 2022-02-22
Tôi gặp hồng y Joseph Ratzinger lần đầu tiên năm 1994 khi tôi đang làm nghiên cứu cho quyển sách của tôi “Bên trong Vatican: Chính trị và Tổ chức của Giáo hội Công giáo” (“Inside the Vatican: The Politics and Organization of the Catholic Church). Tôi sắp rời Rôma và ngài là một trong những người tôi phỏng vấn cuối cùng và quan trọng nhất cho quyển sách. Vì bệnh, ngài phải hủy cuộc hẹn đầu tiên của chúng tôi và sau đó ngài ân cần xếp lại lịch cho tôi vào lúc mà đa số nhân viên của Vatican ngủ trưa.
Vào cuối cuộc phỏng vấn, tôi đã ngài ban phép lành cho tôi – điều tôi chỉ làm với hai người khác ở Vatican – vì tôi cảm thấy mình đang ở trước sự hiện diện của một người thánh.
Nhưng tôi cũng biết mình đang ở trước sự hiện diện của một con người, trong tư cách đứng đầu Bộ Giáo lý Đức tin, đã tạo ra một tổn hại không thể sửa chữa được trong cuộc thảo luận thần học trong Giáo hội. Có rất nhiều nhà thần học đã bị bộ của ngài điều tra và im lặng trong thời giáo hoàng Gioan-Phaolô II. Các bài báo và sách đã được kiểm duyệt. Các giáo sư đã bị loại khỏi chức vụ của họ. Thậm chí có nhiều người tự kiểm duyệt để tránh bị quấy rối.
Trong số những người bị nhắm có các nhà thần học giải phóng ở Châu Mỹ La-tinh, các nhà thần học luân lý ở Hoa Kỳ và Châu Âu, và bất kỳ ai viết về chức linh mục.
Một số người trong số họ là bạn thân của tôi. Tôi đã sống với hai tu sĩ Dòng Tên, họ đã dành phần lớn thì giờ nghỉ năm sabat của họ để bảo vệ họ trước các cuộc tấn công của Rôma. Đây không phải là những nhân vật thường. Một người là linh mục Michael Buckley, đã từng làm việc với tư cách là trưởng ban của Hội đồng Giám mục Mỹ về giáo lý; người kia là linh mục David Hollenbach đã giúp các giám mục viết thư mục vụ của họ về nền kinh tế.
Vấn đề của Đức Ratzinger là ngài đối xử với các nhà thần học như thể họ là những sinh viên mới tốt nghiệp của ngài, những người cần được sửa chữa và hướng dẫn.
Vì thế, câu hỏi cuối cùng của tôi với ngài là: “Xét về lịch sử của Bộ và của Giáo hội liên quan đến một số nhà thần học nào đó – tôi đang nghĩ về một số người đã bị câm lặng trước Công đồng Vatican II và sau đó đã được thừa nhận – cha có bao giờ lo lắng là cha có thể…?”
Cha cười và trả lời: “Chà, mỗi ngày chúng tôi đều xét mình xem mình có làm tốt hay không. Nhưng cuối cùng, chỉ có Chúa của chúng ta mới có thể phán xét.” Tóm lại, mình làm tốt nhất có thể.
Những khó khăn của riêng tôi với Đức Ratzinger bắt đầu một thời gian ngắn sau khi tôi làm giám đốc biên tập của Tạp chí America, một tạp chí quan điểm được các tu sĩ Dòng Tên Hoa Kỳ xuất bản. Khi tôi là giám đốc biên tập vào tháng 6 năm 1998, tôi muốn đưa tạp chí America thành một tạp chí thảo luận và tranh luận về những vấn đề quan trọng mà Giáo hội phải đối diện. Tôi biết có những giới hạn đối với những gì chúng tôi có thể xuất bản. Sẽ không có bài xã luận nào ủng hộ các linh mục đã lập gia đình, nữ linh mục hoặc thay đổi giáo huấn của Giáo hội về kiểm soát sinh sản. Nhưng tôi nghĩ chúng tôi có thể thảo luận và tranh luận trong những bài báo mà không nhất thiết các bài này phải đại diện cho quan điểm của tạp chí.
Mùa hè năm đó, Vatican ban hành các tài liệu về thẩm quyền của các hội đồng giám mục và về chủ nghĩa đại kết và đối thoại liên tôn. Tôi hỏi những người chung quanh tôi để tìm các nhà giáo luật và thần học giỏi nhất để viết về những tài liệu này và tôi sẽ đăng bài của họ. Tôi không nói với họ những gì phải nói. Phần lớn, đó là những câu trả lời lịch sự bắt đầu bằng cách nói những gì họ thích trong các tài liệu, sau đó là những điểm họ nghĩ rằng các tài liệu đã không thành công.
Trong bảy năm làm biên tập viên, tôi cố gắng tìm những ngòi bút đại diện cho các quan điểm khác nhau trong Giáo hội. Tôi đã đăng tất cả các đề nghị của các giám mục (ngoại trừ một). Khi hồng y Walter Kasper gởi một bài chỉ trích về Giáo hội học của Đức Ratzinger, ngay lập tức tôi xin và nhận được phản hồi của ngài để đăng.
Ngay cả tôi còn mời Raymond Burke, khi đó là tổng giám mục của giáo phận St. Louis, để giải thích lập trường của ngài về việc ngài từ chối không cho các chính trị gia ủng hộ sự lựa chọn được rước lễ. Nhưng tôi cũng đăng các câu trả lời của một luật sư giáo luật nổi tiếng và đại diện công giáo mà ông bị nhắm làm mục tiêu.
Chúng tôi cũng đăng nhiều bài về cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục.
Một vài năm sau, Đức Ratzinger, thông qua bề trên tổng quyền Dòng Tên ở Rôma đã cho biết ngài không hài lòng về tạp chí. Rõ ràng là theo quan điểm của Rôma, một tạp chí công giáo chỉ nên thể hiện một ý kiến – ý kiến của Vatican. Mọi tài liệu và từ ngữ từ Vatican nên được nhiệt tình đón nhận, không chỉ trích.
Những tiếng nói công giáo bảo thủ ở Hoa Kỳ cũng đã tấn công tờ báo vì không vâng lời giáo hoàng. Điều thú vị là nhiều người trong số họ đang lên tiếng chỉ trích giáo hoàng Phanxicô bằng giọng điệu mà tôi không bao giờ có thể nói với bất cứ ai trong triều giáo hoàng.
Giáo hoàng danh dự Bênêđíctô XVI ở Đền thờ Thánh Phêrô ngày 8 tháng 12 năm 2015. Một báo cáo được chờ đợi từ lâu về lạm dụng tình dục đã đặt vấn đề trong việc ngài xử lý bốn trường hợp. (Ảnh AP / Gregorio Borgia)
Đến một lúc Vatican đã muốn thành lập một ủy ban các giám mục như người kiểm duyệt tạp chí. May mắn thay, hồng y Avery Dulles và những người khác bảo vệ chúng tôi và ý tưởng này bị bỏ qua.
Cái đinh cuối cùng đóng vào quan tài là một loạt các bài báo về hôn nhân đồng tính, bắt đầu bằng sự phản đối mạnh mẽ của một giáo sư triết của Đại học Công giáo Hoa Kỳ. Để trả lời cho bài báo này, chúng tôi nhận được một bài báo ủng hộ hôn nhân đồng tính mà không do chúng tôi yêu cầu, của một giáo sư thần học từ Đại học Boston. Tôi biết điều này sẽ gây tranh cãi, nên tôi để tác giả trả lời phản hồi đầu tiên và vì thế ông cũng là người có tiếng nói cuối cùng. Nhưng điều đó là không đủ.
Ngay sau đó, tiếng nói của Đức Ratzinger cho biết Reese phải ra đi. Vì nhiều lý do khác nhau, thông báo này chỉ đến với tôi sau khi ngài được bầu làm giáo hoàng.
Tôi đã không ngạc nhiên khi nghe tin. Tôi kết luận đã đến lúc phải ra đi. Vì câu chuyện của tôi với Đức Ratzinger, bây giờ ngài đã là giáo hoàng thì điều tốt nhất cho các tu sĩ Dòng Tên và tạp chí, tôi phải rút lui. Và mặc dù tôi yêu thích công việc, tôi đã cảm thấy mệt mỏi sau bảy năm làm việc quá sức.
Đúng là tôi rất tức giận và chán nản, nhưng một cách nhanh chóng và rõ ràng, sau khi tôi không còn làm biên tập thì chẳng còn ai ở Rôma để ý đến những gì tôi nói hay viết. Tôi đã được tự do. Tôi đã rất thích công việc “hậu-America” của tôi, tôi viết cho các trang Religion News Service, Dịch vụ Tin tức Tôn giáo và National Catholic Reporter, Tường trình Công giáo Quốc gia. Đức Phanxicô được bầu chọn đã giải tỏa chứng trầm cảm của tôi.
Tôi đang già đi và bây giờ tôi muốn tha thứ cho Đức Bênêđíctô XVI. Tôi muốn để nó qua. Tôi nghĩ, chúng ta chỉ thực sự trưởng thành khi chúng ta có thể tha thứ cho những thất bại của cha mẹ mình.
Đức Bênêđíctô không xin tôi tha thứ. Tôi ngờ ngài không còn nhớ tôi là ai. Ngài có lẽ vẫn nghĩ rằng những gì ngài làm với tôi và với nhiều nhà thần học khác là điều đúng cho Giáo hội, nhưng tôi vẫn muốn tha thứ cho ngài.
Tôi không thể thuyết phục những người khác cũng tha thứ cho ngài, đặc biệt là những người đã bị các linh mục lạm dụng. Trong những ngày đầu của cuộc khủng hoảng, ngài cũng như các giám chức khác, nhưng với thời gian, ngài tốt hơn và nhanh hơn so với nhiều người cùng thời với ngài. Cuối cùng, ngài đã giúp Giáo hội cải thiện phản ứng của mình đối với cuộc khủng hoảng lạm dụng. Nhưng kinh nghiệm của tôi không thể nào so sánh với nỗi đau mà các nạn nhân phải chịu đựng.
Tóm lại, tôi thấy Đức Bênêđíctô là người thánh thiện nhưng không hoàn hảo, ngài đã làm hết khả năng của ngài. Đối với chúng ta tất cả, đó là điều tốt nhất chúng ta có thể nói, vì vậy chúng ta nên tha thứ như chúng ta muốn được tha thứ. Và cuối cùng như ngài đã nói, “rồi thì chỉ duy có Chúa của chúng ta mới có thể phán xét.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Bài đọc thêm: Đức Bênêđíctô XVI bị chỉ trích trong các tuyên bố lạm dụng tình dục