Bài phỏng vấn triết gia Edgar Morin về cuộc khủng hoảng sức khỏe hiện nay

313

Bài phỏng vấn triết gia Edgar Morin về cuộc khủng hoảng sức khỏe hiện nay

Edgar Morin: “Cuộc khủng hoảng này thúc đẩy chúng ta đặt câu hỏi về lối sống, về nhu cầu thực sự của chúng ta bị che đậy trong sự tha hóa của cuộc sống hàng ngày”

lemonde.fr, Nicolas Truong, 2020-04-19

Trong một cuộc phỏng vấn với báo Le Monde, nhà xã hội học và triết gia cho rằng cuộc chạy đua về lợi nhuận và sự thiếu sót trong cách suy nghĩ của chúng ta là nguyên nhân gây ra vô số thảm họa do con người gây ra từ đại dịch Covid-19.

Triết gia Edgar Morin sinh năm 1921, cựu chiến binh kháng chiến, nhà xã hội học, tư tưởng gia đa ngành, người không kỷ luật, tiến sĩ  danh dự của ba mươi bốn trường đại học trên thế giới, từ ngày 17 tháng 3, ông cách ly ở căn hộ của ông ở thành phố Montpellier cùng với vợ, nhà xã hội học Sabah Abouessalam. Ông cho biết cuộc khủng hoảng khổng lồ này đã kích thích ông rất nhiều.

Có phải đại dịch do coronavirus là có thể dự đoán trước được không?

Tất cả các lý thuyết tương lai của thế kỷ XX dự đoán về những gì đang xảy ra trong hiện tại đều bị sụp đổ. Dù vậy chúng ta cũng tiếp tục dự đoán cho những năm 2025 và 2050, thế nhưng chúng ta lại không thể hiểu được năm 2020. Kinh nghiệm về những vụ đột xuất bất ngờ trong lịch sử hầu như không thấm vào lương tâm. Tuy nhiên, sự xuất hiện của điều không thể đoán trước lại có thể dự đoán được, nhưng không phải là bản chất của nó. Do đó câu châm ngôn mãi mãi của tôi vẫn là: “Chờ đi, chờ điều bất ngờ đến.”

Thêm nữa, tôi ở trong thiểu số những người thấy trước các thảm họa dây chuyền gây ra bởi sự mất kiểm soát của toàn cầu hóa kinh tế kỹ thuật, bao gồm cả những hậu quả từ sự xuống cấp sinh quyển và sự xuống cấp của xã hội. Nhưng tôi hoàn toàn không dự đoán được tai ương virus này.

Nhưng có một nhà tiên tri về thảm họa này: ông Bill Gates, trong một cuộc hội thảo vào tháng 4 năm 2012 ông đã tuyên bố mối nguy hiểm trước mắt đối với nhân loại không phải là hạt nhân, mà là sức khỏe. Ông đã nhìn thấy trong đại dịch Ebola, mà nhờ may mắn đại dịch này đã kiểm soát được khá nhanh, ông thông báo về sự nguy hiểm toàn cầu của một loại virus có khả năng gây nhiễm cao, ông đã phác thảo các biện pháp phòng ngừa cần thiết, bao gồm cả thiết bị bệnh viện đầy đủ. Nhưng, bất chấp cảnh báo công khai này, không có gì được thực hiện ở Mỹ hoặc ở nơi khác. Bởi vì sự thoải mái trí tuệ và thói quen, người ta hãi hùng trước các thông điệp làm phiền đến họ.

Làm thế nào để giải thích việc nước Pháp không chuẩn bị?

Ở nhiều quốc gia, kể cả nước Pháp, chiến lược kinh tế tăng trưởng rất căng thẳng thay thế cho việc lưu trữ, đã làm cho hệ thống sức khỏe thiếu khẩu trang, dụng cụ thử nghiệm, thiết bị hô hấp; điều này, cùng với học thuyết tự do thương mãi trong lãnh vực bệnh viện và việc giảm các phương tiện của bệnh viện đã góp phần vào quá trình thảm khốc của dịch bệnh.

Cuộc khủng hoảng này đưa chúng ta vào loại bất ngờ nào?

Dịch bệnh này mang đến cho chúng ta một chuỗi những chuyện không chắc chắn. Chúng ta không chắc về nguồn gốc virus: chợ dơ bẩn ở Vũ Hán hoặc phòng thí nghiệm bên cạnh, chúng ta không biết các thể đột biến mà virus trải qua hoặc sẽ có thể trải qua trong quá trình lan truyền. Chúng ta không biết khi nào dịch bệnh sẽ giảm hay liệu virus sẽ còn lưu hành hay không. Chúng ta không biết cho đến khi nào và ở mức độ nào cách ly sẽ tạo các trở ngại, bị hạn chế, bị phải theo khẩu phần. Chúng ta không biết đâu là các hậu quả chính trị, kinh tế, quốc gia và toàn cầu do vấn đề cách ly mang lại. Chúng ta không biết chúng ta có nên chờ điều xấu nhất, tốt nhất hay kết hợp cả hai: chúng ta đang tiến tới những điều không chắc chắn mới.

Có phải cuộc khủng hoảng sức khỏe toàn cầu này là một cuộc khủng hoảng phức tạp?

Các kiến thức nhân lên theo cấp số nhân, đột nhiên, nó vượt quá khả năng để chúng ta phù hợp với nó, và nhất là nó đưa ra thách thức về sự phức tạp: làm thế nào để đương đầu, để chọn lọc, để tổ chức các kiến thức này một cách đầy đủ, bằng cách nối chúng lại với nhau kể cả sự không chắc chắn. Đối với tôi, thêm một lần nữa, điều này cho thấy sự thiếu sót của lối hiểu biết đã được in trong đầu chúng ta, làm cho chúng ta tách ra với cái không thể tách rời và giảm xuống thành một yếu tố duy nhất, tạo thành một tổng thể vừa là một, vừa là khác nhau. Thật vậy, các biến động được đưa ra như sét đánh, chúng ta phải chịu những gì tưởng như tách ra lại dính kết với nhau, vì tai ương sức khỏe gieo thảm khốc hàng chuỗi trong toàn bộ những gì thuộc về con người.

“Trong cái không biết, mọi thứ tiến triển qua thử nghiệm và sai lầm cũng như qua các sáng tạo lệch lạc mà mới đầu bị hiểu lầm và bị từ chối. Đó là cuộc phiêu lưu trị liệu chống virus.”

Thật là bi thảm khi tư duy tách ra và rút gọn lại làm chủ trong nền văn minh của chúng ta và nắm quyền kiểm soát trong lãnh vực chính trị và kinh tế. Sự thiếu sót ghê gớm này đã dẫn đến các sai lầm trong chẩn đoán, trong phòng ngừa, cũng như trong các quyết định lệch lạc. Tôi thêm vào đây nỗi ám ảnh về lợi nhuận giữa các nhà thống trị và các nhà lãnh đạo của chúng ta, đã dẫn đến việc tiết kiệm đáng tội như trong trường hợp ở các bệnh viện và việc bỏ sản xuất khẩu trang ở Pháp. Theo tôi, sự thiếu sót trong cách suy nghĩ, kết hợp với sự thống trị không thể phủ nhận của một khát vọng lợi nhuận không ngừng đã chịu trách nhiệm cho vô số thảm họa của con người, bao gồm cả các thảm họa đã xảy ra kể từ tháng 2 năm 2020.

Chúng ta đã có một tầm nhìn đơn nhất về khoa học. Tuy nhiên, các cuộc tranh luận về dịch tễ học và các cuộc tranh luận về trị liệu đang nhân lên trong nội bộ. Khoa học sinh hóa đã trở thành một chiến trường mới?

Chính đáng, khoa học nên được chính quyền triệu tập để chống lại dịch bệnh. Vậy mà người dân lúc đầu đã yên tâm, nhưng khi giáo sư Raoult đưa ra một giải pháp trị liệu thì người dân thấy các ý kiến khác nhau, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau. Người dân nào hiểu biết hơn sẽ thấy một số nhà khoa học vĩ đại có mối quan hệ lợi nhuận với kỹ nghệ dược phẩm, mà các vận động hành lang cực mạnh với các bộ, cơ quan truyền thông, có thể tạo các chiến dịch làm cho các ý tưởng không phù hợp trở thành lố bịch.

Chúng ta nhớ lại trường hợp của giáo sư Montagnier, người chống lại các tay trùm và quan lại của khoa học, là người cùng với một vài người khác đã khám phá virus sida. Đây là một cơ hội để hiểu rằng khoa học không phải là một tiết mục của những sự thật tuyệt đối (khác với tôn giáo) mà là các lý thuyết của nó có thể phân hủy sinh học dưới tác dụng của các khám phá mới. Các lý thuyết được chấp nhận có xu hướng trở thành giáo điều trong các cuộc họp thượng đỉnh học thuật, và đó là những kẻ lệch lạc, từ Pasteur đến Einstein, đến Darwin, và Crick và Watson, những người khám phá chuỗi xoắn kép của DNA đã làm khoa học tiến bộ. Chính các tranh luận là cần thiết cho tiến bộ, chứ không phải là chuyện bất thường. Một lần nữa, trong cái không biết, mọi thứ tiến triển qua thử nghiệm và sai lầm cũng như qua các sáng tạo lệch lạc mà mới đầu bị hiểu lầm và bị từ chối. Đó là cuộc phiêu lưu trị liệu chống virus. Các giải pháp có thể xuất hiện ở nơi họ không mong đợi.

Khoa học bị tàn phá bởi sự siêu chuyên môn hóa, đó là sự đóng cửa và ngăn cách các kiến thức chuyên ngành thay vì giao tiếp giữa chúng. Nhất là các nhà nghiên cứu độc lập, những người ngay từ đầu dịch bệnh đã thiết lập một sự hợp tác hiện đang mở rộng giữa các bác sĩ nhiễm trùng học và các bác sĩ khác trên hành tinh. Khoa học sống qua truyền thông, mọi kiểm duyệt đều làm nó bị chận đứng. Như thế chúng ta phải thấy sự vĩ đại của khoa học đương đại cùng với các điểm yếu của nó.

Ở mức độ nào chúng ta có thể rút tỉa gì về cuộc khủng hoảng?

Trong khảo luận của tôi Về cuộc khủng hoảng (Sur la crise, nxb. Flammarion), tôi đưa ra một cuộc khủng hoảng, vượt ngoài sự mất ổn định và sự không chắc chắn mà nó mang lại, được biểu hiện qua sự thất bại các quy định của một hệ thống, để duy trì sự ổn định của nó, đã ngăn chặn hoặc kìm nén các lệch lạc (phản hồi tiêu cực). Không còn bị kìm nén, các lệch lạc (phản hồi tích cực) trở thành xu hướng tích cực, nếu chúng phát triển, thì càng ngày càng đe dọa để bãi bỏ quy định và ngăn chặn hệ thống đang bị khủng hoảng. Trong cuộc sống và đặc biệt là các hệ thống xã hội, sự phát triển chiến thắng của những sai lệch đã trở thành xu hướng sẽ dẫn đến các biến đổi, thoái lui hoặc tiến bộ, thậm chí là một cuộc cách mạng.

“Nói tóm lại, một loại virus bé tí ở một thành phố vô danh ở Trung Quốc đã làm đảo lộn cả một thế giới”

Cuộc khủng hoảng trong xã hội dẫn đến hai tiến trình mâu thuẫn. Việc đầu tiên là kích thích trí tưởng tượng và sáng tạo trong việc tìm kiếm các giải pháp mới. Việc thứ hai, hoặc là tìm kiếm lại sự ổn định trong quá khứ, hoặc theo một sự cứu rỗi quan trọng, cũng như việc tố cáo hoặc thiêu sống thủ phạm. Thủ phạm này có thể đã phạm phải những sai lầm gây ra khủng hoảng, hoặc có thể đây là thủ phạm tưởng tượng, một vật tế thần phải bị loại bỏ.

Thật vậy, các ý tưởng lệch lạc và bên lề đang lan truyền đủ loại: trở lại chủ quyền, Nhà Nước ban phát, bảo vệ các dịch vụ công chống tư nhân hóa, tái định cư, bỏ toàn cầu hóa, chống chủ nghĩa tân tự do, cần một chính sách mới. Các cá tính và ý thức hệ bị cho là có tội.

Và chúng ta cũng thấy, trong tình trạng thiếu các quyền lực công chúng, một sự bùng ra của trí tưởng tượng đoàn kết: sản xuất khẩu trang bởi đủ loại công ty, làm tiểu thủ công nghệ, các nhóm sản xuất địa phương, giao hàng tận nhà miễn phí, láng giềng tương trợ nhau, bữa ăn cho người vô gia cư, chăm sóc trẻ em; hơn nữa, tình trạng cách ly kích thích khả năng tự tổ chức để khắc phục cuộc sống qua đọc sách, nghe nhạc, xem phim khi không còn tự do đi lại. Do đó, cuộc khủng hoảng kích thích tính tự lập và sáng tạo.

Có phải chúng ta đang chứng kiến một nhận thức thực sự về thời đại hành tinh?

Tôi hy vọng, dịch bệnh chưa từng có và chết người mà chúng ta đang sống sẽ mang lại cho chúng ta nhận thức không chỉ là chúng ta bị cuốn vào cuộc phiêu lưu đáng kinh ngạc của nhân loại, mà còn là sống trong một thế giới vừa không chắc chắn vừa bi thảm. Xác quyết rằng tự do cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế là thuốc bá bệnh cho xã hội che đi thảm kịch của lịch sử loài người mà xác quyết này làm trầm trọng thêm.

Sự điên cuồng sảng khoái của chủ nghĩa siêu biến hóa đưa con người lên đến cực điểm với huyền thoại về nhu cầu lịch sử của tiến bộ và sự làm chủ của con người, không những về thiên nhiên mà còn về số phận của con người, bằng cách dự đoán con người sẽ bất tử và sẽ kiểm soát mọi thứ bằng thông minh nhân tạo. Vậy mà chúng ta là diễn viên năng động/bị động, người có của/người không có của, người cực mạnh/người suy yếu. Nếu chúng ta có thể trì hoãn cái chết bằng tiến trình lão hóa tự nhiên, chúng ta cũng sẽ không bao giờ có thể loại bỏ các tai nạn chết người, cơ thể chúng ta bị tan nát, chúng ta cũng sẽ không bao giờ có thể thoát khỏi vi khuẩn và virus liên tục tự thích nghi để chống lại thuốc men, trụ sinh, thuốc chống virus, vắc-xin.

Đại dịch có làm chúng ta co mình lại ở trong nhà và đóng cửa theo địa chính trị không?

Dịch bệnh toàn cầu đã bùng phát, và ở Paris đã làm nặng khủng khiếp thêm cuộc khủng hoảng sức khỏe tạo nên các biện pháp cách ly ngộp thở về kinh tế, biến một lối sống hướng ngoại thành lối sống trong nhà, và gây ra khủng hoảng dữ dội toàn cầu hóa. Khủng hoảng toàn cầu đã tạo ra sự phụ thuộc liên đới, nhưng sự phụ thuộc liên đới không đi kèm theo tinh thần đoàn kết. Tồi tệ hơn, qua các phản ứng, nó đã làm dấy lên các cách ly theo sắc tộc, quốc gia, tôn giáo vốn đã nặng trong các thập kỷ đầu tiên của thế kỷ này.

Do đó, vì thiếu các thể chế vừa quốc tế vừa cả ở Âu châu để có một khả năng phản ứng theo tinh thần đoàn kết hành động, các quốc gia đã co rút vào chính mình. Thậm chí Cộng hòa Séc còn đánh cắp khẩu trang khi các khẩu trang này quá giang trên đường đến Ý, còn nước Mỹ thì lại lấy khẩu trang tại Trung quốc ban đầu dành cho Pháp. Như thế cuộc khủng hoảng sức khỏe đã tạo ra một chuỗi khủng hoảng họp lại. Loại đa khủng hoảng này hay khủng hoảng khổng lồ trải từ lãnh vực chính trị qua kinh tế, từ cá nhân qua hoàn cầu, đi qua gia đình, vùng miền, Quốc gia. Nói tóm lại, một loại virus bé tí ở một thành phố vô danh ở Trung Quốc đã làm đảo lộn cả một thế giới

Đâu là các đường vòng quanh vụ bộc phát toàn cầu này?

Là cuộc khủng hoảng toàn cầu, nó làm nổi bật số phận chung của tất cả mọi người, không thể tách rời khỏi vận mệnh sinh thái của hành tinh Trái đất; đồng thời nó tăng cường khủng hoảng của nhân loại, không đạt được việc cấu thành chính nó trong cương vị nhân loại.

Là cuộc khủng hoảng kinh tế, nó đang làm rung chuyển tất cả các giáo điều điều hành kinh tế và nó đe dọa làm nặng thêm tình trạng hỗn loạn và khan hiếm trong tương lai.

Là cuộc khủng hoảng quốc gia, nó cho thấy các thiếu sót của một chính sách thiên về vốn, không thiên về việc làm, hy sinh phòng ngừa và thận trọng để gia tăng lợi nhuận và khả năng cạnh tranh.

Là một cuộc khủng hoảng xã hội, nó đưa ra ánh sáng trần trụi sự bất bình đẳng giữa những người sống trong các căn hộ nhỏ đông người, cha mẹ con cái ông bà ở một nhà và những người có thể bỏ nơi thường trú của mình để về nhà đồng quê của họ.

“Là cuộc khủng hoảng hiện sinh, nó thúc đẩy chúng ta tự vấn về các nhu cầu thực sự, các khát nguyện thực sự của chúng ta ẩn giấu trong sự tha hóa của cuộc sống hàng ngày”

Là cuộc khủng hoảng văn minh, nó thúc đẩy chúng ta nhận thức về sự thiếu sót trong tình đoàn kết và sự đầu độc của người tiêu dùng mà nền văn minh của chúng ta đã phát triển, đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ về chính sách văn minh (Chính sách của văn minh, với Sami Naïr, Arléa 1997)

Là cuộc khủng hoảng trí tuệ, nó cho chúng ta thấy lỗ hỗng đen khổng lồ trong trí thông minh của chúng ta, làm các phức tạp hiển nhiên của thực tế trở nên vô hình đối với chúng ta.

Là cuộc khủng hoảng hiện sinh, nó thúc đẩy chúng ta tự vấn về các nhu cầu thực sự, các khát nguyện thực sự của chúng ta ẩn giấu trong sự tha hóa của cuộc sống hàng ngày, để tạo ra sự khác biệt giữa giải trí làm chúng ta quay lưng với các sự thật và hạnh phúc mà chúng ta tìm thấy khi đọc sách, nghe hoặc xem các kiệt tác làm cho chúng ta đối diện với số phận con người của mình. Và nhất là nó mở rộng tâm trí chúng ta về thời gian cách ly lâu dài trước cái lập tức, trước những chuyện thứ yếu và phù phiếm, với cái thiết yếu: tình yêu và tình bạn cho sự triển nở cá nhân, cộng đoàn và tình đoàn kết của những cá thể. Tóm lại, cách ly thể lý phải làm thuận lợi cho việc dỡ bỏ cách ly tâm trí.

Thế nào là cách ly? Và ông sống cách ly như thế nào?

Kinh nghiệm cách ly lâu dài áp đặt lên một quốc gia là kinh nghiệm chưa từng thấy. Cách ly ở các khu ghetto ngày xưa ở Warsaw, Ba Lan cho phép người dân ở đó lưu thông giữa nội bộ. Nhưng cách ly ở khu nhà ghetto là chuẩn bị cho cái chết và cách ly của chúng ta là để bảo vệ sự sống. Tôi chịu đựng được vì tôi sống trong điều kiện ưu tiên, căn hộ ở tầng trệt có vườn, tôi có thể tận hưởng mùa xuân dưới ánh mặt trời, có vợ tôi chăm sóc, có hàng xóm thân thiện đi chợ giùm, liên lạc được với người thân yêu, bạn bè, được báo chí, đài phát thanh hoặc truyền hình phỏng vấn, xin tôi đưa ra chẩn đoán qua Skype. Nhưng ngay từ đầu tôi biết, có nhiều người sống khó khăn ở các căn hộ đông người, những người độc thân và nhất là người vô gia cư, tất cả đều là nạn nhân của tình trạng cách ly.

Điều gì ảnh hưởng vì cách ly lâu dài?

Tôi biết cách ly lâu dài càng ngày càng bị xem là một cản trở. Video không thể thay rạp chiếu bóng, máy tính bảng không thể thay tiệm sách. Skype và Zoom không thể thay tiếp xúc thể ly với tiếng leng keng ly tách chạm nhau. Thức ăn nhà dù ngon cũng không thay tiếng mời gọi của tiệm ăn. Phim tài liệu không thay được mong muốn du ngoạn tận nơi xem phong cảnh, xem viện bảo tàng, không lấy đi ham thích của tôi được đi thăm nước Ý, nước Tây Ban Nha. Giảm thiểu chỉ còn điều thiết yếu lại làm cho chúng ta thèm chuyện phù phiếm.

Tôi hy vọng kinh nghiệm cách ly sẽ điều hòa lại các mong muốn nhất thời, muốn đi Bangkok để có kỷ niệm về kể cho bạn bè nghe, tôi hy vọng nó sẽ giúp giảm chủ nghĩa tiêu dùng, say mê tiêu thụ và quỵ lụy theo các quảng cáo khuyến dụ, để ủng hộ thực phẩm lành mạnh và ngon, các sản phẩm bền vững, không dùng loại sản phẩm dùng một lần. Nhưng cần phải có các khuyến khích khác và nhận thức để một cuộc cách mạng như thế xảy ra trong lãnh vực này. Tuy nhiên có hy vọng cuộc cách mạng chậm này bắt đầu tiến nhanh.

Theo ông, cái gọi là “thế giới sau đó” sẽ như thế nào?

Trước hết, người công dân chúng ta, chúng ta sẽ giữ gì về cái gọi là cơ quan công quyền của kinh nghiệm cách ly này? Chỉ một phần? Tất cả mọi thứ sẽ bị lãng quên, sát trùng hóa hay dân gian hóa? Điều có vẻ rất có khả năng là sự lan truyền kỹ thuật số, được khuếch đại bởi cách ly (làm việc tại nhà, hội nghị qua video, Skype, dùng Internet chuyên sâu), sẽ tiếp tục với cả hai khía cạnh tiêu cực và tích cực, nhưng đây không phải là lãnh vực mà cuộc phỏng vấn này đề cập đến.

Chúng ta trở lại với vấn đề thiết yếu. Đi ra khỏi cách ly là đi ra cuộc khủng hoảng khổng lồ hay làm nặng thêm? Bùng nổ hay suy thoái? Khủng hoảng kinh tế khổng lồ? Khủng hoảng thực phẩm toàn cầu? Tiếp tục toàn cầu hóa hay tự động rút lui?

“Sau cách ly, liệu sẽ có một sự bùng phát mới để có một đời sống thân tình và yêu thương tiến đến một nền văn minh nơi chất thơ của sự sống được trải rộng, nơi “tôi” nảy nở trong “chúng ta” không?

Tương lai của toàn cầu hóa sẽ ra sao? Tân chủ nghĩa tự do bị lung lay có nắm quyền lại không? Các quốc gia khổng lồ sẽ phản đối nhiều hơn trong quá khứ? Các cuộc xung đột vũ trang, ít nhiều giảm trong cuộc khủng hoảng, có phẫn nộ thêm không? Sẽ có một tầm mức quốc tế hợp tác để cứu không? Sẽ có một vài tiến bộ về mặt chính trị, kinh tế, xã hội như đã có sau Thế chiến Thứ hai không? Sự thức tỉnh để đoàn kết do cách ly tạo ra có được kéo dài và tăng cường, không chỉ đối với các bác sĩ và y tá, nhưng cho đến tận người dân thường, người đổ rác, lao công, giao hàng, thu ngân viên mà không có họ, chúng ta không thể sống còn không? Vô số công việc đoàn kết trước khi có dịch bệnh sẽ có được nhân lên không? Những người sau khi cách ly có trở lại nếp sống hối hả, ích kỷ, tiêu thụ quá đáng không? Hay sẽ có một sự bùng phát mới để có một đời sống thân tình và yêu thương tiến đến một nền văn minh nơi chất thơ của sự sống được trải rộng, nơi “tôi” nảy nở trong “chúng ta” không?

Chúng ta không thể biết, liệu sau khi bị cách ly, hành vi và ý tưởng sáng tạo sẽ chấp cánh, thậm chí cách mạng hóa chính trị và kinh tế, hay liệu thứ trật từng bị lung lay sẽ tự tái lập lại. Chúng ta có thể sợ hãi sự quay về toàn diện đã diễn ra trong hai mươi năm đầu của thế kỷ này (khủng hoảng dân chủ, tham nhũng và chính sách mị dân chiến thắng, chế độ độc tài mới, chủ nghĩa dân tộc, bài ngoại, phân biệt chủng tộc).

Tất cả các thoái bộ này (và các trì trệ) có thể sẽ xảy ra khi khi không có chính sách chính trị-môi sinh-kinh tế-xã hội được hướng dẫn bởi một đường lối nhân bản tái sinh xuất hiện. Điều này sẽ nhân lên các cải cách thật sự, không phải là giảm ngân sách, nhưng là các cải cách của văn minh hóa, của xã hội liên hệ đến các cải cách cuộc sống.

Nó sẽ kết hợp các thuật ngữ mâu thuẫn như: “toàn cầu hóa” (cho tất cả những gì là hợp tác) và “giải toàn cầu hóa” (để thiết lập quyền tự chủ về lương thực và cứu các vùng lãnh thổ khỏi sa mạc hóa); “tăng trưởng” (nền kinh tế của các nhu cầu cơ bản, lâu bền, nông nghiệp hoặc canh tác hữu cơ) và “giảm tăng trưởng” (của nền kinh tế phù phiếm, ảo tưởng, dùng một lần); “Phát triển” (của tất cả những gì tạo ra hạnh phúc, sức khỏe, tự do) và “bao bọc” (trong tình đoàn kết cộng đồng).

Ông biết các câu hỏi nổi tiếng của triết gia Kant  – Tôi có thể biết gì? Tôi phải làm gì? Cái gì cho phép tôi hy vọng? Con người là gì? –, ai đã là và vẫn là những người trong đời sống của ông. Chúng ta nên có thái độ đạo đức nào đứng trước điều bất ngờ?

Hậu-dịch sẽ là một cuộc phiêu lưu vô định, khi các thế lực xấu nhất và tốt nhất sẽ phát triển, các thế lực tốt nhất vẫn còn yếu và phân tán. Chúng ta biết rằng, cuối cùng điều xấu nhất là không chắc chắn, rằng điều không thể xảy ra có thể xảy ra và trong cuộc chiến khốc liệt và không thể nguôi giữa các kẻ thù không chia lìa là Eros (Thần tình yêu) và Thanatos (Thần chết), thì bổ ích và lành mạnh là phải đứng về phía Thần tình yêu.

Thân mẫu của ông, bà Luna bị cúm Tây Ban Nha. Và đoạn bà bị chấn thương trước khi sinh mở đầu quyển sách gần đây của ông, cho thấy chấn thương này đã mang lại cho ông một sức sống, một khả năng phi thường để cự lại cái chết. Ông có luôn cảm nhận năng lực phi thường này ở trọng tâm cuộc khủng hoảng toàn cầu này không?

Cúm Tây Ban Nha đã gây tổn thương tim mạch cho mẹ tôi và bác sĩ khuyên bà không nên có con. Bà đã cố gắng phá thai hai lần, lần thứ hai không được, đứa bé sinh ra như bị chết vì ngộp thở, bị dây nhau siết cổ. Tôi có thể đã có được lực kháng cự này trong bụng mẹ tôi, và nó ở trong tôi suốt cuộc đời, nhưng tôi chỉ có thể sống còn nhờ sự giúp đỡ của người khác, bác sĩ phụ khoa đã tát vào tôi trong vòng nửa giờ trước khi tôi bật tiếng khóc đầu đời, sau đó là may mắn của tôi trong thời Kháng chiến, rồi thời gian nằm bệnh viện (bị lao, bị viêm gan) và Sabah, người bạn đồng hành, người vợ của tôi. Đúng là “năng lực sống” không bao giờ bỏ tôi; nó còn lớn hơn trong thời gian khủng hoảng toàn cầu. Mọi cuộc khủng hoảng đều kích thích tôi và cuộc khủng hoảng khổng lồ này đã kích thích tôi rất nhiều.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Edgar Morin: “Cách ly dạy chúng ta phải tế nhị với người phối ngẫu”

Edgar Morin: “Chúng ta phải sống với nỗi bất an”

Một xã hội đoàn kết?