Home Blog Page 426

Làm thế nào Rôma chuẩn bị cho việc theo dõi Thượng hội đồng về tương lai Giáo hội

Làm thế nào Rôma chuẩn bị cho việc theo dõi Thượng hội đồng về tương lai Giáo hội

Đức Phanxicô trong cuộc họp với các đại diện của các hội đồng giám mục từ khắp nơi trên thế giới tại Vatican ngày 9 tháng 10 năm 2021. (Ảnh CNS / Paul Haring)

la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Rôma, Malo Tresca và Benoỵt Fauchet, 2022-09-21

Ngày thứ tư 2 tháng 9, hơn hai mươi nhà thần học họp tại Frascati, gần Rôma, họ chuẩn bị tổng hợp các hồ sơ cuộc tham khảo về tương lai Giáo hội công giáo đã thực hiện trên khắp thế giới trong những tháng gần đây. Một công việc tế nhị, khi quá trình thượng hội bị nhiều chỉ trích.

Làm thế nào Thượng Hội đồng về tương lai Giáo hội tiếp tục khi giai đoạn đầu tiên vừa kết thúc? Để trả lời câu hỏi này, kể từ ngày thứ tư 21 tháng 9, 23 chuyên gia, các nhà thần học trên thế giới về họp tại Frascati, cách Rôma khoảng 20 cây số. Mục tiêu của mười ngày làm việc này: kiểm tra các báo cáo của các giám mục trên khắp thế giới gởi về. Và tổng hợp nó.

Công việc triển khai này rất tinh vi. Thứ nhất, vì các chủ đề qua 110 tài liệu của 114 hội đồng giám mục được gửi đến ban thư ký chung của Thượng hội đồng, có thể nói là các tài liệu này rất khác nhau. Sau đó, vì ở một số quốc gia, tiến trình thượng hội đồng bị trách cứ dành phần lớn cho các lời kêu gọi thay đổi, do một số người ủng hộ vai trò của giáo dân trong Giáo hội, đặc biệt là vai trò của phụ nữ nhưng không thực sự phản ánh quan điểm của người công giáo. Cuối cùng, vì hàng triệu người công giáo đã tham gia vào cuộc tham vấn này trên khắp thế giới sẽ không chú ý đến tài liệu được triển khai tại Frascati cho đến ngày 3 tháng 10.

Phụ nữ đang vươn lên tầm cao mới tại Vatican. Họ có thể thay đổi Giáo hội mãi mãi không?

Một nhà thần học giải thích: “Ý tưởng của tài liệu này là các giám mục của mỗi lục địa có thể tìm thấy con đường của họ, đồng thời nhận thức được những vấn đề đang gặp ở những nơi khác trên thế giới. Để thực hiện công việc rất tế nhị này, các thần học gia phải đọc tài liệu của mỗi quốc gia, sau đó họ sẽ trình bày một tổng hợp mới bằng hai ngôn ngữ Ý và Anh. Và phải thừa nhận, “văn bản được đăng sẽ không hài lòng tất cả mọi người”.

Hồng y Schönborn: “Thượng Hội Đồng là cách đào sâu dần dần các giáo huấn của Công Đồng Vatican II.”

Không phải là “văn bản Huấn quyền”

Sau đó, văn bản sẽ trở thành như thế nào? Được công bố rộng rãi vào giữa tháng 10 và sẽ gởi đến tất cả các hội đồng giám mục trên thế giới, các hội đồng này sẽ tự do phản ứng với nội dung của văn bản. Ở Rôma, người ta giải thích: “Những nhận xét này dù tích cực hay phản biện sẽ đóng vai trò quan trọng trong các cuộc họp cấp châu lục”, và được xem như tài liệu làm việc chứ không phải “văn bản từ Huấn quyền”.

Từ tháng 1, khi thuận tiện, mỗi châu lục sẽ tự do tổ chức các cuộc họp. Tuy nhiên, với một số điều kiện do Rôma áp đặt: các cuộc họp phải kéo dài ít nhất năm ngày, được tổ chức với sự hiện diện của giáo dân, và có thể bao gồm thời gian họp cụ thể cho các giám mục. Ngày tháng cũng đã được ấn định ở một số nơi: châu Âu sẽ sẽ mở đầu công việc của họ ở Praha ngày 5 tháng 2 năm 2023, châu Phi ở Addis Ababa ngày 1 tháng 3 và Châu Mỹ La-tinh ở Bogota ngày 20 tháng 3.

“Dù sao động lực của Thượng hội đồng đã bị rơi xuống”

Ở Pháp, giai đoạn lục địa mở đầu, các đường nét tổ chức vẫn còn rất mơ hồ, ở giai đoạn này đã thấy một sự tách rời tương đối, đầy những lo ngại. Bà Anne Ferrand, nữ thánh hiến của giáo phận Rodez thừa nhận: “Chúng ta có thể nhanh chóng cảm thấy xa cách với những gì sẽ diễn ra trên quy mô lục địa… Đặc biệt vì chúng ta có rất ít kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ kiểu này với các nước láng giềng châu Âu.”

Một kịch bản làm nhiều người hoài nghi, vừa về các ranh giới bị rứt nạn, vừa về những nhạy cảm của các giám mục, vừa về các thực tế giáo hội khác nhau – được đánh dấu giữa một số quốc gia. Một cha xứ công kích: “Tôi gặp rất nhiều khó khăn khi hình dung những gì có thể xảy ra cụ thể từ phiên họp này. Dù sao động lực của Thượng hội đồng đã giảm, phần lớn các tín hữu – những người trẻ tuổi, những người nhạy cảm cổ điển hơn… – không muốn tham gia vào tiến trình này, vì phương pháp này không thích hợp với họ, họ hoàn toàn không thấy mình trong tổng thể quốc gia Pháp gởi về Rôma”.

“Hơi quá sớm” để nói lên

Báo La Croix hỏi các thành viên của nhóm quốc gia đi theo tiến trình thượng hội đồng ở Pháp thì họ cho rằng còn “hơi quá sớm” để nói về chủ đề này.

Hồng Y Marx: “Chúng tôi không muốn viết lại giáo điều, chúng tôi muốn thúc đẩy thảo luận”

Giám mục Jean-Marc Eychenne. Giáo phận Grenoble-Vienne thừa nhận: “Trong một tổng hợp, theo định nghĩa, chúng ta không thể tìm thấy những gì đã có trong mỗi nguyên văn: khi chúng ta nhìn vào tổng hợp lục địa, chúng ta sẽ thấy khoảng trống có liên quan đến tài liệu quốc gia của chúng tôi. Nhưng thật đẹp, vì đây là lần đầu tiên Giáo hội công giáo làm một việc mang tính chất này, bắt đầu từ cơ sở và cuối cùng lên đến Giáo hội hoàn vũ.”

Mong chờ rất lớn ở Pháp

Tại Pháp, gần 150.000 giáo dân đã góp tiếng nói của mình, họ mong chờ nhiều vào việc cải tổ Giáo hội. Trong số các chủ đề được đề cập có các chủ đề: vị trí của giáo dân trong thể chế, đặc biệt là vị trí của phụ nữ, trong cơ sở giáo dục, các vấn đề về quản trị, quan tâm đến người nghèo nhất, phụng vụ, vấn đề bắt buộc độc thân của các linh mục, báo La Croix phỏng vấn hàng chục người tham gia, họ cho biết đã tìm thấy “y hệt” các yêu cầu nổi bật của các nhóm phản ánh nhỏ của họ trong bản tóm tắt quốc gia gởi đến Vatican. Một văn bản mà các giám mục cuối cùng đã quyết định, trong một đảo ngược ngoạn mục, chỉ thêm “lá thư kèm theo” vào cuối Hội nghị bất thường của họ ở Lyon, tháng 6 năm ngoái.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Hồng Y Marx: “Chúng tôi không muốn viết lại giáo điều, chúng tôi muốn thúc đẩy thảo luận”

Đối thủ của hồng y Tagle: vì sao hồng y Goh của Singapore có thể trở thành giáo hoàng tiếp theo

Đối thủ của hồng y Tagle: vì sao hồng y Goh của Singapore có thể trở thành giáo hoàng tiếp theo

catholicherald.co.uk, 2022-09-13

Trong khi hồng y Phi Luật Tân Luis Antonio Tagle được xem là ứng viên hàng đầu để kế vị Đức Phanxicô – nếu Đức Phanxicô theo Đức Bênêđíctô XVI tiền nhiệm của ngài từ chức – thì hồng y William Goh, người đứng đầu tổng giáo phận công giáo Rôma Singapore, đang nổi lên như một nhân vật có thể làm giáo hoàng đến từ châu Á (Đông Nam Á), ngài có thể gần với người bảo thủ tốt hơn hồng y Tagle, được xem là “Phanxicô châu Á”. Chỉ trẻ hơn hồng y Tagle 4 ngày, hồng y Goh là hồng y đầu tiên của Singapore, được phong hồng y ngày 27 tháng 8.

Rõ ràng việc chọn hồng y Goh xác nhận và khẳng định xu hướng quốc tế của Hồng y đoàn, – hồng y Goh chịu chức linh mục năm 1985, được bổ nhiệm làm tổng giám mục năm 2013 – được cho là ít có khuynh hướng tự do hơn hồng y Tagle. Hồng y Goh đã lên tiếng về giáo huấn của giáo hoàng về lòng trắc ẩn và hòa nhập, gồm cả những người có quan hệ đồng giới và người ly hôn. Xác nhận mình là người trung hòa, nhưng hồng y Goh lên tiếng phản đối việc bãi bỏ bộ luật hình sự tội phạm quan hệ tình dục giữa nam giới, ngài cũng phản đối việc đàn áp tội phạm với người đồng tính.

Theo hãng tin UCA News, hồng y Goh cam kết thúc đẩy mô hình hòa hợp tôn giáo của Singapore ở châu Á, cho thấy ngài sẽ có cách tiếp cận với Trung Quốc khác với cách tiếp cận của Đức Phanxicô. Một tập sách tưởng niệm, That They May Live, Để họ có thể sống đã phác thảo quan điểm mục vụ của hồng y Goh: Đức tin ở Châu Á, Viện trợ cho người nghèo nhất và kém nhất, Hành động vì Khí hậu và Phương thức Đối thoại Liên tôn giáo mới cho Tình huynh đệ nhân loại. Trong một phỏng vấn với Vatican News, hồng y Goh cho biết sự phong phú có thể dẫn đến việc đi tìm Chúa nhiều hơn. Ngài nói, “các hồng y đến từ các lục địa và quốc gia khác nhau sẽ có thể chia sẻ với giáo hoàng về tình hình ở các quốc gia khác nhau”.

Khi nói về Giáo hội ở châu Á, cũng như châu Phi, hồng y Goh  đề cập đến sự nhấn mạnh của giáo hoàng về “tính bao gồm trong vấn đề Giáo hội hoàn vũ. Hơn nữa, nếu Giáo hội đã sẵn sàng để phổ quát, tôi nghĩ Giáo hội phải được đại diện cách tương xứng với các lục địa và quốc gia khác nhau, để Giáo hội có thể thực sự được gọi là Giáo hội công giáo.” Tuy nhiên, một lần nữa, trong những gì có thể đưa ra một cách tiếp cận khác với Trung Quốc, hồng y Goh nói: “Ở các nước khác, thật không may, chúng ta có thể nói, một bức hại tôn giáo tinh vi hoặc đôi khi rất hiển nhiên đặc biệt là với đức tin kitô giáo, đức tin công giáo”.

Vì vậy, bên cạnh hồng y Tagle, hồng y Goh có thể là ứng viên giáo hoàng cho thấy một ảnh hưởng châu Á đang ngày càng tăng trong Giáo hội không? Ông Lawrence Chong, cố vấn người Singapore tại Bộ đối thoại liên tôn của Vatican, gần đây đã nói với Yahoo Philippines, giáo hoàng có một thiện cảm với châu Á, ông nhấn mạnh đến số lượng hồng y đến từ các quốc gia Đông Nam Á “không tương xứng”. Ông nói: “Tôi nghĩ một số hình thức châu Á hóa đang diễn ra. Sự đóng góp nhân tố châu Á ngày càng lớn. Nếu chúng ta nhìn số 226 hồng y trong Hồng y đoàn hiện nay thì bây giờ châu Á là một khối khá quan trọng.”

Tuy nhiên, khi nói đến một giáo hoàng châu Á, ông Chong lưu ý, các khối bỏ phiếu “lớn và có ảnh hưởng” vẫn ở châu Mỹ và châu Âu. Bây giờ Hồng y đoàn ít châu Âu hơn. Theo ông Jeff Diamant của Trung tâm Nghiên cứu Pew, hiện nay 40% ứng viên bỏ phiếu sẽ là người châu Âu, giảm 12% kể từ năm 2013.  Tỷ lệ người Bắc Mỹ cũng giảm so với cùng thời gian từ 12 xuống 11%, trong khi các cuộc bổ nhiệm của giáo hoàng đã tăng đại diện của châu Á-Thái Bình Dương từ 9% năm 2013 lên 17% năm 2022, và châu Phi cận Sahara từ 9% đến 12% so với cùng thời gian.

Trong số các hồng y mới được bổ nhiệm hoặc hiện đang đủ điều kiện để bầu giáo hoàng được Đức Phanxicô bổ nhiệm, có  34% đến từ châu Âu và 22% đến từ châu Á – Thái bình dương. Trong khi người Châu Âu và Bắc Mỹ vẫn chiếm đa số trong Hồng y đoàn (24% cho người công giáo sống ở châu Âu và 8% ở Bắc Mỹ), sau những cuộc bổ nhiệm gần đây, điều này cũng đúng với người công giáo châu Á – Thái bình dương (chiếm 12% của tất cả người công giáo). Tuy nhiên, người công giáo Mỹ Latinh và vùng Caribe, người công giáo châu Phi cận Sahara vẫn còn ít đại diện.

Mặc dù hồng y Tagle được xem là ứng viên hàng đầu để kế vị giáo hoàng – và có lợi thế là có thể tiếp cận với người công giáo  toàn cầu – điều này cũng đúng với hồng y Goh, cũng là người nói tiếng Anh, bằng tuổi hồng y Tagle, nhưng ngoài ra có lẽ không gắn liền với di sản của Đức Phanxicô. So với hơn hồng y Tagle, hồng y Goh sẽ ít được xem là một ứng viên kế tục, và do đó có nhiều khả năng đến với người bảo thủ hơn. Theo nghĩa này, hồng y Goh giống hồng y Hongria Péter Erdő hơn. Tuy nhiên, là người không-châu Âu, hồng y Goh có thể được xem là đại diện cho một Giáo hội ngày càng toàn cầu hơn hồng y Erdő. Hồng y Goh có nhiều ưu điểm của hồng y Tagle, không có nhược điểm được nhận thấy, dù hồng y Tagle có kinh nghiệm dày dặn và cực kỳ nổi tiếng. Một giám mục Đông Nam Á, một giáo hoàng Singapore là một khả năng khác biệt, hồng y Goh giúp đưa công giáo châu Á ra thế giới.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Hồng y tương lai William Goh, nghệ nhân hòa hợp ở Singapore

Hồng y Tagle kêu gọi người công giáo Phi Luật Tân không suy đoán về giáo hoàng tương lai

Bà María Lía Zervino: “Có những phụ nữ chỉ dọn dẹp nhà thờ”

Bà María Lía Zervino: “Có những phụ nữ chỉ dọn dẹp nhà thờ”

alfayomega.es, Victoria Isabel Cardiel C. 2022-09

Bà María Lía Zervino là một trong ba phụ nữ được Đức Phanxicô bổ nhiệm vào bộ Giám mục, bộ có trách nhiệm chuẩn bị các báo cáo để sàng lọc chọn các giám mục tương lai. Bà là người Argentina, thuộc Hiệp hội Trinh nữ Thánh hiến, bà đã lãnh đạo Liên minh các Tổ chức Phụ nữ Công giáo Thế giới (UMOFC) trong bốn năm.

Các chuyên gia đã cho việc bổ nhiệm bà là một hành động lịch sử. Bà có đồng ý không?

Bà María Lía Zervino: Tôi không thể không đồng ý. Chúng tôi bắt đầu làm việc ngày 22 tháng 9 và tôi chuẩn bị kỹ lưỡng, dù tôi không thể hình dung vai trò của tôi sẽ như thế nào, tôi cũng không tưởng tượng Đức Phanxicô sẽ bổ nhiệm phụ nữ vào bộ Giám mục. Tôi phải học rất nhiều từ hai bạn cùng làm việc với tôi.

Bà María Lía Zervino được bổ nhiệm vào Bộ Giám mục: một bất ngờ từ Đức Phanxicô

Và… các giám chức đã đón nhận bà như thế nào?

Các giám mục rất vui, họ viết thư chúc mừng tôi. Những người khác, không mừng. Có người này người kia.

Dù có những thay đổi này, nhiều người chỉ trích Giáo hội đã quá trễ tràng trong cuộc cách mạng phụ nữ…

Tôi không có đồng hồ lịch sử để xem liệu chúng ta có trễ hay không, nhưng tôi hy vọng sẽ có hiệu ứng domino và các cấu trúc còn lại của giáo hội sẽ tái tạo sự cộng tác của phụ nữ trong các cơ quan ra quyết định. Các nhà nữ quyền xác nhận đây là một thành tựu chính đáng, nhưng chúng ta cũng không được bỏ qua sự thật, đó cũng là thành tựu cho Giáo hội và cho nhân loại. Hiện tại, tôi là một phần của một nhóm mà hầu hết vẫn là giám mục và hồng y, nhưng thực tế trong tư cách phụ nữ, chúng tôi có thể mang hạt cát của chúng tôi, đó là điều đáng mơ ước.

Bằng cách nào?

Người phụ nữ không cần phải vào Giáo hội và nói: “Tôi đây”, vì đó cũng là một loại chủ nghĩa giáo sĩ. Nếu các giám mục không nghĩ chúng tôi giảm phạm vi quyền lực của họ, nhưng từ bản chất nữ tính của chúng tôi, chúng tôi đóng góp vào công việc thì mọi thứ có thể thay đổi nhanh chóng.

Phỏng vấn nữ tu Yvonne Reungoat trong ủy ban bổ nhiệm giám mục: “Đây là một dấu hiệu mạnh mẽ”

Theo bà, các giám mục tương lai nên có hình ảnh như thế nào?

Một người yêu Giáo hội đồng nghị. Dù có rủi ro có thể thấy đây như một nhãn tiếp thị. Khá khó để đặt mình vào vị trí của người khác, đặc biệt là khi họ không nghĩ như chúng ta. Nhờ công việc của tôi trong Liên minh các Tổ chức Phụ nữ Công giáo Thế giới, tôi đã có thể lắng nghe những gì người phụ nữ giáo dân muốn, những gì đã làm cho họ đau khổ và những gì họ đang mơ ước cho Giáo hội. Tôi muốn trở thành miếng bọt biển để có thể thấm những chuyện này vào bộ.

Như thế sẽ có một tác động, rằng phụ nữ quyết định tương lai các mục tử của giáo phận?

Tôi muốn nghĩ như vậy, nhưng tôi không biết nó sẽ như thế nào. Sự đa dạng luôn làm phong phú. Giáo hội được hướng dẫn bởi phụ nữ ở cơ sở, trong xã hội đã chứng minh các nhóm có nam và nữ hoạt động tốt hơn nhiều. Đây là một ơn để có thể áp dụng trong Giáo hội, và hơn thế nữa trong một thể chế quan trọng với hệ thống phẩm trật.

Bà đã viết một bức thư ngỏ cho Đức Phanxicô để cảm ơn ngài đã chữa lành những vi phạm nhân phẩm trên phụ nữ. Những vết thương này có còn tồn tại trong Giáo hội không?

Đáng tiếc là còn. Có những vết thương lớn nhỏ trong Giáo hội và trong xã hội. Tại Liên minh các Tổ chức Phụ nữ Công giáo Thế giới, chúng tôi có một cơ quan quan sát toàn cầu và chúng tôi đã thực hiện công việc nghiên cứu ở châu Phi. Kết quả là một trong những vấn đề chính mà họ tố cáo là chủ nghĩa giáo quyền. Có những phụ nữ chỉ được nhờ dọn dẹp nhà thờ, họ bị theo dõi và giám sát. Như thế gây tổn thương rất nhiều và đã xảy ra trong các giáo xứ nhỏ, nhưng cũng xảy ra trong các nhóm của các hồng y lớn.

Tâm lý gia trưởng đó có thay đổi không?

Có rất nhiều lời bàn tán về cấu trúc phụ hệ trong Giáo hội, nhưng cấu trúc đó tồn tại bởi vì – không chỉ đàn ông, mà cả phụ nữ – cũng ủng hộ nó. Chúng ta cũng phải xét lương tâm để chuyển một sứ điệp khác để mọi người cùng chịu trách nhiệm về một Giáo hội đồng nghị, mà không tìm cách đổ lỗi.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Lần đầu tiên, ba phụ nữ được bổ nhiệm vào Bộ Giám mục

Đức Phanxicô bay một mình

Đức Phanxicô bay một mình

international.la-croix.com, Massimo Faggioli, 2022-09-20

Hình ảnh chiếc máy bay của Đức Phanxicô được các chiến đấu cơ F16 hộ tống trong chuyến đi của ngài đến Kazakhstan có một thông điệp vừa chính xác vừa sai lầm một cách nghịch lý: giáo hoàng có thể tin vào sự ủng hộ của các quốc gia và các nhà lãnh đạo có quan hệ chính thức với Tòa thánh.

Trên thực tế, lúc này Đức Phanxicô đang bay một mình, không chỉ ở Vatican mà còn trên chính trường quốc tế.

Đức Phanxicô đã đến thủ đô Nur-Sultan để dự Đại hội lần thứ bảy các nhà lãnh đạo tôn giáo truyền thống và thế giới, cũng như thăm cộng đồng công giáo nhỏ bé của Kazakhstan.

Và ngài lại xuất hiện như một nhà lãnh đạo Giáo hội, người đang cố gắng ngăn chặn sự phá vỡ trật tự toàn cầu, biểu hiện qua các cuộc chiến khu vực, để khỏi trở thành nguồn điện cho các xung đột hạt nhân – một nguy cơ mà cuộc xâm lược Ukraine của Nga đã cho thấy cụ thể hơn.

Có một thông điệp ngôn sứ không nghi ngờ gì về quan điểm của một giáo hoàng luống tuổi về vai trò của các tôn giáo trong việc xây dựng một thế giới hòa bình hơn.

Nhưng đã qua lâu rồi thời mà các nhà lãnh đạo thế giới tung hô, ngay cả trong bài tập hùng biện, sự khôn ngoan của người đứng đầu Giáo hội công giáo.

Đó là giai đoạn sau Thế chiến II, trong Chiến tranh Lạnh, trong thời kỳ bắt đầu trỗi dậy các khuynh hướng tôn giáo cực đoan và sự phá vỡ trật tự quốc tế trong các triều giáo hoàng Gioan XXIII, Phaolô VI, Gioan-Phaolô II và Bênêđíctô XVI.

Hầu hết những lời tôn kính giáo hoàng giờ đây đã giảm – ở Mỹ với ông Trump và ở phần lớn thế giới.

Một mình trên chính trường thế giới

Những tuần những tháng vừa qua ở khu vực trọng yếu của cuộc hỗn loạn toàn cầu mới, giữa biển Địa Trung Hải và châu Á, đã cho thấy Đức Phanxicô và Tòa thánh hiện đang đơn độc như thế nào trên chính trường thế giới.

Khi ngài sắp rời Kazakhstan thì cuộc họp lần thứ 22 của Hội đồng các Nguyên thủ Quốc gia Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) đang tiến hành tại thành phố Samarkand, Kazakhstan.

Tham dự cuộc họp ngày 15 và 16 tháng 9 có lãnh đạo các quốc gia thành viên như Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan. Ngoài ra còn có các nhân vật chính từ các quốc gia quan sát như Afghanistan và Iran, từ các đối tác đối thoại như Thổ Nhĩ Kỳ.

Đó là sự kiện tôn vinh “sự trỗi dậy của phần còn lại” (thế giới), như nhà bình luận Fareed Zakaria đã cho đây là phát triển của các quốc gia khác trong một thế giới được xác định qua sự lan tỏa sức mạnh lớn hơn nhiều so với thời Chiến tranh Lạnh và các đế chế trước đó.

Điều này tạo ra một tình huống rất đặc biệt cho giáo hoàng và Tòa thánh, đại diện cho thẩm quyền đạo đức của Giáo hội công giáo làm việc trong bối cảnh toàn cầu vì hòa bình và đối thoại bằng cách dùng các công cụ đạo đức không vũ trang.

Thời điểm hiện tại là thời điểm căng thẳng gia tăng ở châu Âu (cuộc chiến ở Ukraine), châu Mỹ la-tinh (tình hình ở Nicaragua), Trung Đông, châu Phi và ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và những ảnh hưởng lan rộng đến châu Á nói chung) đặc biệt gây khó khăn cho Vatican không những về vấn đề quản trị mà còn về đối thoại và hợp tác.

Vatican có quan hệ phức tạp, đặc biệt là với nhiều quốc gia có đại diện tham dự cuộc họp ở Samarkand, do những giới hạn mà các nhà cai trị và độc tài của họ đặt ra với tự do tôn giáo và nhân quyền.

Đây là một trong những hậu quả của tình trạng bấp bênh của nền dân chủ và chủ nghĩa hợp hiến hiện đang được nhìn thấy trên khắp thế giới.

Liên kết với phương Tây không còn nữa

Đồng thời, dưới triều Đức Phanxicô, tầm nhìn của Vatican về mô hình xã hội và chính trị phương Tây chưa bao giờ đi xa như thế, đặc biệt hiện nay mô hình này đang gặp khủng hoảng và chiến tranh với chính nó, nhất là ở Hoa Kỳ.

Như ngài đã nói trong cuộc họp báo trên máy bay: “Phương Tây, nói chung, hiện nay không ở mức độ mẫu mực cao nhất. Không phải là em bé rước lễ lần đầu. Phương Tây đã đi sai đường; chúng ta nghĩ đến những bất công xã hội đang tồn tại trong chúng ta”.

Và cuộc tuyển cử sẽ được tổ chức vào ngày chúa nhật sắp tới ở Ý có thể mang lại kết quả, xác định lại mối quan hệ địa chính trị giữa quốc gia nơi đặt trụ sở của Vatican và phần còn lại của Tây Âu, khi cánh hữu Ý có một mô hình dân chủ phi tự do và độc đoán.

Giáo hoàng đã bỏ lại đằng sau ngài sự liên kết của Tòa thánh với phương Tây, nhưng ngài cũng không thể nào tin tưởng vào “phần còn lại” của thế giới. Sự xói mòn đức tin ở phương Tây tương ứng với việc Vatican thiếu những người đối thoại đáng tin cậy trong các cường quốc toàn cầu đang lên.

Dù giáo hoàng có nói gì trong cuộc họp báo trên máy bay về đối thoại cần có thời gian và kiên nhẫn, thì các quốc gia như Nga và Trung Quốc ngày càng bị cho là trái ngược với những nguyên lý cơ bản nhất của trật tự quốc tế mà Tòa thánh đã giúp hình thành trong nửa thế kỷ qua.

Khó khăn địa chính trị và mật nghị tiếp theo

Đức Phanxicô và hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin, thường xuyên kêu gọi sự cần thiết phải có “một tinh thần Helsinki mới”.

Nhưng điều này sẽ đòi hỏi một khuôn khổ thể chế, giống như khuôn khổ của Hội nghị An ninh và Hợp tác ở châu Âu cách đây 50 năm, cũng như một bố trí cơ bản để các nhà lãnh đạo thế giới có thể tham gia đối thoại. Hiện tại không có điều nào trong các điều trên tồn tại.

Những khó khăn địa chính trị mà Tòa thánh phải định hướng trong tình hình bất ổn hiện nay cũng phải được nhìn thấy trong bối cảnh không chắc chắn của tương lai triều giáo hoàng.

Cuộc họp của tất cả các hồng y tại Rôma ngày 29-30 tháng 8 vừa qua cho thấy việc dự đoán ai sẽ kế vị Thánh Phêrô thậm chí còn khó hơn bình thường. Đây là một đặc điểm, không phải là một lỗi  của Hồng y đoàn hiện tại do Đức Phanxicô định hình.

Hiện tại, có các hồng y từ mọi châu lục và 86 quốc gia. Sáu mươi tám quốc gia trong số đó sẽ có ít nhất một cử tri vào cuối năm 2022.

Sáu mươi năm sau khi Công đồng Vatican II khai mạc (1962-65), có một số quốc gia từng là quan trọng trong lịch sử công giáo – như Ireland – bây giờ không có hồng y cử tri. Và cả những quốc gia quan trọng với tương lai của Giáo hội, như Úc và Trung Quốc. Nhưng New Zealand, Papua New Guinea và Tonga, mỗi nước có một hồng y có thể bỏ phiếu trong mật nghị sắp tới.

Tất cả điều này có nghĩa, không thể giả định nhiều về cách giáo hoàng tiếp theo sẽ tiếp cận các mối quan hệ quốc tế của Vatican như thế nào. Và đây là điều mà các trung tâm quyền lực chính trị, ngoại giao và quân sự – cả ở phương Tây và các nước còn lại – đều biết rất rõ.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Ở Kazakhstan, chính sách ngoại giao của Đức Phanxicô thách thức Nga và Trung Quốc

François Bal: “Tội lỗi lớn của xã hội là phân phối của cải không công bằng”

François Bal: “Tội lỗi lớn của xã hội là phân phối của cải không công bằng”

Chia sẻ di sản và tiền bạc cá nhân của mình khi còn sống không phải là chuyện dễ dàng. François Bal, tác giả quyển Phúc âm về việc chia sẻ của cải (L’Évangile du partage des biens, nxb. Fidélité) khuyến khích tín hữu kitô không nên hoãn việc này qua ngày mai.

lavie.fr, Véronique Durand, 2022-08-18

Tháng 3 năm 2022, Đức Phanxicô tiếp các đại diện của hiệp hội Lazare. Nhân dịp này, ngài đề cập đến việc phân phối của cải không đúng trong các xã hội chúng ta. VATICAN MEDIA / CPP / IP / SIPA

Lập gia đình và là người cha gia đình, tác giả François Bal, ngoài 70 tuổi là giám đốc Văn phòng Kitô giáo dành cho người khuyết tật (OCH). Trong Thư gởi các tín hữu kitô có tài sản, ông nhắc “2% người có hơn 50% tài sản của hành tinh, nhưng tài sản này lại do Thượng đế nhân từ ban cho tất cả mọi người”. Theo ông, cộng đồng tín hữu kitô không có biện pháp thích hợp để sửa chữa bất công này, theo tiêu chuẩn “không đo đếm” của Phúc âm. Ông giải thích, xem lại di sản của mình là dịp để chia sẻ với người nghèo.

Lo trước nhằm để lại di sản của mình sau khi chết có còn là chủ đề cấm kỵ ngày nay không?

François Bal: Không, và cũng không nên! Thường thường chúng ta chỉ bàn việc này với chưởng khế khi đến lúc phải làm chúc thư. Nhưng thừa kế là một trong những chủ đề nhạy cảm nhất được thảo luận trong gia đình. Nó cũng được đề cập đến như một một vấn đề đạo đức và kỹ thuật.

Điện ảnh gia Henri Clouzot để lại tài sản cho cơ quan Cứu trợ Công giáo Pháp

Dù vậy chúng ta nên thảo luận với con cái về cách chúng ta dùng của cải theo mức sống, tiện nghi vật chất mong muốn, số tiền tiết kiệm dùng đầu tư, v.v. và đáp trả theo ơn gọi của mình để sống theo tinh thần Chúa Giêsu. Về các vấn đề này, Giáo hội công giáo để giáo dân bơ vơ và đơn độc. Trong các bài giảng ngày chúa nhật, quý vị có muốn nghe nói về tiết kiệm, về tài chánh, về quyên góp, về di sản hoặc thừa kế không? Không! Tôi nghĩ về vấn đề này kitô giáo đã ở bên lề.

Với những người muốn cho một cách công bằng và / hoặc chính trực, việc chia sẻ của cải đòi hỏi những lựa chọn tế nhị. Không dễ để nói về những quyết định như vậy.

Tôi hiểu, các giáo xứ và linh mục của chúng ta ngại nói điều này, nhưng chúng ta phải là tấm gương phản chiếu nỗi sợ và buộc mình phải đặt câu hỏi bằng những lời cụ thể: liệu chúng ta có định bán căn nhà gia đình không? Chúng ta có muốn tặng hay để lại di sản không? Chúng ta rất khéo léo khi hẹn lại việc này cho ngày mai, chúng ta luôn tự nhủ: “Chỉ khi nào tôi về hưu”, “khi nào con cái tôi ổn định”.

Vậy mà kitô giáo của chúng ta là tôn giáo của hiện tại. Chúa Giêsu cực kỳ triệt để với những ai muốn là môn đệ của Ngài. Những người muốn đi theo Ngài nói: “Xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã”, một điều rất đáng kính trọng, nhưng Ngài trả lời: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Nước Chúa” (Lc 9: 59-62). Ngài xin chúng ta quyết định và từ bỏ ngay ngày hôm nay, không phải ngày mai.

 “Ngôi làng của Phanxicô” sẽ được thành lập trong một đan viện Trappist, gần Toulouse

Trong các dụ ngôn của Ngài, tiền bạc được xem là gắn liền với khúc ruột. Ngài đặt tiền bạc ở một vị trí quan trọng trong việc biến cuộc sống cũ thành cuộc sống mới. Có điều gì đó tương tự như khi tôi xem xét tài khoản ngân hàng để xem có thể dùng một cách nào khác không. Vì sao chúng ta không làm hôm nay?

Có một nỗi sợ cho ngày mai, cần phải tiết kiệm cho con cái, phải trả chi phí cho căn nhà hưu trí…

Chúng ta đặt quan trọng những chuyện này đến mức chúng làm chúng ta chậm quyết định. Bây giờ là lúc cho đi. Cha mẹ chúng ta qua đời trong khoảng tuổi 90, để lại của cải cho những đứa con đã 60, đã ổn định và nhận tài sản cha mẹ như một phần lợi tức thêm, không phải là phần cần thiết. Chúng ta nên thay đổi phần mềm nhận thức của mình.

Trong quyển Phúc âm về việc chia sẻ của cải, ông nêu rõ “quyền sở hữu cá nhân công chính”. Giữ lại những gì mình nhận được từ gia đình hoặc có được do công việc của mình, điều này rốt cuộc có chính đáng không?

Giáo lý của Giáo hội công giáo khẳng định “việc sở hữu của cải là hợp pháp để đảm bảo tự do và phẩm giá con người, giúp mọi người có thể đáp ứng nhu cầu cơ bản của họ và nhu cầu của những người mà họ có trách nhiệm”. Vì thế quyền sở hữu được biện minh qua việc chăm sóc và sử dụng của cải chúng ta làm ra. Như thế chúng là hợp pháp, tài sản là công chính; nhiều hơn nữa, đó là nguồn gốc của bạo lực, lạm dụng, bất hợp pháp.

Năm 1945, hồng y Suhard, tổng giám mục Paris, trong thư mục vụ Giáo huấn của Giáo hội về tài sản ngài viết vào lúc mọi người gặp khó khăn về vật chất, ngài khuyến khích chia sẻ: “Một khi người chủ đã bảo đảm những gì cần thiết và phù hợp, họ phải cống hiến cho công ích những gì còn lại của gia tài, chứ không phải một phần, nhưng toàn bộ.” Tôi thực sự thích khái niệm của ngài về “cần thiết và phù hợp”.

Quan điểm này có thể bàn cãi với người tín hữu kitô của thế kỷ 21 không?

Xã hội chúng ta dành ưu tiên cho thành tựu của cải cá nhân, bỏ ưu tiên cho lợi ích chung. Nhưng nếu tôi giữ cho mình một cái gì đó khác với những gì cần thiết và phù hợp, tôi sẽ giảm đi phần của cải chung. Nếu tôi đặt mình vào địa vị của Chúa, tôi sẽ phân phát của cả của tôi theo lợi ích chung. Ngày nay, quyền ưu tiên cho thành tựu của cải cá nhân đã trở thành điều tuyệt đối của thế giới tự do.

Vì sao họ chọn di tặng?

Ngược lại, Giáo hội dạy, mọi thứ thuộc về Chúa, tài sản là tương đối, là do Chúa ban để mọi người sinh sống. Học thuyết xã hội của Giáo hội là một trợ giúp thích hợp trong việc đào tạo nhận thức lương tâm chúng ta về quyền sở hữu hợp pháp. Tháng 3 năm 2022, khi tiếp Hiệp hội Lazarô (một hiệp hội đồng hành với người vô gia cư, với các cô gái mại dâm), Đức Phanxicô đã công nhận tội lỗi lớn của xã hội là phân phối của cải thế giới một cách bất công.

Theo mức độ của mình, một cá nhân có thể đóng góp vào mục tiêu phổ quát của của cải không? Và làm như thế nào?

Có những thuộc tính chính xác và những thuộc tính khác không chính xác. Chúng ta không có ý tưởng, rằng tài sản hoặc lợi tức mà chúng ta có được do thừa kế, về mặt pháp lý có thể không công chính. Dưới con mắt của xã hội dân sự, những gì nhận được một cách hợp pháp là công bằng. Nhưng không! Câu hỏi đầu tiên cần đặt ra là: tôi sở hữu mọi thứ có đúng không?

Nhờ việc đánh thuế theo luật thừa kế, Nhà nước đảm bảo một phần công bằng xã hội. Nhưng người Pháp cho rằng qua việc đóng thuế này, họ đã đóng góp rất nhiều cho cộng đồng. Cá nhân tôi, quy tắc của tôi là vui vẻ cho đi. Nếu đó là niềm vui, đó là do trái tim tôi đã được hoán cải đủ để tìm thấy sự giải thoát vui vẻ trong món quà này. Nhưng điều này trái ngược với cuộc sống, vốn thúc đẩy cho việc giữ lại và sinh lợi. Đây là lúc chúng ta cần phát minh một ý thức, khuyến khích chia sẻ là giải thoát vui vẻ chứ không phải là một ràng buộc đạo đức bổ túc thêm vào.

Ông có lời khuyên nào để chuẩn bị cho tâm hồn nhẹ nhàng khi quyết định?

Đầu tiên, tránh những câu nói có ý định lớn lao như: “Tôi sẽ cho rất nhiều.” Quyết tâm đạo đức sẽ thấy rõ ở mức độ tham lam dù nhỏ nhất nào. Nhưng tôi khuyên nên thử làm với trẻ em khi chúng còn ở nhà, đón tiếp một người nghèo vào bàn ăn vì công việc này sẽ hoán cải tâm hồn chúng.

Tôi xuất thân từ một gia đình trưởng giả, tự đủ cho chính mình nhưng vợ tôi xuất thân từ một gia đình rộng mở với mọi người. Sự đón nhận không điều kiện này đã được truyền cho các con, các cháu chúng tôi. Chính nhờ các chứng từ của chúng tôi mà chúng tôi truyền được lối sống chúng tôi gắn bó. Tôi cũng khuyên bạn nên nói chuyện này với những người khác, tìm một cộng đồng kitô (các nhóm trong giáo xứ…) nơi có đủ tin tưởng và nơi mọi người đủ hiểu biết về nhau để giúp đỡ lẫn nhau và không phán xét.

Ông đã nghĩ về mong ước cuối cùng của ông sẽ như thế nào chưa?

Ba đứa con của tôi có cuộc sống và mức sống khác nhau. Tôi chia bất động sản của tôi thành năm phần thay vì ba: ba đứa con mỗi đứa một phần, một phần cho Hiệp hội Nhà ở và một phần cho một đứa con nữa, như Thánh Augutinô mời gọi. Như thế mỗi người đều có thể tặng một phần như một món quà, như thể họ đã có một đứa con trên trời (tôi có thêm một đứa trẻ nữa đã rời bỏ chúng tôi), tôi thấy đề xuất này thật khéo léo và tôi đã nói với nhiều người.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Đức Phanxicô ca ngợi công trình của Làng Phanxicô

Tôi lôi chiếc áo chùng ra khỏi tủ!

Tôi lôi chiếc áo chùng ra khỏi tủ!

baskulture.com, 2022-08-26

Lễ hội Bayonne gần đây ở miền tây-nam nước Pháp kết thúc trong thành công rực rỡ với sự hiện diện của 1,2 triệu người tham dự, linh mục Yves Ugalde đã có một vài cảnh quay cảm động để chiếu trong phòng triển lãm kỷ niệm thân mật của mình tại Lễ hội Bayonne.

Lễ hội Bayonne, Bar du Curé (Quán bar Cha xứ) chật chỗ! ©

Với các bạn đồng hành hùng mạnh người Bayonne, André Lalanne, trưởng ca đoàn hợp xướng Errobi Kanta, và Biarrot Iđaki Urtizberea, điều khiển Oldarra, hai người làm việc rất mạnh để cổ động cho âm nhạc đặc biệt vùng Basque, và người thầy dựa vào học trò trong tiến trình của mình, phụ tá ủy ban Văn hóa của thủ đô Basque cũng thấy “nơi linh mục mặc áo chùng đen đi giữa đám đông những người mặc áo trắng nói chuyện bông đùa ồn ào.

Một người dự lễ hội chận linh mục lại và hai người nói chuyện với nhau như thử đang xưng tội. Hai màu đen trắng nổi trên thủy triều những người là người. Sự hỗn độn hay sức nặng của những tâm sự? Nhưng họ luôn nói chuyện thì thầm bên tai. Sau vài phút, linh mục kết thúc với phép lành cho người thanh niên lẫn khuất vào đám đông, tâm hồn anh hẳn đã nhẹ nhõm hơn. Anh ra đi được biến đổi hay đi tới những tội lỗi mới? Yves Ugalde tự hỏi…

Hoặc có lẽ cả hai sẽ đến Quán bar Cha xứ, nơi lễ hội và tâm linh ở trung tâm khu phố cổ giao thao, nơi để những người thích tiệc tùng có chút thời gian nghỉ ngơi nhâm nhi thức uống, một ly cocktail không rượu, một ly cà phê hoặc chơi bi-da!

Một phòng cầu nguyện để đón những ai mong muốn lắng lòng hay muốn dâng ý chỉ cầu nguyện… Và năm nay, tiền lời từ Quán bar Cha xứ được tặng cho “bàn tiệc buổi tối” phục vụ bữa ăn cho những người có hoàn cảnh bấp bênh ở Bayonne!

Tôi bộc lộ: năm nay, tôi ra khỏi hóc tủ!

Tình tiết này do người bạn Yves Ugalde của tôi kể làm tôi nhớ đến việc phát hiện ra, một ngày trước đó, thông điệp được đăng trên mạng xã hội của một linh mục trẻ:

“Như các bạn đã nghe, năm nay tôi đã quyết định bộc lộ . Sau khi thấy nhiều người ca ngợi “sự đa dạng” của họ, tán thưởng họ và nói “thật can đảm”, v.v. Tôi đã tự hỏi, tại sao không là tôi? Vì vậy, tôi quyết định, năm nay linh mục Alvaro sẽ ra khỏi hóc tủ áo quần!

Tôi hạ quyết tâm và tôi lấy chiếc áo chùng ra khỏi tủ: từ tháng 1, tôi bắt đầu mặc từ sáng đến tối trước khi đi ngủ. Chỉ vậy thôi, bất chấp, không có thông báo long trọng, không giải thích trước. Không tìm lời khen, không sợ chế nhạo, không sợ lăng nhục, không sợ những cái nhìn kỳ lạ.

Tôi ngạc nhiên chuyện gì? Nhiều thứ.

– Đầu tiên, tôi chưa bao giờ nghĩ việc, trong cương vị linh mục, mặc áo chùng hàng ngày lại có thể làm cho tôi hạnh phúc như vậy. Nó giúp tôi làm việc trên đường phố tốt hơn, dễ dàng hơn là tôi nghĩ. Tôi ban phép lành, khuyên nhủ, giúp đỡ, giải tội những người tin tưởng khi họ thấy chiếc áo chùng.

– Thứ hai, tôi ngạc nhiên khi đi bộ ở những nơi khác nhau như trung tâm mua sắm, rạp chiếu bóng, nhà hàng, chợ sách và nhiều nơi khác… Trong năm tháng, tôi gặp đủ thành phần, tôi không nhận bất kỳ một xúc phạm hoặc thiếu tôn trọng nào, ngay cả với những người công khai chống người theo đạo công giáo.

Điều đáng buồn trong tất cả những chuyện này, lời chế giễu nặng nhất tôi nghe là của một linh mục.

– Thứ ba, không may và cũng không bình thường, một linh mục địa phận mặc áo chùng thường bị lầm với một tu sĩ. Trong mấy tháng này tôi hơi bối rối: họ lầm tôi với một thầy dòng Phanxicô, dòng Thánh Augutinô, một tu sĩ, một nhà truyền giáo, một chủng sinh, và cả người Karateka… Như thế tôi nghĩ xã hội đã thế tục hóa đến mức một linh mục địa phận không còn liên hệ gì với chiếc áo chùng họ mặc trong đời sống hàng ngày.

– Thứ tư, với một xã hội “bài tôn giáo”, số người đến xin tôi ban phép lành là rất đáng kể, nhưng khi có một người đến xin tôi, những người khác ở gần đó cũng tự phát đến xin tôi ngay lập tức.

Tóm lại, tôi rất vui vì đã có quyết định này; đầu tiên tôi nghĩ tôi sẽ mặc một năm, nhưng bây giờ tôi sẽ mặc thường xuyên hơn. Nó giúp tôi, làm cho tôi hạnh phúc, giúp mọi người thấy linh mục và thấy ân sủng dễ dàng hơn. Thêm một lần nữa, điều này nhắc cho mọi người biết, Chúa vẫn tiếp tục đi rà rà trong thế giới và thường xuyên nhắc tôi, bất cứ tôi đi đâu, tôi là đại diện của Chúa và Giáo hội. Và cũng nhắc cho tôi sự gian ác tự ngụy trang thành “thiên thần ánh sáng”, có nghĩa là hận thù hoặc khinh bỉ mà tôi đặc biệt thấy nơi Nhân chứng Giê-hô-va và một số tín hữu kitô khi họ thấy một linh mục.

Ngược lại, tôi đã có những đối thoại thú vị với những người đã xa Giáo hội, cả những thanh niên du thủ du thực cũng cung kính đến xin tôi ban phép lành. Thật buồn cười khi thấy sự căm ghét đến từ đâu. Ai có tai thì hiểu.

Hơn nữa, nó nhắc tôi nhớ đã có ngày tôi muốn thành thánh: thử  tưởng tượng Thánh Gioan Bosco, Thánh I-Nhã, Phanxicô Xaviê, Thánh Philip Neri, Thánh Tôma Aquinô, Thánh Phanxicô Assisi, các thánh này mà không có áo chùng sao? Không; tôi muốn nên thánh không? Muốn, vì thế áo chùng là điều tốt.

Mặc áo chùng giúp tôi xác nhận một sự thật đã bị lãng quên, chiếc áo chùng là á bí tích, nghĩa là gợi ra ân sủng và chuẩn bị cho mọi người đón nhận nó. Giáo sĩ thì không.

Cuối cùng, tôi sẽ không tạo cho tôi vẻ trang trọng khi mặc áo chùng hàng ngày, nó không làm cho tôi tự động vĩ đại hoặc thánh thiện hơn các linh mục khác. Nhưng nó giúp tôi rất nhiều, tôi xin các linh mục can đảm, lấy chiếc áo chùng ra khỏi tủ, thường xuyên mặc và quý vị sẽ thấy chiếc áo chùng mang lại điều tốt cho bản thân mình và cho các linh hồn. Các bạn sẽ không hối tiếc.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Vì sao các chủng sinh Pháp không được mặc áo chùng?

Linh mục đồng tính: “Ngay cả ngày nay sự thật vẫn phải trả giá”

Linh mục đồng tính: “Ngay cả ngày nay sự thật vẫn phải trả giá”

Một linh mục chia sẻ cách cha hóa giải đồng tính và dấn thân của mình với Giáo hội công giáo. Buổi tối làm chứng, được ủy ban Mục vụ Gia đình công giáo Rôma tại Geneva (ECR) tổ chức ngày 1 tháng 9 năm 2022 nhằm chính thức hóa sự hợp tác giữa Mục vụ gia đình của ECR và Antenna LGBTI của Giáo hội tin lành Geneva (EPG). Sự kiện được ông Adrian Stiefel, người trách nhiệm tổ chức điều hành.

cath.ch, Myriam Bettens, 2022-09-02

“Khi bạn là linh mục, mọi người luôn có một số ý tưởng cố định về cách một mục tử phải như thế nào, cư xử như thế nào”, Christophe (một tên ẩn danh) nói trong buổi tối làm chứng. Không phô bày trước công chúng, linh mục ở giáo phận Lausanne, Geneva và Fribourg này không giấu giếm mình là người đồng tính. Cha cẩn thận khi chia sẻ lời chứng, vì “ngày nay sự thật còn phải trả giá”, lời nói cũng chỉ mới bắt đầu giải thoát từng chút. Christophe đồng ý rời khỏi sự dè dặt của mình để đến làm chứng trong buổi tối của sự kiện này.

Một tiết lộ nội tâm kép

Trước mặt một nhóm nhỏ tụ tập trong dịp này, linh mục thố lộ cha không xuất thân từ một gia đình mộ đạo. Là người công giáo, nhưng mọi chuyện cũng bình thường. Tuy nhiên, chúng tôi có một tự do phát biểu thực sự. Năm mười hai tuổi, Christophe nhận ra mình có hai tiết lộ nội tâm. Chiều ngày 13 tháng 5 năm 1981, Christophe đang xem truyền hình ở nhà bà ngoại. Anh ngạc nhiên vì các chương trình bị gián đoạn để thông báo tin về một vụ ám sát. Tin của Đức Gioan-Phaolô II. Hình ảnh mọi người cầu nguyện ở quảng trường Thánh Phêrô được chiếu trên màn hình.

Christophe nghe rõ một giọng nói nói với anh: “Con sẽ là một linh mục”. Cũng chính năm này, anh tình cờ phát hiện mình có ái lực với đàn ông. Anh thấy mình diện đối diện với một người đàn ông khỏa thân. Anh thấy đẹp. Những gì anh cảm thấy vẫn chưa thật rõ ràng và “người bạn trai lúc đó giúp anh nói những gì anh cảm nhận”, lúc đó vẫn chưa có gì rõ ràng.

“Chủ đề chưa bao giờ được định nghĩa: nó ở đó, nhưng nó cũng không ở đó”

Cùng lúc anh tiếp tục tiến trình tìm hiểu ơn gọi và tiếp xúc với một dòng truyền giáo. Anh học thần học, đi nhiều và sống trọn với ơn gọi của mình. Về xu hướng tình dục của mình, Christophe “sống lay lắt với tình trạng đồng tính mà không quá chịu đựng”. Thêm nữa, trong quá trình huấn luyện, “chủ đề không bao giờ được định nghĩa: nó ở đó, nhưng nó cũng không ở đó”. Đến thời gian khấn. Ông Adrian Stiefel thắc mắc về sự tương thích của những điều này với tình trạng đồng tính luyến ái của nhân chứng. “Đức khiết tịnh được xem như một cam kết với chính mình. Để trở thành con người thật của mình nhưng vẫn xác thực với nó”. Sau đó, Christophe vào một dòng tu khác có mục đích chính là đi tìm sự đích thực. “Chúng tôi đã phải học cách trở thành chính mình và thành công trong việc nói lên chính mình với con người thật của mình”. Tính xác thực này còn ở khả năng cho anh em ra khỏi dòng nếu họ cảm thấy cần.

Rời đi vì xác thực

Với Christophe, nhu cầu này có thể cảm nhận. Một cuốn phim – câu chuyện tình yêu giữa hai người đàn ông – cùng xem với người bạn thân nhất – đã làm cho anh nhận ra mong muốn của mình “là được sống câu chuyện tình yêu như vậy”. Trong bối cảnh sứ vụ linh mục, anh gặp một người đàn ông mà anh yêu. Cảm xúc được chia sẻ và anh bắt đầu mối quan hệ liên tục với người bạn đồng hành này. Nhưng chọn lựa thật khó khăn. Anh cảm thấy phải “chia sẻ sự bất công khi phải lựa chọn này” và lùi lại để có thì giờ phân định. Christophe quyết định rời sứ vụ để ở với người bạn đồng hành này.

Nhìn lại, anh không hối hận về lựa chọn này, dù mối quan hệ đã mất dần theo thời gian. “Giai đoạn này trong cuộc đời đã làm cho tôi nhân bản hóa tôi. Chúa không tuân theo kỷ luật của một Giáo hội, dù kỷ luật đó là gì, Ngài sẽ đồng hành với các giai đoạn của con đường sự thật và sự thật này không nhất thiết làm vui lòng tất cả mọi người”. Con đường sự thật này, Christophe hoàn thành với hệ thống cấp bậc và các đồng hữu của anh. Anh không giấu giếm lý do anh ra đi, đổi lại anh nhận được kính trọng, yêu mến từ các bạn.

“Chúa không tuân theo kỷ luật của một Giáo hội, dù kỷ luật đó là gì, Ngài sẽ đồng hành với các giai đoạn của con đường sự thật và sự thật này không nhất thiết làm vui lòng tất cả mọi người”

“Trong suốt thời gian này, tôi chưa bao giờ cảm thấy mình bị Chúa bỏ rơi hay lên án.” Trái lại, anh giữ trọn niềm tin nơi Ngài để “tái sinh”. Trong một thời gian, anh bằng lòng với chế độ cấp dưỡng thực phẩm, sống nhờ trợ cấp thất nghiệp, không biết mình sẽ xin việc như thế nào với một lý lịch như vậy. Dù ra đi, nhưng cựu linh mục vẫn giữ liên lạc với anh em. Một trong số các bạn cho anh chiếc đà để anh trở lại với với thiên chức đầu tiên của anh. Giám mục của một giáo phận nói tiếng Pháp ở nước ngoài cảnh báo anh: “Không làm chuyện xằng bậy.” Sau vài năm làm linh mục quản xứ, Christophe thấy cánh cửa mới mở ra cho mình, một khả năng về lại quân đội Thụy Sĩ vùng nói tiếng Pháp. Một lần nữa, anh cảm thấy phải phân định đúng đắn của việc trở lại vùng đất Thụy Sĩ.

Quyền tự do ngôn luận

Sau đó, giám mục mở rộng vòng tay chào đón linh mục. Tuy nhiên, ngài đặt anh ở một giáo xứ khác với giáo xứ trước khi anh ra đi “chờ cho cỏ khô này lắng xuống một chút”. Không xem sự xa cách này là một cấm đoán, anh bắt đầu thăm dò môi trường của mình. Một số người xung quanh anh đau khổ vì không thể chia sẻ phần này theo bản sắc của họ. Cũng vậy với linh mục của họ. Anh quyết định tổ chức một nhóm thảo luận trong giáo xứ để giúp cộng đồng LGBTIQ công giáo gặp gỡ và nói chuyện, dù không chính thức. Christophe muốn “thực hiện bước tiếp theo” bằng cách chính thức hóa sự tồn tại của họ với giám mục. Không bị khiển trách, anh “rất vui khi có nơi chốn và đồng hữu cho phép phát biểu”.

Đồng thời, Mục vụ Gia đình Công giáo Geneva (ECR) bắt đầu suy tư về mục vụ và tinh thần của những người LGBTIQ và gia đình của họ. Để “tái khẳng định rằng mỗi người, bất kể khuynh hướng tình dục nào, phẩm giá của họ phải được tôn trọng và đón nhận họ một cách tôn trọng” (Amoris Laetitia 250). Tháng 4 năm 2021, bà Anne-Claire Rivollet, người phụ trách Mục vụ ECR đã mở một đường dây điện thoại cho mục đích này.

Buổi tối chứng từ này nhằm mục đích chính thức hóa sự hợp tác giữa Mục vụ Gia đình (ECR) và Antenna LGBTI của Giáo hội Tin lành Geneva (EPG). “Chúng tôi đang tìm cách thể hiện sự hiện diện của tín hữu kitô qua các tổ chức liên kết của chúng tôi. Bà Anne-Claire Rivollet cho biết giáo phận quan tâm đến vấn đề này. Nó mở ra những cánh cửa mục vụ, một con đường để cuộc sống có thể được công nhận và những tài năng khác nhau được hòa nhập vào các động lực của Giáo hội chúng ta”.

Một cái nhìn được chia sẻ với chứng nhân xác nhận các tuyên bố của mình.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Flanders: nghi thức làm phép cho các cặp đồng giới

Người công giáo đồng tính: “Giáo hội phải đón nhận tất cả con cái của mình”

Chủng viện Nigeria đào tạo các linh mục cho toàn cầu

Chủng viện Nigeria đào tạo các linh mục cho toàn cầu

belgicatho.be, linh mục Justine John Dyikuk, 2022-09-14

“Đoàn kết của sự đơn giản” – Giám đốc chủng viện Nigeria đào tạo linh mục cho toàn cầu. Làm thế nào một giám đốc chủng viện ở một vùng bạo lực ở Nigeria lại nhắm đến việc đào tạo các linh mục truyền giáo.

Các chủng sinh cầu nguyện trong nhà nguyện tại đại chủng viện Thánh Augutinô của Jos, Nigeria trong ngày kỷ niệm Năm Thánh ngày 4 tháng 5 năm 2017. Nguồn: AED / ACN

Linh mục Mark Nzukwein là giám đốc đại chủng viện Thánh Augutinô ở Jos, Nigeria, khu vực phía bắc Nigeria, gần với tâm chấn Boko Haram và các hoạt động khác của các chiến binh hồi giáo. Chủng viện Âugutinô là chủng viện lâu đời nhất ở miền bắc Nigeria. Chủng viện có 356 chủng sinh, 19 nhà đào tạo thường trú, 2 nhà đào tạo toàn thời gian nhưng không thường trú, 21 nhân viên có học vị bán thời gian, và 48 nhân viên hành chính và không học vị.

Bài phỏng vấn của linh mục Nigeria Justine John Dyikuk

Các chủng sinh đến từ các giáo phận và học viện tôn giáo trên khắp Nigeria. Trong một phỏng vấn độc quyền với trang The Pillar, linh mục Nzukwein nói về việc đào tạo chủng viện theo đường hướng truyền giáo và cố gắng của chủng viện để tồn tại trong môi trường thù nghịch và đôi khi là bạo lực.

Linh mục Nigeria Justine John Dyikuk: Thưa cha, cha đánh giá như thế nào về tình trạng ơn gọi linh mục ở Nigeria và châu Phi, nơi mà Đức Bênêđictô XVI mô tả là “lá phổi thiêng liêng bao la” trong Giáo hội?

Linh mục Mark Nzukwein: Đầu tiên tôi xin chân thành cám ơn quý báo đã cho tôi cơ hội hiếm hoi được trả lời cuộc phỏng vấn này.

Đúng là tin vui khi ở thế kỷ 21 hứa hẹn nhiều cho sự phát triển đức tin kitô giáo ở châu Phi nói chung và Nigeria nói riêng, bất chấp vô số thách thức mà lục địa này phải đối diện. Điều này thể hiện rõ qua ơn gọi linh mục và đời sống tu trì ngày càng tăng, hay cái mà chúng ta thường gọi là “bùng phát ơn gọi” trong bối cảnh của chúng tôi.

Đúng là mùa thu hoạch ơn gọi rất quan trọng trong các giáo phận và học viện tôn giáo của Nigeria. Nhưng thật đáng buồn, dù số lượng ghi tên vào chủng viện mỗi năm mỗi tăng, ngọn lửa ơn gọi vẫn tiếp tục bùng cháy trong tâm hồn nhiều người trẻ, nhưng các giáo phận và học viện dòng tu truyền thống lại không đáp ứng được tất cả nhu cầu, thiếu nơi chốn, thiếu nguồn lực để có thể đào tạo.

Việc một tầng lớp người trẻ hăng hái phục vụ Chúa qua chức vụ linh mục và đời sống tu trì mang lại hy vọng lớn lao cho tương lai của Giáo Hội, không chỉ ở châu Phi và Nigeria, mà còn trên toàn thế giới. Phải lưu ý, bối cảnh đức tin thường được xây dựng xung quanh các bí tích và sứ vụ mục vụ của Giáo Hội. Nhưng điều này không thể thực hiện nếu không có các linh mục được đào tạo và chuẩn bị để dẫn dắt trên tiến trình này.

Có những ám chỉ những người trẻ ở Nigeria đang tràn ngập các chủng viện vì nghèo đói và thất nghiệp. Cha có chia sẻ quan điểm này không? Liệu việc bùng phát ơn gọi ở Nigeria có giảm đi nếu tình hình kinh tế của đất nước được cải thiện không?

Thật quá đơn giản để cho rằng bối cảnh bùng phát ơn gọi ở châu Phi ngày nay là do nghèo đói và thất nghiệp mà không khách quan xét đến các yếu tố thúc đẩy khác.

Trên thực tế, Đức Bênêđíctô XVI đã không lầm khi gọi Giáo hội ở châu Phi là lá phổi thiêng liêng của Giáo hội hoàn vũ, dĩ nhiên là dựa vào kiến thức của ngài về bản chất tôn giáo sâu đậm của người Châu Phi.

Xét về lịch sử thuộc địa và tân thuộc địa lâu dài của châu Phi, đây là lục địa đã phải chịu quá nhiều bất công và nhục nhã, một lục địa đã bị đóng đinh khắc nghiệt, bị phân loại là “thế giới thứ ba”, những người sống sót, do khuynh hướng tôn giáo mạnh mẽ và đức tin của người dân vào sự quan phòng của Chúa.

Còn vấn đề ơn gọi, cho dù bạn là người châu Phi hay không, thì thực tế vẫn là một một cái gì đó đóng vai trò động lực cho ơn gọi. Dù nghèo đói hay thất nghiệp đều thúc đẩy chúng ta trông cậy vào Chúa và hiến đời sống mình để phục vụ Ngài, thì hãy cứ làm như vậy. Dù nghèo đói thường do cơ cấu bất công đặc trưng của xã hội ở mọi cấp độ, nhưng trớ trêu thay, nghèo đói cũng là một giá trị của vương quốc.

Hơn nữa, nếu người châu Phi xem trọng cuộc sống gia đình và con cái là phần di sản quý giá của họ, nhưng người trẻ lại có bước táo bạo, sẵn sàng hy sinh các giá trị quý báu này cho nước Chúa và sứ mệnh của Giáo hội, vì thế sẽ không công bằng và thiếu bác ái nếu đơn thuần gắn đức tin tự phát và ơn gọi của họ vào chỉ một yếu tố xã hội là nghèo đói và thất nghiệp, chuyện này sẽ tùy từng trường hợp.

Dù sao, nếu nghèo đói và thất nghiệp là yếu tố làm gia tăng ơn gọi ở châu Phi ngày nay, thì điều đó cũng không đúng khi nền kinh tế châu Phi được cải thiện và người trẻ bắt đầu sống tốt hơn, khi làm như vậy để khám phá ra sự hư vô của của cải, họ sẽ không muốn thêm một lần nữa, dâng hiến đời mình để phục vụ Chúa, Đấng là nguồn gốc cùng đích cho sự phong phú của họ, cho nền tảng tôn giáo sâu đậm của họ, đúng không?

Đâu là quan hệ giữa các nhà đào tạo và người được đào tạo ở chủng viện Thánh Augutinô? Nhân viên có đủ để đào tạo người trẻ không?

Những người đào tạo tại đại chủng viện Thánh Augutinô ở Jos có mối quan hệ thân tình với những người được đào tạo mà họ xem là bạn đồng hành, những anh em trẻ của họ cùng đi trên một con đường chung với họ.

Nhìn chung, các nhà đào tạo cố gắng tạo môi trường huynh đệ thuận lợi để tự do lương tâm có thể phát triển.

Họ thường tương tác với các chủng sinh như hình ảnh người cha, cố gắng đồng hành trong quá trình đào tạo để đạt được một trưởng thành cân bằng về nhân bản, tâm linh, trí tuệ và mục vụ. Dần dần, các nhà đào tạo đặt cho các chủng sinh những câu hỏi nhằm thách thức động cơ thúc đẩy họ chấp nhận lối sống linh mục và khơi gợi lòng khao khát của họ với các giá trị cao hơn của kitô giáo, của chức thánh hoặc của tôn giáo.

Họ cố gắng tránh nguyên tắc làm cảnh sát với chủng sinh hoặc buộc chủng sinh làm những điều trái ý; đúng hơn, họ cố gắng nuôi dưỡng ý nghĩa của tự do; để chủng sinh thấy mình phải chịu trách nhiệm trước ơn gọi, khi phải cố gắng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng của việc đào tạo trong các chiều kích nhân bản, thiêng liêng, trí tuệ và mục vụ toàn diện của nó.

Hầu như tất cả những người đào tạo ở đại chủng viện Thánh Augutinô ở Jos đều là cựu học sinh của học viện cao quý này. Tất cả đều qua chủng viện này với tư cách là chủng sinh, vì vậy họ có một số ý tưởng về những gì cần thiết trong việc đào tạo.

Ngoài ra, họ còn tiếp tục học hậu đại học về giáo hội và các khóa đào tạo khác chuẩn bị đầy đủ cho nhiệm vụ giáo hội nặng nhọc nhưng ơn ích này. Họ có một hiểu biết kiên cố trong lãnh vực của họ.

Ngoài ra, việc hình thành là một quá trình liên tục, ban điều hành chủng viện thỉnh thoảng gởi một số nhà lãnh đạo đến Rôma, đến Học viện công giáo Tây Phi ở Port Harcourt và đến Đại học công giáo Đông Phi để bổ túc kỹ năng lãnh đạo trong vai trò đào tạo.

Phương Tây bị cản trở vì các vụ lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên của một số thành viên trong hàng giáo sĩ. Cha đánh giá thế nào về tình hình ở Nigeria? Chủng viện đề cập đến vấn đề này như thế nào?

Hiện tượng lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên ở thế giới phương Tây là một trong những giai đoạn đáng buồn trong lịch sử Giáo hội, và đã làm hoen ố hình ảnh chức tư tế. Việc này thu hút sự chú ý của giới truyền thông trên toàn thế giới.

Không thể nói không có dấu vết của xu hướng tiêu cực này ở Nigeria. Linh mục Nigeria cũng là con người, chúng ta không thể nói họ được miễn nhiễm với hành vi tiêu cực này.

Và với những gì đang xảy ra ở phương Tây – nơi các linh mục đánh mất ơn gọi quý giá chức tư tế của họ vì tội ác tày trời này -, mỗi linh mục Nigeria phải cảnh giác chống lại hành vi lạm dụng, trái ngược với phẩm giá và sự toàn vẹn ơn gọi linh mục.

Đã có một cải tiến lớn trong quá trình đào tạo linh mục ở Nigeria trong lãnh vực tình dục và trong môi trường đạo đức xã hội.

Trong thập kỷ qua, các nhà đào tạo đã chú ý đến lãnh vực tâm lý nhằm củng cố đào tạo nhân bản, các vấn đề tâm lý và sức khỏe tâm thần, thúc đẩy sự trưởng thành về mặt cảm xúc của các ứng viên, đặc biệt là trong lĩnh vực tính dục con người.

Các khóa học về tình dục và phát triển con người được khuyến khích trong các chương trình học, cũng như trong các hội thảo và thực tập về chủ đề này. Ngay cả ở cấp ủy ban chủng viện quốc gia Nigeria, năm 2017 một hội thảo đã được tổ chức về việc đào tạo nhân bản cho chức vụ linh mục, nêu bật các khía cạnh khác nhau của chức vụ linh mục, cũng như việc lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên và người trưởng thành dễ bị tổn thương, chú trọng chăm sóc các nạn nhân và thủ phạm.

Gần đây, một linh mục Nigeria dòng Âugutinô đảm trách việc nghiên cứu về vấn đề đào tạo con người trong một bộ.

Cũng nhờ kiến thức có được trong quá trình này, linh mục đã có thể đi từ chủng viện này đến chủng viện khác, điều khiển các khóa hội thảo về ứng xử chuyên nghiệp trong sứ vụ, phòng ngừa và làm lưu tâm cho những người được đào tạo về tác động tiêu cực của việc lạm dụng có thể thấy trong các nhà đào tạo, các thể chế hoặc các giáo xứ, tùy từng trường hợp.

Chủng viện mà cha là giám đốc đã đào tạo các linh mục hiện nay chúng tôi thấy ở khắp châu Âu, châu Mỹ và châu Á phục vụ các giáo xứ. Vì đây là nơi đào tạo các linh mục giáo phận, nên có một yếu tố đào tạo nào chuẩn bị cho các chủng sinh để làm việc như các linh mục truyền giáo trên khắp thế giới không?

Chủng viện chúng tôi đào tạo hàng chục linh mục và giám mục phục vụ Giáo hội cả trong nước và trên thế giới.

Trong vinh quang Chúa, chủng viện chúng tôi cũng đã khai sinh hai đại chủng viện chính thức khác ở phía bắc: Tôma Aquinô ở Makurdi, Bang Benue, và đại chủng viện Mục tử Nhân lành ở Kaduna, Bang Kaduna.

Lý tưởng là mỗi chủng viện được thành lập như vườn ươm ơn gọi để nuôi dưỡng và chuẩn bị các linh mục tương lai cho sứ vụ phổ quát của Giáo hội. Đó là lý do vì sao chương trình chúng tôi gồm các khóa học như sứ vụ học, nghiên cứu về hòa bình, về giao tiếp giữa các nền văn hóa để chuẩn bị cho các chủng sinh trong việc truyền giáo phổ quát trong lãnh vực mục vụ của họ. Có được đào tạo truyền giáo này nên nhiều cựu chủng sinh chúng tôi dù ở bất cứ đâu trên thế giới, họ đều xuất sắc trong các hoạt động mục vụ khác nhau ở bất cứ đâu, châu Mỹ, châu Âu hay châu Á.

Trong vinh quang Chúa, chúng tôi thường nhận các tin tức tích cực về kỹ năng của các cựu chủng sinh, và đó là niềm khuyến khích to lớn của chúng tôi; với đà phát triển này, chúng tôi cố gắng hơn nữa để đào tạo công việc truyền giáo cho chủng sinh, những nhà truyền giáo tương lai của Giáo Hội.

Đối diện với cám dỗ của chủ nghĩa thế tục, của chủ nghĩa hiện đại với những tác động đồng thời của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa tiêu dùng, các chủng sinh đã chuẩn bị như thế nào để đối diện với những thách thức này?

Thế giới ngày nay có xu hướng xây dựng giá trị của mình xung quanh những chuyện phù du của thế giới này, những chuyện không có giá trị bền vững. Chúa dần dần bị xếp xuống hàng thứ yếu trong các vấn đề của con người.

Kể từ khi cuộc cách mạng công nghiệp ra đời, dẫn đến sự cải tiến các phương tiện công nghệ, con người thường bị cám dỗ nghĩ mình có thể làm mà không cần Chúa. Vì đã phát triển một số khả năng để cải thiện tài sản của mình thông qua tiến bộ công nghệ, họ nghĩ có thể làm được mà không cần Chúa.

Giữa những thách thức này, việc đào tạo ở chủng viện nhằm chuẩn bị cho các chủng sinh đón nhận cuộc sống khó nghèo và giản dị như những giá trị tối cao của phúc âm.

Hơn nữa, vì những người mà một ngày nào đó các chủng sinh sẽ chăm sóc hầu hết là người nghèo, họ được dạy để có tình liên đới với những người này qua lối sống giản dị và khiêm tốn của họ, chừng mực khi chọn quần áo, hiệu xe họ sẽ dùng sau khi chịu chức, điện thoại hoặc các đồ dùng khác.

Mong ước các linh mục tương lai sẽ mẫu mực qua đời sống của họ, dựa trên Chúa Kitô, Đấng đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ, hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhân loại như Tin Mừng đã nói. Làm thế nào để việc đào tạo ở chủng viện giúp chủng sinh chống lại chủ nghĩa giáo quyền và lạm dụng quyền lực khi họ dấn thân vào sứ vụ trọn thời gian?

Chủ nghĩa giáo quyền và lạm dụng quyền lực hoàn toàn đi ngược với căn tính linh mục, người được gọi qua việc truyền chức để đại diện Chúa Kitô, người Mục tử nhân lành, người chủ chăn  tối cao.

Đó là lý do vì sao việc đào tạo ở chủng viện được cấu trúc theo cách để chuẩn bị cho chủng sinh lớn lên và trưởng thành dần dần và tiến bộ để có những đức tính, đặc điểm và kỹ năng đủ tiêu chuẩn để họ trở thành mục tử đích thực của linh hồn.

Về cơ bản, sự đào tạo toàn diện chuẩn bị cho họ trở thành người lãnh đạo phục vụ, có thể đến với dân Chúa trong tư cách là người cha, người bạn, người đồng hành trên con đường đức tin chung hướng tới một đích chung.

Dần dần họ đi từ giai đoạn này qua giai đoạn khác trong quá trình đào tạo, họ được dạy, được huấn luyện để vượt lên cái tôi, để có thể trưởng thành trong tự do nội tâm, phát triển năng lực của họ với cuộc sống cộng đồng và trưởng thành trong khả năng vị tha, vừa trong định hướng và trong cách tiếp cận mục vụ của họ với người khác.

Các giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình đào tạo là giai đoạn thần học và mục vụ, khi các chủng sinh đã có kinh nghiệm tình bằng hữu với Chúa Kitô ở giai đoạn môn đệ khi họ học triết học, giờ đây dần dần được hình thành để trở thành những mục tử đích thực. Ở giai đoạn này, họ dần dần được giúp để định hình một tâm thức theo Chúa Kitô để tiếp cận với sứ vụ.

Và cũng ở giai đoạn này, họ được giúp để vượt lên mọi hình thức tự cho mình ở trên cao trong quan hệ của họ với giáo dân.  Họ cũng học để hiểu mối liên hệ phức tạp giữa chức tư tế chung và chức tư tế thừa tác, là tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô, điều này luôn đòi hỏi tinh thần cộng tác giữa giáo sĩ và giáo dân.

Thật vậy, thừa tác vụ linh mục luôn cắm rễ trong thừa tác vụ chung của Giáo Hội, trong đó giáo dân là người có thiện tâm. Như thế linh mục không chỉ là người quản lý các mầu nhiệm thiêng liêng, mà còn là thừa tác viên, người thuộc hàng ngũ tư tế.

Công nghệ đang thay đổi nhiều thứ cho linh mục và thừa tác vụ tư tế ở khắp mọi nơi. Làm thế nào chủng viện của cha chuẩn bị cho các chủng sinh đến với giáo dân qua phương tiện truyền thông xã hội hoặc dùng nó một cách hiệu quả?

Đúng là các linh mục với căn tính trong Chúa Kitô của họ, được gọi là thánh, là học giả, là người cao quý.

Tuy nhiên, linh mục của thế kỷ 21 thấy mình ở trong một xã hội hậu hiện đại đang thay đổi nhanh chóng, đáng kể qua không gian truyền thông quy ước và kỹ thuật số. Những gì chúng ta đang trải qua là một cách mạng to lớn trong thế giới truyền thông chưa từng có trước đây, tiềm ẩn một khả năng của điều tốt đẹp, xấu xa và xấu xí.

Đúng là không gian truyền thông quy ước và kỹ thuật số đặt nhiều lo ngại về đạo đức, nhưng thực tế đó vẫn là một trong những công cụ tuyệt vời nhất để phổ biến kiến thức, giá trị và ý tưởng, có thể phục vụ lợi ích chung của gia đình nhân loại. Nếu được sử dụng một cách kín đáo, thận trọng và có tinh thần trách nhiệm cao, phương tiện này đóng góp rất lớn vào việc truyền bá phúc âm.

Chung chung các khóa truyền thông của chủng viện tập trung vào cả hai hình thức truyền thông quy ước và kỹ thuật số vì chúng vẫn phù hợp và hấp dẫn với nhiều đối tượng khác nhau. Thế hệ những người lớn tuổi của cộng đồng phần lớn phụ thuộc vào các phương tiện truyền thông quy ước, còn thế hệ trẻ, sinh ra đã ở trong kỹ thuật số thì tìm bạn đồng hành trên các mạng xã hội.

Giữ trong đầu các đối tượng mục tiêu này, các chủng sinh sẽ thảo luận về một đức tin được nâng đỡ trong các cộng đồng, chúng tôi đào tạo họ làm báo giấy để giúp họ quản lý các ấn phẩm trong giáo phận, trong giáo xứ, cũng như dạy viết bài viết cho đài phát thanh, đài truyền hình để họ có thể là nhà sản xuất các nội dung phát sóng.

Các chủng sinh học kỹ thuật phát sóng vì họ phải biết sản xuất và trình bày các chương trình mục vụ cho đài phát thanh, đài truyền hình. Họ học cách quan hệ với công chúng, cách quản trị, cách bảo vệ danh tiếng, vì một số người sẽ có thể là phát ngôn viên của giáo phận, của dòng tu của họ. Họ cũng được học cách viết thông cáo báo chí, thuyết trình tại các cuộc họp báo, và các công việc truyền thông chiến lược khác.

Quần chúng kỹ thuật số của các linh mục thường là những người hiểu biết, tò mò và am hiểu công nghệ. Trường hợp đại dịch Covid vẫn còn để lại tác động, ở nhiều quốc gia, số lượng người đi lễ giảm hẳn, nhiều người quay qua các kênh kỹ thuật số, Facebook, YouTube, Twitter, Instagram để học hỏi về đời sống thiêng liêng.

Các chủng sinh được đào tạo để có thể viết các bài quảng bá Tin Mừng trên các nền tảng này. Họ được đào tạo về quản lý và an toàn trực tuyến, cách tham gia một cách kín đáo vào không gian truyền thông kỹ thuật số. Họ học cách phát trực tiếp thánh lễ, bài giảng hoặc các bài báo về đức tin, tổ chức và quản lý các dấn than trên mạng. Họ học các kỹ năng giao tiếp chiến lược để đối phó với thông tin sai lệch, hoặc những lệch lạc về giáo lý công giáo.

Việc đào tạo chủng sinh nhằm mục đích trang bị cho họ kiến thức, kỹ năng, công cụ và tăng cường năng lực trên phương tiện truyền thông nói, truyền thông viết, những lãnh vực họ sẽ cần khi là linh mục thời kỹ thuật số. Các đào tạo chính về vấn đề này là: an toàn trực tuyến, tin tức giả mạo, tin tặc, bắt nạt và lừa đảo qua mạng, quyền riêng tư trên mạng xã hội, đánh cắp danh tính, trầm cảm và các tác động tâm lý của việc dùng mạng xã hội.

Gần đây chúng tôi biết về một đề xuất của Rôma về việc thành lập một học viện bên trong chủng viện, cho phép giáo dân theo học thần học, triết học và khoa học nhân văn cùng với các chủng sinh. Cha có thể giải thích thêm về đề xuất này không? Nó sẽ như thế nào với các chủng sinh, giáo sư và toàn thể cộng đồng chủng viện?

Ý tưởng của viện này dựa trên tông hiến Niềm vui Chân lý Veritatis gaudium của Đức Phanxicô. Qua tông hiến này, ngài dự định thực hiện một số cải cách trong lĩnh vực đào tạo ở chủng viện, nhằm thỏa mãn nhu cầu vừa cho chủng sinh vừa cho giáo dân. Như thế chủng viện chúng tôi sẽ mở cho nam nữ tu sĩ và giáo dân, những người có một chức vụ trong trong đời sống Giáo hội và xã hội đòi hỏi phải có kiến thức vững chắc về triết học và thần học. Viện chỉ đảm bảo học trình cử nhân, cấp bằng giáo hội về triết học và thần học, liên kết với phân khoa Triết học và thần học của Giáo hoàng Học viện Urbaniana ở Rôma.

Cải cách này có ba hệ quả chính.

Thứ nhất nó đòi hỏi một số điều chỉnh trong cơ cấu đào tạo chủng viện về thời gian đào tạo, đặc biệt là phân khoa thần học. Như thế chương trình cử nhân thần học sẽ được thực hiện trong ba năm, năm thứ tư được tổ chức như năm mục vụ.

Thứ hai phân biệt rạch ròi giữa học viện là nơi đào tạo tri thức cho chủng sinh (và giáo dân) và chủng viện là nơi đào tạo dành riêng cho linh mục, chắc chắn thuộc phần trách nhiệm của các giám mục, là ‘chủ nhân’ mang trách nhiệm vừa với học viện vừa với chủng viện về vấn đề tài chính, điều hành và tuyển dụng giáo sư.

Điểm thứ ba có vẻ tầm thường nhưng không kém phần quan trọng, đó là khi giáo dân vào một nơi truyền thống để đào tạo các linh mục tương lai, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến cách hiểu truyền thống ý nghĩa của chủng viện – hoàn toàn là một môi trường đặc quyền cho sự phát triển ơn gọi, mà không có một chia trí nào dưới bất kỳ hình thức nào lọt vào.

Nhiều độc giả của chúng tôi là các linh mục người Mỹ, người châu Âu, phục vụ bên cạnh các linh mục đến từ Nigeria – có thể họ là cựu chủng sinh của chủng viện ở Jos. Với biến động của môi trường sống, cha sẽ nói gì với họ về các đe dọa đè nặng trên cuộc sống của các chủng sinh ở Jos, và những cố gắng nào của cha để giải quyết vấn đề này?

Tôi xin chân thành cám ơn về sự quan tâm và tình đoàn kết huynh đệ mà cha đã thể hiện đối với thách thức an ninh mà các chủng sinh, linh mục đào tạo và nhân viên phải đối diện trong giới hạn của chủng viện. Đó là nguồn động viên tinh thần rất lớn cho chúng tôi.

Thành thật mà nói, phải cần rất nhiều đức tin và can đảm để tiếp tục sống trong khuôn viên chủng viện bất chấp một số cuộc tấn công gần đó. Chúng tôi thường nghe nói nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Fatima, ở Jos chỉ cách hai bước là đến chủng viện, nhà thờ cũng như chủng viện là mục tiêu của các cuộc tấn công.

Nhưng tạ ơn Chúa, mỗi lần nghe tin đau lòng này, chúng tôi không chỉ sợ hãi mà còn tự an ủi, chúng tôi ở trong tay Chúa, qua lời cầu nguyện và tin tưởng vào sự bảo vệ thiêng liêng của Ngài.

Khi chúng tôi cầu nguyện, đức tin và lòng tin cậy của chúng tôi được củng cố, chúng tôi cố gắng duy trì cân bằng, vì chúng tôi tin Thiên Chúa sẽ luôn trung tín trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Chúng tôi dự định làm lại tường thành vốn không kiên cố bao quanh chủng viện. Kiến trúc sư của chúng tôi đã ước tính sơ bộ về những gì cần để hoàn thành dự án này, chúng tôi được sự giúp đỡ của các cựu chủng sinh và những người có thiện tâm để hoàn thành công việc.

Chúng tôi tiếp tục đối thoại với các nhà lãnh đạo các cộng đồng hồi giáo khác nhau ở Laranto, ở vùng bắc Jos gần chủng viện, và đã thành công.

Mặc dù trên thực tế, trong phần lớn trường hợp, đối thoại với cộng đồng hồi giáo ở Nigeria bị cho là vô ích, nhưng chủng viện chúng tôi là một điều gì đó ngoại lệ. Đã có, và vẫn còn, một nhóm làm việc chung, một nhóm an ninh tình nguyện gồm những người trẻ và người lớn, từ các tôn giáo kitô và hồi giáo, những người cùng nhau làm việc để gìn giữ hòa bình.

Điều đáng khích lệ là các nước láng giềng hồi giáo của chúng tôi có suy nghĩ rất tích cực về chủng viện, họ cho đây là trung tâm đào tạo các nhà lãnh đạo tinh thần trong tương lai. Chúng tôi hợp tác với một số nhóm hòa bình gồm những người theo thiên chúa giáo, hồi giáo, những người đi tìm sự hợp tác với chủng viện trong lĩnh vực xây dựng hòa bình ở bang Plateau nói riêng và ở Nigeria nói chung.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Nigeria: “Đất nước chúng tôi đã mất kiểm soát an ninh”

Hồng y Okpaleke người Nigeria, một lựa chọn mạnh mẽ để chống lại chủ nghĩa bộ lạc

Flanders: nghi thức làm phép cho các cặp đồng giới

Flanders: nghi thức làm phép cho các cặp đồng giới

cath.ch, I. Media, 2022-09-20

Ngày thứ ba 20 tháng 9, hồng y người Bỉ Jozef De Kesel và toàn thể Hội đồng Giám mục Flanders của Bỉ công bố một nghi thức cầu nguyện làm phép cho các cặp đồng tính.

Văn bản dài ba trang của các giám mục Flanders đề xuất gồm một cấu trúc phụng vụ và hai lời cầu nguyện cho cặp đồng tính và cộng đồng. Tháng 3 năm 2021, bộ Tín Lý khẳng định việc làm phép cho các mối quan hệ đồng giới – như một quan hệ tình dục ngoài hôn nhân – không thể được xem là hợp pháp.

Thông cáo báo chí của các giám mục đề xuất tiến trình cầu nguyện mà “nội dung và hình thức” có thể được sửa đổi theo thỏa thuận với đại diện mục vụ đồng hành với cặp đồng tính. Phụng vụ bắt đầu bằng lời nói đầu, sau đó là lời cầu nguyện dẫn nhập, đọc Sách Thánh và hai lời cầu nguyện khác. Lời cầu nguyện thứ nhất dành cho cặp đồng tính nói lên “cam kết của họ với nhau”. Lời cầu nguyện thứ hai dành cho cộng đồng chung quanh họ, “cầu nguyện xin ơn Chúa xuống trên họ để họ chăm sóc nhau”.

Sau đó tiến trình phụng vụ tiếp tục với lời cầu bàu, Kinh Lạy Cha, lời cầu nguyện cuối cùng và kết thúc là “phép lành”. Ông Willy Bombeek, phát ngôn viên của Hội đồng Giám mục Bỉ trả lời với hãng tin I.Media, ông được giao phó nhiệm vụ chăm sóc mục vụ cho người đồng tính, trong mục đích “chúc lành cho sự kết hợp, cho tình yêu và cho sự chung thủy của họ”.

Theo đường lối của tông huấn Niềm vui của Tình yêu, Amoris Laetitia

Ông Willy Bombeek cùng làm với một nhóm liên giáo phận chăm sóc mục vụ gia đình ở Bỉ. Các giám mục biện minh cách tiếp cận của họ dựa trên lời khuyến khích của Đức Phanxicô trong tông huấn Niềm vui của Tình yêu, Amoris Laetitia, năm 2015. Ngài giải thích trong tông huấn này, tất cả mọi người, dù khuynh hướng tình dục của họ như thế nào, “phẩm giá của họ phải được tôn trọng và được đón nhận” (AL 250).

Các giám mục muốn mang lại “một đặc tính cấu trúc hơn” trong việc chăm sóc mục vụ người đồng tính, những người tìm cách “để nhận ra, chấp nhận và sống tích cực theo định hướng của họ”. Khi nhấn mạnh một mối quan hệ đồng giới lâu dài “không phải là một hôn nhân tôn giáo”, họ cho rằng đó có thể là “nguồn hòa bình và hạnh phúc được chia sẻ”.

“Không chống lại Vatican”

Thông cáo chung của các giám mục Flanders, nếu dựa trên huấn quyền của Đức Phanxicô, thì họ lờ đi ‘Responsum’ (Trả lời) ngày 22 tháng 2 năm 2021 của bộ Tín Lý viết. Responsum tuyên bố phép lành cho các cặp đồng giới là không hợp pháp.

Thánh bộ biện minh cho quyết định này, cho rằng không thể “chấp thuận và khuyến khích một lựa chọn và thực hành cuộc sống không thể được công nhận một cách khách quan theo chương trình hoạch định Chúa đã mạc khải”.

Tuy nhiên, giáo hoàng đã nói một cách không chính thức sự lúng túng của ngài trước văn bản này, dù xuất phát từ chính quyền của ngài. Hãng tin I.Media được biết, ngài đã nói với một vị khách ngài đã tiếp vài ngày sau khi công bố bản ghi chú.

Một người có trách nhiệm trong Hội đồng Giám mục Flanders khẳng định với hãng tin I.Media: “Đây không phải là tuyên bố chống lại Vatican. Đây là đáp trả lời mời gọi của Đức Phanxicô trong tông huấn Niềm vui của Tình yêu, Amoris Laetitia, tông huấn phát xuất từ thượng hội đồng có sức nặng hơn tuyên bố của một bộ.”

Những chuyện đã có từ trước ở Bỉ

Người có trách nhiệm này mong nói lên đặc tính chưa từng có của văn bản này. Vì vậy, các giáo phận khác, như giáo phận Liège, thuộc vùng nói tiếng Pháp của Bỉ gần đây đã đưa ra các công thức để đón nhận các cặp đồng tính muốn giao phó hành trình của họ cho Chúa.

Vì thế cuối năm 2021, giáo phận Liège đã xuất bản một tập tài liệu trong đó đề xuất trình tự thời gian cầu nguyện cho một cặp đồng tính. Lời cầu nguyện này được một thừa tác viên được đào tạo đọc lên, “một linh mục, một phó tế, một tu sĩ hoặc bất kỳ giáo dân nào khác được niên trưởng hoặc cha xứ của đơn vị mục vụ ủy nhiệm để làm công việc này”. Và sẽ kết thúc với công thức được đề xuất: “Nhủ lòng nhận và làm phép cho cuộc sống / cũng như cho tất cả những ai muốn được liên kết với cuộc sống. / Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

Hội nhập người đồng tính trong cộng đồng

Trong thông cáo, các giám mục Landers nhấn mạnh đến sự tồn tại dai dẳng của một “bạo lực kỳ thị người đồng tính” trong xã hội dù đã có “sự công nhận người đồng tính ngày càng tăng” trong xã hội cũng như trong Giáo hội. Họ nhấn mạnh, ngược lại mục vụ được đề xuất phải mời gọi “gặp gỡ và trò chuyện”, dẫn đến “người đồng tính phải được hòa nhập vào cộng đồng đức tin”.

Để công việc chăm sóc mục vụ này được phép, các giám mục Flanders thông báo bổ nhiệm ông Willy Bombeek làm điều phối viên liên giáo phận phụ trách việc chăm sóc mục vụ cho người đồng tính, ông là giáo dân và bản thân là người đồng tính. Các giám mục yêu cầu mỗi giáo phận chỉ định một người phụ trách việc chăm sóc mục vụ này.

Các giám mục Flanders sẽ cùng với các đồng nghiệp nói tiếng Pháp của họ có mặt tại Rôma trong chuyến đi ad limina từ ngày 21 đến 26 tháng 11. Họ sẽ gặp Đức Phanxicô và thăm một số cơ quan của Giáo triều Rôma, đặc biệt bộ Tín Lý.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Người công giáo đồng tính: “Giáo hội phải đón nhận tất cả con cái của mình”

  Đồng tính: “Một công việc thần học cấp bách nhưng cần nhiều thời gian”

Làm thế nào để học làm giám mục?

Làm thế nào để học làm giám mục?

 Đức Phanxicô trong cuộc họp với các giám mục tại Vatican

Vatican tổ chức khóa đào tạo cho hơn 150 tân giám mục, khóa  kết thúc ngày thứ hai 19 tháng 9-2022. “Nghề” giám mục đặc biệt luôn ở dưới ánh đèn chiếu, nhưng việc chuẩn bị cho chức vụ này lại còn khá hạn chế.

la-croix.com, Arnaud Bevilacqua, 2022-09-19

“Tôi không mong chờ chuyện này”, “Tôi sẽ lắng nghe giáo dân để hiểu các vấn đề của giáo phận”… Các tân giám mục vừa được giáo hoàng bổ nhiệm thường thận trọng nói những câu này. Vì nếu quá trình đào tạo linh mục kéo dài và được giám sát rất chặt chẽ, thì việc chuẩn bị cho “nghề” đặc biệt luôn dưới ánh đèn chiếu này, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng của Giáo hội, có thể nói là rất hạn chế: tân giám mục nhanh chóng thấy mình bị “chìm trong bể bơi” với một chuẩn bị ngắn gọn.

Làm thế nào học để thành giám mục? Về lý thuyết, việc chuẩn bị này gồm một khóa đào tạo chung kéo dài sáu ngày do Vatican tổ chức hàng năm. Tính đồng nghị, giới thiệu Giáo triều, nhiều điểm kỹ thuật hơn như “kinh nghiệm giáo luật để quản lý một giáo phận”… Ngược lại, trên phương diện thực hành, mỗi giám mục đều khám phá nghề của mình trên thực địa. Sau phiên họp đầu tiên vào đầu tháng 9 – lần đầu tiên trong ba năm kể từ đại dịch – quy tụ hơn 150 tân giám mục – lần thứ hai kết thúc ngày thứ hai 19 tháng 9. Có mặt tại Rôma cùng với các giám mục Pháp khác, giám mục Gérard Le Stang đã tham dự khóa học ba ngày do Hội đồng Giám mục Pháp (CEF) tổ chức vào tháng 1 vừa qua.

Giám mục Pháp Le Stang, người Breton 59 tuổi được bổ nhiệm ở “vùng đất vô danh” Amiens, Picardy tháng 3 năm 2021, cho biết: “Có một cô đơn nào đó trong chức vụ giám mục, nó làm cho chúng tôi ngạc nhiên lúc đầu.” Theo giám mục Emmanuel Gobilliard, thì chức vụ giám mục rất khó khăn: “Đòi hỏi họ phải có năng khiếu về tài chính, quản lý, là mục tử tốt lành nhưng cũng phải là nhà giao tiếp xuất sắc! Tuy nhiên không phải khi được phong giám mục là họ có được tất cả các kỹ năng cần thiết”. Giám mục Gobilliard, 54 tuổi, phụ tá giáo phận Lyon từ năm 2016, Hội đồng Giám mục Pháp đã xin giám mục đào tạo các đồng nghiệp mới của mình về giao tiếp.

Giám mục, một nghề nhiều bất trắc?

Thêm nữa khi giám mục ở tuyến đầu để xử lý khủng hoảng, đặc biệt trong các vụ lạm dụng tình dục của một trong các linh mục của họ. Những chủ đề được đề cập trong quá trình đào tạo ở Rôma. Một giám mục có thể là nhà thần học được công nhận, nhưng lại mơ hồ về kinh tế. Giám mục Le Stang nói: “Tuy nhiên, dù được cố vấn, nhưng chính giám mục là người quyết định như liệu có đầu tư một triệu âu kim vào chương trình này, chương trình kia hay không; bối cảnh hiện nay có thể làm cho họ hơi chóng mặt.”

Cuối cùng, trong việc điều hành giáo phận của mình, giám mục thường bám vào các trách nhiệm trước đây của vị tiền nhiệm mình. Giám mục Gérard Le Stang là phó tổng thư ký Hội đồng Giám mục Pháp từ năm 2013 đến năm 2016, những năm ngài sát cánh cùng các giám mục.

Giám mục Xavier Malle, 57 tuổi, giáo phận Gap và Embrun từ tháng 2 năm 2017, cho biết ngài có nhiều kinh nghiệm lợi ích từ thời làm chánh văn phòng cho thị trưởng Cognac (Charente) từ năm 1989 đến năm 1994, trước khi là linh mục năm 2000. Ngài biết nghiên cứu ngân sách, các vấn đề kinh tế, các vấn đề quan hệ với các dân biểu, những vấn đề này không làm ngài e sợ chút nào. Nhưng việc quản lý các linh mục trong giáo phận là khám phá lớn nhất của ngài, một sứ mệnh khó nắm vững. Vì thế giám mục Malle nhận thức được tầm quan trọng của việc được các người chung quanh hợp tác – “những sai lầm mà tôi đã phạm là khi tôi quyết định một mình” – đừng ngần ngại xin lời khuyên của các giám mục trong giáo phận mình, bắt đầu là với tổng giám mục Marseille, “người anh cả”. Giám mục Xavier Malle cũng cho biết, khi gặp khó khăn ngài nhờ đến nhà huấn luyện chuyên nghiệp, người cố vấn cho các nhà lãnh đạo.

Cùng thuộc thế hệ này, giám mục Emmanuel Gobilliard cho biết ngài tham gia một số khóa đào tạo về quản lý hoặc truyền thông: “Để biết cách đồng hành với mọi người thì phải học”, một người là cha tổng điều hành giáo phận Lyon giải thích. Tuy nhiên, một giám mục không bao giờ có thể chuẩn bị cho tất cả những điều bất ngờ xảy ra: một đại dịch, hoặc bi thảm hơn là khi có một linh mục tự tử… Còn với giám mục danh dự giàu kinh nghiệm Michel Dubost, ngài tâm sự: “Điều  thiết yếu với tôi, đó là biết giới hạn của mình, không quá nghiêm túc để vẫn là mình, mà không là tù nhân cho vai trò của mình.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Các giám mục được chọn như thế nào?

Bên trong quy trình tuyệt mật bổ nhiệm giám mục công giáo

Bài mới nhất