Nước Pháp: sự bất ổn lan tỏa của các linh mục
Nước Pháp: sự bất ổn lan tỏa của các linh mục

Giám mục danh dự Gérard Daucourt, giáo phận Nanterre đã viết quyển sách dành cho “các linh mục phân mảnh” | © Mục vụ Jura
cath.ch, Bernard Litzler, 2022-10-14
Trong một cuộc điều tra của báo La Croix được công bố ngày thứ năm 13 tháng 10 cho biết, một năm sau khi công bố báo cáo của Ủy ban CIASE về lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp, các linh mục Pháp rơi vào tình trạng “bất an lan rộng.” Giám mục danh dự Gérard Daucourt, giáo phận Nanterre đã viết quyển sách dành cho “các linh mục phân mảnh” này.
Báo cáo của Ủy ban Độc lập về Lạm dụng Tình dục trong Giáo hội (CIASE), được công bố vào tháng 10 năm 2021, đã ảnh hưởng đến tinh thần của họ. Họ rất buồn vì đã bị nghi ngờ. Ngoài ra, sự can thiệp của Rôma liên quan đến việc quản lý các giáo phận Paris (Tổng giám mục Aupetit), Strasbourg (Giám mục Ravel) và Toulon (Giám mục Rey), cũng như vụ tự tử của linh mục François de Foucauld ngày 1 tháng 7 năm 2022 tại giáo phận Versailles làm thêm rắc rối.
Khủng hoảng quyền lực trong Giáo hội: sức mạnh và bất ngờ đi đến
Thêm nữa, phong trào tham vấn các tín hữu dấn thân trong tiến trình thượng hội đồng đã có một số chỉ trích vào các linh mục. Trong cuộc điều tra do báo La Croix công bố, một số linh mục nói họ cảm nhận “bị phản bội” vì đã cố gắng “làm hết sức mình”. Dưới cuộc chiến chống lại chủ nghĩa giáo sĩ, các hoạt động không phù hợp với chức vụ linh mục đã được đưa ra, “đôi khi rất hung bạo”.
“Các linh mục trong từng mảnh”
Báo La Croix nói về “tình trạng bất an lan rộng” trong hàng ngũ giáo sĩ, dù họ có được niềm vui sâu đậm trải nghiệm qua chức thánh. Chính trong bối cảnh này, quyển sách Linh mục từng mảnh (Prêtres en morceaux, nxb. Le Cerf) của giám mục danh dự Gérard Daucourt, các giáo phận Troyes, Orléans và Nanterre được phát hành.
Giám mục người gốc Delémont giải mã những lý do dẫn đến sự bất an của một số linh mục: công việc quá tải, việc đặt vấn đề về hình ảnh linh mục trong một xã hội phi kitô giáo, ngày càng có nhiều yêu cầu đến các vấn đề không liên quan gì đến tôn giáo. Hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin viết lời nói đầu, quyển sách đề nghị nhiều cách để giúp đỡ các linh mục đang đau khổ.
58 giờ làm việc mỗi tuần
Báo La Croix đã phỏng vấn khoảng 20 linh mục đang thi hành sứ vụ, họ cho biết chi tiết về tình trạng bất an của họ: cô lập, kiệt quệ, giáo xứ rộng lớn áp đặt một khối lượng công việc nặng nề. Cọng thêm phát hiện báo cáo của Ủy ban Ciase được điều tra theo yêu cầu của Hội đồng Giám mục Pháp. Các linh mục dưới 75 tuổi luôn ở trong tình trạng thường xuyên quá tải với tỷ lệ một trên năm, có khi một trên hai. Theo cuộc điều tra, trung bình các linh mục làm việc mỗi tuần 58 giờ.
Khi được phỏng vấn, linh mục François Buet, bác sĩ và linh mục của Viện Đức Bà Sự sống xem việc thiết lập thói quen tốt trong cuộc sống, các kỳ nghỉ hè, hoặc có một ngày nghỉ trong tuần là điều cần thiết. Chức vụ thực hiện trong một số trường hợp là “rất tình cảm”, linh mục cần tạo một khoảng cách thích hợp trong các quan hệ vì “sự can dự quá mức về mặt cảm xúc” liên quan đến chức vụ. Vì thế biết cách từ chối là rất khó. Và tình trạng khó chịu tiềm ẩn kéo dài trong chức vụ mà chúng ta gọi là ơn.
Những nhạy cảm trong đạo công giáo
Do đó, cuộc khủng hoảng về bản sắc linh mục đang gia tăng ở Pháp do quá trình thế tục hóa. Khi lời nói được luân hành dễ dàng hơn, các linh mục ngày xưa được xã hội tôn trọng đôi khi lại nhận những phản ứng rất hung bạo. Và một số người phải xử lý các xung đột giữa các nhạy cảm khác nhau của đạo công giáo. Khi đó điều này làm thuận lợi cho các vụ chủ ý hay tấn công rất khó quản lý.
Ngoài ra, một linh mục lớn tuổi lưu ý, mối quan hệ với thế hệ linh mục hoặc chủng sinh trẻ có thể trở nên phức tạp: “Thế hệ của tôi cảm thấy bị mất giá trị vì có những người đặt lên vai chúng tôi các thất bại của Giáo hội trong những thập kỷ gần đây. Điều này nuôi dưỡng cảm giác tội lỗi, cảm giác tồn tại vô dụng…”. Đức Phanxicô cũng không thoát được, một số linh mục cảm thấy ngài xem thường họ quá.
Các biện pháp kèm theo
Tình trạng khó chịu cũng xoay quanh quan hệ giữa các linh mục và giám mục của họ. Đặc biệt là khi một linh mục không được công nhận trong chức vụ của mình và được bổ nhiệm vào một chức vụ không phù hợp với họ. Nhưng bản thân các giám mục thường bị choáng ngợp bởi vô số các cáo buộc và khó định giá được công việc của các linh mục.
Cuộc điều tra đề nghị các biện pháp nên thực hiện trong các giáo phận để hỗ trợ tốt hơn cho các linh mục: cơ quan hòa giải, trao đổi hàng năm, xem xét và giám sát thường xuyên hành trình mục vụ để tăng cường công việc của họ tốt hơn.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Bài đọc thêm: “Từ hơn một thế hệ nay, các linh mục được gởi đến trong những mạng lưới ngày càng nghèo đi”
Hồng y Robert Sarah: “Linh mục không phải là người như những người khác”
Hồng y Robert Sarah: “Linh mục không phải là người như những người khác”
infocatolica.com, 2022-10-19

Theo hồng y người Guinea Robert Sarah, cựu bộ trưởng Bộ Phụng tự, cuộc khủng hoảng Giáo hội đang trải qua trước hết là “cuộc khủng hoảng linh mục”. Trong một phỏng vấn trên tạp chí Đức Vatican Magazin, và trong bối cảnh các cuộc tranh luận gay gắt xung quanh đường lối thượng hội đồng Đức, hồng y Sarah cho rằng, nhận thức về Giáo hội theo các tiêu chuẩn của “cấu trúc bên ngoài và chính trị” làm sai lệch các cuộc tranh luận.
Hồng y ghi nhận có một sự nhầm lẫn ngày càng tăng giữa vai trò của các linh mục, đã tạo những ghen tị và tranh chấp, ngài lặp lại, không thể chấp nhận các linh mục “đảm nhận vai trò của giáo dân khi tham gia vào chính trị thay vì rao giảng Tin Mừng”, ngài cũng không chấp nhận giáo dân làm các nhiệm vụ của giáo sĩ. “Có đầu, có tay, có mắt, có tai…, nếu tai muốn đóng vai trò của chân thì cơ thể không còn đi được hay nghe được gì. Mọi người phải ở vị trí của mình, trong vai trò của mình theo định nghĩa của Giáo hội và trong hài hòa”.
Đề cập đến các cuộc tranh luận về việc cải tổ Giáo hội, hồng y Sarah nhấn mạnh đến sự thánh thiện của Giáo hội. Vì vậy, ngài cho rằng, chính chúng ta phải cải cách chính mình. Hồng y nhấn mạnh: “Giáo hội là chúng ta, là bạn là tôi, chúng ta cùng nhau. Khi chúng ta làm ô uế chính mình, chúng ta làm ô uế Giáo hội.” Ngài cũng nhấn mạnh mọi người đều đã làm sai Giáo hội, không chỉ các linh mục bị buộc tội lạm dụng. Ngược lại, hồng y nêu bật tấm gương chức thánh của Đức Gioan-Phaolô II, người đảm nhận sứ mệnh của mình đến cùng, đến sỉ nhục khi căn bệnh của mình bị phơi bày trước công chúng.
“Một giáo hoàng đau đớn và nói khó khăn là không thể xuất hiện trước xã hội. Nhưng khi làm điều này, ngài đã cùng đóng đinh với Chúa Giêsu Kitô. Những chiếc đinh xuyên qua bàn tay của Chúa Giêsu như xuyên qua tay của Đức Gioan-Phaolô II. Ngọn đòng đâm qua trái tim Chúa Giêsu đã đi qua trái tim Đức Gioan-Phaolô II.” Theo hồng y Sarah, theo cách này, giáo hoàng hấp hối đã cho thấy chức tư tế không phải để “làm gì đó” hay để “có ích” nhưng để dẫn đến Chúa qua đau khổ.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Bài đọc thêm: Hồng y Sarah: “Chúng ta hãy ngừng tôn sùng mình”
Tagle, Hollerich, Roche, Tolentino de Mendoça: một vài “hồng y có thể làm giáo hoàng” cánh tả
Tagle, Hollerich, Roche, Tolentino de Mendoça: một vài “hồng y có thể làm giáo hoàng” cánh tả

Hình minh họa
resnovae.fr, Linh mục Claude Barthe, 2022-10-17
Việc xem xét hồ sơ của những hồng y tiến bộ, mà chúng ta biết các chiến lược gia của phong trào này, đặc biệt là các tu sĩ Dòng Tên, đã thúc đẩy một trong số họ tiến đến cuộc bầu chọn vào chức vị Thánh Phêrô trong mơ. Ba trong số này được đưa ra: Tagle, Hollerich, Roche. Nhưng danh sách không đầy đủ. Chẳng hạn còn thêm tân hồng y người châu Phi Richard Kuuia Baawobr, 63 tuổi, bề trên Dòng Trắng có thể được đưa ra.
Giám mục Phi châu Richard Kuuia Baawobr thuộc Dòng Trắng sẽ là hồng y
Luis Antonio Tagle, hồng y làm vui-lòng-người-trẻ
Luis Antonio Tagle, người Philippin, 65 tuổi, chắc chắn là người không có suy nghĩ độc đáo lớn lao, nhưng chắc chắn là tiến bộ.
Ngài là sinh viên xuất sắc của của cha Dòng Tên, có bằng thần học tại Đại học Công giáo Washington. Tham gia vào công việc Lịch sử của Công đồng Vatican II, được Trường Bologna (Giuseppe Alberigo, Alberto Melloni) biên tập, điển hình là quyển lịch sử “theo khoa chú giải về sự rạn nứt”.
Ngài được Đức Bênêđíctô XVI phong hồng y-tổng giám mục Manila, nâng lên hàng các học giả được công nhận, dù các học giả này ủng hộ “khoa chú giải về sự rạn nứt”. Và Đức Phanxicô đã nâng hồng y lên nhân vật hàng đầu: năm 2014 và 2015, ngài là một trong những đồng chủ tịch của hai Thượng hội đồng về Gia đình, làm cho những lần xuất hiện này có vẻ “trẻ” mà ngài thích, họ nói về hồng y, đó là “người tốt”.
Ngài không cần phải dệt các mạng lưới: tất cả các khuynh hướng vận động đều hành động vì ngài. Hồng y Honduras Rodriguez Maradiaga (thuộc Hội đồng các Hồng y, người chuẩn bị cuộc cải cách nổi tiếng của Giáo triều) đã đề xướng “người bảo vệ những người bị gạt ra ngoài lề xã hội” làm chủ tịch Caritas Quốc tế để kế vị mình.
Được xem là đại diện lớn cho “tư tưởng thần học châu Á”, ngài được bổ nhiệm làm bộ trưởng Bộ Truyền giáo cho các Dân tộc ngày 8 tháng 12 năm 2019. Việc cải tổ Giáo triều đã quy tụ Hội đồng và Ủy ban Giáo hoàng về Tân Phúc âm hóa làm thành một. Được bổ nhiệm làm hồng y phó-bộ trưởng (Pro-Préfet) một trong hai phân bộ của mình, ngài ở đó như trên cái bệ. Quyền bộ trưởng là của giáo hoàng, để biểu thị tính ưu việt của Bộ này, là Bộ trưởng, giống như trước Công đồng, các giáo hoàng, các vị thầy về học thuyết, chính họ là các Bộ trưởng của Tòa thánh.
Nhưng các trách nhiệm Rôma và bầu khí căng thẳng của giới giáo triều hiện nay đã cho thấy các giới hạn của hồng y Tagle và đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ngài: ngài là nạn nhân của hội chứng kiệt sức nghề nghiệp, burn-out. Tươi cười và bí ẩn, ngài vẫn ở “kho trừ bị”.
Hồng y Tagle kêu gọi người công giáo Phi Luật Tân không suy đoán về giáo hoàng tương lai
Jean-Claude Hollerich, hồng y thượng hội đồng
Về phần mình, hồng y Hollerich, người Luxembourg, 64 tuổi, là người đích thực Dòng Tên. Chịu chức năm 1990, ngài vào Dòng Tên Nhật, ngài hiểu ngôn ngữ và văn hóa Nhật (ngài dạy tại Đại học Sophia ở Tokyo). Tổng giám mục Ratzinguerian của Luxembourg năm 2011, năm 2019 ngài được Đức Phanxicô phong làm hồng y.
Nhà vatican học Sandro Magister đã dành cho hồng y một bài báo giết người: “Nếu mật nghị muốn có một Phanxicô thứ nhì, thì đây là tên của người đó và chương trình của họ” [1]. Năm 2021, ngài được bổ nhiệm làm tổng tường trình viên của thượng hội đồng thường niên về tính đồng nghị, được xem là một phương tiện để đối phó với những “thái quá” của Con đường Thượng hội đồng Đức. Vì thế ngài có một loạt các cuộc phỏng vấn, để trình bày chi tiết về một loại chương trình đúng mức.
Nếu mật nghị muốn có một Phanxicô thứ nhì, thì đây là tên và chương trình của người đó
Ngài phản đối tuyên bố phá thai là quyền cơ bản của quốc hội châu Âu, nhưng ngài hiểu phải quan tâm đến nhân phẩm của phụ nữ và cho rằng giáo huấn của Giáo hội để bảo vệ sự sống không còn thuận tai và cần phải tìm ra những con đường khác. Những con đường nào? Ngài không nói gì về chuyện này. Ngài mong muốn, “sau khi cân nhắc kỹ lưỡng” các ông đã lập gia đình viri probati sẽ được phong chức, theo ngài điều này giúp giải quyết khủng hoảng ơn gọi. Ngài không cho phụ nữ chịu chức linh mục là hữu ích, vì trong các tiềm năng của chức tư tế thông thường của những người đã được rửa tội, sẽ cho phép họ thực hiện nhiều vai trò quan trọng. Một cách cụ thể, ngài tán thành biện pháp của thời đại: phụ nữ không nhất thiết phải truyền phép Thánh Thể, nhưng họ có thể giảng lễ.
Hồng y Hollerich: Cần thay đổi học thuyết về đồng tính
Và trên hết: “Chúng ta phải thay đổi cách chúng ta nhìn về tình dục”. Thật vậy: “Lập trường của Giáo hội về tội trong các quan hệ đồng tính là sai lầm. Tôi nghĩ những cơ sở xã hội học và khoa học của học thuyết này không còn đúng nữa”. Điều này cũng áp dụng cho những người ly dị ‘tái hôn’ và ngay cả với những người tin lành: “Ở Tokyo, tôi đã cho tất cả những ai đến dự thánh lễ được rước lễ. Tôi chưa bao giờ từ chối cho bất cứ ai rước lễ. Tôi đi từ nguyên tắc, nếu một người tin lành rước lễ, đó là vì họ cũng như các người công giáo khác hiểu rước lễ có nghĩa là gì, ít nhất cũng như những người công giáo khác tham dự thánh lễ đều biết.” Nhưng phải nói thêm: “Tuy nhiên, tôi sẽ không đồng tế với một mục sư phái phúc âm.” Ouf!
Hồng y Jean-Claude Hollerich: “Để được nghe, Giáo hội phải thay đổi phương pháp của mình”
Arthur Roche, hồng y muốn chấm dứt phụng vụ truyền thống
Tân hồng y Arthur Roche không có tầm vóc của một nhân vật lịch sử, cũng không tìm cách trở thành: Horace, nhà thơ thời Cổ đại nói Auream quisquis mediocritatem diligit, ai cũng yêu thích sự tầm thường vàng…, áp dụng đúng vào nhân cách của ngài. Nhưng nhà nhân văn vĩ đại đã lọt vào những người có thể hậu-Phanxicô. Ngài đã trở thành người của một ý tưởng: triệt những kẻ thù nghịch cải cách phụng vụ.
Người Anh Yorkshire, 71 tuổi, năm 2012, ngài được Đức Bênêđíctô XVI bổ nhiệm làm Thư ký bộ Phụng tự vì ngài biết rõ hơn bất cứ ai về hồ sơ các bản dịch tiếng Anh của phụng vụ mới (ngài từng là chủ tịch Ủy ban Quốc tế Phụng vụ tiếng Anh, ICEL, cơ quan phối hợp rất tự do giữa các hội đồng giám mục nói tiếng Anh).
Khi triều giáo hoàng Đức Phanxicô bắt đầu, ngài tích cực tham gia trong việc tấn công chống lại phụng vụ truyền thống qua các giai đoạn: tự sắc năm 2019 bãi bỏ Ủy ban Ecclesia Dei; năm 2020 cùng với Bộ Tín Lý phát động cuộc điều tra toàn thể các giám mục của Giáo hội la-tinh về việc áp dụng tự sắc Summorum Pontificum; xuất bản Cử hành thánh lễ theo phụng vụ tiền Công đồng Traditionis custodes ngày 16 tháng 7 năm 2021, kèm theo thư của giáo hoàng gởi các giám mục thông báo rõ về ý định của các nhà biên soạn: bỏ lex orandi cũ (diễn đạt ngoại thường của luật cầu nguyện). Và được đặt dưới sự giám sát của Bộ Phụng tự Kỷ luật Bí tích, hay nói cách khác là dưới sự giám sát của hồng y Arthur Roche, người đã thành bộ trưởng của bộ này.
Và ngày 18 tháng 12 năm 2021, thông qua Responsa của ngài, câu trả lời cho các câu hỏi được cho là đặt ra cho Giáo hội về chủ đề Cử hành thánh lễ theo phụng vụ tiền Công đồng Traditionis custodes, hồng y Roche thêm vào. Chỉ có sách lễ truyền thống, và từ đó việc cử hành Thánh Thể, vẫn được cho phép như một khoan dung. Ngài cấm việc dùng các sách khác (nghi thức các bí tích và giáo hoàng của giám mục) và do đó cấm cử hành tất cả các bí tích một cách truyền thống: rửa tội, giải tội, thêm sức, hôn nhân, xức dầu và phong chức. Một cách lý thuyết.
Tổng Giám mục Arthur Roche, cánh tay mặt phụng vụ của Đức Phanxicô
Tân hồng y Arthur Roche: tranh luận về phụng vụ là một “bi kịch”
Hay hồng y Tolentino de Mendonça?
Tờ Catholic Herald tự tin khẳng định cuộc chạy đua tiền-mật nghị hiện nay đang diễn ra giữa hồng y Tagle người tiến bộ, hồng y Péter Erdő người bảo thủ [2] và hồng y Matteo Zuppi, ở một trung tâm không xác định [3], tuy nhiên tờ báo ghi nhận, cuộc bầu chọn giáo hoàng phải có 2/3 số phiếu và do đó cần có sự đồng ý rộng rãi. Kết quả là, tờ báo đưa ra một tên mới, đó là tân hồng y José Tolentino de Mendonça, người sẽ là “nhân vật được tất cả các phe phái chấp nhận và có khả năng thu hút sự ủng hộ rộng rãi trong số họ.” [4]
Hồng y Tolentino, tân bộ trưởng Văn hóa và Giáo dục
Hồng y người Bồ Đào Nha đến từ Madeira, sắp 57 tuổi, được đào tạo là học giả Kinh thánh, về cơ bản ngài đã có sự nghiệp hàn lâm và trở thành nhà lưu trữ và thủ thư của Giáo hội la-mã từ năm 2018. Cùng năm, ngài được mời giảng tĩnh tâm Mùa Chay cho Giáo triều, năm sau ngài được phong hồng y và nhân dịp cải tổ Giáo triều gần đây, ngài trở thành Bộ trưởng Bộ Văn hóa và Giáo dục.
Ngài tác giả của một sự nghiệp đáng kể về thơ ca, kịch nghệ, tiểu luận, cầu nguyện và ngài đã nhận không ít các giải thưởng văn học. Là nhà thơ chán chường, con cưng của các thư phòng văn hóa ở Lisbon và của giới trí thức công giáo lusitanian, ngài được tuần báo Expresso bình chọn là nhân vật Bồ Đào Nha của năm 2019.
Bồ Đào Nha vui mừng trước việc bổ nhiệm hồng y Tolentino làm bộ trưởng Văn hóa và Giáo dục
José de Mendonça là người theo tinh thần Bergoglian: “Chúng ta đang sống giữa thành phố, trong không gian đầy biên giới, đầy những bức tường vô hình và những tắc nghẽn hiện sinh […] Ước mong các tín hữu kitô được tái hôn, bị tổn thương bởi kinh nghiệm đắm tàu trong hôn nhân, hay bởi thực tế của các gia đình mới, hoặc những người đồng tính, họ tìm được trong Giáo hội một nơi để lắng nghe, chào đón và thương xót. [5]”
Ngài còn hơn chính cả Bergoglian, vì ngài rất thân với nữ tu Teresa Forcades, Dòng Biển Đức Montserrat, một nhà nữ quyền thuyết phục: “Chấp nhận phá thai như một tội nhẹ không mâu thuẫn với Thiên Chúa của người tín hữu kitô” [6]. Sơ là người phò-tránh thai, phò-phong chức cho phụ nữ và đi khắp thế giới để truyền bá ý tưởng của mình: “Tôi nghĩ chủ đề chấp nhận đồng tính hoặc những thiểu số tình dục nói chung trong Giáo hội, Đức Phanxicô đã không thúc đẩy những thay đổi về học thuyết nhưng bầu khí trong Giáo hội đã thay đổi. […] Tôi có thể nói cho chính tôi và cho những người bạn đồng hành khác, những người làm việc để hội nhập đồng tính hoàn toàn vào Giáo hội [7]. Hồng y đã viết lời tựa hùng hồn cho quyển sách của nữ tu, Thần học nữ quyền trong lịch sử (La théologie féministe dans l’histoire) [8].
Ai sống sẽ thấy. Nhiều lần và theo nhiều cách khác nhau, ngày xưa Thiên Chúa đã gởi tai ương đến để phạt tội lỗi của tín hữu kitô. Một mình Ngài biết, Ngài cho phép làm điều gì.
Cha Pio Pace
[1] Nếu mật nghị muốn có một Phanxicô thứ hai thì đây là tên và chương trình của người đó | Diakonos.be.
[2] Péter Erdő, 70 tuổi, tổng giám mục giáo phận Esztergom-Budapest và là người đứng đầu Giáo hội Hungary.
[3] Hồng y ứng viên Zuppi 67 tuổi, bị phe bảo thủ dìm vì đã viết lời tựa quyển sách tiếng Ý của linh mục Dòng Tên James Martin, tổng biên tập tạp chí Dòng Tên America, Một cây cầu để xây dựng. Mối quan hệ mới giữa Giáo hội và những người LGBT (Un ponte da costruire. Una relazione nuova tra Chiesa e persone LGBT, Marcianum Press, 2018). Trong loại văn học này, không bao giờ nói rõ ràng, để lãnh nhận bí tích, người xin nhận các bí tích phải ngừng lại để không ở trong hoàn cảnh tội lỗi công khai. Phải thừa nhận lời nói đầu là để đề xuất “một phương pháp sư phạm học thuật về tính dần dần”. Những người bảo thủ cho rằng, chưa đủ rõ ràng để hy vọng về một giáo huấn đạo đức không thể bào chữa.
[4] Tân hồng y Mendonça, Enter Cardinal Mendonça, newly-promoted love poet and possible future Pope – Catholic Herald.
[5] Radio Renascença, ngày 22 tháng 12 năm 2016.
[6] TV5, ngày 11 tháng 3 năm 2016.
[7] Media-Presse-Info, ngày 18 tháng 10 năm 2019.
[8] La teologia feminista en la història, Fragmenta Editorial, 2007.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Bài đọc thêm: “Ngày phải bỏ phiếu đến gần”: Tại Vatican, các hồng y phác thảo chân dung tân giáo hoàng
Cách Đức Phanxicô chọn giám mục
Cách Đức Phanxicô chọn giám mục
cath.ch, I.Media, 2022-10-11
Lễ tấn phong giám mục Julio Larrondo, tân giám mục phụ tá của giáo phận Santiago, Chi-lê | YouTube
Ngày thứ ba 11 tháng 10, trong một tác phẩm chưa từng xuất bản. Không có mục tử tiêu chuẩn, Giám mục và mục tử (L’évêque et le pasteur, nxb. San Paolo, 2022) quyển sách được xuất bản cùng với nhà thần học Ý, hồng y Carlo Maria Martini (1927 -2012). Mô tả những phẩm chất cần thiết để lãnh đạo một giáo phận, Đức Phanxicô tâm sự ngài cố gắng “thánh hiến các giám mục, những người trên hết là mục tử trung thành chứ không phải những người lên để có địa vị”.
Giám mục và mục tử là quyển sách tiếng Ý được Quỹ Carlo Maria Martini tài trợ nhân dịp kỷ niệm 10 năm hồng y qua đời. Quyển sách gồm bài tiểu luận dài 72 trang của tổng giám mục Milan về sứ mệnh giám mục, kế đó là bài tiểu luận 25 trang của Đức Phanxicô về vai trò chủ chăn của giám mục. Đức Phanxicô cũng viết lời bạt dài 7 trang, chú giải quan điểm của hồng y Martini. Tất cả các văn bản đều chưa từng đăng.
Ngài viết: “Việc chọn một giám mục không dựa theo sở thích, tình cảm hoặc khuynh hướng của chúng ta, mà hàng năm dựa trên hàng trăm terna (ba tên) được đệ trình, trong đó phải chọn các mục tử có khả năng lãnh đạo các giáo phận trên toàn thế giới. Ngài nói: “Việc bầu chọn một giám mục phải rõ ràng vì dân Chúa, họ biết cách nhận ra một mục tử tốt.”
Ngài nhấn mạnh: “Chúng ta phải luôn hỏi hàng tu sĩ và giáo dân xem họ nghĩ gì về một ứng viên nào đó của chức giám mục và không chấp nhận một áp lực nào khi có các cuộc bầu cử. Đó là tìm kiếm “tính cách độc đáo của mục tử mà mọi Giáo hội đều cần”. Dù đôi khi rất khó tìm các ứng viên, nhưng phải tìm với một năng động thánh thiện vì Thiên Chúa không bỏ rơi dân Ngài mà không có người chăn dắt”.
Giám mục, một nghề nhiều bất trắc?
Tử đạo, DNA của chức giám mục
Ngài giải thích, phải tìm kiếm “những người không bị ám ảnh bởi nỗi sợ, nhưng có thể can đảm nói với thế giới rằng, nhân loại không được định sẵn để đi lạc đường”. Ngài nhắc lại, vì kế vị các thánh tông đồ là tử đạo, là “DNA của giám mục”.
Các giám mục phải “khiêm tốn, hòa nhã, có khả năng phục vụ” trước khi “là người có năng lực trong các vấn đề mục vụ”. Đức Phanxicô trích lời hồng y Giuseppe Siri đã nói: “Năm đức tính của một giám mục: thứ nhất kiên nhẫn, thứ hai kiên nhẫn, thứ ba kiên nhẫn, thứ tư kiên nhẫn và cuối cùng là kiên nhẫn với những ai mời gọi chúng ta kiên nhẫn”.
Những gì một giám mục không nên là
Đức Phanxicô chỉ trích giám mục “doanh nhân” hay giám mục luôn mang theo mình chiếc va-li, người làm cho giáo dân của mình thành “mồ côi”. Ngài lấy làm tiếc: “Một giám mục xem giáo phận mình là nơi quá vãng để đi đến một giáo phận khác lớn hơn hoặc quan trọng hơn” mà quên mất rằng mình đã kết hôn với Giáo hội. Ngài khẳng định, khi họ thèm muốn một giáo phận khác, họ đã phạm tội “ngoại tình”.
Ngài cũng cảnh báo chống lại “tâm lý hám danh” làm giáo dân xa lánh, vì giám mục là “người quản lý của Chúa, không phải người quản lý của cải, quyền lực, các công việc thế gian”. Và nếu các giám mục là “những người bảo vệ học thuyết”, thì Giáo hội không “cần những người biện hộ cho những lý do chính đáng của mình, cũng không cần những kẻ thập tự chinh cho những cuộc chiến của họ”.
Giám mục của Những người khốn khổ, Les Misérables là tấm gương
Đức giáo hoàng đưa ra hai ví dụ về người mục tử tốt lành, người “sống chết trên đường” với dân Chúa: trước hết là Thánh Turibe của Mogrojevo (1538-1606), giám mục Lima ở Peru, người mà cả cuộc đời đã chất đầy va-li của ngài với những khuôn mặt và những cái tên ngài gặp trên đường đi. Sự gần gũi đích thực này làm giấy thông hành lên thiên đàng của ngài, ngài nhắc lại cái chết của giám mục “trong một bộ lạc nhỏ khi người da đỏ chơi sáo chirimia để ngài bình an rời khỏi thế giới này”.
Người còn lại là nhân vật hư cấu, giám mục Charles-François-Bienvenu Myriel, giáo phận Digne ở phần đầu quyển Những người khốn khổ, Les Misérables của Victor Hugo. Ngài trích dẫn mô tả mà tiểu thuyết gia người Pháp viết về giám mục. Được hồng y Martini đưa ra làm ví dụ: “Nỗi khốn khổ chung là của tôi”. “Một giám mục được đào tạo về khoa học nhân văn, người đã đọc những quyển tiểu thuyết hay nói về đam mê và các thảm kịch của nhân loại sẽ có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bí ẩn của người khác.”
Các giám mục được chọn như thế nào?
Hai hồng y Dòng Tên
Hồng y Martini và Đức Phanxicô là những hồng y ở trong Hồng y đoàn giữa những năm 2001 (ngày hồng y Bergoglio vào Hồng y đoàn) đến năm 2012 (ngày qua đời của hồng y Martini). Hai người là nhân vật chính của mật nghị năm 2005, trong đó họ có một số phiếu bầu trước khi Hồng y đoàn quyết định chọn Đức Bênêđíctô XVI. Hồng y Martini đã xin các người ủng hộ ngài dồn phiếu cho Đức Bênêđíctô XVI dù các ngài có những quan điểm thần học rất khác nhau. Cũng có những nhân chứng ngược lại cho rằng ngài xin ủng hộ giáo hoàng hiện nay nhưng không thành công.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Bài đọc thêm: Làm thế nào để học làm giám mục?
Vụ giám mục Santier: im lặng là lạm dụng lòng tin
Vụ giám mục Santier: im lặng là lạm dụng lòng tin
Những tiết lộ liên quan đến việc lạm dụng thiêng liêng cho mục đích tình dục của cựu giám mục Michel Santier, giáo phận Créteil đang tạo bất an sâu đậm và một làn sóng chấn động mới trong Giáo hội công giáo Pháp. Ngoài các sự kiện, nhiều câu hỏi xuất hiện mà Giáo hội công giáo phải phải trả lời.
lavie.fr, Aymeric Christensen, Giám đốc biên tập báo La Vie, 2022-10-18
Cựu giám mục Michel Santier, giáo phận Créteil năm 2016. CORINNE SIMON / HANS LUCAS
Lại thêm một “vụ khác”, một vụ tai tiếng khác, hết vụ này đến vụ khác… Vô tận. Khi khám phá vụ cựu giám mục Santier được giữ bí mật kể từ năm 2021, sau khi bị Rôma có biện pháp kỷ luật phải lui về “đời sống cầu nguyện và đền tội”, can tội lạm dụng tình dục vì “nhìn trộm” hai thanh niên trong những năm 1990, cảm giác nào nổi bật trên tất cả. Kinh tởm. Nhục nhã. Giận dữ… hay đúng hơn, còn vượt trên cả tức giận: một kiệt sức đáng sợ.
Xúc phạm đến bí tích
Phải ghi nhận, nếu các nạn nhân đã được nghe và đã có tuyên bố xử phạt đương sự, thì sự thật về việc từ chức của giám mục Santier đã bị che giấu, làm cho việc kêu gọi lấy lời khai từ những người có thể bị lạm dụng khác là điều không thể.
Nhất là chỉ một năm sau khi báo cáo Ciase được đưa ra, khi có một số cải cách dự kiến đang được thực hiện dần dần, những tiết lộ này chỉ có thể cho thấy một sứ điệp ấn tượng: thể chế không học được gì, không hiểu gì, không có gì thay đổi trong phương thức hoạt động. Người ta có thể phản đối các quy tắc của công lý giáo luật, các sự kiện có từ ba mươi năm trước, mức độ nghiêm trọng của các hành vi được xem là “ít hơn” so với một số trường hợp tấn công hoặc hãm hiếp…
Vụ giám mục Santier, sốc và kinh tởm
Than ôi, bao nhiêu là lập luận! không thể chấp nhận được. Chỉ vì một phạm thượng đến bí tích, theo cách mà giám mục Michel Santier đã dùng trong tòa giải tội, xúi giục những người trẻ cởi quần áo, lợi dụng địa vị và bối cảnh này để lạm dụng họ, để họ sống và xây dựng cuộc sống với vết thương của tác động này. Nhưng cũng vì, ngoài con người và hành động của đương sự, còn có sự lạm dụng theo nghĩa sát nhất của Giáo hội công giáo: lạm dụng lòng tin.
Có quá nhiều câu hỏi nảy sinh hôm nay. Tại sao không công bố hình phạt? Trên thực tế, tại sao lại để cho giám mục nói dối về lý do – “sức khỏe và những khó khăn khác” – cho sự ra đi của ông? Trước đây, làm thế nào ông có thể nhận một chức vụ như vậy khi biết rõ lý lịch của mình? Có khẩn cấp để cải thiện việc điều tra trong quá trình bổ nhiệm không? Và trên hết, trên tất cả: hiện tại có những giáo sĩ nào khác mà việc nghỉ hưu thực sự che giấu các biện pháp trừng phạt kiểu này không?
Giám mục Michel Santier bị xử phạt vì những hành vi lạm dụng trong những năm 1990
Một nguyên tắc của chữ tín
Từ mơ hồ này chỉ có thể nảy sinh ra nghi ngờ. Để hy vọng có thể vượt lên cuộc khủng hoảng này, giờ đây không còn cách nào khác: tất cả những nhân vật nào bị dính vào những việc này đều phải cấp bách rời khỏi trách vụ của họ. Hoặc, tốt hơn: từ chức. Đó là một câu hỏi, thậm chí là một nguyên tắc của chữ tín.
Vì chính các giáo dân sẽ chết dần chết mòn với những tiết lộ thường xuyên này, giống như từng giọt thuốc độc ngấm ngầm làm giảm hy vọng của họ, và điều còn lại của họ, ở đây đôi khi là niềm tin vào sự thật, vào Chúa nhân lành, vào Tin Mừng giải phóng, rằng Giáo hội ở trong thế giới này để làm cho lời được nghe thấy… quá thường xuyên, dù thế nào chăng nữa.
Tin Mừng ngày chúa nhật 16 tháng 10 năm 2022 trình thuật người đàn bà góa khóc lóc không mệt mỏi trước cửa quan tòa công lý (Lc 18, 1-8). Trong ngữ cảnh này, bài Tin Mừng mang một cộng hưởng kỳ lạ. Sự tức giận của các nạn nhân, các yêu cầu của giáo dân, những vấn đề này có làm cho các giám mục khó chịu không, trong đó có một số giám mục vẫn còn cố gắng hành động? Có lẽ.
Nhưng cứ im lặng và chờ đợi, có lẽ một ngày nào đó, qua bao nhiêu tiêu hao sức lực, những tai tiếng này sẽ chỉ khơi dậy trong lòng giáo dân một cái nhún vai bất cần, vì họ đã quay đi. Chúng ta đừng nghĩ rằng câu hỏi trước mắt chúng ta ít quan trọng hơn câu hỏi này: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Bài đọc thêm: Vụ giám mục Michel Santier đặt ra vấn đề về tính minh bạch trong Giáo hội
Giám mục Michel Santier bị xử phạt vì những hành vi lạm dụng trong những năm 1990
Đức Phanxicô: “Khát khao ước muốn là kim chỉ nam của con người”
Đức Phanxicô: “Khát khao ước muốn là kim chỉ nam của con người”
Hình ảnh buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư 12 tháng 10-2022
fr.aleteia.org, I.Media, 2022-10-12
Tiếp tục chủ đề bài giáo lý Phân định, Đức Phanxicô giảng trong buổi tiếp kiến chung hàng tuần ngày thứ tư 12 tháng 10: “Thời đại chúng ta đang sống tán đồng quyền tự do lựa chọn tối đa, nhưng cùng lúc nó lại làm suy yếu mọi ham muốn, thường các ham muốn bị giảm thiểu vào những ham muốn nhất thời.” Ngài khuyên chúng ta phải nuôi dưỡng ước muốn “lâu dài với thời gian” và lấy đây là kim chỉ nam cho một khả năng biết “mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu”.
Ngài giải thích: “Sau cầu nguyện và nhận biết chính mình, chúng ta qua một yếu tố khác giúp chúng ta phân định: ước muốn. Mọi ước muốn ban đầu là một hoài niệm của một sung mãn đã không thể thực hiện được, vì đó là dấu hiệu của sự hiện diện của Chúa trong chúng ta, chúng ta phải phân biệt với ước muốn nhất thời.”
Ngài nhắc lại từ nguyên la-tinh xinh đẹp của từ ham muốn, nghĩa đen là “thiếu vắng ngôi sao”, ngôi sao này là ‘điểm quy chiếu định hướng cho đường đời’. Căng thẳng là thúc đẩy để đạt đến điều tốt đẹp còn thiếu, đó là điều cần thiết, vì một người không còn ham muốn là người đã “bị bệnh”.
Ngài nhấn mạnh: “Một ước muốn chân chính biết chạm đến tầng sâu thẳm trong con người chúng ta”. Nó không biến mất khi đối diện với khó khăn, ngược lại nó đòi hỏi chúng ta đặt ra giới hạn để thực hiện, chẳng hạn một sinh viên muốn làm bác sĩ, anh phải hy sinh để thực hiện giấc mơ của mình.
Theo ngài, điều quan trọng là làm cho mong muốn của mình thành hấp dẫn: “Điều quan trọng nhất là thành người tốt, chúng ta phải có mong muốn trở thành người tốt”. Ngài cảnh báo chống lại sự cám dỗ luôn phàn nàn về những gì chúng ta không nhận được, đặc biệt là trong gia đình hoặc ‘với các giám mục’. Ngài nhấn mạnh: “Phàn nàn không làm chúng ta phát triển ham muốn.”
Đức Phanxicô xin mọi người cầu nguyện để Chúa ban sức mạnh và ban ơn để thực hiện ước muốn, nhất là “ước muốn về Ngài”, ngài chỉ trích các loại giải trí đã làm chúng ta mất tập trung và không còn khả năng phân định do bị tràn ngập bởi hàng ngàn đề xuất. Ngài xin chúng ta kết nối với những mong muốn sâu đậm nhất để không bị đi giữa cuộc đời với những toan tính, những phụ kiện đủ kiểu, mà không bao giờ đạt được bất cứ điều gì, đã lãng phí nhiều cơ hội đến với chúng ta.
"L’époque où nous vivons semble favoriser une liberté de choix maximale, mais en même temps elle atrophie le désir, le plus souvent réduit à l’envie du moment", a déclaré le pape François lors de l’audience générale le 12 octobre 2022.👉 https://t.co/FGaCthhIqR pic.twitter.com/Mk5zl6DQMx
— Aleteia (@AleteiaFR) October 12, 2022
Đức Phanxicô xin chúng ta cầu nguyện để Chúa ban sức mạnh và ban ơn để chúng ta thực hiện ước muốn của mình, đặc biệt là “ước muốn dành cho Ngài”. Và như thế Chúa có thể làm phép lạ trên chúng ta.
Marta An Nguyễn dịch
Bài đọc thêm: Phân định: Hiểu chính mình là mở lòng ra trong quan hệ với Chúa
Phân định: Hiểu chính mình là mở lòng ra trong quan hệ với Chúa
Vụ giám mục Michel Santier đặt ra vấn đề về tính minh bạch trong Giáo hội
Vụ giám mục Michel Santier đặt ra vấn đề về tính minh bạch trong Giáo hội
Báo chí tiết lộ cựu giám mục Michel Santier của các giáo phận Créteil và Luçon từng là đối tượng của các hình thức kỷ luật năm 2021 vì các hành vi nhìn trộm trong tòa giải tội; nhiều tiếng nói được đưa ra để đòi hỏi một minh bạch hơn trong các quyết định của Giáo hội.
Giám mục Michel Santier trước Nhà thờ Đức Bà Paris, tháng 5 năm 2017. CORINNE SIMON / HANS LUCAS
lavie.fr, Marie Lucile Kubacki, 2022-10-18
Linh mục niên trưởng Jean Bondu ở Challans vùng Vendée phản ứng: “Một cú sốc, vì tất cả những điều này xa với hình ảnh chúng tôi có về ngài trong giáo phận, ngài là người rất tốt…” Linh mục Jean Bondu cũng là linh mục đại diện cho giám mục Michel Santier trong hai năm cuối ngài làm giám mục ở Luçon từ 2005 đến 2007. Phản ứng sốc liên quan đến người từ lâu là nhân vật chủ chốt trong hàng ngũ các giám mục Pháp, một nhân vật của Canh tân đặc sủng, được các linh mục dưới quyền đánh giá cao, ngài dự vào các cuộc đối thoại liên tôn và tính đồng nghị ngay cả trước khi những chuyện này trở thành thời trang…
Giám mục Michel Santier bị xử phạt vì những hành vi lạm dụng trong những năm 1990
Nhưng, dần dần chúng ta phải nghĩ đến những điều không tưởng. Các bản tin của Golias và Gia đình Kitô loan tin ngày 14 tháng 10 năm 2022, tiết lộ giám mục Michel Santier là đối tượng của các biện pháp kỷ luật Rôma ban hành vào tháng 10 năm 2021, vài tháng sau khi từ chức khỏi giáo phận Créteil, cựu giám mục phải lui về “đời sống cầu nguyện và đền tội” trong một cộng đồng tu sĩ ở giáo phận Coutances (Manche), “với một mục vụ bị giới hạn trong đời sống của cộng đồng này”.
Tất cả bắt đầu vào năm 2019, khi hai người đàn ông làm chứng, họ bị “lạm dụng thiêng liêng vì mục đích tình dục” khi đi xưng tội trong những năm 1990, khi đó Michel Santier chỉ là một linh mục đứng đầu Trường Đức tin ở Coutances, nơi đào tạo và phân định cho các thanh niên từ 18 đến 30 tuổi.
Các yếu tố làm nặng thêm việc “nhìn trộm”: công cụ hóa việc giải tội và lợi dụng uy quyền thiêng liêng. Tạp chí Golias viết: “Khi linh mục điều khiển Trường Đức tin ở Coutances (Manche), người sáng lập cộng đồng Réjouis-toi! tham gia vào cái mà trong giới tu sĩ gọi là “giải tội-thoát y”. Trước nhà tạm, hối nhân được mời cởi áo cho mỗi tội xưng ra. Và khi kết thúc hành động: tha tội.
Mãi đến hai mươi năm sau, năm 2019, hai nạn nhân mới quyết định đưa vụ này ra thẩm quyền Giáo hội. Ngay sau khi được thông báo về báo cáo này, tổng giám mục Michel Aupetit, lúc đó là tổng giám mục Paris và giáo phận Créteil thuộc tỉnh giáo phận của ngài, đã triệu tập giám mục Santier. Trong lần gặp này, giám mục Santier đã thú nhận sự thật. Trong tiến trình vụ án, tổng giám mục Aupetit gởi báo cáo về Rôma ngày 5 tháng 12 năm 2019. Giám mục Dominique Blanchet, giám mục kế vị giám mục Santier năm 2021 tại giáo phận Créteil cho biết: “Đồng thời giám mục Michel Santier cũng gởi đơn từ chức đến Đức Phanxicô, trong đó giám mục xác nhận các sự kiện đã xảy ra.”
Giám mục Laurent Le Boulc’h, giám mục của Coutances và Avraroc, giáo phận nơi xảy ra sự việc 30 năm trước, và nơi Michel Santier về hưu và nhận lệnh trừng phạt cho biết: “Sau những biện pháp kỷ luật này, tôi xin giám mục Santier rời Saint-Pair-sur-Mer để về một cộng đồng các nữ tu, tại đây giám mục có đời sống cầu nguyện và đền tội với các sinh hoạt mục vụ hạn chế.”
“Các khó khăn khác”
Giáo hội công giáo có xử lý đúng việc này không? Dù báo cáo được gởi nhanh về Rôma và được xử lý khá nhanh chóng, các câu hỏi vẫn chưa được giải đáp và những giáo dân nào biết giám mục Santier và những ai quan tâm đến tin tức của Giáo hội đều vô cùng bối rối.
Đối tượng của vụ bê bối? Không chỉ bản chất của việc tiết lộ trên báo chí, mà còn sự im lặng của thể chế, khi lệnh trừng phạt được công bố chỉ ngay sau khi báo cáo Ciase về lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp được công bố. Khi từ chức, trong thư gởi giáo dân trong giáo phận tháng 6 năm 2020, giám mục giải thích vì “lý do sức khỏe và có những khó khăn khác” đã làm ông phải gởi đơn từ chức lên giáo hoàng vài tháng trước đó. Khi đó, giữa cao điểm khủng hoảng sức khỏe, mọi người nghĩ rằng quyết định này là do giám mục bị Covid-19.
Một tín hữu ở Paris nói: “Chúng tôi có cảm giác bị phản bội.” Một linh mục ngoài năm mươi nói: “Đúng là một sự việc kinh khủng tuyệt đối, thêm một lần nữa, cảm giác ở cấp độ toàn cầu của Canh tân đặc sủng lại lan ra một chuyện khác. Một giáo sĩ có quan hệ đồng tính với một người nam hay nữ trưởng thành, có thể bị cho là yếu đuối xác thit, nhưng dùng bí tích để lạm dụng tình dục như thế thì thật đáng sợ.” Linh mục thở dài: “Thật là mệt mỏi, điều này làm tổn thương tất cả các linh mục và giám mục, họ cảm thấy mình phải trả món nợ này không ngừng, trong khi họ cố gắng sống chức vụ của mình tốt nhất có thể.” Một người khác hỏi: “Đã 30 năm trước, giám mục đã công nhận các sự việc, còn chỗ nào cho tha thứ và cứu chuộc nữa đây?”
Vụ giám mục Michel Santier bị Rôma trừng phạt: ngạc nhiên và đau buồn ở giáo phận Créteil, Pháp
Nhưng trên mạng xã hội và trên các sân nhà thờ, người công giáo, dù giáo dân hay giáo sĩ đều đang hỏi: làm sao đương sự có thể nhận chức giám mục năm 2001 khi biết những gì ngài đã làm? Phủ nhận thực tế? Tối thiểu hóa các sự việc có từ hàng chục năm? Vì sao bản án mới được công khai năm 2021?
Thể chế cho rằng vì các nạn nhân mong muốn ẩn danh, họ không nạp đơn khiếu nại. Trên bài báo đăng trên Gia đình Kitô giáo, giám mục Dominique Blanchet, giám mục đương nhiệm thừa kế ở giáo phận Créteil cho biết, đó là mong muốn của các nạn nhân, những người chưa nộp đơn khiếu nại, họ “muốn giấu tên hoàn toàn và yêu cầu không được nói gì công khai về kinh nghiệm của họ”.
Giám mục Blanchet: “Không thể có ngoại lệ trước yêu cầu của sự thật”
Trước lập luận này, những tiếng nói khác cho rằng, chính việc công bố một hình phạt có thể giải phóng lời và tiếp thêm sức mạnh cho những nạn nhân tiềm năng khác có thể nói lên. Vấn đề trở thành phức tạp.
Vụ giám mục Santier, sốc và kinh tởm
Sự mờ ám của công lý giáo hội
Linh mục Cédric Burgun, phó trưởng khoa giáo luật tại Học viện Công giáo Paris, cho biết: “Trường hợp này đặt ra câu hỏi về việc không công khai các biện pháp kỷ luật của Giáo hội. Các thủ tục của Giáo hội theo nghĩa rộng thường bị một sự mờ ám nào đó che khuất mà giáo dân và thế giới ngày nay không còn hiểu được nữa.”
Một sự không hiểu được trong bối cảnh hiện nay cho cảm giác không thể chịu đựng được của việc quản lý các vụ “nội bộ”, để không gây ra sóng gió. Và điều này làm tăng thêm ấn tượng về sự mờ ám của công lý Giáo hội, nếu không phải là công lý hai tốc độ, vì vừa cả sự chính xác của sự kiện cũng như chi tiết của biện pháp kỷ luật đều không được trình bày cho giáo dân một cách chi tiết.
Linh mục giải thích: “Dù các nạn nhân muốn giấu tên, vẫn có thể tôn trọng ý định của họ nhưng cũng có thể công khai về biện pháp kỷ luật. Vì điều này đặt giới truyền thông vào bổn phận càng phải làm tốt hơn vai trò của người điều tra và người báo động, làm tổn hại cho uy tín và công lý Giáo hội, điều mà Giáo hội không cần đến bây giờ.”
Nhưng việc công bố các biện pháp trừng phạt có bắt buộc không? Linh mục Cédric Burgun tiếp tục: “Giáo luật không quy định việc công bố theo nghĩa “trung gian hóa” các biện pháp kỷ luật, ngoại trừ có một pháp chế cụ thể, nhưng hầu như không tồn tại. Trong trường hợp này, Bộ Tín Lý áp dụng biện pháp kỷ luật, có các quy tắc thủ tục riêng và thường để các giám mục liên quan quyết định.”
Vì thế chuyên gia giáo luật cho rằng có thể theo quy tắc công lý của nhà nước, đưa ra các nghị quyết đã được đưa ra tại Liên Hiệp Quốc 30 năm trước, chủ trương “đồng hành với nạn nhân và minh bạch trong các thủ tục; kết quả của các vụ việc và hình thức xử lý kỷ luật”. Như đã được thực hiện tại các tòa án tiểu bang, do đó sẽ là vấn đề xuất bản một cách có hệ thống các quyết định của Giáo hội.
“Điều này sẽ ngăn quyết định của thẩm phán hoặc các thẩm phán bị xem là tùy tiện. Lý luận của họ có thể là chủ đề của phân tích phê bình theo nghĩa học thuật của thuật ngữ này, nó có thể giúp triển khai nhiều hơn một chút án lệ, vốn tồn tại nhưng rất khó tiếp cận. Nó cũng là để khôi phục niềm tin. Nếu mọi vụ bê bối trong Giáo hội dường như chỉ là thêm một vụ trong quá nhiều vụ, thì vụ tai tiếng này cũng có thể mở ra lỗ hổng trong sự phản ánh về tính minh bạch. Một chủ đề cho hội nghị toàn thể tiếp theo của các giám mục, sẽ được tổ chức từ ngày 3 đến ngày 9 tháng 11 năm 2022 tại Lộ Đức?
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Bài đọc thêm: Vụ giám mục Santier: im lặng là lạm dụng lòng tin
Linh mục Matthieu Dauchez: Tôi là người kinh ngạc chứng kiến sự sống lại của các trẻ em đường phố
Linh mục Matthieu Dauchez: Tôi là người kinh ngạc chứng kiến sự sống lại của các trẻ em đường phố
Linh mục Matthieu Dauchez người Pháp gắn bó với giáo phận Manila, cha đón nhận các trẻ em bị bỏ rơi.
fr.aleteia.org, Marzena Devoud, 2022-10-13
Với cơ sở Anak-tnk của cha, cha Matthieu Dauchez đã cứu các em bé khỏi địa ngục đường phố vì ma túy, mại dâm, bạo lực và cái chết. Về Pháp, linh mục chia sẻ cuộc sống của các em bé bị bỏ rơi ở Manila, Philippines, cha trả lời các câu hỏi của trang Aleteia.
Cách đây 24 năm, cha Matthieu Dauchez người Pháp đặt hành lý của ngài trước Smokey Mountain, một khu ổ chuột nằm sau bãi rác Manila. Chịu chức tại đây, cha điều hành tổ chức Anak-tnk, nơi nhận em bé bị bỏ rơi. Trong 24 năm, cha đã giúp hơn 60.000 trẻ em Philippin.
Aleteia: Cha là linh mục trẻ của Versailles, 24 năm trước cha rời Pháp để đến định cư tại những khu phố nghèo nàn nhất Manila, thủ đô Philippin. Chuyện gì đã xảy ra trong cuộc đời cha để cha có quyết định này?
Cha Matthieu Dauchez: Ơn gọi linh mục đến với tôi rất muộn. Cảm nhận được ơn gọi này, tôi vào Chủng viện Ars trong hy vọng thành linh mục giáo phận phục vụ giáo phận Versailles… Tôi là người thích ở một chỗ, tôi không thích di chuyển chút nào! Nhưng chủng viện đã cắt đứt suy nghĩ này của tôi. Một người bạn thân đang đi truyền giáo nước ngoài nói với tôi: “Bạn là người Versaille, bạn không có khả năng!” Anh đã chọc đúng… tự ái của tôi. Tôi nói với hai chủng sinh khác “Tụi mình đi!”
Bà thấy đó, không phải vì lòng quảng đại hay theo đuổi một giấc mơ: nhưng vì kiêu ngạo đã làm tôi lên đường! Chuyện này dẫn đến chuyện kia, tôi quen với một linh mục Dòng Tên, chúng tôi đi Philippin. Cơ sở Anak Tnk ra đời vào lúc đó. Rất nhanh chóng và ngay tại chỗ, tôi nhận ra công việc ở đây để giúp người nghèo nhất chỉ có thể làm với thời gian. Chúng tôi chăm sóc các em bé bị bỏ rơi, bị lạm dụng, cùng với người Philippin tại chỗ. Nhưng tôi thấy các em bé này khát khao một thứ khác, sâu đậm hơn nhiều so với ham muốn vật chất.
Tôi xác tín tôi được gọi để đến đây trong khi tôi không có khiếu để làm việc này. Tôi chỉ là người dân vùng Versailles, chỉ thích quanh quẩn ở nhà, tôi không có việc gì để làm trên các đường phố Manila!
Khuôn khổ để giúp các em không phải giúp trong chốc lát, nó phải lâu dài. Ý tưởng này đến với tôi rất nhanh. Cần mang đến cho các em một chiều kích tâm lý, yêu thương, tâm linh, điều này chỉ có thể làm với thời gian. Tôi nghĩ đây là vấn đề của một cuộc sống phải tận hiến. Tôi nhớ rất rõ vào một buổi tối nọ, tôi đã hỏi câu hỏi này với hai chủng sinh đi truyền giáo với tôi: Tôi nghĩ câu trả lời của họ sẽ rõ ràng. Và tôi rất ngạc nhiên, họ nói không. Đó là khi tôi hiểu có một tiếng gọi trong tiếng gọi. Tôi chắc chắn tôi đã được gọi để đến đây, trong khi tôi không có khiếu để làm việc này.
Tôi là người thích quanh quẩn ở Versailles, tôi không có việc gì để làm trên các đường phố Manila! Vậy là Chúa đi tìm những dụng cụ không dùng được, không hiệu quả nhất để đưa chúng vào cánh đồng thu hoạch.
Xác tín này không bao giờ rời khỏi cha?
Không bao giờ. Không bao giờ tôi nghi ngờ, không bao giờ tôi đặt lại vấn đề. Có những lúc khó khăn, có những lúc nản lòng, nhưng không bao giờ tôi nghi ngờ.
Linh mục Matthew trong khu ổ chuột ở Manila.
Các em bé cha chăm sóc này là những em như thế nào?
Các em thuộc các thành phần rất khác nhau. Trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm hại, bị lạm dụng thân xác và tình dục. Ngoài ra có các em bị bỏ rơi, bị gia đình ruồng bỏ, đã trốn nhà nên tình trạng của các em rất nghiêm trọng. Chúng tôi cũng nhận trẻ sơ sinh vài tháng tuổi. Cũng có những em bị gia đình bỏ rơi vì khuyết tật hoặc đi lạc vì khuyết tật. Trung tâm chúng tôi có chương trình giúp các em nhặt rác, các em còn sống với cha mẹ và đi bươi ở các bãi rác Manila. Các em sống trong các đống rác và sinh sống bằng cách phân loại rác. Chúng tôi yêu thương các em, tạo thăng bằng cá nhân cho các em, tuy vậy các em này dễ quản lý hơn so với những em bị gia đình bỏ rơi và những em bị tổn thương sâu đậm nội tâm. Chúng tôi cũng chăm sóc trẻ em sống trong các khu ổ chuột.
Các trẻ em đường phố, bị chính những người theo lẽ phải cho các em thấy tình yêu lớn nhất, khi các em biết chúng không xứng đáng được yêu thương. Tim của các em ngừng đập.
Và chúng tôi can thiệp vào các lĩnh vực y tế, dinh dưỡng và trường học với các chương trình chăm sóc ban ngày ở các trung tâm ban ngày. Còn với trẻ em bị bỏ rơi, thì cần những chương trình lâu dài nặng về nhân bản hơn vì phải thay thế gia đình để đảm bảo đời sống hàng ngày bình thường cho các em.
Cuối cùng, gần đây chúng tôi có chương trình thứ năm. Đây là chương trình giúp người già sống ngoài đường phố. Ở Philippin, ý thức về gia đình rất lớn nên chúng tôi chăm sóc các người lớn tuổi này, tình trạng nghèo đói đang lan tràn và ngày càng có nhiều người già bị bỏ rơi.
Cha nói các em bé sống ngoài đường phố như người chết với rất ít hy vọng sống lâu…
Đúng vậy, trẻ em bị bỏ rơi ngoài đường giống như xác sống, tuổi thọ của các em rất ngắn. Tôi hiểu điều này không phải chỉ ở bên ngoài – sự thật có những em nương náu ở nghĩa trang Manila – nhưng trên hết là trong tâm hồn các em. Các em bé đường phố bị chính những người theo lẽ cho các em thấy tình yêu lớn nhất, khi các em hiểu mình không xứng đáng được yêu thương. Tim của các em ngừng đập, các em không còn thấy ý nghĩa cuộc đời, đó là lý do vì sao tôi gọi các em là những kẻ sống mà chết.

“Nhân phẩm bị tước khỏi các em làm các em thành những xác sống.” Linh mục Matthieu Dauchez
Khi bạn nhìn thấy các em, bạn có ấn tượng như nhìn thấy những thây ma, những em bé bị ảnh hưởng của ma túy rất nhiều trên đường phố. Đường phố là môi trường của những nguy hiểm. Một số trẻ em là nạn nhân của bạo lực thể chất và thanh toán giữa giới giang hồ. Không có ánh sáng cuối đường hầm. Không có cánh cửa nào mở ra cho các em. Không có tình yêu, chúng ta không thể sống, phẩm giá bị tước đoạt sẽ biến chúng ta thành kẻ sống mà chết.
Có khó để thuyết phục các em vào trung tâm của cha không? Làm thế nào để cha gom các em này lại?
Trong các trường hợp này, tôi thường nghĩ đến đối thoại giữa con chồn và Hoàng tử bé. Đây là công việc của các nhà giáo dục đường phố. Chúng tôi có 200 người. Tất cả công việc của các nhà giáo này là thuần hóa các em và để các em đường phố thuần hóa họ. Đứa trẻ đã bị người lớn phản bội sẽ hoàn toàn vỡ mộng. Các em bị người lớn lạm dụng thể xác và tình dục. Các em biết người lớn xem mình là đồ vật, họ muốn làm gì thì làm. Vì vậy nhà giáo dục phải khôi phục lại niềm tin cho các em. Các nhà giáo dục chúng tôi phải có mặt trên đường phố ngày đêm, gặp gỡ các nhóm trẻ để thuần hóa. Đó là đặt hy vọng, để mở ra cánh cửa hy vọng. Mỗi em bé là duy nhất.
Điều này đòi hỏi phải làm theo tính tình của từng em. Cha có thất bại nào không?
Một số trẻ em dễ dàng vào trung tâm. Nhưng có một số em khác phải mất một vài năm. Chúng tôi phải chấp nhận chuyện này. Xây dựng niềm tin phải thích ứng với nét duy nhất riêng của từng em, con người, chấn thương của từng em. Các nhà giáo dục xây dựng những cây cầu khi hiểu được nét riêng này.
Tại sao việc hiểu tính duy nhất của các em lại quan trọng như vậy?
Tính duy nhất là chìa khóa. Đó là khởi đầu. Giống như các cha mẹ đông con, họ thấy rõ cùng cách giáo dục nhưng sẽ phải điều chỉnh cho phù với từng đứa con. Với chúng tôi cũng vậy. Chiều kích sống-mà chết làm chúng tôi hiểu, sứ mệnh chúng tôi là bất lực. Nhưng lại là một chuyện tốt: chúng tôi cần tạo một khung để giúp đứa trẻ đứng vững trở lại. Cần phải có hai khung lớn để tạo khả năng phục hồi: bầu khí yêu thương và an toàn để đứa bé cảm thấy mình được yêu thương, được bảo vệ.
Nhưng chữa lành vết tâm hồn, chúng tôi không biết phải làm như thế nào. Chúng tôi chỉ biết tạo ra khung để Ngài làm: Chỉ có một mình Chúa mới biết cách đi vào những kẽ hở của tâm hồn.
Chỉ đến khi một trái tim bị ngừng đập thì trái tim đó mới thấy cần được chữa lành. Nhiệm vụ của chúng tôi là tạo ra các khung để trái tim được chữa lành. Nhưng chữa lành vết thương tâm hồn, chúng tôi không biết phải làm như thế nào. Trung tâm chúng tôi bất lực, trung tâm chỉ tạo ra khung để cho Ngài làm điều đó: Chỉ một mình Chúa mới biết cách đi vào những kẻ hở của tâm hồn. Đã 24 năm tôi thấy hàng trăm trẻ em đến đây. Tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực trước các em. Vết thương của các em vượt quá khả năng của tôi. Tôi chưa trải qua phần triệu những gì đã xảy ra với các em, tôi không thể hiểu nỗi khổ của các em. Tôi không có dụng cụ để chữa lành vết thương của trái tim. Chữa lành một cơ thể, được. Nhưng sứ mệnh chúng tôi là tạo khung để Ngài làm. Chính sự bất lực của chúng tôi đã làm cho Ngài đến và ở lại trong những chấn thương này.
Các nhà giáo dục chúng tôi phải có mặt trên đường phố ngày đêm, gặp gỡ các nhóm trẻ để thuần hóa. Đó là đặt hy vọng, để mở ra cánh cửa hy vọng. Linh mục Matthieu Dauchez
Đâu là phần thiêng liêng cha mang lại cho các em?
Trong 24 năm ở Manila, thành quả duy nhất của chúng tôi là làm cho các em cầu nguyện. Mỗi đêm đều có giờ cầu nguyện. Đây là lúc Chúa có cơ hội hành động. Các phép lạ đích thực xảy ra, những niềm vui thực sự mà các em bé bị tổn thương nhất thế giới có được, các tha thứ được trao, nụ cười tìm thấy, tất cả những điều này tôi không thể làm được. Tôi chỉ biết đó là điều bí ẩn ngạc nhiên xảy ra giữa Chúa và các em.
Cha tổ chức những giờ cầu nguyện đặc biệt như chầu Mình Thánh Chúa trên bãi rác công cộng trong một khu ổ chuột lớn…
Chúng tôi mang Mình Thánh Chúa đi khắp nơi. Có một cách chầu rất đặc biệt ở bãi rác trong khu ổ chuột lớn do băng đảng kiểm soát. Có một tâm tình chầu Mình Thánh Chúa rất đặc biệt ở bãi rác trong khu ổ chuột rộng lớn do băng đảng kiểm soát. Một người mẹ hợp tác với các bà mẹ khác để tổ chức một hệ thống tương trợ ở đây, bà bị trùm băng đảng này giết trước mặt mọi người để dương oai. Đó là ngày thứ năm. Khi cảnh sát đến, chúng tôi thấy sự căng thẳng khủng khiếp và chúng tôi buồn vô cùng khi thấy mình bất lực. Thứ bảy sau đó, chúng tôi tổ chức giờ chầu ở địa điểm này. Các gia đình đã ở đó.
Giờ chầu Thánh Thể trong khu ổ chuột sau vụ người mẹ bị trùm băng đảng địa phương sát hại. Linh mục Matthieu Dauchez
Tìm Chúa trong thùng rác ở Manila, Phi Luật Tân
Đứng trước sự leo thang của các bạo lực này, trong lòng ai cũng chỉ muốn trả thù nhưng họ đáp trả bằng tha thứ và cầu nguyện. Một yên bình lắng đọng trong khu phố ổ chuột. Điều duy nhất chúng tôi đã làm là mang Chúa trong Bí tích Thánh Thể đến đó. Chính Ngài mang lại hòa bình. Tôi là linh mục mang Chúa Giêsu đến bãi rác và ngài rất vui khi ở đó, ngài làm công việc sâu đậm trong trái tim, hoàn toàn vượt khỏi tôi và luôn làm tôi ngạc nhiên.
Cha ở bên cạnh những điều kinh hoàng khủng khiếp nhất. Nhưng cha nói cha sống trong ngạc nhiên. Từ đâu có điều kỳ lạ này?
Khi tôi nhìn những gì trước mặt tôi, tôi thấy phép lạ mỗi ngày. Không phải người chết sống lại, nhưng những phép lạ còn đẹp hơn: được tha thứ, kẻ đã tưởng chết sống lại, những khuôn mặt rạng rỡ. Đó là những phép lạ đáng kể nhất của Chúa Kitô. Khi chúng ta đọc Phúc âm, chúng ta thấy sự chữa lành luôn là nội tâm. Sự chữa lành thể chất chỉ là dấu hiệu. Đó là điều làm tôi ngạc nhiên. Niềm vui của họ đến từ đâu, khi họ đã phải trải qua những điều khốn khổ nhất? Tôi có thể nói về điều này hàng giờ…
Đúng, xin cha nói cho chúng tôi nghe. Cha nói có rất nhiều giây phút vui vẻ tuyệt vời cha sống mỗi ngày với các em cha chăm sóc. Làm sao giải thích niềm vui của những em đã chịu nhiều đau khổ như vậy?
Niềm vui của các em hoàn toàn chân thực. Niềm vui tuyệt vời vì nó bắt nguồn từ đau khổ. Tôi xin giải thích: các em này đã sống qua những điều khủng khiếp nhất, chúng ta không hình dung được có nỗi kinh hoàng nào mà các em chưa trải qua. Các em chia sẻ đau khổ với Chúa Kitô trên thập giá. Tôi nghĩ có sự kết hợp trong đau khổ của những em này với Chúa Kitô, nếu các em chia sẻ nỗi đau mật thiết của Ngài trên thập giá, thì các em cũng chia sẻ niềm vui, niềm hy vọng, tình yêu mà Ngài là cội nguồn. Tất cả những người đến thăm chúng tôi đều ngạc nhiên bởi niềm vui này đang ở trong các căn nhà của trung tâm chúng tôi. Không phải chúng tôi. Chúng tôi chỉ làm khung.
Matthieu Dauchez, trẻ em đường phố là thầy của chúng ta
Cách đây vài năm, chúng tôi trải qua một thử thách khủng khiếp với một em bé bị bệnh rất nặng. Em 12 tuổi và chết trong bệnh viện. Tôi ở bên cạnh em cho đến phút cuối. Em vẫn tỉnh táo đến cùng. Ngay trước khi qua đời, em nói với tôi: “Thưa cha, con khát”. Tôi hỏi bác sĩ tôi có cho em uống nước được không. Em đã qua đời ngay sau đó. Đó là lúc tôi nhận ra, em đã nói câu cuối cùng của Chúa Kitô trên thập giá. Theo cùng một cách, tôi như người lính canh đã nghe lời của Chúa Kitô, đã làm dịu cơn khát của Ngài bằng miếng bọt biển, nhưng không hiểu những gì Chúa Kitô thực sự đã nói. Nó rất tượng trưng cho những gì các em bé này trải qua. Các em có một khao khát yêu và được yêu, thật đáng kinh ngạc. Các em làm bùng nổ niềm vui này. Niềm vui và khát khao yêu và được yêu này.
Cha đã chứng kiến các em bé này, các em biết cầu nguyện cách khá tự nhiên, các em mở rộng tâm hồn…
Trong những lần tổ chức cầu nguyện cho các em, chúng tôi thấy ngay điều này. Tất nhiên, các em vẫn là những đứa trẻ, nhưng các em có cách trò chuyện kỳ diệu với Chúa. Khi một người đối diện với cái ác, và khi họ lớn lên, cái ác này là lý do tối hậu giải thích vì sao họ không muốn tin vào Chúa. Trẻ em phải đối diện với cái ác độc ác nhất, xấu xa nhất. Các em phải là những người đầu tiên nói các em không thể tin vào Chúa. Trong 24 năm, tôi chưa bao giờ nghe một em nào đặt vấn đề với Chúa. Trong những năm đầu tôi ngạc nhiên. Vì sao điều ác lại không làm cho các em mất lòng tin vào Chúa? Các em biết ngạc nhiên trước những điều nhỏ bé. Đức tin là điều hiển nhiên nhất. Chỉ cần nhìn vào một cái cây, một bông hoa, một con vật, một nụ cười. Các em đã biết nhìn điều đó, các em đúng.
Các em đã làm cho tôi suy gẫm điều này: chúng ta không thể giải thích cái ác, nó là một bí ẩn nằm ngoài chúng ta. Chúng ta đầu hàng. Và thay vì tìm cách giải thích, chúng ta phải phản ứng lại với cái ác.
Đó là một đòi hỏi theo tinh thần phúc âm. Thông qua tha thứ, một nụ cười, một niềm vui, lòng trắc ẩn, sự hiện diện với người cô đơn, không gì khác ngoài thân thiện. Đó là câu trả lời cho cái ác. Không có một em bé nào nghi ngờ điều đó. Đó là điều làm tôi ngạc nhiên. Đó là điều hiển nhiên và tự nhiên với các em: Thiên Chúa ở đó, một Thiên Chúa của tình yêu. Nhưng bây giờ chúng ta phải ứng phó với cái ác.
Khi về Pháp vài ngày, điều gì đánh động cha nhiều nhất?
Khi theo dõi tin tức ở đây và thấy những nét mặt không vui, nghi ngờ, tôi thấy triệu chứng thiếu vui vẻ. Lúc đầu Mẹ Têrêxa nói rất nhiều về khu ổ chuột và cuối đời Mẹ nói chính ở các đô thị hiện đại là nơi mẹ thấy sự khốn cùng. Tôi thấy ở đây đặc ân tôi có được, được phục vụ những đứa trẻ nhỏ bé, được đắm mình trong niềm vui mà chúng ta không tìm thấy ở những đất nước được gọi là văn minh của chúng ta. Nhưng tôi thực sự muốn trở lại chuyện khát. Nếu tình yêu được cảm nhận mãnh liệt như vậy trong các khu ổ chuột và đường phố ở Manila, đó là vì họ có một khát vọng phi thường, giống như một động cơ để lòng trắc ẩn và tình yêu làm việc. Ở phương Tây, chúng ta không còn khát khao này nữa. Tôi muốn kêu gọi các quốc gia được gọi là văn minh của chúng ta hãy thấm nhuần những lời cuối cùng của Chúa Kitô trên thập giá, để hiểu được cơn khát của Chúa Kitô, để khám phá lại cơn khát của chính mình. Chúng tôi đã làm dịu cơn khát đó. Những phụ nữ này tuyên bố họ không còn muốn có con nhân danh một chủ nghĩa nữ quyền nào đó. Nhưng không có một thiên chức nào đẹp hơn cho người nam và người nữ là thiên chức làm cha làm mẹ đó ư? Khát khao đã biến mất: Tôi không còn muốn truyền lại hay chia sẻ. Có lẽ các em bé ở Manila đang kêu gọi chúng ta, những người đến từ những quốc gia được gọi là văn minh, hãy khám phá lại cơn khát này ư?
Làm thế nào để cha cầm cự và giữ được thái độ luôn khát này?
Dù tôi không nghi ngờ gì về ơn gọi của tôi, nhưng có những lúc tôi nản lòng. Những khoảnh khắc của bóng tối: chúng tôi tự hỏi với tư cách là một nhóm, chúng tôi sẽ xoay sở như thế nào để giúp một em bé hoặc một gia đình như vậy khi chúng tôi không còn thấy một giải pháp nào. Thật khủng khiếp. Hỗ trợ đầu tiên là tình huynh đệ. Tôi không đơn độc trong khu ổ chuột Manila. Chúng tôi là một đội gồm 200 người: 99% là người Philippin, một số người Pháp. Những người tận tâm, những người ngạc nhiên mỗi ngày vì họ sống một ơn gọi. Chiều kích huynh đệ này là quan trọng. Và có một chiều kích khác quan trọng hơn, đó là đến và quỳ gối trước nhà tạm. Vì trên thực tế, bạn phải nhận thức được sự bất lực, sự vô dụng, sự tuyệt vọng của mình trước thực tế và hoàn cảnh. Đây là nơi Chúa có thể hành động. Đây không phải là khiêm tốn giả tạo. Chính vì sự kém hiệu quả của tôi, chỉ vì nó, Chúa mới có thể hành động. Tôi bị thuyết phục. Khi một người nản lòng, bị mất phương hướng, cách tốt nhất là quỳ xuống, nhận ra sự mong manh khổng lồ của mọi thứ. Đó là khi điều bất lực làm việc. Nếu tôi càng bất lực, tôi càng không biết làm, thì tốt hơn nên để cho Ngài làm. Và đó là điều tôi đã làm từ 24 năm nay. Chính Chúa đã thắp sáng lại trái tim: chúng tôi tất cả đều chiến thắng.
Marissa bị mẹ bỏ rơi trên đường phố Manila, mười năm sau em tìm lại mẹ. Linh mục Matthieu Dauchez
Marissa là cô gái trẻ bị khuyết tật tâm thần nhẹ, em ở với chúng tôi. Khi còn nhỏ, mẹ em đã bỏ em trên đường phố Manila, bà không thể chăm sóc em. Khi đó Marissa 9 tuổi. Cách đây vài tuần, một trong các nhà giáo của chúng tôi đã tìm được mẹ của em, 12 năm sau ngày em bị bỏ rơi. Chúng tôi tổ chức chuyến đi để em gặp mẹ trong khu ổ chuột. Mẹ em rơi nước mắt, vừa xúc động vừa xấu hổ. Và chính Marissa đã ôm mẹ vào lòng, siết chặt bà trong trái tim! Đó là người con hoang đàng ngược lại. Bà mẹ đã làm một chuyện kinh hoàng: bỏ con mình, chúng ta không thể tưởng tượng có chuyện nào khốn khổ hơn. Và Marissa vừa tha thứ cho mẹ, cô đã khóc vì cô biết yêu và biết mình xứng đáng được yêu. Chúng tôi là chứng nhân của những điều phi thường, những phép lạ thật sự.
Khi về Pháp, cha tổ chức một hội thảo về sức phục hồi và hy vọng. Đâu là sự khác biệt giữa hai điều này?
Khả năng phục hồi, một thuật ngữ rất gần đây, nghe hơi giống như một chữ mới. Tôi có thể hiểu khả năng phục hồi là sự phục hồi sau một sự kiện đau buồn giúp cho mình đối diện với nó. Chỉ có điều, tôi sợ nó làm lu mờ những đòi hỏi của hy vọng. Lời giải thích này không làm tôi hài lòng. Những người giúp phục hồi là những người mở cánh cửa hy vọng rất đẹp, nhưng quá chiều ngang. Nó chỉ dựa vào sức con người. Chúng tôi làm ngược lại, chúng tôi bắt đầu từ sự bất lực của chính chúng tôi. Hy vọng là phi thường: nó không phải là hy vọng nhìn vào chân trời, nó nhìn lên bầu trời. Nó dựa trên một chiến thắng: tình yêu của Chúa Kitô, Đấng đã chiến thắng. Nó cắm neo trong chiến thắng của tình yêu. Nếu hy vọng của chúng ta đặt nơi Chúa Kitô, chúng ta tin chắc nó sẽ dẫn chúng ta đến chiến thắng. Những đứa trẻ đau đớn, đúng. Chúng sống những điều khủng khiếp, chúng sẽ giữ vết thương cho đến cuối đời. Nhưng tình yêu đã chiến thắng.
Chúng ta đã mở cánh cửa hy vọng: nó được cắm neo trong cõi vĩnh hằng. Đó là điều hiển nhiên, đó là điều chắc chắn. Đó là lý do vì sao chúng tôi đặt giờ chầu vào trọng tâm, đó là điều hiệu quả nhất. Dĩ nhiên các người giúp phục hồi có mặt ở khắp nơi trong trung tâm của chúng tôi, nhưng điều duy nhất sẽ mở ra cho các em cánh cửa hy vọng là tấm lòng trung thành với Chúa Giêsu Kitô. Và điều này tôi chỉ chiêm niệm mỗi ngày. Chúng tôi thực sự không thể nói thành lời… Tôi sợ phản bội vẻ đẹp của những gì các trẻ em truyền lại cho tôi, tôi không bao giờ có thể diễn tả hết vẻ đẹp của những gì tôi nhìn thấy. Phải đến mà xem!
Marta An Nguyễn dịch
Bài đọc thêm: Đức tin mạnh hơn cái ác
Vụ giám mục Santier, sốc và kinh tởm
Vụ giám mục Santier, sốc và kinh tởm
Giáo hội Pháp bị sốc sau khi những hành vi lạm dụng của cựu giám mục giáo phận Créteil được tiết lộ.
la-croix.com, Jérôme Chapuis, Giám đốc biên tập báo La Croix, 2022-10-17
Dứt khoát phải có một trái tim vững mạnh để không thất vọng vì Giáo hội khi Giáo hội có một bộ mặt như vậy. Vì trong trường hợp này, không có một cái gì chạy được. Các sự việc rất đê hèn. Công cụ hóa bí tích hòa giải, một linh mục bạo hành hai thanh niên. Sau đó, qua hai lần, ông nhận chức giám mục, ông giữ chức vụ trong hai mươi năm trước khi từ bỏ vì “lý do sức khỏe” và “những khó khăn khác”.
Hình phạt giáo luật chỉ áp dụng với giám mục Santier vào tháng 10 năm 2021, nhưng vẫn được giữ bí mật trong một năm, với lý do “các nạn nhân không muốn câu chuyện của họ bị đưa ra công khai”. Có phải là không thể tiết lộ sự thật trong khi vẫn giữ kín danh tính của họ? Thật không may, chúng ta có thể thấy rõ ràng, thể chế, vì hèn nhát, vì chủ nghĩa pháp lý hay tính toán, một lần nữa đã mắc sai lầm khi thêm vào vụ bê bối là sự im lặng.
Điều này tạo điếm nhục cho vô số trường hợp và làm cho giáo dân, các nam nữ tu sĩ, linh mục rơi vào rối loạn. Những lời chứng phản tác dụng như vậy để lại những dấu vết sâu đậm. Điều khủng khiếp nhất là vô hình: đó là những bước chân âm thầm kín đáo của những người rời bỏ Giáo hội vì kinh tởm trước sự phản bội của các giáo sĩ. Vẫn còn đó Thượng hội đồng, nhằm mục đích biến đổi đời sống Giáo hội. Nhưng để nó có ý nghĩa, chúng ta không thể bằng lòng với một cuộc cải cách cấu trúc, mà không thay đổi mối quan hệ với sự thật.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch























Đức Phanxicô trong buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư 19-10-2022 | © Vatican Medi



