Home Blog Page 411

Vụ giám mục Santier: “Giám mục chúng tôi cần những cái nhìn có hiệu năng để khuyến khích chúng tôi, ảnh hưởng đến chúng tôi, sửa chữa chúng tôi”

Vụ giám mục Santier: “Giám mục chúng tôi cần những cái nhìn có hiệu năng để khuyến khích chúng tôi, ảnh hưởng đến chúng tôi, sửa chữa chúng tôi”

la-croix.com, tổng giám mục Pascal Wintzer, giáo phận Poitiers, 2022-10-24

 

Tổng giám mục Wintzer giáo phận Poitiers

Tổng giám mục Wintzer giáo phận Poitiers xem lại vụ giám mục Santier, ngài lấy làm tiếc cho sự im lặng của chính mình và của các giám mục khác, ngài mong trong Giáo hội, các giám mục có được những người có khả năng khác ở chung quanh để không ở một mình khi phải xử lý các trường hợp hợp xâm hại tình dục nghiêm trọng như thế này.

Tháng 2 năm 2019, khi các vụ tiết lộ về ấu dâm và bạo lực tình dục trong Giáo hội công giáo càng ngày càng nhiều, tôi đã nói về một Mùa Chay bốn mươi năm. Đôi khi chúng ta thích sai lầm hơn và điều này thường xảy ra. Nhưng đôi khi chúng ta lại hối tiếc khi nhận ra mình nên đúng. Mùa Chay vẫn tiếp tục. Đó là những năm tháng các nạn nhân phải chịu đựng rất lâu sau khi các tội ác, các tội đã phạm, đó là bốn mươi năm cần thiết để thay đổi các phương thức đã cho phép bạo lực tiếp tục mãi mãi.

Nhận thức chưa làm xong

Hơn một năm sau báo cáo của ủy ban Ciase, “vụ Santier” đáng sợ cho thấy nhiều nhận thức vẫn chưa làm xong và tôi xin nhận phần trách nhiệm của tôi. Thực sự tôi đã có nghe đơn kiện chống giám mục liên quan đến thời ông còn là linh mục, ông đã bị buộc tội lạm dụng tình dục và tôi hiểu bản chất này trong những ngày gần đây. Hồi đó tôi đã không tìm cách tìm hiểu thêm… Và điều này cùng xảy ra khi ông kết thúc trách vụ vì lý do tuổi tác. Từ đó rút ra bài học về vụ tai tiếng này.

Dù những gì đã biết, đã im lặng, tình trạng này cho thấy dấu hiệu nghiêm trọng của rối loạn chức năng. Nó cho thấy không một thể chế nào tự chính nó là quan tòa cho chính mình. Không cần phải cậy nhanh chóng đến Tin Mừng, bài đọc chúa nhật tuần này cho thấy ai cũng có thể có khuynh hướng ảo tưởng về bản thân, điều này không có gì sai trái. Chính người pharisêu tự cho mình là công chính và người thu thuế tự hạ mình. Điều cần thiết là phải có cái nhìn thứ ba để mỗi người thấy được sự thật của mình.

Vụ giám mục Michel Santier đặt ra vấn đề về tính minh bạch trong Giáo hội

Vì thế trong đời sống của một thể chế, trong Giáo hội công giáo, trong xã hội, cái nhìn thứ ba này được đặt trước các thủ tục và thẩm quyền. Trong trường hợp này, chính báo chí đã cung cấp cái nhìn thứ ba. Tôi nhận thấy đây là hai cách thông tin khác nhau về thế giới, về Giáo hội đã được thể hiện qua các báo Gia đình Kitô giáo Golias. Đó  là vinh dự của họ khi họ vượt ra khỏi các dòng biên tập để lên tiếng cho nhân phẩm con người khi nhân phẩm bị chạm.

Xin đừng để chúng tôi một mình!

Chúng ta sẽ thấy các nhóm làm việc được thành lập sau khi có báo cáo của ủy ban Ciase sẽ nói gì ở Hội nghị các Giám mục ở Lộ Đức tháng 11 này, một số nhóm sẽ chú ý đến việc đánh giá, xác minh, các cơ quan bên thứ ba. Không rút các giám mục khỏi những gì là trọng tâm mục vụ của họ, phục vụ Tin Mừng và con người, chúng ta không nên để họ một mình; chúng ta cần có những con mắt có khả năng, am tường, dũng cảm để khuyến khích, tác động, sửa sai họ.

Vụ giám mục Santier: im lặng là lạm dụng lòng tin

Nếu sự việc được chia sẻ trong kín đáo, với một nhóm người không phải là giám mục, tôi nghĩ sự im lặng sẽ không đặt ra, chúng tôi đã được kêu gọi đừng dính vào. Ở đây không phải là vấn đề “thông tin”, dù tính chất của những người phụ trách các lĩnh vực này là gì, nhưng những người truyền thông đều cải thiện và có lợi, phục vụ một thể chế, kể cả Giáo hội, đều có nghĩa vụ làm như vậy, không ở trong tình trạng đối chấp với nó.

Các mục vụ phục vụ cộng đồng

Thật đáng tiếc khi tôi phải viết những dòng này; lẽ ra chúng ta đã hành động cách khác, chúng sẽ không cần thiết, trên hết, chúng ta đã không nuôi dưỡng đau khổ, tức giận, phản kháng. Nhân danh chính tôi, tôi muốn nói trách vụ của tôi, tôi có thể sẵn sàng từ bỏ; tôi là một giám mục vì được kêu gọi chứ không vì mong muốn; tuy nhiên, tôi cố gắng hết sức để tôn trọng trách vụ mà tôi đã chấp nhận. Nhưng, nếu bằng hành động, lời nói, sự im lặng mà tôi là chướng ngại, tôi không nói với Giáo hội nhưng với Tin Mừng, thì tốt hơn tôi nên ngừng các chức vụ của tôi.

Các giám mục Pháp lúng túng về vụ giám mục Santier

Điều này có thể đụng đến một khó khăn khác, tôi đề cập đến nó không phải để làm dịu những gì tôi vừa viết, nhưng để giúp được dễ dàng hơn. Hiện tại, tôi giữ chức vụ của tôi do giáo hoàng giao phó và  chính ngài là người có thể cất chức vụ của tôi. Cũng cần có những cách để giải thích về sứ mệnh của ngài với Giáo hội mà chúng ta phục vụ. Không phải để tùy thuộc vào bất kỳ ai tùy tiện nào, nhưng để nhường vị trí cho cộng đồng mà trước hết là liên quan đến các bộ đang phục vụ cho cộng đồng.

Cuối cùng, tôi xin ghi nhận một vấn đề nghiêm túc khác. Dù khi một linh mục bị kết án về các tội phạm hoặc tội tình dục đã thụ án, thì họ không còn là mối nguy hiểm, không còn bị cất chức thánh, nhưng giáo dân không chịu đựng được khi thấy linh mục này dâng thánh lễ. Không thể lật qua trang được, với các nạn nhân là không thể, bạo lực tác động trên họ, họ đã bị tra tấn, bị hành hạ không ngừng. Vậy thì chúng ta có nên nghĩ những hành động thuộc bản chất này là không còn phù hợp để làm linh mục không? Có lẽ. Một mặt là, sống đức tin của mình, cầu nguyện, dự Thánh Thể dù đã phạm tội trọng, mặt khác là cử hành Thánh Thể. Đây không phải là việc giữ đạo riêng tư nhưng là hành động công khai nhằm xây dựng cộng đoàn, do người cử hành Thánh Thể dẫn dắt.

Các giám mục Pháp lúng túng về vụ giám mục Santier

Thiện chí thôi chưa đủ, đôi khi còn lười biếng. “Vụ Santier”, đáng tiếc và đáng trách, có thể là một cú sốc dẫn đến việc chuyển từ ý định sang hành động.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Các giám mục Pháp lúng túng về vụ giám mục Santier

Các nữ tu bị lạm dụng ở châu Phi: “Mối quan hệ không tương xứng với linh mục duy trì một hình thức lệ thuộc”

Các nữ tu bị lạm dụng ở châu Phi: “Mối quan hệ không tương xứng với linh mục duy trì một hình thức lệ thuộc”

Phỏng vấn nữ tu Togo Mary Lembo, nhà trị liệu tâm lý và nhà huấn luyện cho các chủng viện và nhà dòng. Sơ vừa công bố luận án bảo vệ năm 2019, một nghiên cứu chưa từng có về các nữ tu bị lạm dụng ở châu Phi, phá vỡ một cấm kỵ dày đặc.

lavie.fr, Youna Rivallain, 2022-10-18

Sơ Mary Lembo, nữ tu Togo thuộc Dòng Nữ tu Thánh Catarina thành Alexandria.

Là nữ tu Dòng Thánh Catarina thành Alexandria, sơ Mary Lembo làm việc tại trung tâm bảo vệ trẻ vị thành niên tại Giáo hoàng Học viện Gregorian, Rôma. Và chính tại Học viện này năm 2019 sơ đã bảo vệ luận án về các nữ tu bị các linh mục lạm dụng. Luận án của sơ xoáy vào vết thương đang làm băng hoại Giáo hội châu Phi: Các nữ tu bị lạm dụng ở châu Phi, nói lên sự thật. Một nghiên cứu chưa từng xuất bản  (Religieuses abusées en Afrique, faire la vérité. Une étude inédite. Mary Lembo. Nxb. Salvator).

Trước đây, luận án của sơ được xem là #MeToo của các nữ tu châu Phi. Sơ có nhận thấy sơ trong mô tả này không?

Sơ Mary Lembo: Không hẳn vậy. Hơn cả lời khẳng định của những người liên quan, công việc này xuất phát từ việc tôi quan sát tại hiện trường, với tư cách là nhà giáo, người huấn luyện cho các nữ tu và chủng sinh trong vấn đề trưởng thành tình cảm và tình dục, nhưng tôi cũng là nhà trị liệu tâm lý. Chính trong bối cảnh đào tạo, lắng nghe này, tôi có được những chứng từ làm cho tôi dần dần nhận ra, có điều gì đó không ổn ở đây. Các nữ tu tâm sự với tôi họ có mối quan hệ với một người đàn ông, nhưng đó không phải là điều họ muốn và họ không thể thoát ra khỏi tình trạng này.

Tôi cố gắng tìm hiểu lý do. Tôi nói với họ: “Nếu bạn là nữ tu, bạn nói không! Và nếu có lệch lạc, bạn phải chấm dứt tình trạng này, bạn đứng dậy và tiến về phía trước!” Nhưng tôi hiểu khó khăn của họ sâu xa hơn, họ là nạn nhân của các linh mục đã tấn công tình dục, hãm hiếp họ trong bối cảnh quan hệ mục vụ. Đây là điểm khởi đầu nghiên cứu của tôi.

Châu Phi gặp khó khăn trong việc báo cáo lạm dụng tình dục trong Giáo hội

Khi tôi được mời về Rôma làm việc tại trung tâm bảo vệ trẻ vị thành niên của Giáo hội, và khi được cấp học bổng để đào sâu nghiên cứu, tôi quyết định nghiên cứu trường hợp các phụ nữ thánh hiến bị các linh mục lạm dụng. Vấn đề này khá khác và ít được công nhận hơn so với vấn đề ấu dâm. Tôi muốn nghiên cứu vấn đề ở góc độ định tính, để hiểu các động lực làm cho những hành vi lạm dụng này có thể xảy ra để giúp đào tạo, đồng hành với các phụ nữ thánh hiến, giúp họ nhận ra những hành vi lạm dụng và không bị giam hãm trong mối quan hệ kiểm soát này.

Vì lạm dụng một phần có thể do thiếu hiểu biết, do các nữ tu ngây ngô, họ không bao giờ nghĩ họ bị một linh mục gạ gẫm khi họ làm mục vụ… và họ không đủ sức để nói ‘không’. Điều quan trọng là phải đào tạo để họ có thể nói ‘không’, cho họ khí cụ để họ tự vệ.

Sơ có bị sốc, bị bất ngờ trước một số tình huống nào đó không?

Cuộc phỏng vấn đầu tiên làm tôi mất ngủ. Đó là một phụ nữ tận hiến mà tôi gọi là Becky. Sơ đã trải qua những tình huống kinh hoàng không tên: bị một linh mục cộng tác hãm hiếp nhiều lần, ông ngăn sơ dùng biện pháp tránh thai và buộc sơ phải phá thai nhiều lần. Cuối cùng sơ rời cộng đoàn. Khi tôi nghe chứng từ này, tôi đang bắt đầu nghiên cứu và tôi do dự khi theo đuổi: Tôi lo sợ cho đời sống của tôi, cho cộng đoàn của tôi, tôi muốn làm dịu quan điểm của tôi. Nghe Becky nói, tôi nhận ra tôi không thể im lặng. Tôi  phải tiếp tục.

Ở Phi châu, các nữ tu là nạn nhân của luật im lặng

Thật không dễ dàng để thu thập lời chứng của các nữ tu chấp nhận nói chuyện. Một số sợ bị trả thù, sợ cho gia đình, cho chính bản thân… Họ sợ họ sẽ bị buộc tội phản bội Giáo hội, đã dụ dỗ các linh mục… Việc làm chứng cho những vụ tấn công và hãm hiếp mà họ phải chịu là điều vô cùng khó khăn, vì trong đa số trường hợp, người ta không tin họ.

Sơ có một ý tưởng nào về tầm mức rộng lớn của hiện tượng các linh mục tấn công tình dục và hãm hiếp các nữ tu ở Phi châu không?

Thật rắc rối khi tự giới thiệu mình là nhà nghiên cứu, phải đi tìm số liệu với các nhóm lớn, các thống kê… Nghiên cứu mang tính định tính tôi chỉ tìm thấy ở Mỹ năm 1998. Tôi không có con số toàn cầu, vì đó không phải là mục đích của tôi: tôi muốn, từ những lời khai, tôi đi sâu hơn để hiểu cơ chế của lạm dụng, những tình huống mà các nữ tu vướng vào và vì sao họ khó thoát ra khỏi luôn trong mục đích cần thiết cho đào tạo.

Lạm dụng tình dục trong Giáo hội: Bây giờ ít người nghĩ rằng vấn đề này không có ở Phi châu

Có một loại hành động của các linh mục lạm dụng không?

Thường thường khi một cô gái trẻ muốn tìm hiểu đời tu, họ thường xin một linh mục tháp tùng trên con đường thiêng liêng. Họ mở lòng ra với linh mục, tâm sự nỗi sợ, nỗi do dự, những cám dỗ và khó khăn của một con người, một phụ nữ. Họ tin tưởng hoàn toàn vào linh mục! Chúng ta nên biết các cô bước vào đời tu khi còn rất trẻ, có khi trước 18 tuổi, khi thể xác họ đã là phụ nữ.

Trong bối cảnh quan hệ mục vụ này, sau đó có thể có sự chuyển đổi của nữ tu hoặc của tập sinh sang linh mục họ ngưỡng mộ, người lắng nghe, hỗ trợ, nâng đỡ họ trong những lúc khó khăn… Điều này đặt họ vào tình trạng mong manh. Vì nếu linh mục đi bước trước, câu trả lời của họ sẽ hoang mang. Theo chứng từ tôi thu thập được, chính những lúc này là lúc linh mục lợi dụng họ. Trong mối quan hệ không tương xứng này, có một hình thức lệ thuộc (lệ thuộc thiêng liêng, lệ thuộc vào tình huynh đệ, tình cảm và đôi khi lệ thuộc cả tài chính, vì cũng có thể có trường hợp linh mục cho tiền cho một số cô gái trẻ đang được đào tạo, khi đó sự đồng ý không có giá trị.

Tại sao lạm dụng tình dục hầu hết không được báo cáo ở Châu Phi

Lạm dụng cũng có thể xảy ra trong bối cảnh mục vụ, khi linh mục và nữ tu làm việc trong một chương trình chung như trong ban tuyên úy. Họ phụ thuộc vào linh mục để được giúp đỡ, tổ chức sinh hoạt, đi nhờ xe đến những nơi xa xôi nào đó… Người phụ nữ thánh hiến cảm thấy mình mắc nợ linh mục.

Trong một số chứng từ, có vẻ như linh mục có thói quen lạm dụng nữ tu, không có việc lật ngược lại. Sơ có cảm thấy như vậy không?

Tôi cũng cảm thấy như vậy… Đặc biệt là vì một số người làm chứng nói họ không phải là “người duy nhất”, linh mục này cũng lạm dụng một số nữ tu khác trong cùng cộng đoàn. Một số rất lo lắng cho những người trẻ được linh mục đào tạo, ông cũng sẽ làm như vậy với họ… Nhưng, nghiên cứu của tôi chỉ mang tính định tính trên khía cạnh hệ thống có thể có của nó, tôi không đủ tư cách để nói về tầm mức rộng lớn hiện tượng các nữ tu bị lạm dụng ở châu Phi. Chúng tôi sẽ phải nghiên cứu về số lượng, thống kê.

Sơ nói văn hóa tôn giáo ở châu Phi xem linh mục là nhân vật thánh, không thể sai lầm. Sơ có nghĩ điều này có thể làm dễ dàng cho việc lạm dụng không?

Một phần. Người Phi châu rất sùng đạo. Linh mục có một địa vị xã hội quyền lực, được đánh giá cao, được ngưỡng mộ, được xem là thánh thiện, không thể sai lầm. Lời của linh mục là lời của Chúa, không bao giờ sai, linh mục là Chúa Kitô trên Trái đất. Giáo dân khó thấy khía cạnh đen tối của linh mục. Trong tất cả những tình huống lạm dụng này, chỉ có một nữ tu được cộng đoàn của sơ hỗ trợ, những người khác phải tự đối diện với những câu hỏi của những người chung quanh về mối quan hệ: vì sao nữ tu đó lại thân thiết với linh mục? Nhưng không một ai, không một ai dám đối đầu với những kẻ tấn công mình.

Nhiều lần có một nữ tu nói rằng, linh mục nói với họ bậc sống độc thân chức thánh “chỉ” có nghĩa là không thể kết hôn, nhưng có thể có quan hệ tình dục. Sơ có nghĩ các linh mục này đã hiểu sai về đời sống độc thân của linh mục… Hay đó chỉ là do xấu hổ lương tâm và một hình thức thao túng nào đó không?

Tôi nghĩ đó là hình thức thao túng thì đúng hơn. Như thế cho thấy các đào tạo trong chủng viện là quá lý thuyết và không rõ ràng đủ. Đa số thanh niên vào chủng viện khi họ đậu xong tú tài ở tuổi 17 hoặc 18, nghĩa là trong giai đoạn trưởng thành đầy đủ về giới tính. Họ bị khép kín trong chủng viện chín tháng một năm, bị cấm tiếp xúc với phụ nữ…

Và sau đó họ đi thực tập ở giáo xứ, nơi họ tiếp xúc với phụ nữ mỗi ngày, khi đã ở vị trí có thẩm quyền, được giáo dân tôn trọng, họ được đặt trên bệ! Quản lý tất cả những chuyện này không dễ dàng với tôi. Đó là lý do tôi đòi hỏi phải được đào tạo thực tế hơn, hướng dẫn lành mạnh hơn cho đời sống giáo xứ. Ở Phi châu, chúng tôi rất thân tình, chúng tôi gọi nhau là anh, là chị, là em của nhau… Tôi gọi “cha” những người bằng tuổi cha tôi. Nhưng điều này có thể tạo tạo nhầm lẫn! Linh mục không phải là anh của bạn, cũng không phải là cha của bạn, linh mục là người đồng hành!

Mặt khác, tôi nhấn mạnh vào sự cần thiết phải đào tạo về mặt thần học cho các nữ tu tương lai ở Phi châu. Các chủng sinh học thần học tám năm, trong khi các nữ tu chỉ học những gì cơ bản về kinh thánh và thần học. Điều này duy trì chủ nghĩa giáo quyền nơi các nữ tu, họ đến với các linh mục, người được học nhiều hơn… và những gì linh mục nói thì chính xác hơn. Nhưng không đúng sự thật! Các nữ tu phải được phép phát triển tinh thần phản biện hơn.

Như thế theo sơ, sự non nớt về tình dục và tình cảm của linh mục là lý do lạm dụng của họ?

Nói chung sự chưa trưởng thành là một trong những yếu tố sâu xa. Những kẻ đi tấn công lợi dụng quyền mà theo lẽ, là linh mục họ phải dùng để phục vụ người khác. Đó là dấu hiệu của sự chưa trưởng thành. Thông thường, bạo lực tình dục của các tu sĩ không phát sinh trực tiếp từ mối quan hệ xung đột với tình dục, nhưng là một cách thống trị người khác, sử dụng người khác để thỏa mãn những nhu cầu mà họ không nhận thức đầy đủ.

Vụ giám mục Santier: im lặng là lạm dụng lòng tin

Sơ đã đọc các khuyến nghị của báo cáo Sauvé? Trong số 45 đề xuất, ủy ban đề cập đến hỗ trợ tâm lý cho các chủng sinh và nên đưa phụ nữ vào giảng dạy trong các chủng viện. Sơ nghĩ sao?

Tôi đã đọc. Nhưng có một khoảng cách giữa các khuyến nghị chúng ta muốn áp dụng và thực tế ở châu Phi. Ở châu Phi, đa số các chủng viện ở tầm vóc quốc gia. Trong chủng viện, 4, 5 hoặc 6 giáo sư dạy khoảng 100 đến 300 chủng sinh. Làm sao chúng ta có thế tháp tùng từng người? Phụ nữ, dù sống thế tục hay thánh hiến cũng nên được đào tạo để dạy trong các chủng viện. Nhưng họ rất ít và thường quá tải so với yêu cầu: một chủng viện không có đủ phương tiện để trả lương cho các giáo sư này.

Vấn đề các linh mục tấn công tình dục và hãm hiếp các nữ tu có được hệ thống giáo quyền công giáo châu Phi biết đến không?

Có, nhưng rất khó để đưa ra một câu trả lời rõ ràng vào thời điểm này. Chúng tôi chỉ mới bắt đầu hành trình. Thực tế khi nói về nó, để hiểu được các động lực cơ bản, cho phép nhận thức về hệ thống cấp bậc, đặc biệt là về tín hữu nói chung. Tất cả chúng ta đều dễ bị tổn thương, tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp bởi lạm dụng.

Là phụ nữ, có đạo và đi tu, sơ trải nghiệm như thế nào khi làm việc với vấn đề này?

Đó là cuộc chiến và khi nào nó cũng là cuộc chiến. Chúa kêu gọi chúng tôi hiến đời mình cho người khác và trong công việc, dần dần tôi hiểu đó là lời kêu gọi tôi, với tư cách là người nghiên cứu, người có đạo và là phụ nữ thánh hiến. Tôi tin vào sự cộng tác của người nam, người nữ trong Giáo hội để phục vụ người khác. Đó là lý do vì sao tôi càng đau khổ hơn khi thấy những giá trị này bị hoen ố vì các phản chứng từ. Điều tra lạm dụng là một đấu tranh, rất khó, nhưng điều đó có nghĩa là tôi phải im lặng ư? Chúng ta phải nói về nó để thay đổi, để biến đổi, để tiến lên phía trước. Sự thật sẽ giải phóng chúng ta.

Các nữ tu bị lạm dụng ở châu Phi, nói lên sự thật. Một nghiên cứu chưa từng xuất bản  (Religieuses abusées en Afrique, faire la vérité. Une étude inédite. Mary Lembo. Nxb. Salvator).

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Ở châu Phi, các nữ tu bị lạm dụng sống trong sợ hãi

Một trên mười nữ tu Mỹ-Latinh bị một linh mục lạm dụng

Russell Crowe và các cận vệ Thụy Sĩ

Russell Crowe và các cận vệ Thụy Sĩ

la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2022-10-22

Buổi chiếu phim đón anh hùng Gladiator và các cận vệ Thụy Sĩ ở Vatican. Thứ bảy hàng tuần, đặc phái viên thường trực của báo La Croix đưa quý độc giả vào hậu trường Vatican, quốc gia nhỏ nhất thế giới này.

Đôi khi, ở Vatican, có những khoảnh khắc không thể tưởng tượng được, hoặc ít nhất là những cảnh mà quý vị không bao giờ nghĩ mình sẽ chứng kiến. Điều này đã diễn ra tại phòng chiếu phim ở Vatican. Một nhà nguyện cũ được sửa lại thành phòng chiếu phim, với ghế bành êm ái và màn hình khổng lồ, tại đây thường tổ chức các buổi chiếu phim.

Phim trong ngày: The Greatest Beer Run Ever (Cuộc chạy bia tuyệt vời nhất từ ​​trước đến nay), do Peter Farrelly đạo diễn. Và khách mời: Russel Crowe, một trong những diễn viên của bộ phim tiểu sử Mỹ diễn ra trong thời chiến tranh Việt Nam.

 “Xin vui lòng đừng hôn nhẫn Đức Thánh Cha”

Làm thế nào mà anh hùng của Gladiator lại ở Vatican, chụp selfie với các cận vệ trẻ người Thụy Sĩ, mặc vest đen và thắt cà vạt, nhưng lại gần như làm bộ không ngạc nhiên khi gặp ngôi sao Tân Tây Lan. Ông được linh mục người Mỹ Andrew Small làm việc cho Vatican mời, linh mục là  thư ký của Ủy ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên. Thực sự ông mời nhà truyền giáo Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội này đóng vai linh mục khu phố…

Cốt truyện của phim kể về một thanh niên ở ngoại ô New York quyết định mang bia đến cho bạn bè đang chiến đấu ở Việt Nam, câu chuyện chẳng liên quan gì đến Vatican. Nhưng sức hấp dẫn của quốc gia nhỏ nhất thế giới này ở nơi những cuộc gặp ngẫu nhiên, nơi một ngôi sao Hollywood chụp một loạt ảnh selfie với các cận vệ giáo hoàng, trước khi vào Đền thờ Thánh Phêrô ngắm bức La Pietà nổi tiếng của Michelangelo.

Ngôi sao Russell Crowe đến Campidoglio

Marta An Nguyễn dịch

Tổng giám mục Pierre d’Ornellas: “Tôi mơ Đức Phanxicô sẽ mời Tổng thống Macron đến thăm một đơn vị chăm sóc xoa dịu”

Tổng giám mục Pierre d’Ornellas: “Tôi mơ Đức Phanxicô sẽ mời Tổng thống Macron đến thăm một đơn vị chăm sóc xoa dịu”

Tổng thống Emmanuel Macron sẽ đến Rôma ngày 23 và 24 tháng 10, tổng giám mục giáo phận Rennes, người đứng đầu Ủy ban đạo đức sinh học của Hội đồng Giám mục Pháp, hy vọng chủ đề về cuối đời sẽ thảo luận khi Đức Phanxicô tiếp tổng thống Emmanuel Macron.

lavie.fr, Marie-Lucile Kubacki, Rôma, 2022-10-21

Tổng giám mục D’Ornellas trong một hội nghị về đạo đức sinh học tại Viện Bernardins ở Paris 16 tháng 9 năm 2019. François Guillot / AFP FRANÇOIS GUILLOT / AFP

Trong chuyến hành hương Rôma với phái đoàn giáo phận từ ngày 17 đến ngày 22 tháng 10, tổng giám mục Pierre d’Ornellas, giáo phận Rennes, người đứng đầu Ủy ban đạo đức sinh học của Hội đồng Giám mục Pháp (CEF) đã có vài lời với Đức Phanxicô cuối buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư 19 tháng 10 về đại hội công dân và cuộc tranh luận về giai đoạn cuối đời ở Pháp. Ngài nhìn lại cuộc gặp ngắn này và báo động về các vấn đề và nguy cơ thay đổi luật pháp.

Cha đã chào giáo hoàng sau buổi tiếp kiến ngày 19 tháng 10: cha có thể nói với ngài về mối quan tâm của cha về cuộc tranh luận về cuối đời sẽ mở ra ở Pháp không?

Tổng giám mục Pierre d’Ornellas: Đó là cuối buổi tiếp kiến chung khi hàng chục người sắp hàng tiếp nhau để chào ngài, vì vậy thời gian trao đổi rất ngắn. Tôi chỉ có thể nói được một câu: “Thưa Đức Thánh Cha, ở Pháp chúng tôi đang tranh luận về cuối  đời, chúng tôi phải tôn trọng sự sống của mỗi người. Ngài gật đầu đồng ý và vẫy tay khích lệ. Theo tôi, ngài đã được thông báo về những gì đang xảy ra.” (Thật ra vào ngày thứ sáu 21 tháng 10, trước một nhóm dân biểu   miền Bắc nước Pháp đến gặp ngài, ngài cũng đã đề cập đến việc chăm sóc xoa dịu và cảnh báo chống lại một đạo luật hợp pháp hóa an tử).

Tự tử nhờ hỗ trợ, bước ngoặt chiến lược của Vatican với đạo đức sinh học

Ngày thứ hai tổng thống sẽ gặp giáo hoàng. Cha mơ họ sẽ nói gì với nhau?

Tôi mơ thấy Đức Phanxicô và tổng thống Emmanuel Macron dành thì giờ để thảo luận về chủ đề này. Tôi mơ giáo hoàng sẽ mời tổng thống ở lại phòng chăm sóc xoa dịu, để ông có thời gian lắng nghe nhóm chăm sóc và nắm tay từng người đang ở giai đoạn cuối đời. Ông sẽ khám phá sự phong phú của nhân loại, không phải là một loại start-up khởi xướng một công trình, nhưng là một kho tàng của trí tuệ. Các nhóm chăm sóc này không có lý thuyết cao siêu nhưng trong thực tế, họ có một khôn ngoan phi thường, dù họ cũng mang trong lòng khía cạnh dễ tổn thương của mình.

Không phải dễ để tháp tùng người nào đó trong vài ngày cho đến khi họ qua đời. Nhóm chăm sóc không che giấu cảm xúc của họ, họ đón nhận, họ chấp nhận và họ cố gắng hiểu cảm xúc của chính mình, của bệnh nhân và của gia đình. Có một phẩm chất của con người nơi những chi tiết nhỏ nhất mới là quan trọng. Đó luôn là đồng hành cho cả một đời, dù đoạn đường này ngắn và khiêm hèn. Một nguyên tắc chú ý cao cả: “Tôi sẽ không bao giờ bỏ bạn.” Một ngày nọ, tôi nói câu này với một người lớn tuổi, họ nắm tay tôi, trong ánh mắt sâu thẳm, họ hỏi tôi: “Có thật không?” Khi đó tôi mời một cô trợ tá chăm sóc đến, cô lặp lại câu này với bà. Sau đó bà yên lòng, thoải mái, rất tự tin như thể cuối cùng bà hiểu mình có thể tin tưởng. Đó không phải cuộc gặp giữa một người am hiểu và người yếu đuối, nhưng giữa hai người cùng mong manh trong nét đẹp của một tình người đầy nhân ái và có ý nghĩa.

Với việc chăm sóc xoa dịu, chúng ta chạm đến nét đẹp của con người. Liệu Nhà nước có nâng đỡ nét đẹp này để tháp tùng đến cùng không? Tôi hy vọng như vậy và tôi hy vọng Đức Phanxicô, người rất nhạy cảm với văn hóa gặp gỡ, sẽ tìm ra lời để nói điều này với tổng thống Macron.

Cha nghĩ gì về cách tranh luận sẽ được tiến hành ở Pháp?

Tôi đã gặp bà Agnès Firmin Le Bodo, Bộ trưởng Y tế, và tôi nói với bà, cuộc tranh luận này nên làm theo tinh thần dân chủ, đặc biệt là khi nền dân chủ không được thực hiện tốt ở Pháp. Tuy nhiên, để cuộc tranh luận này thực sự mang tính dân chủ, những người phụ trách nó phải tính đến tất cả các khía cạnh của vấn đề, và họ không được chỉ là những người hay những thể chế (kinh tế, xã hội và môi trường…), những người làm tất cả để người khác biết mình ủng hộ an tử. Và đã làm dấy lên một mối nghi ngờ rất chính đáng.

Tôi hy vọng tất cả không phải là điều đã tính trước. Ước mong của tôi là chúng ta không chỉ có thể lắng nghe tranh luận và lý luận mà còn có thể đồng ý với nhau. Tôi nói về “đối thoại” với bà Bộ trưởng, không phải thảo luận vì nó bao gồm việc lắng nghe lẫn nhau, không tuyên bố nắm giữ sự thật, nhưng cùng nhau tiến lên phía trước để tìm ra những gì tốt nhất cho lợi ích chung của mọi người, không chỉ dành cho một nhóm nhỏ.

 Và cha có cảm thấy cha được… nghe không?

Bộ trưởng nêu ra ba chủ đề. Bà nói rất nhiều về phát triển chăm sóc xoa dịu, về khủng hoảng Covid-19, và khắc phục tình trạng của những người chết một mình, không có người đi cùng. Nhưng có một điều làm tôi ngạc nhiên, bà giữ im lặng ở câu hỏi về quyền tự do cá nhân của những người yêu cầu an tử. Như thể còn điều gì đó không nói lên được, một nỗi khó chịu. Tôi rút ra kết luận, đặc biệt chúng ta phải dám nói về chủ đề này, bằng cách xem xét vấn đề đạo đức một cách sâu đậm, không chỉ theo chủ nghĩa thực dụng, cảm tính cá nhân hoặc các trường hợp cụ thể.

Những người ủng hộ an tử và tự tử nhờ hỗ trợ thường trích dẫn các trường hợp cụ thể về tình huống đau khổ tột cùng để ủng hộ lập trường của họ…

Đúng vậy. Họ tạo ảnh hưởng trên cảm xúc tập thể, điều mà cựu bộ trưởng Tư pháp Robert Badinter tố cáo. Tôi cũng biết về những trường hợp cụ thể do những người chăm sóc kể lại, họ nêu lên ví dụ của những người đến để xin được chết, họ nghe lý do xin chết, sau đó người này yên tâm khi biết mình sẽ kết thúc cuộc đời cách bình yên và mong muốn được sống trọn vẹn thời gian còn lại của mình. Chúng tôi cũng đã nghe những tình huống cụ thể này! Tôi muốn nói thêm một điểm: trong số các ví dụ thường được trích dẫn để biện minh cho an tử, nhiều người quan tâm đến những người, như bà Chantal Sébire (bị một khối u không thể chữa khỏi và phản đối việc tự tử, bà đã xin Nhà nước cho an tử năm 2008), bà từ chối chăm sóc xoa dịu.

Đức Phanxicô: “Không thể yêu cầu người chăm sóc giết bệnh nhân của họ”

Triết lý của luật chăm sóc trong xã hội chúng ta là gì?

Luật ngày 4 tháng 3 năm 2002 quy định, chính bệnh nhân là người quyết định “với” các chuyên gia y tế về việc chăm sóc. Điều này đánh dấu một bước ngoặt, theo nghĩa là sự cân bằng được tìm thấy trong mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân.

Vì “với” có nghĩa là “hợp tác trị liệu” theo công thức cao cả của triết gia Paul Ricoeur. Và sau đó là thực hành tính tập thể. Bác sĩ không còn bị cô lập, ông cùng với người khác đưa ra quyết định, không phải để áp dụng đúng quy trình pháp lý, nhưng để cùng nhau phân biệt điều gì là tốt nhất cho bệnh nhân, cho sức khỏe của họ. Đây là trách nhiệm lớn lao của những người chăm sóc.

Tôi tham dự các cuộc họp nhóm, với bác sĩ, với y tá, với ban điều hành, với người chăm sóc, đôi khi với các tuyên úy, nhà trị liệu nghệ thuật, người cắt tóc, v.v. Và cùng nhau, nhóm những người chăm sóc này tìm cách hiểu các triệu chứng, tìm những gì tốt nhất để giúp bệnh nhân cách tốt nhất. Sự phân biệt mang tính tập thể này thật đáng khâm phục! Theo tôi, qua cơ quan trung gian của những người chăm sóc, họ lần với người bệnh để người bệnh cảm thấy bình an hơn, không loại khả năng phải dùng thuốc an thần, vì đó cũng là chăm sóc. Nó có thể không liên tục và có thể đảo ngược nhưng ít khi dùng liên tục và nhiều cho đến chết.

Y học còn có nhiệm vụ hỗ trợ gia đình, giải thích và giúp đỡ. Triết lý chăm sóc này rất đáng quý trong xã hội và sẽ rất tốt cho cuộc tranh luận để xem xét tất cả những điều này, khuyến khích, bắt buộc chính phủ phải hướng tới chất lượng này, y học tập thể, với sự cộng tác của bệnh nhân. Hơn nữa, một khuyến nghị từ Hội đồng Châu Âu nói rằng chăm sóc xoa dịu là “điều cần thiết đối với y học”.

Cha nghĩ sự nguy hiểm của luật hỗ trợ tự tử là gì?

Điều này sẽ làm hỏng sự chăm sóc như tôi vừa phác thảo. Thật vậy, một trong những mối nguy hiểm lớn là dựa vào một ý tưởng sai lầm về quyền tự chủ, được cho là tuyệt đối, sẽ làm cho bác sĩ bị cho là người cung cấp dịch vụ, dù họ được đào tạo, nhưng lại là người thừa hành khi đối diện với tự do. Chúng ta đi ra khỏi “với” của luật năm 2002. Chúng ta sẽ rời triết lý đề cập ở trên, khi một cơ quan trung gian thực hiện trách nhiệm của họ theo cách tập thể, để bước vào quy trình giải trách nhiệm khi đối diện với tự do cá nhân bị bỏ lại vì quyền tự chủ của họ bị xem là vô hình.

Triết lý này là sai lầm vì con người là một thực thể quan hệ. Ngay khi chúng ta tồn tại là chúng ta đặt mình trong mối quan hệ. Nhu cầu quan hệ không phải là điểm yếu hay sự tấn công vào quyền tự chủ của chúng ta, mà ngược lại, nó đảm bảo chất lượng của chính sự tự chủ chúng ta, chúng ta sống trong sự tùy thuộc vào nhau, nơi chúng ta tôn trọng nhau để có thể lắng nghe nhau trong sự thật, trong việc thể hiện các quyền tự do của chúng ta. Tóm lại, tôi có thể thực hiện quyền tự do của mình nhiều hơn vì tôi biết tôi được nhiều người hỗ trợ. Một người yếu đuối và đặt mình vào nhóm chăm sóc sẽ không thiếu quyền tự chủ, nhưng họ đã tự do quyết định rằng sự phụ thuộc lẫn nhau là tốt cho họ. Họ đảm nhận họ cần người khác, và qua đó là sự hữu hạn của họ, là người phải chết như mọi người. Đảm nhận thực tế này là điều kiện của tự do thực sự. Nếu tôi muốn kiểm soát mọi thứ, làm chủ mọi thứ, tôi không đảm nhận thực tại người phàm của tôi và liên hệ với người khác. Tôi ở trong ảo tưởng. Chúng ta không đưa ra luật cho những chuyện viển vông!

Nhưng theo thăm dò, phần lớn người Pháp dường như ủng hộ…

Các thăm dò! Chúng ta để họ nói những gì chúng ta muốn nói. Mọi người đều rộng lượng và bao dung, và không ai thích đau khổ. Và khi hỏi họ có muốn ngừng đau khổ hay không, họ đồng ý, và điều đó đúng. Giáo hội, từ Đức Piô XII, và vào năm 1980 trong một chỉ thị của Bộ Tín Lý, quy định rằng cần phải chấm dứt việc trị liệu không ngừng và tránh đau đớn bằng thuốc giảm đau. Đó là điều hiển nhiên. Nhưng nếu người ta nói cách duy nhất để xóa đau đớn là triệt đi người bị đau, thì các cuộc thăm dò đều đồng ý. Mặt khác, nếu chúng ta nói chúng ta có khả năng xoa dịu đau khổ bằng cách đồng hành, bao bọc qua chăm sóc xoa dịu, thì mọi người sẽ ủng hộ chăm sóc xoa dịu. Câu hỏi nào người dân được hỏi trong các cuộc thăm dò này?

Tôi cũng sợ lập luận tài chính đè nặng, nó thiếu trung thực và thậm chí là phiến diện. Tại sao chúng ta không phát triển dịch vụ chăm sóc xoa dịu để mỗi khoa đều có ít nhất một đơn vị, và tất cả các viện dưỡng lão đều liên kết với một phòng khám hoặc y tá có bằng về chăm sóc xoa dịu? Khi đó chúng ta mới có thể nói đến việc chết yên lành ở Pháp, theo luật ngày 9 tháng 6 năm 1999 quy định tất cả người dân Pháp có quyền được chăm sóc xoa dịu, kể cả những người mắc các bệnh kinh niên mà sinh mạng không bị nguy hiểm. Đây là chỉ thị của báo cáo Sicard năm 2012 ghi rõ chăm sóc xoa dịu phải bắt đầu khi chăm sóc trị bệnh bắt đầu. Và đó là lỗ hổng trong Thông báo 139 của CCNE, cho rằng trong “ngắn hạn” thì chăm sóc xoa dịu là phù hợp, nhưng trong “trung hạn” thì phải an tử hay trợ tử bằng tự tử là cần thiết. Thật là vô lý!

Thường thường người công giáo bị chỉ trích vì chống an tử do “xác tín tôn giáo”…

“Chớ giết người” có trước luật tôn giáo. Đó là luật đã được viết trong lương tâm con người. Chúng ta có một ví dụ đương đại với cựu bộ trưởng Tư pháp Robert Badinter. Ông phản đối án tử hình, khi đa số người dân Pháp còn ủng hộ, và ông không ngừng bày tỏ sự phản đối của mình với an tử. Triết gia Paul Ricoeur đã dành thời gian suy ngẫm để cuối cùng nhận ra, từ quan điểm đạo đức, chúng ta không thể thực hành an tử. Ông hiểu con đường đạo đức xứng đáng với lý trí: “Sống cho đến chết” không phải bằng cách bất chấp tất cả để sống sót, nhưng qua một dự án cuộc đời, dù ngắn ngủi và nhờ vào mối quan hệ.

Chúng ta không thể ép đồng loại của mình thực hiện một hành động chết với mình. Một tổ chức con người không thể tổ chức việc viết toa chết cho người đang sống. Đó là một vấn đề của lý trí. Triết gia Emmanuel Levinas giới thiệu quyển sách của Renée Sebag-Lanoë về chăm sóc xoa dịu. “Khuôn mặt” của người khác, qua tính khác biệt và tính siêu việt của nó, thể hiện “chớ giết người” trước mọi luật lệ tôn giáo nào. Qua nhiều thế kỷ, chúng ta đã có được những tiến bộ đáng kể trong việc đi đến kết luận, mỗi con người đều có phẩm giá bất khả xâm phạm, nhưng nếu bỏ phiếu an tử hoặc tự tử được hỗ trợ, đó sẽ là bước đi lùi. Tệ hơn nữa, đó là thất bại của xã hội chúng ta. Vì như thế có nghĩa là chúng ta không thể đồng hành cùng anh chị em mong manh của mình. Tất cả chúng ta, mỗi người ở cấp của mình, ngay cả ở cấp cao nhất của Nhà nước, chúng ta phải làm nổi bật một dự án xã hội dựa trên tình huynh đệ.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Trợ tử, trợ giúp tự tử, Đức Phanxicô tái khẳng định “Không!”

Trong giờ Kinh Truyền Tin, Đức Phanxicô cảnh báo thói kiêu ngạo thiêng liêng

Trong giờ Kinh Truyền Tin, Đức Phanxicô cảnh báo thói kiêu ngạo thiêng liêng

cath.ch, I.Media, 2022-10-23

Đức Phanxicô giảng trong giờ Kinh Truyền Tin ngày chúa nhật 23 tháng 10-2022: “Chúng ta càng hạ mình trong khiêm hèn thì Chúa càng nâng chúng ta lên.”

 

Trước Quảng trường Thánh Phêrô chật cứng, đặc biệt có sự hiện diện của một số đông người hành hương Pêru, Đức Phanxicô cảnh báo về thói kiêu ngạo thiêng liêng làm chúng ta nghĩ mình tốt và hay phán xét người khác.

Trong bài giảng trong giờ Kinh Truyền Tin, Đức Phanxicô nhắc lại câu chuyện của người pharisêu và người thu thuế, một giáo sĩ và một người có tội. Đức Phanxicô tập trung vào hai động từ: nâng lên và hạ mình, ngài mời gọi chúng ta biết hạ mình trong lời cầu nguyện để được Chúa nâng lên.

“Chúa hạ những ai quyền thế, Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”

Đức Phanxicô nhấn mạnh: Cầu nguyện không phải là ca ngợi bản thân, liệt kê “việc tốt” mình làm và coi thường người khác. Vì thế nếu chúng ta không nhận ra điều này, chúng ta đang tôn thờ cái tôi của mình và xóa bỏ Chúa.

Ngài cũng cảnh báo chứng “tự mê” và “thói phô trương” làm cho các giám mục, linh mục, giáo dân “luôn có chữ tôi trên đầu môi”. Ngài nói ngoài văn bản: “Ở đâu có nhiều tôi, ở đó có ít Chúa.”

Ngài kể câu chuyện một linh mục tự cho mình là trung tâm, ông đã xông hương lộn ngược. Ngài nhắc lại, “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”, vì thế Đức Phanxicô mời gọi chúng ta tách mình ra khỏi ngã của mình, nhưng vun trồng lòng chân thành và khiêm tốn trong lòng, những phẩm chất mang lại “cái nhìn trung thực” về sự yếu đuối và nghèo khó của mỗi người. Ngài xin chúng ta cầu xin lòng thương xót Chúa “để chữa lành và nâng chúng ta lên”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Theo tổng thống Emmanuel Macron, các tôn giáo có “nghĩa vụ kháng cự”

Theo tổng thống Emmanuel Macron, các tôn giáo có “nghĩa vụ kháng cự”

la-croix.com, Corinne Laurent và Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2022-10-23

Trong chuyến đi Rôma dự đại hội thường niên của cộng đồng Sant’Egidio về hòa bình ngày chúa nhật 23 tháng 10-2022, tổng thống Pháp khẳng định các tôn giáo không bao giờ được “ủng hộ các dự án chính trị” có xu hướng “phủ nhận phẩm giá của cá nhân”. Ông lên án mạnh mẽ Giáo hội chính thống Nga.

Đại hội thường niên của cộng đồng Sant’Egidio về hòa bình ngày chúa nhật 23 tháng 10-2022

Trước sự hiện diện của 2000 người tham dự đại hội, ông tuyên bố: “Tôi lo lắng khi đứng trước quý vị.” Đối diện với những lời “hiếu chiến”, những “chua cay” của các dân tộc và men chiến tranh ở Âu châu, tổng thống Pháp đã nói rất lâu về vai trò của các tôn giáo trong việc kiến tạo hòa bình.

Tổng thống Emmanuel Macron được nhìn thấy ở Vatican như thế nào

Tổng thống Macron hỏi: “Các tôn giáo có thể làm được gì?”, ý thức các bài diễn văn chính trị thường “không đáng tin” và cần sự chẩn đoán và hỗ trợ của tôn giáo. Ông nói trước đại hội gồm  các nhà ngoại giao, các nhà lãnh đạo các hiệp hội dấn thân cho hòa bình: “Các nhà lãnh đạo tôn giáo có một vai trò thiết yếu. Họ đóng góp vào cấu trúc xã hội chúng ta, vào mối quan hệ giữa các cá nhân và mang đến một mối quan hệ lâu dài.”

Giáo hội chính thống Nga “bị quyền lực Nga thao túng”

Tổng thống Macron nhấn mạnh: “Vai trò của quý vị rất cao quý,” ông nói đến “ơn khôn ngoan, dấn thân và tự do.” Nhưng ông cũng dựa trên ý tưởng của một “nghĩa vụ phản kháng của các tôn giáo”. Về vấn đề này, tổng thống Pháp không nể nang Giáo hội chính thống Nga, mà nhân vật số hai, giáo chủ Antoine có mặt ở hàng đầu của hội trường: ông cho rằng “quyền lực Nga đã thao túng Giáo hội”.

Tổng thống Macron nhấn mạnh: “Sự kháng cự chính xác không bao giờ biện minh, không ở trong bẫy hoặc ủng hộ các dự án chính trị có xu hướng nô lệ hóa hoặc phủ nhận phẩm giá của mỗi cá nhân.”

Giáo chủ Antoine, Giáo hội chính thống Nga đến dự đại hội

Bản chất “bản thể học” của hòa bình

Theo tổng thống Macron, các tôn giáo phải “bảo vệ phẩm giá của mọi người, không bao giờ nhượng bộ trước xung năng thuần khiết, bảo vệ sự tôn trọng” và “chăm sóc những người mong manh nhất”. Bốn năm sau bài phát biểu ở Viện Bernardins, tổng thống cho rằng “các tôn giáo có một thông điệp về tính phổ quát cần bảo vệ” bằng cách chiến đấu “chống lại sự rạn nứt của thế giới” và vây dồn “nơi nào có sỉ nhục và nguồn gốc của phẫn uất”, những mầm mống chuẩn bị cuộc chiến ngày mai.

Ông Andrea Riccardi: “Bài phát biểu của tổng thống Emmanuel Macron ở Viện Bernardins là bài phát biểu rất quan trọng”

Cùng với Hồng y Matteo Zuppi, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ý, Giáo sĩ Pháp Haïm Korsia và Tổng thư ký Liên đoàn Thế giới Hồi giáo, Mohammad Al-Issa, tổng thống Pháp đi vào những suy nghĩ cân nhắc triết học về bản chất “bản thể học” của hòa bình. Ông nói: “Hòa bình là không thuần khiết, một cách sâu đậm, một cách bản thể học. Bởi vì hòa bình chấp nhận một loạt những mất cân bằng (…), vì hòa bình có thể làm cho sự cùng tồn tại với một người khác ngoài tôi.”

Đó cũng là quyển sách về hòa bình, “Dự án Hòa bình vĩnh viễn” (Projet de paix perpétuel) của triết gia Emmanuel Kant xuất bản năm 1795, mà tổng thống Pháp dự định sẽ tặng Đức Phanxicô khi ông gặp ngài ngày thứ hai 24 tháng 10.

 “Cần có một sáng kiến hòa bình”

Trước đó một lúc, ông Andrea Riccardi, nhà sáng lập cộng đồng Sant’Egidio nói với các nhà báo: “Tổng thống Emmanuel Macron là người bạn tiêu biểu của một người nhạy cảm với chiều kích của tôn giáo và thiêng liêng.”

Ông Riccardi là cựu bộ trưởng Ý, ông bảo vệ một “sáng kiến hòa bình châu Âu” mà theo ông tổng thống Pháp có thể thực hiện. Ông cảnh báo: “Cần có một sáng kiến hòa bình, chúng ta đang chìm trong giấc ngủ”, ông kêu gọi “ngừng bắn” để “tiết kiệm máu”. Ông nói thêm: “Tất cả chúng ta đều kết nối với nhau, tất cả chúng ta đều ở trên một con thuyền. Hãy nghĩ đến cuộc khủng hoảng lương thực: nạn đói trở lại, nạn khốn cùng cũng trở lại.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Tổng thống Emmanuel Macron và cộng đồng Sant’Egidio, câu chuyện của một sức hấp dẫn qua về

Tổng thống Emmanuel Macron đọc diễn văn khai mạc ngày chúa nhật 23 tháng 10 tại Cung điện Nuvola.

 

Tổng thống Emmanuel Macron và cộng đồng Sant’Egidio, câu chuyện của một sức hấp dẫn qua về

Tổng thống Emmanuel Macron và cộng đồng Sant’Egidio, câu chuyện của một sức hấp dẫn qua về

lacroix.com, Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2022-10-23

Ngày chúa nhật 23 tháng 10, tổng thống Pháp dự buổi khai mạc Diễn đàn Sant’Egidio về hòa bình. Từ nhiều năm qua, ông duy trì một quan hệ chặt chẽ với cộng đồng Sant’Egidio ở Ý.

 

 

 

 

 

 

 

Tổng thống Emmanuel Macron trong buổi khai mạc Diễn đàn Sant’Egidio về hòa bình ngày chúa nhật 23 tháng 10-2022.

Ngày chúa nhật 23 tháng 10, tổng thống Pháp dự buổi khai mạc Diễn đàn Sant’Egidio về hòa bình. Đây là lần đầu tiên của một Tổng thống Cộng hòa nước Pháp. Việc tổng thống Emmanuel Macron đến dự cuộc họp thường niên của cộng đồng Sant’Egidio đã là một sự kiện. Cộng đồng được ông Andrea Riccardi thành lập năm 1968, ông vẫn là nhân vật quan trọng trên chính trường Ý, ông đã đưa chủ nhân Điện Elysée làm nhân vật chủ chốt trong buổi khai mạc hội nghị thượng đỉnh quốc tế về Hòa bình tại Cung điện Nuvola Rôma.

Tổng thống Emmanuel Macron đọc diễn văn khai mạc ngày chúa nhật 23 tháng 10 tại Cung điện Nuvola.

Trong phần giới thiệu hội nghị thượng đỉnh trước báo chí, chủ tịch cộng đồng Sant’Egidio, ông Marco Impagliazzo ngưỡng mộ nhớ lại bài diễn văn của tổng thống Macron đọc ở Viện Bernardins, và khả năng nói với các tôn giáo những gì ông nghĩ và những gì ông mong chờ. Ông Impagliazzo nhấn mạnh: “Họ cũng là những nguyên thủ quốc gia nói chuyện với các tôn giáo và có thể nói vai trò của tôn giáo là gì trong thế giới chiến tranh này.”

Bữa ăn sáng của người sáng lập

Sự ngưỡng mộ không giấu giếm giữa tổng thống và cộng đồng, được thể hiện qua cuộc chiến chống đói nghèo và trong ngoại giao khi họ quyết tâm giải quyết các xung đột này đã có từ nhiều năm. Chính xác là ngày 26 tháng 6 năm 2018 khi tổng thống Emmanuel Macron đến Rôma thăm Đức Phanxicô. Và lần đầu tiên các nhà lãnh đạo cộng đồng Sant’Egidio gặp tổng thống trong bữa ăn sáng được sứ quán Pháp tại Ý tổ chức tại Palazzo Farnese. Chúng tôi còn nhớ “bữa ăn sáng thành lập” trong cộng đồng Ý và nhất là cuộc gặp với ông Andrea Riccardi.

Dĩ nhiên tổng thống đã đề cập đến cộng đồng trong bài phát biểu nổi tiếng của ông ở Viện Bernardins vào tháng 4 năm 2018, nhưng ông chưa bao giờ gặp các thành viên của cộng đồng. Hôm nay bà Valérie Régnier, người đã dự bữa ăn sáng này cho biết: “Ông lắng nghe, đặt rất nhiều câu hỏi về mặt thiêng liêng, về chính trị, về cộng đồng, về hoạt động của cộng đồng.”

Tổng thống Emmanuel Macron được nhìn thấy ở Vatican như thế nào

Kể từ đó, sợi dây liên lạc không bao giờ đứt. Cho đến cuộc họp tháng 6 vừa qua tại Điện Élysée, ông Andrea Riccardi, người sáng lập cộng đồng cũng như ông Mario Giro, người đứng đầu quan hệ đối ngoại đã được tổng thống tiếp hơn hai giờ để nói về cuộc chiến  Ukraine và tình hình ở lục địa Châu Phi.

Sự tương hợp

Thời gian gặp lâu dài hiếm hoi, những người ở điện D’Orsay thầm thì. Một nhà ngoại giao nhận xét: “Tổng thống cảm thấy tương hợp với họ. Chắc chắn sự tương hợp này liên kết với một nhạy cảm đặc biệt, tổng thống là môn đệ của triết gia Paul Ricoeur. Hơn nữa, vì sự siêu việt luôn ở trong tâm trí ông nên có nhiều chuyện để đặt câu hỏi. Nguồn tin cũng cho biết thêm, tổng thống Emmanuel Macron “luôn thích nói chuyện với giới trí thức và chính xác tinh thần này là tinh thần điều hành cộng đồng Sant’Egidio”.

Cộng đồng Sant’Egidio: những người công giáo này đối thoại với các chúa tể chiến tranh và các nguyên thủ quốc gia

Các học giả cấp cao, các cựu bộ trưởng… Những nhà lãnh đạo hiện tại của cộng đồng Sant’Egidio quả thực có đủ mọi thứ để làm hài lòng tổng thống. Tại Pháp, cộng đồng Sant’Egidio đã thành lập một chi nhánh quốc gia kể từ Ngày Thế Giới Trẻ năm 1997, đã làm việc từ nhiều năm để thiết lập một liên kết với giới chính trị. Lần tiếp xúc đầu tiên là vào năm 2012, khi luật gia Émile Poulat trong lần được tổng thống François Hollande trao Huân chương Danh dự, ông đã giới thiệu cộng đồng ông thuộc về cho tổng thống Hollande biết.

Emmanuel Macron, Đức Phanxicô, Riccardi và các nhà trí thức công giáo

Thủ tục hợp tác

Năm năm sau, năm 2017, chính François Hollande đã tổ chức tại Điện Élysée một thỏa thuận được ký kết giữa cộng đồng Sant’Egidio và Nhà nước Pháp để thiết lập các hành lang nhân đạo nhằm tổ chức việc tiếp nhận người tị nạn cách hợp pháp. Ông Bernard Cazeneuve khi đó là bộ trưởng Nội vụ và ông Jean-Marc Ayrault lãnh đạo ngành ngoại giao Pháp. Kể từ đó, cơ chế này được đổi mới năm 2022 để có thể nhận 570 người tị nạn Syria và Iraq, hiện đang định cư tại 45 cơ sở ở Pháp.

Vài tuần sau, cộng đồng cũng đã ký một “thủ tục hợp tác” khác với ngoại giao Pháp, ban hành nguyên tắc tham vấn thường xuyên giữa hai thực thể. Và chính với tư cách này mà tháng 1 năm 2022, giám đốc phụ trách ngoại giao châu Phi phân vụ Pháp đã đến thăm cộng đồng Sant’Egidio ở Rôma. Và cũng chính trong bối cảnh này, tổng thống Emmanuel Macron sẽ dự tiệc tại trụ sở chính của cộng đồng Sant’Egidio ngày chúa nhật 23 tháng 10 ở khu phố Trastevere Rôma. Và tổng thống sẽ tặng Huân chương Danh dự cho nhà sáng lập Andrea Riccardi. Một vinh dự hiếm có.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Ông Andrea Riccardi: “Bài phát biểu của tổng thống Emmanuel Macron ở Viện Bernardins là bài phát biểu rất quan trọng”

Ông Andrea Riccardi: “Bài phát biểu của tổng thống Emmanuel Macron ở Viện Bernardins là bài phát biểu rất quan trọng”

Ông Andrea Riccardi: “Bài phát biểu của tổng thống Emmanuel Macron ở Viện Bernardins là bài phát biểu rất quan trọng”

Tổng thống Emmanuel Macron sẽ tham dự hội thảo thường niên Vì hòa bình của cộng đồng Sant’Egidio. Điều gì đã đưa Tổng thống đến gần với cộng đồng này?

Phỏng vấn ông Andrea Riccardi, nhà sáng lập cộng đồng Sant’Egidio. STEFANO SPAZIANI / ZUMA PRESS / ZUMA

lavie.fr, Marie-Lucile Kubacki, Rôma, 2022-10-10

Ngày 24 tháng 10 tổng thống Emmanuel Macron sẽ đến gặp Đức Phanxicô lần thứ ba nhưng khía cạnh nổi bật nhất trong chuyến đi đến Rôma của ông là việc ông dự cuộc họp thường niên của cộng đồng Sant’Egidio về chủ đề hòa bình và đối thoại giữa các nền văn hóa và tôn giáo. Điều này ở trong đường hướng của một cộng đồng được gọi là “tổ chức Phi chính phủ của Trastevere”, ở mọi nơi trên thế giới, từ Âu châu đến châu Phi với các hoạt động, các hành lang nhân đạo, các hợp tác của cộng đồng Sant’Egidio trước tình hình quốc tế đã mang tính quyết định. Nhưng đó cũng là thành quả của cuộc gặp giữa Tổng thống Pháp với ông Andrea Riccardi, sử gia và là nhà sáng lập cộng đồng Sant’Egidio, một trí thức công giáo có tầm ảnh hưởng rộng lớn, một người châu Âu dấn thân, người ngưỡng mộ các thần học gia Pháp của Công đồng mà tác phẩm Giáo hội bùng cháy (l’Église brûle, nxb. Cerf) vừa được xuất bản. Một phản ánh sâu sắc về cuộc khủng hoảng của kitô giáo ở Âu châu.

Ông Andrea Riccardi trả lời phỏng vấn của báo La Vie.

Mối quan hệ nào kết nối ông với Tổng thống Pháp, nối cộng đồng Sant’Egidio với ông?

Andrea Riccardi: Tôi xin nói về một cuộc đối thoại cởi mở bắt đầu từ cuộc gặp tại Palazzo Farnese với một phái đoàn của cộng đồng Sant’Egidio nhân chuyến đi đầu tiên của Tổng thống năm 2018 đến Rôma gặp Đức Phanxicô. Tiếp theo là một loạt cuộc gặp về các vấn đề thế giới, đặc biệt là vấn đề Âu châu ở Điện Élysée và một lần nữa ở Rôma. Tôi rất ấn tượng trước sự quan tâm sâu sắc của Tổng thống với các vấn đề thiêng liêng, nó có tác động không những đến đời sống cá nhân của người dân mà còn ảnh hưởng đến toàn xã hội. Vì xã hội chúng ta – tôi phải nói lên điều này – đang trải qua một khoảng trống lớn về tinh thần nên có khuynh hướng co mình lại và sợ cho tương lai.

Trong quyển sách của ông, ông dành nhiều trang viết về bài diễn văn của tổng thống Emmanuel Macron ở Viện Bernardins tháng 4 năm 2018, ông mô tả như “bàn tay giang rộng”. Nhưng đâu là bản chất của việc này?

Những ai biết một ít về lịch sử nước Pháp sẽ hiểu bài phát biểu của Tổng thống ở Viện Bernardins đánh dấu một bước ngoặt. Khi ông nói, trong chiến tranh, người công giáo chết vì đức tin của họ chứ không chỉ vì đất nước, điều đó chứng tỏ ông hiểu sâu đậm về những gì Giáo hội đại diện cho nước Pháp. Ông hiểu được tầm quan trọng của Giáo hội và kitô giáo với môi trường nhân văn và tâm linh của Pháp và Châu Âu. Một gốc rễ vững chắc không nên cố định trong các tài liệu, nhưng được sống. Điều này có ý nghĩa gì với châu Âu? Nó không có nghĩa là sống cho chính mình mà là sống cho Đấng đã chết và sống lại, và do đó sống cho người khác. Vì vậy, tôi tin rằng bài phát biểu ở Viện Bernardins là bài phát biểu rất quan trọng, không phải vì nó muốn tạo ra một trục giữa Giáo hội và nước Pháp, nhưng vì nó đề xuất một bầu khí cộng tác mới, một bầu khí văn hóa mới. Một cách nói, Nhà nước thế tục không sợ các giá trị tôn giáo, nhà thờ hay tôn giáo, nhưng chủ nghĩa thế tục có thể là nhà của mọi người. Vẫn còn phải xem bài phát biểu này đã được đón nhận như thế nào, và tôi không cảm thấy nó được đón nhận rộng rãi. Có lẽ khi đó Giáo hội bận rộn hơn với những vấn đề khác. Tuy nhiên, bài diễn văn này vẫn còn sinh hoa kết trái. Sự cám dỗ của tín hữu kitô trong Giáo hội châu Âu là lo lắng về các vấn đề nội bộ, như Đức Phanxicô nói, họ ít ra ngoài. Nhưng tương lai không ở việc tái cấu trúc ngôi nhà nhưng ở ngoài đường phố, nơi chúng ta phải đi. Tôi hiểu điều này nghe có vẻ phi lý, nhưng tôi tin như vậy, vì những kinh nghiệm đi ra đã chứng minh có hiệu quả.

Nhưng những người Công giáo ở Pháp và ở châu Âu có cảm giác bị loại ra ngoài, không chỉ vì họ ngày càng nhận ra mình là thiểu số, mà vì họ còn cảm thấy tầm nhìn nhân học của họ đã trở nên bên lề xã hội và lời nói của họ không còn sức mạnh trong các cuộc tranh luận…

Tôi nghĩ rằng người công giáo không nên chịu sự xuống dốc này.  Chúng ta phải phân biệt giữa xuống dốc và khủng hoảng. Người công giáo đang trải qua khủng hoảng nhưng đây cũng là cơ hội để  tái sinh. Đó là điều chúng ta phải suy nghĩ. Người công giáo và Giáo hội ở châu Âu và ở Pháp đã quá ngấm tinh thần xuống dốc của toàn xã hội châu Âu nói chung. Nhưng sứ mệnh của Giáo hội không phải người đồng hành của một châu Âu đang suy tàn. Sứ mệnh Giáo hội là sứ mệnh ngôn sứ. Là nhìn vào tương lai với ánh sáng của lời, nghĩa là của ngôn sứ. Điều đó không có nghĩa là hét to lên khi nghĩ ra một tương lai khác với sự tầm thường hiện tại, với chủ nghĩa ích kỷ và cam chịu mà chúng ta đang sống. Một Giáo hội như vậy sẽ hấp dẫn.

Có lẽ chúng ta cũng cần phải suy nghĩ lại về tình trạng thiểu số, vì ở châu Âu, thực tế thiểu số người công giáo đang gánh chịu là kết quả của sự suy tàn trong khi ở dưới các vĩ độ khác, nó giống như sự khởi đầu của một cuộc phiêu lưu mới, nơi mọi thứ vẫn đang được xây dựng!

Tôi tin rằng, trước hết, không nên bao giờ tạo ra một huyền thoại khác như người Âu châu đã làm với các Giáo hội Châu Mỹ Latinh, châu Phi và bây giờ với châu Á. Tình huống ở Âu châu chắc chắn bị đánh dấu qua việc các nhà thờ bị giảm, nhưng chúng ta phải ngừng sống trong tinh thần của một thiểu số suy tàn. Không có bức tường ngăn cách giữa người công giáo và người không công giáo. Một kitô giáo lan tỏa vẫn còn, mà có lẽ chúng ta không hoặc không còn nắm bắt được khi chúng ta không tham gia đối thoại. Chính xác đó là vấn đề. Chúng tôi đã thấy điều này trong đại dịch với các sáng kiến của các tín hữu kitô, chúng tôi thấy điều này khi người Ba Lan tiếp nhận người Ukraine, nhưng chúng ta chỉ nghĩ đến đàn chiên nhỏ bé của chúng ta. Ở Pháp, tôi đã thấy nó nhiều lần.

60 năm Công đồng Vatican II Giáo hội tiếp tục cập nhật như thế nào

Tất nhiên, tôi không ngây thơ về thực tế là các thế hệ lớn lên đã xa Giáo hội. Tuy nhiên, vẫn có một mối quan tâm lớn đến các giá trị tôn giáo, giá trị linh đạo, tình đoàn kết trong Giáo hội… Tôi bắt đầu quyển sách với ngọn lửa bùng cháy ở Nhà thờ Đức Bà Paris: niềm thương cảm lúc đó không phải là thương cảm cho biểu tượng của một tòa nhà. Nó mang một câu hỏi: Giáo hội có cháy không? Và đó là cảm giác toàn xã hội đã trải qua. Và đó là điểm quan trọng với tôi. Nói cách khác, người công giáo Pháp có thể là thiểu số, nhưng thiểu số này không có bức tường bao quanh. Họ là một dân tộc nhỏ, không phải là một khu biệt cư.

Công đồng Vatican II còn lại gì?

Nhưng làm thế nào để ông ra khỏi tinh thần xuống dốc? Có nhiều cách để tồn tại.

Trên tất cả, chúng ta cần nhiệt huyết cho tương lai. Trong một Giáo hội có ít người, nhưng phần lớn là người lớn, người già, ít có người trẻ, nhưng nhiệt thành không phải là chữ bề ngoài, trong tiếng Hy Lạp nó có nghĩa “Chúa ở trong chúng ta.” Chúng ta cùng suy nghĩ về điều này. Ở đây, tôi nghĩ một nhiệt thành mới với Phúc âm là động lực.

Chắc chắn, cấu trúc là quan trọng, nhưng chúng ta không thể chỉ nghĩ đến cấu trúc. Theo nghĩa này, một Giáo hội lôi cuốn hơn, ít cơ cấu hơn phải được tái sinh, một Giáo hội cũng được thành lập trên sáng kiến truyền bá Phúc âm của mỗi cá nhân, một Giáo hội trong Lịch sử. Tôi không muốn nói Giáo hội phải giống như các phong trào lôi cuốn. Họ cũng vậy, sau một thời gian, đôi khi họ cũng bị cám dỗ co mình lại. Nhưng khi chúng ta kỷ niệm 60 năm Công đồng, chúng ta nên trở lại với tinh thần Công đồng. Công đồng là những tài liệu, là sự kiện, nhưng cũng là một tinh thần: tinh thần của một Giáo hội nói cách thẳng thắn hơn và thông cảm hơn với thế giới.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Tổng thống Emmanuel Macron và cộng đồng Sant’Egidio, câu chuyện của một sức hấp dẫn qua về
Cộng đồng Sant’Egidio: những người công giáo này đối thoại với các chúa tể chiến tranh và các nguyên thủ quốc gia
 Emmanuel Macron, Đức Phanxicô, Riccardi và các nhà trí thức công giáo

Tổng thống Emmanuel Macron trong buổi khai mạc Diễn đàn Sant’Egidio về hòa bình.

Đức Phanxicô: “Không thể yêu cầu người chăm sóc giết bệnh nhân của họ”  

Đức Phanxicô: “Không thể yêu cầu người chăm sóc giết bệnh nhân của họ”

 cath.ch, I.Media, 2022-10 -21

Trong buổi tiếp các đại biểu dân cử Pháp của giáo phận Cambrai ngày thứ sáu 21 tháng 10-2022, Đức Phanxicô tuyên bố: “Chúng ta không thể yêu cầu người chăm sóc giết bệnh nhân của họ!”

Đức Phanxicô trong buổi tiếp các dân biểu Pháp, ngài phản đối an tử và chữa trị bám riết. | © CTV

Khi chính phủ Pháp bắt đầu dự án hợp pháp hóa an tử, Đức Phanxicô thúc đẩy để có một tranh luận sự thật về giai đoạn cuối đời ở Pháp, khi ngài tiếp khoảng bốn mươi dân biểu Pháp của giáo phận Cambrai ngày 21 tháng 10 – 2022 tại Vatican. Cùng với tổng giám mục Vincent Dollmann, các chính trị gia này có chuyến đi Rôma, họ đã gặp các giám chức các bộ của Giáo triều Rôma.

Trước các vị dân cử, Đức Phanxicô quan tâm đặc biệt đến những người ở giai đoạn cuối đời. Ngài xin phát triển tốt các phục vụ chăm sóc giảm nhẹ: “Tôi dám hy vọng với những vấn đề thiết yếu như vậy, cuộc tranh luận có thể mang lại sự thật để đồng hành với cuộc sống cho đến khi kết thúc tự nhiên.”

Để chuẩn bị cho chuyến đi tiếp theo của Tổng thống Macron?

Ngài khẳng định: “Về bản chất, những người chăm sóc có nhiệm vụ chăm sóc và làm giảm đau, vì không phải lúc nào cũng chữa lành được, nhưng chúng ta không thể yêu cầu những người chăm sóc giết bệnh nhân của họ!” Và để nhắc lại lời ngài nói trong cuộc họp báo trên máy bay khi ngài từ Kazakhstan về Rôma ngày 15 tháng 9: “Nếu chúng ta giết người với những lời biện minh, thì càng ngày chúng ta càng giết nhiều hơn”.

Đức Phanxicô tuyên bố những lời này trước ngày ngài sẽ tiếp Tổng thống Cộng hòa Pháp Emmnanuel Macron, ông sẽ đến Vatican ngày thứ hai 24 tháng10. Một nguồn tin từ Điện Élysée cho biết, giai đoạn cuối đời là một trong các chủ đề sẽ được thảo luận trong buổi tiếp kiến riêng này. Theo tổng giám mục Pierre d’Ornellas, người đứng đầu nhóm làm việc về đạo đức sinh học của Hội đồng Giám mục Pháp, việc giáo hoàng và nguyên thủ quốc gia bàn về chủ đề này là hợp lý.

Hội nhập người khuyết tật

Trong bài phát biểu trước các dân biểu, Đức Phanxicô khuyến khích việc chào đón những người thiệt thòi nhất, đặc biệt là người di cư, một vấn đề ngài luôn quan tâm. Ngài cũng kêu gọi có các cơ hội để hội nhập người khuyết tật, giúp họ có được chỗ đứng trong giới công ăn việc làm. Ngài cũng kêu gọi các dân biểu nêu bật khía cạnh văn hóa, một yếu tố quan trọng cho sự hợp nhất, thành quả của một quá khứ chung. Ở vùng Cambrai miền Bắc, nơi ngày xưa sung túc nhờ các mỏ than, ngành luyện kim mạnh và các nhà máy dệt nổi tiếng, nhưng bây giờ nghèo đi vì các ngành này đã đóng cửa, ngài nói thêm: “Dựa trên các hoạt động xã hội và văn hóa mà quý vị tìm được bản sắc của mình, bất kỳ quý vị theo khuynh hướng chính trị nào.”

Một cách rộng hơn, ngài xin các chính trị gia quan tâm đến các nhu cầu thiết yếu của cử tri, họ thường bị bỏ quên trong việc chạy theo các chủ đề đương thời, ít liên quan đến cuộc sống hàng ngày của họ. Ngài nêu rõ, đó là làm sao “các nhà chức trách cao nhất quan tâm đến nguyện vọng và nhu cầu thực sự của người dân trong vùng của mình, không bị ảnh hưởng của bất kỳ ý thức hệ hay áp lực truyền thông nào”.

Trong chuyến đi năm ngày đến Rôma, các dân biểu Pháp đã gặp hồng y Michael Czerny, bộ Phát triển Nhân bản Toàn diện, tổng giám mục Gallagher, bộ trưởng Quan hệ với các Quốc gia, linh mục Philippe Bordeyne, Chủ tịch  Giáo hoàng Học viện thần học Gioan-Phaolô II về Nghiên cứu Hôn nhân và Gia đình, và sơ Nathalie Becquart, Thư ký dưới quyền của Thượng Hội đồng Giám mục.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Tự tử nhờ hỗ trợ, bước ngoặt chiến lược của Vatican với đạo đức sinh học
Emmanuel Macron, Đức Phanxicô, Riccardi và các nhà trí thức công giáo

Đức Bênêđíctô XVI xem lại các tiền đề của Công đồng Vatican II

Đức Bênêđíctô XVI xem lại các tiền đề của Công đồng Vatican II

cath.ch, I.Media, 2022-10-21

Theo Đức Bênêđíctô XVI, “sức mạnh tích cực của Công đồng đang dần xuất hiện” với nhận thức về sự “cần thiết phải trình bày lại vấn đề bản chất và sứ mệnh của Giáo hội”. Theo ngài, Công đồng Vatican II đã sửa một quan niệm đã bị bỏ qua “một bên của chủ nghĩa hiện thực của đức tin và các định chế của nó” làm cho vị trí mà Giáo hội chiếm giữ trên thế giới trở thành “vấn đề trọng tâm”.

Ngày thứ sáu 7 tháng 10, ngài gởi một thư có ký tên cho linh mục Dave Pivonka, viện trưởng Viện Đại học Dòng Phanxicô Steubenville (Hoa Kỳ), nơi tổ chức một hội nghị chuyên đề về giáo hội học của giáo hoàng danh dự từ ngày 20 đến 21 tháng 10. Linh mục Federico Lombardi, chủ tịch Hiệp hội Ratzinger đọc bài diễn văn khai mạc hội nghị. Bây giờ rất hiếm khi ngài lên tiếng.

Trong bức thư ngài tóm tắt đường lối suy tư ngài đã làm khi bảo vệ luận án thần học – hơn mười năm trước Công đồng Vatican II – tập trung vào bản chất kép của Giáo hội, vừa là thể chế vừa là sự thật thiêng liêng.

Bắt đầu từ việc tách biệt giữa hai Giêrusalem – trần thế và trên trời – Đô thị của Chúa của Thánh Augutinô, ngài giải thích giáo hội học – thần học nghiên cứu đời sống Giáo hội – “về cơ bản được xử lý theo các điều kiện thể chế” cho đến Thế chiến thứ nhất, một quan điểm mà ngài cho là “một sai lầm chết người”.

Một công đồng không chỉ hữu ích mà còn cần thiết

Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh, sau đó ở Đức xuất hiện một đường lối đặt “chiều kích thiêng liêng” lên trước. Sự tiến triển này đã được Tòa Thánh tính đến, Đức Piô XII đã thiết lập nguyên tắc Giáo hội là “nhiệm thể Chúa Kitô” trong thông điệp Mystici Corporis của ngài năm 1943. Ngài giải thích, chính trong chiều hướng này mà luận án của ngài, bắt đầu vào những năm 1950, được xác định, tìm thấy một áp dụng bất ngờ – “tháng 1 năm 1946, không ai nghĩ đến một công đồng đại kết ” – trong Công đồng Vatican II, trong đó ngài tham dự với tư cách là chuyên gia. Ngài nhấn mạnh sự kiện này, dù công đồng tạo nhiều nghi ngờ, nhưng công đồng chứng tỏ không những hữu ích mà còn cần thiết.

Ngài nhận ra, qua việc giải quyết triệt để những câu hỏi mới về thần học của các tôn giáo hoặc mối liên hệ giữa đức tin và lý trí, Công đồng Vatican II “trước hết đe dọa sự ổn định và rung chuyển Giáo hội hơn là mang lại cho Giáo hội một sự rõ ràng mới cho sứ mệnh của mình”.

Tuy nhiên ngài tin rằng, hiện nay “sức mạnh tích cực của Công đồng đang dần xuất hiện” với nhận thức “cần phải trình bày lại vấn đề bản chất và sứ mệnh của Giáo hội”. Theo ngài, Công đồng Vatican II đã sửa một quan niệm đã bị bỏ qua “một bên của chủ nghĩa hiện thực của đức tin và các định chế của nó” làm cho vị trí mà Giáo hội chiếm giữ trên thế giới trở thành “vấn đề trọng tâm”.

Một giáo hoàng đã rất yếu

Dù đã 95 tuổi và rất yếu nhưng Đức Bênêđíctô XVI vẫn còn tiếp khách. Ngài nói rất yếu nhưng vẫn giữ được trí tuệ minh mẫn. Ngài về hưu hơn 9 năm rưỡi, thời gian dài hơn thời gian ngài làm giáo hoàng.

Ngày 27 tháng 8, ngài đã tiếp các tân hồng y Đức Phanxicô phong trước đó. Tuy nhiên, tình trạng sức khỏe của ngài không cho phép ngài nói chuyện với họ.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài mới nhất