Home Blog Page 362

Hơn 400 linh mục Ý là mục tiêu trong một báo cáo lạm dụng tình dục

Hơn 400 linh mục Ý là mục tiêu trong một báo cáo lạm dụng tình dục

Ngày thứ tư 1 tháng 2, hai hiệp hội bảo vệ các nạn nhân đã công bố một bản báo cáo trong đó họ liệt kê hơn 400 linh mục bị buộc tội hoặc kết án về bạo lực tình dục với trẻ vị thành niên. Các báo cáo đưa ra sự thiếu minh bạch của hàng giáo sĩ Ý và việc thiếu phương tiện để làm sáng tỏ hiện tượng này.

la-croix.com, Raphael Jacomini, 2023-02-03

Cuộc biểu tình của các nạn nhân hành vi ấu dâm của các linh mục ở Napoli ngày 7 tháng 4 năm 2018, theo sáng kiến của hiệp hội Rete l’Abuso. Trong một thống kê, hiệp hội báo cáo có 418 trường hợp các linh mục bị kết án hoặc buộc tội lạm dụng tình dục trong mười ba năm qua. SALVATORE LAPORTA / IPA/MAXPPP

Ngày 1 tháng 2 năm 2023, hiệp hội Ý Rete l’Abuso, cùng với hiệp hội quốc tế ECA Toàn cầu (Chấm dứt nạn giáo sĩ lạm dụng) đã công bố một báo cáo về bạo lực tình dục trong Giáo hội Ý. Hiệp hội kê ra 418 trường hợp linh mục bị kết án hoặc buộc tội trong mười ba năm qua.

Con số này gồm 88 đơn tố cáo ẩn danh, 166 đơn đang trong quá trình xét xử và 164 trường hợp giáo sĩ đã bị kết án. Báo cáo này chỉ liên quan đến trẻ vị thành niên và không tính đến các giáo dân dấn thân. Tuy nhiên, theo các hiệp hội, con số này thấp hơn con số thực sự của hiện tượng.

Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Ý: các giám mục sẽ bỏ lệnh cấm nói không?

Hiệp hội Rete l’Abuso và chủ tịch của hiệp hội là ông Francesco Zanardi đã nhiều lần phản đối sự thiếu minh bạch của Giáo hội Ý. Tại Ý chưa có cuộc điều tra độc lập nào được công bố. Ở trong nước, các linh mục có uy tín lớn và hiếm khi bị tấn công công khai. Các giám mục được bảo vệ bởi điều 4 của thỏa hiệp (concordat), trong đó quy định họ “không bắt buộc phải cung cấp cho các quan tòa hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác thông tin về những người hoặc sự kiện mà họ biết được vì lý do thừa tác vụ của họ”.

Báo cáo Ciase là mô hình mẫu

Vì thế báo cáo này nhằm mục đích làm sáng tỏ một hiện tượng mà theo các hiệp hội là “có hệ thống”. Họ muốn một cơ quan độc lập được thành lập theo mô hình Ciase (Ủy ban Độc lập về các vụ Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp) và có phương tiện thực sự để điều tra. Các nước Pháp, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha và Ireland gần đây đã công bố các cuộc khảo sát thuộc loại này.

Ở Ý, bất đồng về phương pháp trực diện với các vụ tấn công tình dục

Tháng 5 năm 2022, hồng y Matteo Zuppi, chủ tịch Hội đồng Giám mục Ý (CEI), đã công bố một báo cáo do các nhà nghiên cứu dẫn đầu về tội ác của hàng giáo sĩ trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2021. Tài liệu này đến nay chưa được công bố nhưng đã gây ra nhiều chỉ trích.

Các nạn nhân bị lạm dụng trong Giáo hội Ý trông cậy vào hồng y Matteo Zuppi

Một cuộc điều tra cẩn thận

Độ ngắn của thời gian trong cuộc kiểm tra được nêu lên. Thêm nữa, các chuyên gia chỉ được quyền truy cập kho lưu trữ tài liệu của các giáo phận và của bộ Giáo lý Đức tin. Hiệp hội Rete ‘Abuso nhấn mạnh đến sự thận trọng lớn lao  và những thiếu sót trong dự án này, họ muốn chất lượng hơn số lượng. Chẳng hạn hiệp hội cho biết, có rất nhiều nạn nhân  bạo lực chưa bao giờ báo cho công lý dân sự hay giáo luật biết hoàn cảnh chịu đựng của họ.

Để khắc phục điều mà các hiệp hội cho là thiếu minh bạch, báo cáo đầu tiên này có mục đích cung cấp các số liệu và nhấn mạnh đến bản chất “đại dịch” của hiện tượng này. Theo các hiệp hội, điều quan trọng ở Ý hơn các quốc gia khác ở Âu châu là Giáo hội công giáo nắm giữ vị trí ở đây rất mạnh. Trong cuộc họp báo trực tuyến, ông Francesco Zanardi giải thích bản báo cáo này sẽ được gởi đến văn phòng công tố Ý, cũng như Liên Hiệp Quốc. Hiệp hội của ông cũng chuẩn bị một bản kiến nghị mà họ sẽ gởi đến Liên hiệp Âu châu.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Giáo hội Ý bắt đầu lên tiếng về các vụ lạm dụng tình dục

Động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ và Syria: Mẹ Maria đứng vững trong đống đổ nát

Động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ và Syria: Mẹ Maria đứng vững trong đống đổ nát
fr.aleteia.org, Agnès Pinard Legry, 2023-02-07
Nhà thờ Truyền tin (Thổ Nhĩ Kỳ), ngày 6 tháng 2 năm 2023.
Ngày thứ hai 6 tháng 2, một trận động đất mạnh 7,8 độ Richter ở miền Nam Thổ Nhĩ Kỳ và Syria đã làm cho hơn 5.000 người thiệt mạng và hàng ngàn người bị thương. Cuộc sống người dân ở đây tan nát, các tòa nhà thành gạch vụn như Nhà thờ Truyền tin ở Alexandretta (miền nam Thổ Nhĩ Kỳ). Và như hình ảnh của niềm hy vọng, Mẹ Maria vẫn đứng vững. Trên trang Facebook của Linh mục Dòng Tên Thổ Nhĩ Kỳ, Antuan Ilgit (https://www.facebook.com/ilgitsj), cha đăng hai bức hình kèm nhau, một bức tranh Đức Mẹ, một bức tượng Đức Mẹ.
Giáo dân thường hát tôn kính Đức Mẹ: “Mẹ vẫn trung kiên đứng dưới chân thập giá.” Ở đây, một lần nữa Mẹ đứng vững trên đôi chân của Mẹ. Và luôn trung thành.
Ngày thứ hai 6 tháng 2, một trận động đất mạnh 7,8 độ richter đã tàn phá đất nước Thổ Nhĩ Kỳ và Syria. Khung cảnh hoang tàn, những tòa nhà sụp đổ. Dưới con mắt bất lực của người dân, khung cảnh như ngày tận thế.
Nhà thờ Truyền Tin, nhà thờ chính tòa của giáo phận Tông tòa Anatolia đã bị phá hủy hoàn toàn. Nhưng như một tia hy vọng, tượng Trinh Nữ Maria vẫn đứng vững giữa đống đổ nát. Linh mục Antuan Ilgit chia sẻ ảnh Đức Mẹ trên Facebook của cha: “Bây giờ những hòn đá sống ở đây cần sự quan tâm của mọi người, và được Chúa giúp đỡ, chúng ta có thể xây dựng lại mọi thứ”.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Bài đọc thêm: Đức Phanxicô gởi điện tín tương trợ đến Thổ Nhĩ Kỳ và Syria
Hình ảnh ở nhà thờ chính tòa giáo phận Tông tòa Anatolia

Hệ sinh thái, di cư: thách thức ở hai đầu

Hệ sinh thái, di cư: thách thức ở hai đầu

Chương 18 sách Công giáo trong tự do

Trích sách Công giáo trong tự do (Catholique en liberté, nxb. Salvator, 2019)

renepoujol.fr, René Poujol, 2022-01-28

Thách thức sinh thái và thách thức di cư có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Liên Hiệp Quốc ước tính năm 2050 sẽ có 250 triệu người phải di cư chỉ riêng vì khí hậu toàn cầu nóng lên. Những vấn đề này, chắc chắn sẽ nổi bật trong những tranh luận khi tranh cử tổng thống. Nhưng liệu họ có đáp ứng được thử thách không? Chúng ta nhớ lại lời cảnh báo của Đức Phanxicô trong Thông điệp Chúc tụng Chúa Laudato Si’: “Trên những vấn đề này, các môi trường thích đáng chỉ làm chậm lại một chút sự sụp đổ. Nó chỉ đơn giản xác định lại tiến trình.” (194) Chỉ đơn giản thế!”

Bên đầu giường ngôi nhà chung của chúng ta và cư dân của nó

Vì thế, thách thức sinh thái đã trở thành vấn đề chính của đầu thiên niên kỷ thứ ba này. Bởi vì sự tồn vong của hành tinh đang bị đe dọa và vì thế chính nhân loại bị đe dọa, số phận của hành tinh hoàn toàn gắn liền với nhân loại. Việc huy động người trẻ là dấu hiệu khích lệ của một ý thức tận căn, báo cáo của chuyên gia này đến chuyên gia khác đều luôn nhận xét giống nhau. Đó là sự chậm trễ thảm khốc trong việc lên chương trình các chính sách công nhằm ngăn chặn khí hậu toàn cầu nóng lên và bảo vệ sinh học đa dạng. Trong một thời gian dài, đã có sự hiểu lầm nổi trội giữa các nhà sinh thái học và Giáo hội công giáo. Đó là do câu chuyện trong sách Sáng thế ký, nơi họ đọc được quyền tự do – nếu không phải là mệnh lệnh – của Chúa truyền cho con người thành kẻ săn mồi: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.”

Hệ sinh thái, được Giáo hội trình bày, – 43 năm sau khi phát triển – như “một danh xưng mới của hòa bình!”

Tuy nhiên, nếu báo cáo Meadows của Câu lạc bộ Rôma từ năm 1972 đã ra giới hạn cho sự phát triển trong một thế giới hữu hạn, và nếu việc René Dumont ra ứng cử tổng thống năm 1974 đã khơi dậy lương tâm sinh thái của nhiều người Pháp thì sẽ không công bằng khi cho rằng sau đó Giáo hội công giáo mới nhảy vào cuộc chiến. Năm 1970, Đức Phaolô VI đã tuyên bố tại cuộc họp Lương nông Quốc tế ở Rôma: “Sự suy thoái dần dần của cái gọi là môi trường có nguy cơ dẫn đến một thảm họa sinh thái thực sự”. Một bài diễn văn được các giáo hoàng kế vị Đức Gioan-Phaolô II, sau đó là Đức Bênêđíctô XVI đã không mệt mỏi nhắc lại, Đức Bênêđíctô XVI viết trong thông điệp ngày Thế giới Hòa bình năm 2010: “Nếu bạn muốn xây dựng hòa bình, hãy bảo vệ tạo vật”. Vì vậy, trên thực tế, sinh thái học đã có một “danh xưng mới của hòa bình”, cho sự phát triển của các dân tộc, được Đức Phaolô VI nêu lên trong thông điệp Phát triển các Dân tộc, Populorum Progressio năm 1967 của ngài. Một cuộc cách mạng triệt để không đáng để ăn năn như dấu hiệu của nhận thức chung về xã hội chúng ta. Trên thực tế, giấc mơ hào phóng của những năm 1970 khi người ta nghĩ đảm bảo cho sự phát triển các quốc gia trẻ của Thế giới Thứ ba bằng cách cho họ tiếp cận với mô hình tăng trưởng của các nước phương Tây đã đụng với những giới hạn của một thế giới hữu hạn.

Các tăng trưởng mạnh mẽ có thể phá hủy xã hội

Tôi nợ độc giả một lời thú nhận ở đây. Người “tín hữu xã hội” là tôi, tôi nhận Thông điệp Chúc tụng Chúa Laudato Si như lời kêu gọi cho một hình thức tận căn hóa. Không có nghĩa là dùng đến một phương thức hành động bạo lực. Nhưng làm cho nhất quán phân tích tình trạng như Thông điệp và các chính sách phải hỗ trợ hay phải thúc đẩy đề xuất. Một trăm tám mươi độ quay cho người hoạt động cho các Tuần lễ xã hội của Pháp mà tôi gắn bó từ lâu, sau khi bắt đầu các khóa học của chàng học sinh trẻ 17 tuổi, theo lời mời của hai giáo sư của tôi, cha Rouquairol và Cô Carrière, những người biết rõ tôi quan tâm đến các vấn đề liên quan đến sự phát triển của Thế giới thứ Ba. Trên thực tế, trong năm học 1966-1967, tôi đã làm chủ tịch một ủy ban của những người trẻ Chiến dịch Thế giới chống lại nạn đói do các cơ quan công quyền khởi xướng dưới sự bảo trợ của ông Maurice Schumann, và đã thành công trong việc vận động học sinh trường công, trường tư theo. Lần đầu tiên ở Nam Aveyron của tôi, nơi sự đối lập giữa người thế tục và người công giáo tiếp tục cấu trúc nhiều khía cạnh của đời sống xã hội và chính trị.

Các Tuần lễ Xã hội từ lâu đã thúc đẩy một chủ nghĩa cải cách gần với dân chủ xã hội. Tôi nhớ trong một cuộc phỏng vấn với ông Michel Albert năm 1982, lúc đó ông là một trong những trụ cột. Ông vừa rời chức vụ Tổng ủy viên Kế hoạch và đã xuất bản một quyển sách có tác động trên tôi: Đánh cuộc của người Pháp (Le Pari Français). Tôi còn giữ trong ký ức một câu trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi, là thói quen của tín hữu kitô trong xã hội một thời gian dài: “Những phát triển mềm mại làm cho xã hội thành cứng rắn”. Thật không may, bây giờ chúng ta biết những phát triển mạnh mẽ lại có thể phá hủy các xã hội. Ngay cả khi nếu tầng lớp chính trị và hầu hết các phương tiện truyền thông đi theo nó, dường như luôn chạy theo sự tăng trưởng như phương tiện tối hậu để giảm tỷ lệ thất nghiệp. Cùng năm 1982, các giám mục Pháp ấn hành một tuyên bố “Vì những cách sống mới”, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế đánh dấu qua tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, những bất bình đẳng và khốn cùng. Đã có một trực giác sâu đậm về sự hoán cải cá nhân và tập thể để đối diện với thách thức sinh thái.

Hệ sinh thái: khi các nhà khoa học thách thức các nhà lãnh đạo tinh thần

Như nhiều người công giáo ở thế hệ tôi, tôi đã vận động cho “sự phát triển các dân tộc và của tất cả các dân tộc”, việc này đã ảnh hưởng sâu đậm đến các phong trào bắt nguồn từ Giáo hội như hướng đạo hoặc Ủy ban Công giáo chống nạn Đói và hỗ trợ phát triển (CCFD) sau này trở thành CCFD-Đất Đoàn kết. Là nhà báo trẻ, tôi ủng hộ phong trào này, sau đó được cha Bernard Holzer Dòng Mông Triệu điều hành, chống lại các cuộc tấn công thường xuyên của Tạp chí Figaro tố cáo Ủy ban thông đồng với các nhà thần học giải phóng Châu Mỹ La-tinh, họ bị nghi ngờ theo chủ nghĩa Marx. Tôi đã sống kinh nghiệm đau thương khi hệ sinh thái “phản nhân văn” (Laurent Larcher) xuất hiện. Trước khi dần dần nhận thấy, những người bảo vệ hăng hái nhất hành tinh, nhận thức được rằng cuộc chiến này mang ý nghĩa thiêng liêng sâu đậm, đã kêu gọi các nhà chức trách tôn giáo vận động dư luận chống lại sự bất di bất dịch của các chính phủ. Một ngày sau thất bại của COP15 ở Copenhagen, tháng 12 năm 2009, ông Michel Serres đã viết trên tờ Le Monde: “Copenhagen là về địa chính trị mà các thỏa thuận Munich, vào tháng 9 năm 1938, là về chính trị: một thỏa hiệp hèn nhát và một kế hoãn binh.”

Trước đó vài tuần, tôi đã khám phá ra quyển sách phỏng vấn giữa Jacques Arnould, thần học gia, sử gia khoa học, và nhà khoa học Jacques Blamont, lúc đó ông là cố vấn cho Chủ tịch của Trung tâm Nghiên cứu Vũ trụ Quốc gia, CNES1). Ông Blamont, người không che giấu mình vô thần, đã thách thức gay gắt với thần học gia: “Vì thế, câu hỏi tôi đặt ra cho ông, nhà thần học, là: khi đối diện với một phản ánh chính trị không tồn tại, cả ở cấp độ khu vực và trên một trên phạm vi toàn cầu, các ông, các Giáo hội thể hiện mình bằng sự vắng mặt của các ông, các ông có thể đi ra khỏi giấc ngủ giáo điều của các ông không, các ông có cơ hội để tìm thấy trong các lực sống của các ông những nền tảng của một cuộc đổi mới sẽ làm biến đổi đạo đức tập thể và đạo đức cá nhân không?”

Ngày 3 tháng 10 năm đó, nhân danh báo Pèlerin, tôi mời ông đến họp bàn tròn trong ngày lễ Tạo dựng sáng tạo do các Tu sĩ Huynh đoàn Giêrusalem khởi xướng tại nhà thờ Saint-Gervais ở Paris, hợp tác với Tu viện Sylvanès tổ chức. Ông Jacques Blamont bối rối, đã hủy bỏ vào phút cuối, ngày hôm đó ông được mời đến Rôma, nơi các chức sắc cao cấp của Vatican quan tâm đến các phân tích của ông, muốn gặp ông. Ông Patrice de Plunkett, người nhiệt tình bảo vệ cho cuộc chiến sinh thái, đã thay thế ông trong cuộc tranh luận.

Triết gia Edgar Morin khen ngợi thông điệp của Đức Phanxicô

Lời kêu gọi đặt ra cho giáo hoàng, cân nhắc bằng tất cả sức nặng quyền lực thiêng liêng của mình để làm cho các nhà lãnh đạo trên thế giới phải đối diện với trách nhiệm của họ, đã được đổi mới, từ Michel Rocard đến Nicolas Hulot phụ trách việc chuẩn bị cuộc họp COP 21. Ngày 13 tháng 3 năm 2013, hồng y Argentina Bergoglio được bầu làm giáo hoàng và lấy tên là Phanxicô, để tỏ lòng tôn kính Thánh Phanxicô Assisi, người đã “nói chuyện với các loài chim muông”. Hai năm sau, ngày 24 tháng 5 năm 2015, ngài ký thông điệp Thông điệp Laudato Si, một văn bản được triết gia và xã hội học người Pháp Edgar Morin ca ngợi là “quan phòng”. Ngày 27 tháng 6 năm 2019, ông tuyên bố sau khi gặp giáo hoàng trong buổi tiếp kiến riêng tại Vatican: “Giáo hoàng ngày nay đại diện cho ý thức cao nhất về số phận của nhân loại.”

Chúng ta hình dung một loại phát triển “phẩm chất” khác 

Laudato si, một văn bản quan trọng, tóm tắt, củng cố và mở rộng tư tưởng kitô giáo về sinh thái, mang lại cho thời điểm một chiều kích đầy đủ của nó, nhằm phục vụ toàn thể gia đình nhân loại và phục vụ cho “ngôi nhà chung”, trái đất của chúng ta. Bản ghi nhận thu thập phần lớn công việc của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hâu, GIEC. Hết cách cứu chữa. Sự suy giảm đa dạng sinh học, cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo, sự gia tăng ô nhiễm đất, nước và không khí, sự gia tăng của các xáo trộn khí hậu có khả năng tạo ra các cuộc di cư ồ ạt và chiến tranh. Tuy nhiên, ở đây chính hoạt động của con người là chính chứ không phải sự quay trở lại đơn giản của các chu kỳ tự nhiên. Phương thức sản xuất và tiêu dùng của chúng ta, vốn tạo ra chất thải và hủy hoại môi trường, không thể được tiếp tục hoặc khái quát hóa mà không dẫn đến thảm họa. Do đó, một  kiểu phát triển “phẩm chất” khác phải được hình dung và thực hiện, tôn trọng các cân bằng tự nhiên và quyền của những người nghèo nhất. Đối với chúng ta, đó là lựa chọn thanh đạm hơn, nhưng một “thanh đạm hạnh phúc” (Pierre Rahbi) giàu chất lượng cuộc sống và các tương quan giữa con người hơn.

“Chúng ta phải mời gọi các tín hữu nhất quán hơn với đức tin của riêng mình” – Đức Phanxicô –

Đức Phanxicô viết, “chúng ta phải sớm thay đổi lối sống để tạo áp lực trên các nhà cầm quyền”, với mệnh lệnh này ngài muốn nói với người công giáo nhưng cũng với những ai có thiện tâm: “Phải mời gọi các tín hữu nhất quán với đức tin của riêng họ, đức tin không đi ngược với hành động của mình.” Và từ đó là thắng lợi! Bởi vì giải pháp, bên cạnh những thay đổi sâu sắc trong cách tiêu dùng và lối sống, vốn khó với chính nó, qua các lựa chọn chính trị không đạt được sự đồng thuận… Thì chỉ vì mâu thuẫn lợi ích mà tham gia. Cho mỗi chúng ta! Không phải thắng được nhờ ý tưởng của giáo hoàng, theo đó: “Trên những vấn đề này, các môi trường đúng chỉ trì hoãn một chút sự sụp đổ”, của các nhà cầm quyền chúng ta, các trọng tài chính trị dưới hình thức thỏa hiệp. Nó không thắng vì chính ý tưởng về hệ sinh thái toàn diện mà tạp chí trẻ Giới hạn Limite, được thành lập theo tinh thần thông điệp và do ông Paul Piccarreta điều khiển, đã dũng cảm đảm nhận phần biên tập, nuôi dưỡng cho các nhà chú giải khác nhau. Một số người tố cáo cách đọc bảo thủ của khái niệm, bằng cách nhấn mạnh các câu hỏi đạo đức sinh học – tuy có mặt trong tư tưởng của giáo hoàng và không cấu thành bản chất của tạp chí – sẽ làm tổn hại đến sự hội tụ các lực lượng chính trị có khả năng đồng ý về các mục tiêu xã hội và môi trường. Như thể thách thức trên tất cả là không làm tổn hại đến sự thống nhất hành động giữa các nhà sinh thái kitô giáo và một số lực lượng cánh tả bị mắc kẹt trong một hình thức chủ nghĩa tự do hậu 68, đã trở thành “không thể thương lượng”!

Laudato si’ thật sự là kim chỉ nam cho tư tưởng xã hội của Giáo hội

Bằng cách khẳng định, “Giáo hội không tự cho mình có quyền phán xét các vấn đề khoa học cũng như không thay thế mình cho chính trị nhưng (mời gọi) có một cuộc tranh luận trung thực và minh bạch”, Đức Phanxicô muốn có một đối thoại cởi mở với xã hội, không có một hậu ý chiêu dụ nào. Liệu ngài có được lắng nghe không? Có thể, giống như triều giáo hoàng của ngài, thông điệp sẽ được đón nhận với lòng nhiệt thành và lòng biết ơn bên ngoài Giáo hội hơn là trong chính hàng ngũ của mình. Tuy nhiên, nhiều người công giáo đã biết ơn ngài vì đã cho Giáo hội của họ, qua bản văn tiên tri này, một khuôn mặt của sự dấn thân và quảng đại phục vụ cho tất cả các chủ nhân ông của “ngôi nhà chung” của chúng ta.

Nói cách khác, Laudato Si giờ đây được xem như kim chỉ nam thực sự cho tư tưởng xã hội của Giáo hội dành cho “những tín hữu xã hội”. Quyển sách này không có tham vọng đưa ra một danh sách tất cả những nơi mà sự dấn thân của người tín hữu có thể tham gia vào sự dấn thân của hàng triệu đồng bào chúng ta. Nhưng làm sao chúng ta lại không thấy Laudato Si đã làm sáng tỏ một cách độc đáo cả về sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy, được đề cập trong chương trước và về vấn đề di cư.

Nhân loại triền miên di cư kể từ khi có con người xuất hiện trên trái đất.

Về vấn đề nhập cư, tôi thú nhận, tôi bị choáng ngợp bởi sự bất lực cá nhân và tập thể của chúng ta không tìm ra câu trả lời đúng tầm mức cho những thách thức, và điều này trong nhiều thập kỷ, dưới tất cả các chính phủ và ở cả cấp độ Âu châu. Những hình ảnh tiếp tục ám ảnh tôi: những vụ trục xuất bạo lực người vô gia cư không giấy tờ, hàng loạt ở các trại ngoại ô thành phố và ở rừng rậm vùng Calais, dòng người tị nạn vô tận ở cửa ngõ châu Âu bị chận bằng những bức tường rào thép gai, những thi thể vô hồn như thi thể của em bé Aylan, nằm úp mặt xuống đất, bị sóng biển Địa Trung Hải cuốn vào một bãi biển ở Thổ Nhĩ Kỳ, những con thuyền trôi dạt vào bờ biển Ý, chuyến đi bất ngờ của Đức Phanxicô đến đảo Lampedusa ba tháng sau khi ngài được bầu chọn, ngài tố cáo “sự thờ ơ toàn cầu hóa”… Và cùng lúc có rất nhiều lời chứng, nhiều cuộc gặp gỡ thực sự, việc tiếp nhận vô điều kiện ở nhiều nơi khác nhau trên nước Pháp, từ Col de Montgenèvre đến Dunkirk, ngay cả vi phạm luật pháp, nhân danh tình anh em hoàn vũ và nghĩa vụ đoàn kết. Ba ngày trước khi bắt đầu viết quyển sách này, tôi tham dự một cuộc tranh luận xung quanh những người có trách nhiệm của Trung tâm tiếp nhận người xin tị nạn, CADA ở thị trấn nhỏ St-Afrique của tôi, trước sự chứng kiến của một trong những người di cư được tiếp nhận, đang chờ một quyết định hành chính, người đã trốn khỏi châu Phi và bị tra tấn ở Libya. Tôi rất ngạc nhiên và vui mừng trước cách mà vài chục người có mặt bày tỏ quyết tâm công dân của họ, để tiếp tục giúp đỡ những gia đình này, những người mà họ đã kề vai sát cánh, những người nói rằng họ đã quyết tâm để đứa con chưa thành niên của họ trên đất Pháp để tránh cho chúng khỏi bị trục xuất, nếu chẳng may họ bị từ chối quy chế tị nạn!

Chúng ta có khuynh hướng quên nhân loại đang triền miên di dân kể từ khi có con người trên quả đất này. Dù chế độ định cư đã thay thế chế độ du cư nguyên thủy. Nhưng bản thân quá trình định cư luôn là hậu quả của các cuộc khủng hoảng khí hậu, khi có mối đe dọa lại đè nặng, các cuộc chiến tranh hoặc các khuynh hướng bành trướng, khi nó không hoàn toàn đơn giản là các cuộc khủng hoảng xã hội ném hàng triệu đàn ông và phụ nữ xuống con đường lưu vong, để tìm kiếm việc làm hoặc sinh tồn… Pháp đã trải qua những làn sóng di cư liên tiếp từ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, Ý, Ba Lan, và sau đó là Việt Nam. Chúng ta quên mất, sự hội nhập của họ đôi khi rất khó khăn, với rất nhiều bạo lực.

Cứu “nền văn minh châu Âu” chống lại di sản tinh thần kitô giáo?

Vấn đề di dân từ lâu đã chia rẽ người dân Pháp cũng như thế giới công giáo. Sự chia rẽ bị đào sâu một cách lạ lùng khi chủ yếu người nhập cư ở nước Pháp hiện nay là người hồi giáo – Ả Rập hoặc Châu Phi – và rằng, với nhiều người di cư, sẽ không thể quay về lại nước gốc của họ. Những sự kiện ấn tượng khi chúng ta chứng kiến trong những năm 2015-2016 nhiều người tị nạn chen chúc tại các cửa ngõ châu Âu, cuối cùng đã đào sâu hố ngăn cách giữa người này và người kia. Việc xuất bản đồng thời, vào đầu năm 2017, quyển sách Giáo hội và nhập cư, tình trạng bất ổn (Église et immigration, le malaise2) của tác giả Laurent Dandrieu và quyển Tính đồng nhất, tinh thần xấu xa của kitô giáo (Identitaire, le mauvais génie du christianisme3) của tác giả Erwan le Morhedec mang đến các yếu tố để tranh luận không hồi kết. Tác giả Dandrieu phát triển luận điểm về một kế hoạch phối hợp cho cuộc xâm lược Âu châu để biến Âu châu thành vùng đất hồi giáo. Nhưng liệu việc từ chối – hoặc không thể từ chối – áp đặt một lô-gích đồng hóa lên người hồi giáo có dẫn đến việc củng cố một chủ nghĩa cộng đồng đang hủy hoại các giá trị, cách sống của chúng ta, nói cách khác: nền văn minh của chúng ta hay không. Tác phẩm của Erwan le Morhedec, được xuất bản đồng thời nhưng theo cách hoàn toàn ngẫu nhiên, hoàn toàn đúng đắn, ông phản đối việc không thể gán một bản sắc cố định cho một quốc gia hoặc ra sắc lệnh vào một lúc nào đó trong lịch sử của quốc gia đó, hơn nữa ông còn nói thêm: “Bản thân một quốc gia có thể là kitô giáo, (…) có vẻ như là sai từ quan điểm tâm linh cũng như văn hóa.”

Đối với ông Dandrieu, Giáo hội công giáo qua việc liên tục kêu gọi tiếp nhận vô điều kiện những người tị nạn và di cư, cũng như tôn trọng bản sắc của họ, đã đưa ra lựa chọn cho các xã hội châu Âu thế tục hóa, đa sắc tộc và đa văn hóa. Nó có nguy cơ làm xói mòn sự thống nhất quốc gia của chúng ta và đẩy lục địa châu Âu vào cuộc nội chiến. Vì vậy, theo ông, nền văn minh châu Âu sẽ đòi hỏi mình được cứu để chống lại kitô giáo! Chống lại chính những giá trị tinh thần đã xây dựng nó, trong đó có sự tiếp nhận những người khách lạ mà Chúa Kitô tự nhận mình trong các Tin Mừng. Việc cấp bách để bảo vệ cây là chặt rễ, nếu cần thiết! Bảo tồn văn hóa của kitô giáo với cái giá phải trả là đức tin kitô.

Giáo hội trước hết bảo vệ “quyền của mọi người không được di cư

Trả lời như thế nào? Rằng, với câu hỏi này, Giáo hội không nắm giữ chìa khóa, Giáo hội hợp pháp để bảo vệ một đạo đức xác tín, nơi các nhân viên chính phủ xác định các đường nét của một đạo đức trách nhiệm, để nhìn lại ở đây sự khác biệt thân thiết với Max Weber. Và hơn nữa, nếu Giáo hội tố cáo “tiếp đón vô nhân đạo” (linh mục Benoist de Sinety) hoặc nhắc lại như một mệnh lệnh phúc âm về sự tôn trọng đối với người nước ngoài, cả khi người đó ở trên đất chúng ta, thì không bao giờ Giáo hội chỉ mời các dân tộc nhổ tận gốc và di cư. Ngược lại, việc kêu gọi cộng đồng quốc tế cho phép tất cả mọi người tiếp tục sống ở quê hương mình, là điều thường thích ứng với với mong muốn thân yêu nhất của họ. Có điều gì đó làm tôi nhớ đến Chúng tôi muốn sống ở đất nước (Volem viure al pạs) của những nông dân ở Larzac bị đe dọa trục xuất vào những năm 1970 và những người đã nhận được sự nâng đỡ của ông Lanza del Vasto, và còn của các giám mục giáo phận Rodez và Montpellier trong một lần ăn chay tượng trưng… mà tôi cũng có tham dự.

Đức Phanxicô viết ở một trong những thông điệp Ngày Di cư Thế giới: “Giáo hội đứng về phía tất cả những ai tìm cách bảo vệ quyền để mọi người được sống có phẩm giá, trên hết bằng cách thực hiện quyền không di cư của họ để đóng góp vào sự phát triển của nước gốc.”

Nước Pháp của tự do và Nhân quyền đang khép mình trong lớp vỏ và những đặc quyền của mình với tư cách là quốc gia giàu có.

Ai có thể tưởng tượng được, một người đàn ông trẻ lại bỏ những người anh yêu thương, có khi là phải bỏ vợ con, đối diện với nguy cơ có thể bị lưu đày, bị đánh đập, bạo lực, tra tấn và nô lệ, có thể bị đắm tàu ở Địa Trung Hải, vì anh biết ở Pháp anh có thể có được chăm sóc y tế miễn phí không? Chúng ta đang ở trong vùng ý thức hệ. Thêm nữa, mọi người di cư châu Phi đã nhận ra, than ôi, lời tiên tri của Tổng thống Boumediene tuyên bố năm 1976 tại Liên Hợp Quốc: “Một ngày nào đó, hàng triệu người sẽ rời các vùng nam thế giới để xông vào các nơi tương đối dễ đến ở bắc bán cầu, để tìm kiếm sự sống còn cho chính họ.”

Nhiều tháng tôi đã không viết chữ nào trên trang blog của tôi về việc di cư. Vì quá mệt mỏi và chán nản. Cho đến ngày 17 tháng 1 năm 2018 khi tôi lôi trong thư viện của tôi quyển sách phỏng vấn viết năm 1990 với giám mục Jacques Delaporte, tổng giám mục giáo phận Cambrai, lúc đó là Chủ tịch Ủy ban Di cư của Hội đồng Giám mục Pháp. Một quyển sách với tiêu đề táo bạo, thậm chí có tính mị dân dưới mắt một số người: Nhập cư, trái tim và lý trí (Immigration, le cœur et la raison4), để nêu bật không có mâu thuẫn giữa hai thuật ngữ mà là sự hội tụ. Một quyển sách mà sự tiếp nhận xa vời, kể cả trên các phương tiện truyền thông công giáo, đến nỗi nhà xuất bản đã nhanh chóng quyết định đưa nó vào thùng rác. Tôi đã quên mình đã viết một lời tựa mà khi đọc lại, theo tôi, dường như ba mươi sau vẫn không hề lỗi thời chút nào. Tôi đã viết:

“Giải pháp thay thế, than ôi, đơn giản đến mức thảm thương cho tương lai: đóng bê tông ở biên giới châu Âu để bảo vệ chúng ta, khi đến ngày, những người tuyệt vọng vì đói hoặc để giảm áp lực, nếu vẫn còn thời gian, tấn công vào gốc của chính các phong trào di cư này. Cuối cùng, nó chẳng có gì  hơn là giải pháp thay thế cho chiến tranh hoặc hòa bình. Tuy nhiên, cũng các nhóm gây áp lực này tố cáo mối đe dọa của người nhập cư ở Pháp đã tìm cách gây nghi ngờ trên toàn cầu về sức viện trợ phát triển mà họ vẫn xem đây là giải pháp thay thế cho các phong trào di cư lớn. Vòng thắt đã được buộc lại. Nước Pháp của tự do và Nhân quyền đang khép mình trong lớp vỏ học, trong đặc quyền của mình với tư cách là một quốc gia giàu có. Sự mất uy tín chung đổ lên Thế giới thứ ba, các nhà lãnh đạo của họ, các dân tộc của họ và đổ lên hành động có lợi cho các tổ chức phi chính phủ luôn có thể dùng, khi đến lúc, để biện minh cho việc sử dụng vũ lực chống lại làn sóng mới của người di cư.”

Chúng ta đã đến đó!

“Người da trắng khiêm tốn” và người di cư cũng là nạn nhân của cùng một cơ chế bóc lột

Nhưng, trong việc chất vấn Giáo hội, một phê phán cần được cân nhắc. Với nhiều người, mệnh lệnh ngoan đạo của Giáo hội là đón nhận người lạ để là “người tín hữu kitô tốt” được xem là lời nói mang tính đạo đức về mặc cảm tội lỗi mà không tính đến điều kiện sống thực của họ. Vì đón nhận người nước ngoài là đòi hỏi công lý cho tất cả mọi người, điều còn đáng sợ hơn sự xuất hiện của chính những người tị nạn. Vì thế không một người di cư nào đã có mặt trên đất chúng ta, không một đồng bào “gốc Pháp” nào của chúng ta, dùng lại một thành ngữ đáng thảo luận lại, có thể bị nghi là người anh em khốn khổ của người Syria hay người Sudan đến cướp cơm, cướp nhà, cướp công ăn việc làm của họ. Những người khiêm tốn nhất trong số đồng bào của chúng ta, cư dân của các thành phố nổi tiếng với sự tập trung đông đúc của người hồi giáo, không được có cảm giác “không ở nhà mình” để đến mức đến lượt mình, di cư thêm một lần nữa, về đất nước gốc của mình…

Nhà báo Pierre Jova, người đã đi khắp nước Pháp trong hai năm để viết quyển sách về người tín hữu kitô đối diện với người di cư 5, khẳng định có sự gia tăng của một tình trạng “chán ngấy”, thù địch chống lại người di cư được xem là đặc quyền so với các tầng lớp lao động đang gặp khó khăn, nổi lên đây đó, trước những cáo buộc về việc bỏ rơi những “người da trắng khiêm tốn” không chỉ bởi xã hội mà còn bởi cả Giáo hội. Như thể cả hai đều không phải là nạn nhân như nhau của cùng một lô-gích mà Đức Phanxicô đã tố cáo trong thông điệp Laudato Si. Vì vậy, tất nhiên: “Châu Âu không thể đón nhận tất cả khốn cùng của thế giới, nhưng nó có thể chia sẻ phần của mình cách trung thực” (Michel Rocard).

Chúng ta không bao giờ có thể suy nghĩ đủ về câu nói này của Hoàng đế Hadrian, trong quyển tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Marguerite Yourcenar:

“Tất cả các dân tộc đã chết cho đến nay vì thiếu lòng quãng đại: Sparta sẽ tồn tại lâu hơn nếu ông quan tâm đến sự tồn tại của Helots (…). Tôi những muốn lùi lại, xa nhất có thể để tránh, nếu có thể, giây phút mà những người man rợ bên ngoài, những người nô lệ bên trong sẽ lao vào một thế giới mà người ta xin họ tôn trọng từ xa hoặc phục vụ từ bên dưới, nhưng lợi ích thì không dành cho họ. Tôi muốn những người bị tước đoạt nhiều nhất, nô lệ dọn dẹp bể nước các thành phố, người man rợ đói khát rình mò ở biên giới, có hứng thú để thấy Rôma trường tồn.”

  1. Chỗi dậy và đi (Lève-toi et marche, Jacques Arnould và Jacques Blamont, nxb. Odile Jacob, Paris).
  2. Giáo hội và nhập cư, tình trạng bất ổn (Église et immigration, le malaise, Laurent Dandrieu, nxb. Presses de la Renaissance, Paris, 2017).
  3. Tính đồng nhất, tinh thần xấu xa của kitô giáo (Identitaire, le mauvais génie du christianisme, Erwan le Morhedec, Identitaire, nxb. Éditions du Cerf, Paris, 2017).
  4. Nhập cư, trái tim và lý trí, phỏng vấn với René Poujol (Jacques Delaporte, nxb. Desclée de Brouwer, 1990).
  5. Tín hữu kitô đối diện với người di cư (Les chrétiens face aux migrants, Pierre Jova, nxb. Tallandier, Paris, 2019).

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: “Vấn đề xã hội” mới

 

 

 

 

 

Các giáo hoàng trên máy bay Boeing 747 đã thay đổi Giáo hội công giáo và triều các giáo hoàng như thế nào

Các giáo hoàng trên máy bay Boeing 747 đã thay đổi Giáo hội công giáo và triều các giáo hoàng như thế nào

americamagazine.org, Jim McDermott, 2023-02-03

Hình ảnh Đức Phanxicô sau khi trả lời các câu hỏi của nhà báo trên chuyến bay từ Iqaluit, lãnh thổ Nunavut của Canada về Rôma ngày 29 tháng 7 – 2022. (Ảnh CNS / Paul Haring

Trong tập gần đây nhất của loạt phim HBO Max mới “The Last of Us”, một cô gái trẻ kinh ngạc trước đống đổ nát của chiếc máy bay trên sườn đồi. Là người đã sống cả đời trong thế giới hậu tận thế, ý tưởng du lịch bằng đường hàng không làm cho cô bị chóng mặt. Cô hỏi một người lớn: “Ông bay ở một trong những chiếc máy bay này à?” “Thỉnh thoảng, dĩ nhiên,” nói xong ông nhớ lại những phiền toái của chuyến bay, ghế ngồi ở giữa, thức ăn đắt tiền. Cô nói với ông: “Ồ, như vậy ông phải bay lên trời.”

Hơn 65 năm nay, rất nhiều người trong chúng ta đã có dịp “lên trời”. Và như nhà báo Sam Howe Verhovek đã viết trên tờ The New York Times tuần này, phần lớn trực tiếp hoặc gián tiếp là nhờ chiếc 747 của Boeing. Ngày 9 tháng 2 sắp tới, chiếc 747 sẽ kỷ niệm chuyến bay đầu tiên cách đây 53 năm, ngày 9 tháng 2 năm 1969, 747 đã có gần gấp ba lần chỗ ngồi của bất kỳ máy bay nào khác vào thời điểm đó và bình xăng cho phép nó bay xa gấp đôi chiếc 707, hơn 8.000 dặm – chính xác là khoảng cách từ New York đến Cape Town, hoặc từ Calcutta đến Los Angeles. 747 giúp số lượng người bay nhiều hơn và xa hơn. Bây giờ chúng ta phàn nàn đi máy bay cũng như đi xe buýt, nhưng đó là dấu hiệu cho thấy con đường chúng ta đã đi.

Trước năm 1964, trong 150 năm chưa có giáo hoàng nào rời khỏi Ý. Chiếc 747 ra đời và các chuyến bay đường dài cuối cùng đã đưa các giáo hoàng đi thăm thế giới và thế giới đến với giáo hoàng.

Một chuyện có thể không được thấy một cách hiển nhiên là mức độ di chuyển dễ dàng nhờ Boeing 747 cũng đã thay đổi Giáo hội. Một mặt, nó làm cho Rôma, Vatican và giáo hoàng có thể đến gần với mọi người từ khắp nơi trên thế giới. Năm 1960, toàn châu Âu có 50 triệu khách du lịch; năm ngoái, chỉ riêng Rôma đã có 15 triệu. Các sự kiện như các buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư, Kinh Truyền Tin ngày chúa nhật hay những buổi lễ ở Đền thờ Thánh Phêrô đột nhiên có tầm ảnh hưởng và tác động mà trước đây không thể có. Các khái niệm như “Giáo hội  phổ quát” hay “Tòa thánh” đã chuyển từ lãnh vực trừu tượng sang một điều gì đó có thể hữu hình và mang tính cá nhân với người công giáo.

Sự ra đời của phương tiện hàng không dễ dàng cũng có nghĩa là các giáo hoàng có thể đi khắp thế giới. Khi Đức Phaolô VI bay đến Đất Thánh tháng 1 năm 1964, đó là lần đầu tiên một giáo hoàng rời nước Ý sau 150 năm. Trong lịch sử công giáo, đây cũng là cuộc hành hương đầu tiên của một giáo hoàng đến Đất Thánh.

Sự dễ dàng của đường hàng không đã làm cho các giáo hoàng và các nhà lãnh đạo công giáo khác trở thành sứ giả của Chúa Kitô theo những cách chưa từng có trước đây. Các giáo hoàng đã có thể mang thông điệp về hy vọng và lòng can đảm đến những người đang gặp khó khăn. Đại sứ Ba Lan tại Tòa thánh Janusz Kotański nói về  chuyến đi Ba Lan năm 1979 của Đức Gioan-Phaolô II: “Chúng tôi khóc khi nghe ngài. Ngài đối xử với chúng tôi rất nghiêm túc. Ngài nói với chúng tôi… ‘Anh chị em đừng sợ’. Anh chị em là người công giáo. Anh chị em là người Ba Lan. Anh chị em còn trẻ. Tương lai thuộc về anh chị em.”

Các chuyến tông du của giáo hoàng trở thành một cách để làm nổi bật các vấn đề quan trọng hoặc những người không được nhìn thấy. Vì vậy, Đức Phanxicô đã đi chuyến bay đầu tiên của ngài đến đảo Lampedusa, Sicilia nước Ý, nơi hàng chục ngàn người di cư đang tìm cách đến Âu châu để tìm nơi nương náu. Sau khi tưởng niệm những người đã chết chìm khi cố vượt qua biển Địa Trung Hải, ngài kêu gọi mọi người hãy xem người tị nạn như người anh em mình. Trong thánh lễ hôm đó ngài giảng: “‘Em con đâu?’, trích lời Chúa nói với Cain sau khi ông giết em. “Đây không phải là câu hỏi để hỏi người khác; đây là câu hỏi cho riêng tôi, cho anh chị em, cho mỗi người trong chúng ta.”

Các chuyến tông du của giáo hoàng trở thành một cách để làm nổi bật các vấn đề quan trọng hoặc những người không được nhìn thấy.

Đức Phanxicô cũng đã dùng bối cảnh chuyến  bay để tạo một sáng kiến mới cho Giáo hội và cho triều giáo hoàng. Các cuộc họp báo trên máy bay của ngài đã đưa ra một số bình luận bất ngờ nhất (và đôi khi là quan trọng nhất), như cởi mở với hàng giáo sĩ và các tu sĩ đồng tính; một tái khẳng định “không phải tất cả người hồi giáo đều bạo lực” (nhiều người công giáo cũng bạo lực); và, khi nói về sức khỏe của mình, gần đây ngài đã nói câu không thể tưởng tượng được, “Bạn có thể thay đổi giáo hoàng.”

Nhưng hình ảnh một giáo hoàng không xa mọi người, đứng bên cạnh họ, cầm micrô như người dẫn chương trình và đôi khi cười đùa với người xung quanh, có thể sẽ có tác động quan trọng hơn và lâu dài hơn cho Giáo hội. Đức Phanxicô không phải là giáo hoàng đầu tiên làm chuyện này; cuộc họp báo trên chuyến bay của giáo hoàng bắt đầu khi Đức Gioan-Phaolô II được một nhà báo đặt một câu hỏi ngẫu hứng trong chuyến đi đầu tiên của ngài trong  tư cách giáo hoàng. (Câu hỏi là ngài có định đi Mỹ không, ngài trả lời có.)

Đức Gioan-Phaolô II cũng có khả năng ứng khẩu hài hước tương tự trong những thời điểm này. Khi được hỏi các chuyến đi có bao giờ làm ngài mệt không, ngài trả lời báo chí: Không, nhưng các chuyến đi có ý định kéo chúng ta ra ngoài.

Đức Phanxicô đã dùng những giây phút trên máy bay với báo chí để giới thiệu mình cũng như để cho biết triều giáo hoàng của ngài là dễ gần, là nhân bản và điều làm mọi người sốc là ngài cởi mở với các câu hỏi.

Đức Phanxicô đã dùng những giây phút trên máy bay với báo chí để giới thiệu mình cũng như để cho biết triều giáo hoàng của ngài là dễ gần, là nhân bản và điều làm mọi người sốc là ngài cởi mở với các câu hỏi. Trên máy bay từ Canada về Rôma, các nhà báo Canada bản địa đã đặt câu hỏi, giáo hoàng đã không dùng chuyến đi để tố cáo học thuyết khám phá và đã không dùng thuật ngữ diệt chủng để mô tả những gì đã xảy ra với người bản địa trong các trường nội trú công giáo. Ngài thừa nhận họ đã đúng, và hứa sẽ có tuyên bố mới của giáo hoàng về học thuyết khám phá.

Mỗi câu chuyện báo chí, hình ảnh và video clip theo sau một trong những câu hỏi-trả lời trên chuyến bay cũng chỉ để củng cố tầm nhìn phi cấu trúc của Đức Phanxicô về quyền lực trong Giáo hội. Ngài là người lãnh đạo Giáo hội nhưng cũng là một con người, có khả năng mắc sai lầm, hài hước và bộc phát.

Trên thực tế, hầu hết các chuyến đi của giáo hoàng đều không dùng máy bay 747. Chuyến bay đầu tiên của Đức Phaolô VI là chiếc Douglas DC-8 mới ra đời. Các chuyến bay của Đức Phanxicô tuần này đi châu Phi là chiếc Airbus 350, dùng ít nhiên liệu và ít thải khí CO2 hơn, 25% so với các máy bay trước. Vatican thậm chí không có máy bay phản lực riêng dù các chuyến bay của giáo hoàng có tên “Shepherd One, Người chăn cừu số 1”. Thường máy bay giáo hoàng là máy bay thuê của hãng hàng không Ý – trước đây là Alitalia, bây giờ là ITA Airways – và các chuyến bay về là của hãng hàng không sở tại, (nhưng gần đây là ITA Airways đảm nhận). Vì vậy, khi từ Mỹ về Rôma trong chuyến đi năm 2015, Đức Phanxicô đi máy bay của hãng American Airlines. (Thật không may, ngài phải bay qua JFK.)

Chiếc Airbus 350 tại sân bay Juba ngày 5 tháng 2-2023

Nhưng tác động trên Giáo hội ở kỷ nguyên du lịch quốc tế dễ dàng nhờ 747 mở ra là không thể phủ nhận. Ngày thứ ba, chiếc 747 cuối cùng hãng Boeing chế tạo đã được giao cho hãng vận tải Atlas Air của Hoa Kỳ. Giám đốc Atlas Air và là nhà điều hành John Dietrich của Atlas Air nói với nhân viên Boeing: “Tác động công việc của các bạn được thúc đẩy bởi giấc mơ thời thơ ấu và tham vọng nghề nghiệp.” Trong Giáo hội, nó cũng giúp biến lời hứa về nước Chúa thành hiện thực hữu hình hơn.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Phanxicô xem bác ái là phương thuốc duy nhất cho những thách thức đương thời

Đức Phanxicô xem bác ái là phương thuốc duy nhất cho những thách thức đương thời

vaticannews.va, 2023-01-20

Ngày thứ sáu 20 tháng 1, Đức Phanxicô đã tiếp một số nữ tu của Hiệp hội Đời sống Tông đồ Phục vụ Xã hội, mục đích cụ thể của hiệp hội là hỗ trợ xã hội. Trong lời chào mừng nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập hiệp hội, ngài ca ngợi đặc sủng của bà Margit Slachta, nhà sáng lập người Hungary (1884-1974). Trong Thế chiến II, các Nữ tu Phục vụ Xã hội đã cứu hơn 2.000 người do thái Hungary. Năm 1985, sau khi qua đời, bà được phong là Người Công chính giữa các quốc gia.

Đức Phanxicô tuyên bố: “Mỗi đặc sủng dành cho Giáo hội là một ơn của Chúa, Đấng ban cho Giáo hội qua Chúa Thánh Thần những ân sủng cần thiết nhất cho mỗi thời điểm lịch sử. Như một huyền ẩn, có những món quà chúng ta nhận được, chúng ta làm cho cũ đi hoặc làm hư. Nhưng các ơn huệ của Chúa Thánh Thần luôn có một sức sống mới và, trong mọi hoàn cảnh, với thời gian và nơi chốn, các ơn này tái tạo và tự tái tạo mà vẫn trung thành với gốc rễ của mình.”

Phụ nữ thánh hiến và nữ chính trị gia

Vì thế Đức Phanxicô ca ngợi đặc sủng của bà Margit Slachta, nhà sáng lập Dòng Nữ tu Phục vụ Xã hội, người cách đây một trăm năm, theo thời gian và giáo huấn xã hội của Giáo hội, đã thích nghi với các bối cảnh chính trị và xã hội khác nhau và vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay: “Tôi ngạc nhiên, dù là phụ nữ thánh hiến, nhà sáng lập của chị em còn hoạt động chính trị rất tích cực. Tuyên bố của bà trong thời lò thiêu người do thái Holocaust cho rằng các giới luật đức tin bắt buộc các nữ tu phải bảo vệ người do thái, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng của mình, và đó là một điểm thật đặc biệt.”

Tử đạo vì đức tin

Đức Phanxicô nói tiếp: “Có một sự thật mà chúng ta khó thừa nhận: nhiều vị tử đạo đã chết vì đức tin, không phải vì từ chối quyền tự do đơn thuần thờ phượng Thiên Chúa của họ, nhưng vì sự gắn kết của đời sống mà đức tin đã áp đặt lên họ, để họ đứng lên bảo vệ tự do, công lý và sự thật”, ngài muốn nói đến chứng tá cuộc tử đạo của Thánh Gioan Tẩy Giả: “Ngài đã chết vì đã lên án bạo chúa đã không sống theo luật thiêng liêng, ngài kêu gọi dân chúng từ bỏ hệ thống đồi trụy làm cho họ xa ý Chúa, và khi làm như vậy, ngài là người tử đạo, là nhân chứng cho Chân lý, một Chân lý viết hoa.”

Vũ khí của lòng bác ái

Những bối cảnh này của đầu thế kỷ trước, với những thay đổi xã hội mở đường cho các thế chiến, là những thời điểm quan trọng khi Chúa khuyến khích sự ra đời của Hiệp hội Đời sống Tông đồ Phục vụ Xã hội. Đức Phanxicô nhắc lại, thời điểm hiện tại cũng không kém, hôm nay cũng như hôm qua, lời mời gọi làm chứng nhân vẫn thời sự: “Thật cao cả biết bao nếu những lời của Margit vang vọng trong tâm hồn các chị em cùng với sức mạnh như chúng đã vang lên trong tâm hồn của những chị em đầu tiên. Đó là nguồn khích lệ cho chị em, dạy chúng ta đối diện với những thách thức xã hội, như họ đã làm khi chống lại chủ nghĩa Quốc xã, với vũ khí duy nhất là lòng bác ái.”

Marta An Nguyễn dịch

Tomas Halik: “Để là tiếng nói có uy tín, Giáo hội phải chịu một cuộc cải cách sâu sắc”

Tomas Halik: “Để là tiếng nói có uy tín, Giáo hội phải chịu một cuộc cải cách sâu sắc”

la-croix.com, Céline Hoyeau et Malo Tresca, 2023-02-06

Nhà thần học và xã hội học về tôn giáo người Séc, linh mục Tomas Halik sẽ có bài phát biểu “giới thiệu thiêng liêng” ngày thứ hai 6 tháng 2 tại Hội nghị thượng hội đồng Âu châu về tương lai Giáo hội, được tổ chức tại Praha từ 5 đến 10 tháng 2. Linh mục Halik trả lời báo La Croix về những thách thức to lớn mà Giáo hội đang phải đối diện ở một châu Âu thế tục hóa.

Nhà thần học, linh mục công giáo người Séc Tomas Halik sẽ có bài phát biểu “giới thiệu thiêng liêng” ngày 6 tháng 2 tại Hội nghị thượng hội đồng Âu châu về tương lai của Giáo hội, ở thủ đô Séc. Hình: Roman Vondrous/AP

La Croix: Làm thế nào Giáo hội có thể phù hợp hơn với Âu châu trong các xã hội tục hóa của chúng ta? Giáo hội nên thích ứng với những tiến hóa của xã hội, hay phản-văn hóa?

Linh mục Tomas Halik: Sứ mệnh chính của Giáo hội là truyền giáo, bao gồm hội nhập văn hóa, một nỗ lực để truyền tinh thần Tin Mừng vào lối suy nghĩ và lối sống của con người ngày nay. Không có điều này, phúc âm hóa chỉ là một học thuyết hời hợt bên ngoài. Giáo hội không thể và không nên là một phần của phản-văn hóa hay phản kháng, ngoại trừ khi Giáo hội phải đương đầu với các chế độ đàn áp như chủ nghĩa quốc xã, chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản. Nỗ lực biến Công giáo – đặc biệt là giữa thế kỷ 19 và giữa thế kỷ 20 – trở thành phản-văn hóa chống lại xã hội, văn hóa, khoa học và triết học hiện đại đã dẫn đến sự tự cắt thiến trí thức, tạo sự xa cách với phần lớn tầng lớp lao động, trí thức và người trẻ.

Nỗi sợ và ác cảm đối với nền văn hóa hiện đại đã dẫn đến việc loại trừ vun trồng văn hóa, góp phần đáng kể vào quá trình thế tục hóa xã hội phương Tây. Những nỗ lực của Công đồng Vatican II để gắn bó với tính hiện đại và chủ nghĩa nhân văn thế tục đã đến quá muộn, vào thời điểm mà tính hiện đại đã sắp kết thúc. Xã hội hậu hiện đại đặt ra cho các Giáo hội những thách thức và cơ hội rất khác với xã hội hiện đại. Để trở thành tiếng nói đáng tin cậy và dễ hiểu trong thời đại đa nguyên triệt để, Giáo hội phải chịu một cuộc cải cách sâu sắc – và tôi hy vọng con đường đồng nghị sẽ là cuộc cải cách này.

Những biến đổi như vậy có nguy cơ làm tan biến thông điệp kitô giáo, dường như giáo hoàng lo sợ khi đối diện với những lập trường cực đoan nhất của con đường đồng nghị Đức không?

Đường lối đồng nghị Đức dường như rất xem trọng việc thay đổi cơ cấu thể chế. Họ mạnh dạn đặt ra những vấn đề không thể gọi đó là cấm kỵ và nói về những vấn đề mà giải pháp không thể bị trì hoãn đến vô thời hạn. Tuy nhiên tôi nhấn mạnh, những cải cách về thể chế – giống như những vấn đề chung quanh các điều kiện thi hành thừa tác vụ linh mục – phải đi trước và cùng đồng hành với nó là sự đào sâu về thần học và linh đạo.

Gần đây tôi phát hành quyển sách, “Buổi chiều của Kitô giáo” (L’Après-midi du christianisme), trong đó tôi suy nghĩ về thần học và về linh đạo của tân đồng nghị. Tôi áp dụng phương pháp mà tôi gọi là “kairology” – khoa chú giải thần học về sự thay đổi văn hóa và xã hội, lấy cảm hứng từ phương pháp “phân định thiêng liêng” của Thánh I-Nhã. Cần phải phân biệt giữa “tinh thần thời đại” (Zeitgeist) là “ngôn ngữ của thế giới”, và “dấu chỉ thời đại”, là ngôn ngữ của Thiên Chúa qua các biến cố thế giới.

Một số nhà thần học – như Karl Barth và Dietrich Bonhoeffer – đã đặt câu hỏi liệu kitô giáo có phải là một tôn giáo hay không. Tôi nghĩ kitô giáo của ngày mai sẽ là một tôn giáo theo một nghĩa rất khác với trước đây. Từ tôn giáo (religio) bắt nguồn từ động từ religare, họp lại; tôn giáo là sức mạnh hội nhập (“ngôn ngữ chung”) của toàn bộ xã hội. Nhưng từ tôn giáo (religio) cũng có thể bắt nguồn từ động từ relegere, “đọc lại”. Kitô giáo nên đưa ra một lối chú giải mới, một cách đọc mới, và một sự hiểu biết sâu sắc hơn về nguồn gốc của chính nó – Kinh thánh và Truyền thống – mà còn về “các dấu chỉ của thời đại”.

Quá trình thế tục hóa đã gia tăng mạnh ở Âu châu vì cuộc khủng hoảng lạm dụng. Làm thế nào điều này có thể được xem là “dấu chỉ thời đại” đối với Giáo hội?

Theo tôi, lạm dụng tình dục đóng một vai trò tương tự như vai trò của những vụ tai tiếng liên quan đến việc buôn bán các ân xá, ngay trước thời Cải cách. Lúc đầu, hai hiện tượng này có vẻ ngoài lề. Nhưng cả hai đều cho thấy những vấn đề hệ thống sâu sắc hơn nhiều. Trong trường hợp buôn bán ân xá, đó là về mối quan hệ giữa Giáo hội và tiền bạc, Giáo hội và quyền lực, giáo sĩ và giáo dân. Trong trường hợp các lạm dụng tình dục, tâm lý và thiêng liêng, đó là căn bệnh của hệ thống mà Đức Phanxicô gọi là “chủ nghĩa giáo quyền”. Trên hết, đó là lạm dụng quyền lực và thẩm quyền.

Giáo hoàng kêu gọi chuyển đổi hệ thống quyền lực giáo sĩ cứng nhắc thành Giáo hội như một mạng lưới hợp tác hỗ tương năng động, một con đường chung (syn-hodos). Hành trình này tất yếu dẫn đến sự siêu việt hóa các ranh giới thể chế và tinh thần hiện tại của Giáo hội, đến một chủ nghĩa đại kết sâu xa hơn và rộng lớn hơn – đến lời mời gọi phổ quát cho tất cả mọi người trên con đường dẫn đến mục tiêu cánh chung của “tình huynh đệ phổ quát”. Tầm nhìn vĩ đại của Đức Phanxicô chứa đựng trong Thông điệp Tất cả anh em Fratelli Tutti có thể đóng một vai trò trong thế kỷ 21 tương tự như vai trò của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền trong thế kỷ 20.

Diễn biến tương lai của tiến trình đồng nghị sẽ cho thấy liệu Giáo hội chỉ cống hiến những viễn tượng tươi đẹp cho nhân loại ngày nay (chỉ là lời nói, lời nói, lời nói) hay liệu Giáo hội sẽ thể hiện lòng dũng cảm “tự siêu việt” hay không. Căn tính của kitô giáo không phải là một cái gì tĩnh tại và bất biến. Căn tính và tính xác thực của kitô giáo nằm ở việc tham dự vào bi kịch Phục sinh – mầu nhiệm của cái chết và của phục sinh. Rất nhiều chuyện trong Giáo hội phải chết đi để phục sinh diễn ra – và phục sinh không phải là một “hồi sinh”, một quay trở lại đằng sau, mà là một biến đổi triệt để.

Làm thế nào để phát triển và duy trì một văn hóa đồng nghị ở châu Âu, khi các Giáo hội “quốc gia” là một phần của các thực tại giáo hội khác nhau như vậy?

Nỗi ám ảnh về “nguyên tắc quốc gia”, dù trong Nhà nước hay trong Giáo hội, kéo theo nguy cơ của chủ nghĩa dân tộc, của chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, một trong những căn bệnh của thời hiện đại, của thế kỷ 19, ngày nay tái xuất hiện như một cám dỗ nguy hiểm với chủ nghĩa dân túy và chủ nghĩa cực đoan trong cuộc khủng hoảng toàn cầu hóa.

Chủ nghĩa dân tộc là nguyên nhân của hai thế chiến và thế chiến thứ ba hiện nay khi Nga bắt đầu với cuộc diệt chủng ở Ukraine – một mối đe dọa toàn cầu mà phương Tây đánh giá thấp một cách đáng trách – cũng do chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa đế quốc nguy hiểm của Nga và chủ nghĩa cứu thế quốc gia gây ra. Đức Phanxicô nói rõ: người tín hữu kitô không nên là người theo chủ nghĩa dân tộc.

Linh mục thần học gia Tomas Halik: Phương Tây tỏ ra ngây thơ với Putin

Theo tôi, suy nghĩ trong biên giới quốc gia phải vượt lên “địa phương tính” (khái niệm suy nghĩ toàn cầu và hành động địa phương). Sự biến đổi đồng nghị của Giáo hội sẽ góp phần biến toàn cầu hóa thành “địa phương hóa”, do đó chuyển hướng tới tình liên đới, tôn trọng và chia sẻ lẫn nhau hơn.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Chiến tranh ở Ukraine: “Sự chữa lành thế giới giả định cần một lực thiêng liêng đầy cảm hứng”

 

Andrea Riccardi: “Giáo hội cần phải sáng tạo lại!”

Andrea Riccardi: “Giáo hội cần phải sáng tạo lại!”

Trong quyển khảo luận mới nhất, Giáo hội cháy, tác giả Andrea Riccardi đặt câu hỏi quan trọng về khả năng hồi sinh của Giáo hội châu Âu cũ. (Giáo hội cháy. Khủng hoảng và tương lai của kitô giáo, Crise et avenir du christianisme, Andrea Riccardi, nxb. Cerf)

famillechretienne.fr, Samuel Pruvot, 2023-01-25

Theo ông Andrea Riccardi, một trong những người sáng lập Cộng đồng Sant’Egidio, Giáo hội là một thể chế không giống bất cứ một thể chế nào, Giáo hội có tầm truyền bá sáng tạo.

Để lặp lại tiêu đề của quyển khảo luận cuối cùng của ông, Giáo hội ở châu Âu sẽ kết thúc trong đống tro tàn vì bị đốt cháy?

Andrea Riccardi. Khảo luận của tôi bắt đầu từ cảnh tượng kinh hoàng Nhà thờ Đức Bà trong biển lửa. Tro tàn là những gì còn sót lại sau đám cháy lớn. Tro xám và tối. Nhưng hình ảnh này chưa đủ để nói lên huyền bí của Giáo hội. Điều này có thể dẫn đến những diễn giải quá đơn giản và bi quan.

“Trả lại tuổi thơ cho con, Chúa ơi!”

“Tinh thần sa sút dẫn đến một ‘sự già nua’ xui khiến chúng ta nhìn lại đàng sau, không dám làm, gìn giữ, cam chịu sự khiêm tốn của hiện tại. Đó là sự xám xịt của kitô giáo giống như của các xã hội châu Âu. Trở nên xám xịt không có nghĩa là bỏ việc tận hưởng cuộc sống và những điều tốt đẹp của nó, nhưng không còn sáng tạo cho tương lai. (…) Vào thời điểm giáo hội xám xịt và không chỉ có vậy, tôi đã chọn những lời của nhà thơ Turoldo mà tôi biết: ‘Lạy Chúa, xin trả lại tuổi thơ cho con, (…) xin cứu con khỏi sự vô danh của người lớn. Đó là điều xấu mà chúng ta phải gánh chịu mà không ý thức được. Và điều đó lấy đi thơ ca và niềm tin của chúng con’.”

Nhưng ông viết sự suy tàn của Giáo hội trùng với sự suy tàn của châu Âu?

Đúng, có một sự đi xuống của châu Âu, đang đẩy châu Âu dần dần ra rìa thế giới. Lịch sử dường như muốn tiếp tục ở những nơi khác, đặc biệt là ở châu Á, cách xa lục địa của chúng ta.

Sự cám dỗ lớn hiện nay là bước ra khỏi Lịch sử, gồng mình trên sự giàu có của mình và không còn đầu tư vào thế giới nữa. Tuy nhiên, điều đặc trưng của châu Âu luôn là chiếm lĩnh thế giới, dù tốt hay xấu.

Cảm giác suy tàn này có tương thích với công giáo không? Có phải định mệnh của chúng ta là biến mất?

Tôi không nghĩ như vậy! Thay vào đó, chúng ta đối diện với cuộc khủng hoảng buộc chúng ta phải thay đổi. Chúng ta đang ở đoạn đường mà chúng ta không nhìn thấy điểm kết thúc, nhưng chúng ta lại là nhân vật chính trong đoạn đường này. Hy vọng của tôi là Tin Mừng! châu Âu, Pháp và Ý sẽ như thế nào nếu không có tín hữu kitô? Đúng là ngày nay chúng ta trải nghiệm một sự trống rỗng. Nhưng điểm yếu này lại tương ứng một cách nghịch lý với thời điểm thuận lợi cho Tin Mừng.

Ông nghĩ căn bệnh chính của Giáo hội là “xám xịt”. Điều này có nghĩa là gì?

Đúng, chúng ta đang chuyển sang màu xám vì chúng ta đang mất dần màu sắc của mình! Lịch công giáo cho chúng ta những màu sắc rực rỡ. Theo tôi, dường như những lễ phục phụng vụ này nói lên một cách tượng trưng, sự thật Giáo hội không thể có màu xám. Màu xám có nghĩa là vượt ra ngoài Lịch sử, vượt ra ngoài động lực của Phục sinh, vượt ra ngoài nhiệt tình. Chúng ta thường mất nhiệt tình và phải chịu trách nhiệm về sự suy tàn của các tổ chức Giáo hội chúng ta. Có một chủ nghĩa chiều ngang nơi các tín hữu kitô có xu hướng xóa bỏ bất kỳ chiều kích thiêng liêng nào… Trong khi nhiệt tình là rất quan trọng. Đó không phải là một cảm giác phù du mà là một cách sống.

Sự lạc quan không còn nhiều ở châu Âu?

Đúng. Làm sao lạc quan được khi chúng ta lại sống dưới hiểm họa nguyên tử kể từ cuộc chiến Ukraine? Ai cũng hơi bi quan. Cuối cùng, chúng ta bị thuyết phục rằng hòa bình không còn khả thi ở châu Âu, việc rao giảng Tin Mừng không còn khả thi, rằng tình trạng nghèo đói là không thể tránh khỏi… Chủ nghĩa bi quan này cuối cùng lại tiện. Nó thuyết phục chúng ta, chúng ta không còn có thể thử bất cứ điều gì.

Nhưng nhân danh cái gì, sự thay đổi là không thể? Đây có phải là ý nghĩa của niềm hy vọng Kitô giáo?

Đúng. Hy vọng kitô giáo là một cái gì đó khác hơn là lạc quan! Tôi muốn nói về niềm hy vọng của các thế hệ tín hữu kitô đầu tiên đang chờ Nước Chúa. Câu hỏi chúng ta phải tự hỏi: hôm nay chúng ta đang chờ gì? Có phải chúng ta vẫn đang chờ một cái gì đó khác không? Tất cả chúng ta, đàn ông, đàn bà đều có khả năng mong muốn những thay đổi căn bản. Tôi nghĩ đến người nghèo, đến các nạn nhân của chiến tranh. Người nghèo đang chờ một thế giới mới. Điều này dường như hiển nhiên đối với tất cả những ai có cơ hội gặp họ. Mong chờ của họ trong đức tin trở thành niềm hy vọng. Họ có lý. Như Thánh Phaolô đã nói, chúng ta đã thấy một số điều chúng ta mong chờ. Điều này được ban cho chúng ta trong đức tin, trong phụng vụ của Giáo hội và trong chính lịch sử.

Làm thế nào Giáo hội có thể tìm lại tuổi trẻ của mình?

Chúng ta đã mất khả năng cùng nhau đi trên con đường tương lai. Chúng ta đã quên rằng “kitô giáo chỉ mới bắt đầu”, (nói theo cách nói của linh mục người Nga Alexandre Men [1935-1990). Chúng ta phải phá vỡ ý tưởng mình là tù nhân của một quá khứ hoàng kim. Quan điểm này sai lầm và phản tác dụng. Kitô giáo không phải chỉ mới bắt đầu, và chính Giáo hội Pháp có nhiều cơ sở để hy vọng. Tôi không muốn nói đến một kitô giáo ủy mị và phô trương. Rõ ràng tôn giáo đang lên là tân tin lành, họ thường phớt lờ văn hóa. Với Đức Gioan Phaolô II, tôi nghĩ rằng “đức tin trở thành văn hóa”. Một đức tin phi học thuật, phổ biến, có khả năng chia sẻ.

Đức Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh rất nhiều về tầm quan trọng của “các nhóm thiểu số sáng tạo”, lấy cảm hứng từ nhà sử học Toynbee. Tín hữu kitô vẫn có thể đảo ngược tình thế?

Điều này trái ngược với quan điểm của triết gia Đức Oswald Spengler (1880-1936), người đã làm một công việc to lớn để chứng minh rằng thời của châu Âu đã qua. Ông thấy chấu Âu là bà nội-ngoại già nằm trên giường sắp chết. Quan điểm của sử gia Toynbee mở ra một góc nhìn hoàn toàn khác. Chẳng hạn, theo trường phái của mình, Đức Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh đến sức mạnh sáng tạo của các phong trào tu viện ở phương Tây. Nhưng cẩn thận, không nên hiểu lầm nội dung thiểu số sáng tạo này!

Ý của ông là như thế nào?

Để tự an ủi bản thân, nói: “Tôi là thiểu số, vì vậy tôi sáng tạo!”, nói như thế là không đủ. Trở thành thiểu số không nhất thiết mang lại cho bạn năng khiếu sáng tạo. Sáng tạo,  nhiều hơn thế nhiều… Đó đích thực là một ơn. Giáo hội phải trở nên sáng tạo trở lại. Hơn nữa, Giáo hội phải tiếp tục mang tính tiên tri!

Nhưng lời tiên tri có nghĩa là gì?

Có nghĩa chúng ta không được hét to hơn người khác với lý do là mọi người xung quanh đang la hét. Lời tiên tri trong Kinh thánh liên quan đến trí tưởng tượng sáng tạo, khả năng tạo ra những khải tượng, để nhìn thấy Giáo hội của ngày mai. Trong một thế giới đầy những tiên tri giả, nhân chứng chân chính sẽ tỏa sáng với sự mới lạ trong lời nói của mình. Lời tiên tri phù hợp với những gì sâu xa của Giáo hội, cụ thể là một thể chế không giống một thể chế nào, truyền bá một tầm nhìn sáng tạo tập trung vào tình yêu.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Andrea Riccardi: “Có phải đây là kết thúc của Giáo hội hay khởi đầu của một lối sống mới của kitô giáo?”

Tóm tắt tiểu sử của ông Andrea Riccardi

Sinh năm 1950 tại Rôma, năm 1968 ông là một trong những người sáng lập Cộng đồng Sant’Egidio. Cộng đồng có nhiệm vụ: cống hiến hết mình cho những người bị loại trừ và nhân rộng các hành động vì hòa bình ở các quốc gia đang gặp khủng hoảng. Là bạn thân của các giáo hoàng đương thời, ông là Bộ trưởng Hợp tác và Hội nhập Quốc tế của Ý từ năm 2011 đến năm 2013.

Bị khối u trên não, linh mục Hollowell được Đức Mẹ Lộ Đức chữa lành?

Bị khối u trên não, linh mục Hollowell được Đức Mẹ Lộ Đức chữa lành?

Linh mục John Hollowell

fr.aleteia.org, Cécile Séveirac, 2023-02-01

Sau khi khối u trên não phát triển năm 2018, ngày thứ hai 30 tháng 1, linh mục người Mỹ John Hollowell, ngoài 40 tuổi cho biết căn bệnh của cha được lành nhờ chuyến đi  Lộ Đức.

Linh mục John Hollowell, linh mục tổng giáo phận Indianapolis (miền Tây nước Mỹ) được biết đến sau khi cha cho biết cha bị u não năm 2020. Cha giải thích, cha muốn dâng căn bệnh này để đền bù cho những vụ lạm dụng tình dục trên các nạn nhân, trong thời gian điều trị, cha dâng lời cầu nguyện cho họ. Cha xin Chúa để mình mang bất kỳ gánh nặng nào để hiệp nhất với đau khổ mà các nạn nhân này phải chịu đựng. Đó là năm 2018, năm mà nhiều vụ tai tiếng tình dục của các giáo sĩ bùng nổ ra. Hai năm sau, ngày 11 tháng 2 năm 2020, ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức, cha nhận chẩn đoán. Cha kiên nhẫn và bình tâm bắt đầu con đường thập giá của mình. Các lần chụp MRI nối tiếp nhau, hóa trị tiến hành theo chương trình chậm chạp của nó. Cha nói: “Năm 2018, tôi đã xin, nếu đó là ý Chúa, thì tôi xin được nhận một phần nhỏ thập giá để vác cho các nạn nhân các vụ lạm dụng tình dục. Tôi xin nhận.”

Trong một video ngắn ngày 30 tháng 1 – 2023, cha cho biết khối u của cha đã được lành một cách đơn giản, sau chuyến đi Lộ Đức năm 2022. Vài tháng trước khi cha đi Pháp, khối u lan rộng, dù các bác sĩ không nói là khó có cơ hội phục hồi.

Làm thế nào một vụ chữa lành không giải thích được cho là phép lạ?

Đức Mẹ Lộ Đức

Đến bây giờ, không thể xác định liệu việc chữa lành có thực sự là phép lạ không. Chỉ có Giáo hội công giáo mới có thẩm quyền công nhận tính xác thực của một phép lạ. Để xác nhận đó là phép lạ, phải tiến hành điều tra theo hướng này và dựa trên bằng chứng bằng văn bản về sự hồi phục của bệnh nhân. Sau đó, các bác sĩ của Văn phòng Chứng nhận Y khoa họp để xác định liệu phương pháp chữa trị có đáp ứng các tiêu chuẩn sau hay không: phải không lường trước được, ngay lập tức, lành hoàn toàn, lâu dài và không thể giải thích được. Nhiều trường hợp chữa lành tiềm năng đã được gởi đến cơ quan này, nhưng rất ít trường hợp được công nhận là phép lạ. Vì thế, kể từ ngày thành lập Văn phòng Chứng nhận Y khoa năm 1883, chỉ có 70 trường hợp được công nhận trong số 8.000 trường hợp được nghiên cứu. Người cuối cùng được chính thức công nhận là phép lạ của Lộ Đức là trường hợp của nữ tu Bernadette Moriou năm 2018.Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Phép lạ thứ 70 được công nhận ở Lộ Đức: Giám mục giáo phận Beauvais là người đầu tiên ngạc nhiên

Giáo hội công giáo công nhận phép lạ thứ 70 của Đức Mẹ Lộ Đức

Bà Marie-José Lallart sẽ nhận huy chương hiếm có của giáo hoàng

Bà Marie-José Lallart sẽ nhận huy chương hiếm có của giáo hoàng

Tiến sĩ Denis Mukwege, Giải Nobel Hòa bình năm 2018, bà Marie-José Lallart, người sáng lập “Maillons de l’espoir” (Những Móc xích Hy vọng) ông Sydney Govou, nhà đào tạo cầu thủ chuyên nghiệp và bà Jeanne Kamariza, phó chủ tịch trong hiệp hội của ông Govou. Hình của bà Marie-José Lallart cung cấp

fr.aleteia.org, Mathilde de Robien, 2023-02-05

Bà Marie-José Lallart, người sáng lập và là chủ tịch hiệp hội “Những móc xích Hy vọng” sẽ nhận Bông Hồng vàng do Đức Phanxicô trao tặng vào ngày thứ hai, 6 tháng 2. Một vinh dự hiếm có.

Bà Lallart là một trong tám phụ nữ. Cựu nhân viên tổ chức quốc tế tại Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), phụ trách các chương trình dành riêng cho giáo dục, Hiệp sĩ Huân chương Bắc đẩu bội tinh, người sáng lập hiệp hội “Trường Hy vọng” và “Những móc xích Hy vọng”, bà Marie-José Lallart đã nhận được một số danh hiệu trong sự nghiệp hành chính và hiệp hội của bà. Nhưng vinh dự mà Đức Phanxicô sắp trao cho bà tại Rôma ngày thứ hai đặc biệt làm bà xúc động. Là phụ nữ Pháp duy nhất trong số tám phụ nữ nổi tiếng, bà sẽ được trao giải Bông Hồng vàng vì những đóng góp to lớn của bà trong việc hỗ trợ trẻ em kém may mắn và phụ nữ là nạn nhân của các vụ hãm hiếp.

Bà thích thú thốt lên: “Tôi không biết nó sẽ như thế nào! Một chiếc trâm, một bông hoa điệu, tôi không biết!” Đức ông Jean-Marie Gervais, đồng phụ tá giám đốc phụ trách Tu nghị Đền thờ Thánh Phêrô đã xin ân thưởng cho bà. Bà Lallart nói với trang Aleteia: “Ngài đề nghị tôi được danh hiệu Bông Hồng vàng, tôi không xin gì! Tôi chỉ gời sơ yếu lý lịch và một số ảnh.”

Bông hồng vàng hay một cây hồng nhỏ được giáo hoàng làm phép là ân thưởng đặc biệt của các giáo hoàng có từ đầu thời Trung cổ. Vào thời đó, giáo hoàng tặng một Bông Hồng vàng cho một trong những tín hữu mà ngài muốn nêu bật và khen thưởng cho lòng mộ đạo và các công việc phục vụ của họ. Ân thưởng này hàng năm được trao vào ngày chúa nhật thứ tư Mùa Chay (Laetare). Lần đầu tiên được trao cho các vị vua hoặc lãnh chúa, nhưng từ thế kỷ 16, Bông Hồng vàng còn được trao cho các nữ hoàng.

Kể từ hậu bán thế kỷ 20, Bông Hồng vàng được trao cho các nhà thờ hoặc đền thờ. Đức Gioan Phaolô II, Bênêđictô XVI và Phanxicô tiếp tục Đức Gioan-Phaolô II và Đức Bênêđictô XVI, kế đó là Đức Phanxicô tiếp tục tặng Hoa Hồng vàng cho các đền thánh Đức Mẹ. Kể từ đầu triều, Đức Phanxicô đã vinh danh năm đền thánh Đức Mẹ bằng Bông Hồng vàng: Vương cung thánh đường Đức Mẹ Bác ái El Cobre (Cuba), Đức Mẹ Guadalupe (Mexico), Đức Mẹ Częstochowa (Ba Lan), Đức Mẹ Fatima (Bồ Đào Nha) và Đức Mẹ Csiksomlvo (Rumani). Năm nay ngài trao tặng tám Bông Hồng vàng cho những phụ nữ dấn thân tích cực, ngài muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu xa với họ.

Đức Bênêđictô XVI tặng Hoa hồng vàng cho đền thánh Fatima năm 2010

Đức Phanxicô tặng Hoa hồng vàng cho đền thánh Fatima năm 2017

Một tưởng thưởng xứng đáng!

Sự dấn thân của bà Marie-José Lallart với những người yếu thế nhất là vô bờ và dưới nhiều hình thức. Bà lập gia đình, là bà mẹ, bà ngoại, bà ở trong ca đoàn của một giáo xứ Paris và đã làm việc trong 30 năm tại Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc, phụ trách chương trình “hy vọng và đoàn kết xung quanh quả bóng”. Bà cùng với ông Mikaël Silvestre, cầu thủ bóng đá quốc tế, thành lập hiệp hội “Trường Hy vọng”, qua đó hàng trăm trẻ em đã có thể đến trường và học nghề ở Guinea, Niger, Lào, Brazil, Haiti…

Giáo dục trẻ em, trả lại danh dự cho phụ nữ

Khi về hưu, bà Lallart vẫn tiếp tục. Bà nói: “Tôi đã có tất cả liên hệ ở các nước, có những dự án đang triển khai. Tôi không thể dừng lại! Chiến mã của tôi luôn đấu tranh chống lại bất công, đặc biệt là với trẻ em và phụ nữ bị lạm dụng. Đó là cảm nhận đầu tiên khi tôi đến Kinshasa, Congo. Người lớn chịu trách nhiệm cho tất cả trẻ em.” Để theo đuổi các dự án của bà, năm 2018 bà thành lập hiệp hội “Những móc xích Hy vọng” với mong muốn giáo dục cơ bản, huấn nghệ (may vá, làm tóc, làm mộc, sửa ống nước) cũng như hoạt động thể dục thể thao cho trẻ em có hoàn cảnh dễ bị tổn thương.

Hình ảnh của bà Marie-José Lallart cung cấp

Công việc của bà mở rộng đến trẻ em mắc bệnh bạch tạng ở Burundi, các em bị đuổi vì người dân cho rằng các em bị phù thủy ám. Hiệp hội của bà sát cánh với những phụ nữ sống sót sau bạo lực tình dục (họ bị cắt bỏ bộ phận sinh dục, hãm hiếp như một vũ khí chiến tranh, v.v.), ở Bukavu (Congo) với sự hợp tác chặt chẽ của Bác sĩ Denis Mukwege, “người bác sĩ vá cho phụ nữ”, Giải Nobel Hòa bình năm 2018. Nhà dưỡng lão Dorcas đón nhận và huấn luyện cho phụ nữ. Bà Marie-José Lallart giải thích: “Mục đích là để họ có thể trở về với gia đình, với làng của mình và ở đó họ được tôn trọng.

Bác sĩ Denis Mukwege tặng Giải Nobel Hòa Bình cho “các phụ nữ của tất cả các nước bị tổn thương”

Hình ảnh của bà Marie-José Lallart cung cấp

Bukavu. Thành phố này đã được Đức Phanxicô nhắc đến  ngày 1 tháng 2 khi ngài tiếp các cô gái trẻ ở tòa sứ thần Kinshasa, họ là nạn nhân của sự man rợ do các nhóm phiến quân gây ra ở phía đông Cộng hòa Dân chủ Congo. Bị sốc và xúc động trước câu chuyện kinh hoàng của họ, ngài đã cẩn thận nhắc đến từng địa điểm mà “giới truyền thông quốc tế hầu như không bao giờ nhắc đến”: Bunia, Beni-Butembo, Goma, Masisi, Rutshuru, Bukavu, Uvira… ngài khẩn khoản: “Tôi xin nhắc lại để những ai sống ở Cộng hòa Dân chủ Congo, họ đừng bỏ cuộc, nhưng hãy dấn thân xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.” Chắc chắn, hiệp hội của bà Marie-José Lallart đã góp phần trong công việc này.

Các nạn nhân bạo lực ở miền đông Congo mang nỗi đau của họ đến với Đức Phanxicô

Marta An Nguyễn dịch

Nữ tu Treacy dẫn một nhóm bạn trẻ đi bộ hành hương 9 ngày để gặp Đức Phanxicô ở Juba

Đức Phanxicô gởi điện tín tương trợ đến Thổ Nhĩ Kỳ và Syria

Đức Phanxicô gởi điện tín tương trợ đến Thổ Nhĩ Kỳ và Syria

Ngày thứ hai 6 tháng 2, Đức Phanxicô đã gởi điện tín tương trợ người dân Thổ Nhĩ Kỳ và Syria sau các trận động đất dữ dội xảy ra ở hai nước này. Sự giúp đỡ nhân lên giữa đống đổ nát. Nhiều tòa nhà sụp đổ, bao gồm một phần di sản khảo cổ và tôn giáo của khu vực. Trận động đất đã làm ít nhất 2.600 người thiệt mạng và hơn 9.000 người bị thương.

la-croix.com, Raphael Jacomini, 2023-02-06

Một nhà thờ hồi giáo bị phá hủy trong trận động đất ở Malatya, Thổ Nhĩ Kỳ ngày thứ hai 6 tháng 2 năm 2023. DIA/AP

Điện tín được hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin gởi đi cho biết, Đức Phanxicô vô cùng đau buồn khi nghe tin về những thiệt hại to lớn về người và nhà cửa của trận động đất ở đông nam Thổ Nhĩ Kỳ và tây bắc Syria. Ngài bày tỏ sự gần gũi về mặt tinh thần của ngài với các nạn nhân. Phó thác nạn nhân cho lòng thương xót của Chúa, Đấng Toàn Năng yêu thương. Ngài gởi lời chia buồn chân thành đến các gia đình nạn nhân cho những mất mát này. Ngài cũng cầu nguyện cho các nhân viên cấp cứu chăm sóc những người bị thương và trong các nỗ lực cứu trợ đang diễn ra, với ơn thiêng liêng là sức mạnh và kiên trì.

Đống đổ nát và mất tích

Hơn 2.500 tòa nhà đã sụp đổ và hàng ngàn người mất tích vẫn đang nằm dưới đống đổ nát. Nhiều cơ sở tôn giáo bị phá hủy, như nhà thờ hồi giáo Malatya ở nam Anatolia hay nhà thờ Truyền tin ở Iskenderun, gần biên giới Syria, được dòng Cát Minh xây từ năm 1858 đến năm 1871, tòa nhà này là trụ sở của giáo phận Đại diện Tông tòa của Anatolia.

Một số di tích lịch sử cũng bị ảnh hưởng, như lâu đài Al-Marqab hoặc Aziantep, cũng như thành cổ Aleppo từ thế kỷ 13, được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới. Ngọn tháp của nhà thờ hồi giáo Ayyubid, nằm bên trong thành phố lịch sử, đã bị hư hại nặng nề. Nhiều tòa nhà khác dành riêng cho việc thờ phượng của người hồi giáo cũng bị sập.

Thổ Nhĩ Kỳ có khoảng 80.000 tín hữu kitô, 60.000 trong số đó là người Armenia. Họ sống chủ yếu ở thủ đô Istanbul,vùng không bị động đất. Trong khi đó, Syria có khoảng 6%, tương đương khoảng 1,5 triệu người.

Ông Vincent Gelot, giám đốc Hiệp hội công giáo Đông phương ở Lebanon, có trụ sở tại Beirut, cách Aleppo 250 cây số về phía nam, ông cho biết mức độ nặng nề của các cơn chấn động: “Nửa đêm chúng tôi đưa trẻ em ra ngoài khi các bức tường của tòa nhà rung chuyển. Nhà và giường ngủ như nhảy múa. Cả thị trấn đổ ra đường. Người dân trên khắp đất nước đều bị chấn động. Nước Liban không có thương vong.”

Tại Aleppo, nhiều tín hữu kitô ở khu vực lân cận Aziziye bị ảnh hưởng nặng nề. Tòa nhà của Tòa Thượng phụ Hy Lạp Melkite, nơi linh mục Imad Daher sống, đã bị sập, cha bị mất tích vào thời điểm này.

Pháp đã thông báo phái 139 sơ cứu viên xã hội dân sự tới Thổ Nhĩ Kỳ. Ba mươi tình nguyện viên từ Hiệp hội Lính cứu hỏa Khẩn cấp Quốc tế đã đến hiện trường. Trận động đất này, có tâm chấn ở phía đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, là trận động đất lớn nhất được biết đến ở quốc gia này kể từ trận động đất ngày 17 tháng 8 năm 1999, đã làm 17.000 người thiệt mạng.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài mới nhất