Bài giảng đầu tiên của Đức Lêô XIV

168

Bài giảng đầu tiên của Đức Lêô XIV

Ngày 9 tháng 5 năm 2025, ngay sau ngày được bầu làm Giám mục Rôma thứ 267, Đức Lêô XIV đã cử hành thánh lễ đầu tiên trong chức vị giáo hoàng. Thánh lễ riêng, có sự hiện diện của các hồng y, ngài đã giảng bài giảng đầu tiên trong cương vị giáo hoàng.

lavie.fr, I.Media, 2025-05-09

Đức Lêô ngày 8 tháng 5 năm 2025 – MARCO IACOBUCCI/IPA/SIPA

 “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Với lời tuyên xưng này, Thánh Phêrô thay mặt các tông đồ nói lên kho tàng đức tin của Hội Thánh, nhờ kế thừa tông truyền đã gìn giữ, đào sâu và truyền lại suốt hai ngàn năm qua.

Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng Cứu Độ duy nhất, Đấng mặc khải dung mạo Chúa Cha. Nơi Ngài, Thiên Chúa đã trở nên gần gũi và dễ tiếp cận với con người đã mặc khải chính mình qua ánh mắt tin cậy của một đứa bé, tinh thần bén nhạy của một thiếu niên, nét trưởng thành của một người lớn (x. GS 22) và sau cùng Ngài hiện ra với các tông đồ sau Phục sinh trong thân xác vinh hiển. Như thế, Ngài đã cho chúng ta một tấm gương thánh thiện để noi theo, cùng với lời hứa về một đời sống vĩnh cửu vượt quá mọi giới hạn và khả năng của con người.

Trong câu trả lời, Thánh Phêrô đã nắm được hai chiều kích: hồng ân Thiên Chúa ban và con đường phải đi để được biến đổi, đó là hai chiều kích không thể tách rời của ơn cứu độ được trao phó cho Hội Thánh để công bố cho phần rỗi của nhân loại. Những thực tại này được trao cho chúng ta, chúng ta là những người được chọn từ trong lòng mẹ (x. Gr 1,5), được tái sinh nhờ phép Rửa tội không do công trạng nhưng nhờ lòng thương xót để chúng ta được thông công, được sai đi, để Tin Mừng được loan báo cho mọi loài thọ tạo (x. Mc 16,15).

Đặc biệt, việc anh em tín nhiệm chọn tôi làm người kế vị Thánh Phêrô là lời mời gọi từ Thiên Chúa, trao cho tôi kho tàng đức tin để với ơn Ngài trợ giúp, tôi là người quản lý trung tín (x. 1 Cr 4,2) vì lợi ích của toàn thể Nhiệm thể mầu nhiệm là Hội Thánh, để Hội Thánh ngày càng trở nên “thành xây trên núi” (x. Kh 21,10), con thuyền cứu độ vượt sóng thời đại, ngọn hải đăng chiếu sáng đêm tối trần gian. Điều này không đến từ sự huy hoàng tráng lệ của cơ cấu hay quy mô của các công trình kể cả những kiến trúc của chúng ta, nhưng là từ sự thánh thiện của các chi thể, của “dân riêng Thiên Chúa, được tuyển chọn để loan báo những kỳ công của Ngài, Đấng đã gọi anh em ra khỏi bóng tối để vào ánh sáng diệu kỳ” (1 Pr 2,9).

Tuy nhiên, trước khi Thánh Phêrô tuyên xưng đức tin, Đức Giêsu đã hỏi: “Người ta nói Con Người là ai?” (Mt 16,13). Đây không phải câu hỏi qua loa nhưng là câu hỏi chạm đến điểm thiết yếu trong sứ vụ chúng ta: thực tại chúng ta đang sống với những giới hạn và tiềm năng, những thắc mắc và xác tín.

“Người ta nói Con Người là ai?” chúng ta thấy có hai cách trả lời phản ánh hai thái độ khác nhau.

Trước hết là câu trả lời của thế gian. Thánh sử Matthêu ghi rõ cuộc đối thoại diễn ra ở thành Xêdarê Philipphê, một thành phố xinh đẹp với cung điện lộng lẫy, phong cảnh nên thơ dưới chân núi Hermon, nhưng cũng là trung tâm quyền lực tàn bạo, nơi đầy dẫy phản bội và bất trung. Đó là hình ảnh của một thế giới xem Đức Giêsu không đáng kể, cùng lắm là một nhân vật khác lạ, nói năng hành động gây ngạc nhiên. Khi Ngài trở nên phiền toái vì Ngài đòi hỏi sự trung thực và luân lý, thế gian sẵn sàng loại bỏ Ngài.

Câu trả lời thứ hai đến từ dân chúng. Họ không cho rằng Đức Giêsu là kẻ bịp bợm, nhưng nhìn nhận Ngài là người ngay thẳng, can đảm, lời nói sắc sảo và chính trực giống như các ngôn sứ lớn của Israel. Họ đi theo Ngài, ít nhất việc đi theo này không gây nguy hiểm hay phiền toái. Nhưng nếu chỉ là con người, thì lúc gặp gian nan như trong cuộc Thương Khó họ sẽ bỏ rơi Ngài và ra đi trong thất vọng.

Điều đáng lưu ý là ngày nay hai thái độ này vẫn còn rất hiện thực. Chúng ta vẫn nghe những lời lẽ tương tự dù bằng ngôn ngữ khác nơi một số lớn người đương thời.

Hiện nay, vẫn có những môi trường xem đức tin kitô giáo là điều vô lý, chỉ dành cho người yếu đuối hay thiếu hiểu biết; họ tìm đến các “chân lý” khác như công nghệ, tiền bạc, thành công, quyền lực, khoái lạc. Đó là những môi trường khó sống để rao giảng Tin Mừng, nơi những ai tin Chúa bị nhạo báng, bắt bớ, khinh miệt hoặc cùng lắm là khoan dung với cái nhìn thương hại. Chính vì thế, việc truyền giáo nơi đây càng trở nên khẩn thiết, vì sự vắng bóng đức tin dẫn đến bi kịch: mất phương hướng sống, quên lòng thương xót, chà đạp phẩm giá con người trong những hình thức nghiêm trọng nhất, khủng hoảng gia đình và muôn vàn vết thương xã hội.

Ngày nay cũng có những môi trường mà Đức Giêsu, tuy được ngưỡng mộ như một nhân vật lớn, lại bị giới hạn trong vai trò một thủ lãnh lôi cuốn hay một “siêu nhân”, điều này không chỉ xảy ra nơi người không tin, mà cả nơi nhiều người đã chịu Phép Rửa, sống như thể không có Thiên Chúa.

Đó chính là thế giới được trao phó cho chúng ta. Nơi đây, như Đức Phanxicô từng nhiều lần nhắc nhở, chúng ta được mời gọi làm chứng cho niềm tin vui mừng vào Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ. Vì thế, với chúng ta ngày nay, điều thiết yếu là phải lặp lại lời tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).

Cần tuyên xưng trước hết trong tương quan cá nhân với Chúa, qua nỗ lực hoán cải mỗi ngày. Nhưng cũng cần tuyên xưng với tư cách Hội Thánh, bằng cách sống thuộc về Chúa trong tình hiệp thông và loan báo Tin Mừng cho mọi người

Tôi nói điều này trước tiên cho chính tôi với tư cách là người kế vị Thánh Phêrô, khi bắt đầu sứ vụ Giám mục giáo phận Rôma, được kêu gọi “chủ tọa  trong đức ái của toàn thể Hội Thánh” theo cách nói nổi tiếng của thánh Inhaxiô thành Antiôkia (x. Lời tựa, Thư gửi tín hữu Rôma). Trên đường bị dẫn đến Rôma để chịu tử đạo, ngài viết: “Lúc đó tôi mới thật sự là môn đệ Đức Giêsu Kitô, khi thế gian không còn nhìn thấy xác tôi nữa” (Thư gởi Rôma IV,1). Ngài nói đến việc bị thú dữ xé xác trong đấu trường – điều thực sự đã xảy ra, nhưng lời ngài cũng gợi đến một chân lý sâu xa hơn dành cho những ai lãnh nhận sứ vụ quyền bính trong Hội Thánh: đó là biết lùi lại để Chúa được ở lại, trở nên nhỏ bé để Ngài được nhận biết và tôn vinh (x. Ga 3,30), hy sinh đến cùng để không ai mất cơ hội biết và yêu mến Chúa. Xin Thiên Chúa ban cho tôi ơn này hôm nay và mãi mãi, nhờ lời chuyển cầu ân cần của Mẹ Maria, Mẹ Hội Thánh.

Têrêxa Trần Tuyết Hiền dịch

Học thuyết ngoại giao của Đức Lêô  XIV: Hòa bình, Công lý, Chân lý

Hồng y Parolin: “Trong thời gian mật nghị, Đức Lêô XIV không bao giờ mất đi nụ cười dịu hiền của ngài.”

Đức Lêô XIV – Vị Mục Tử Nhân Lành

Phụng vụ mới được Đức Lêô mong muốn cho lễ khai mạc triều của ngài

Đức Lêô XIV, “giáo hoàng toán học” nói lên sự thống nhất của đức tin và lý trí

Hồng y Tagke: “Đức Lêô XIV là mục tử lãnh đạo bằng cách lắng nghe mọi người”

Huấn luyện viên Valerio Masella kể về việc tập thể dục thể thao cho Đức Lêô

Xin cho tôi biết Giáo hoàng Lêô nào ám ảnh bạn, tôi sẽ cho bạn biết bạn là Giáo hoàng nào!

Tham nhũng, thiếu minh bạch, biển thủ: Thách thức của Đức Lêô về tình trạng tài chính của Vatican