Home Blog Page 384

Ngày sinh nhật 86 tuổi của ngài, Đức Phanxicô theo bước chân của Mẹ Têrêxa

Ngày sinh nhật 86 tuổi của ngài, Đức Phanxicô theo bước chân của Mẹ Têrêxa

cath.ch, I. media, 2022-12-16

Đức Phanxicô dùng cơm trưa với người nghèo ở Florence, ngày 10 tháng 11 năm 2015 | © Truyền thông Vatican

Hồng y Konrad Krajewski, Ủy ban Từ thiện Giáo hoàng cho biết, ngày thứ bảy 17 tháng 12 năm 2022, sinh nhật lần thứ 86 của ngài, Đức Phanxicô sẽ trao Giải thưởng Mẹ Têrêxa cho ba nhân vật “sống bác ái đối với những người nghèo nhất trong những người nghèo”.

Ba nhân vật nhận giải thưởng này là linh mục Hanna Jallouf, tu sĩ dòng Phanxicô, đã xả thân vì người nghèo ở Syria trong thời kỳ chiến tranh khốc liệt liên miên; ông Gian Piero, được biết đến với tên Wué, ông là người vô gia cư, hàng ngày ông chia sẻ số tiền ông nhận được để giúp đỡ những người nghèo hơn ông và nhà công nghiệp Silvano Pedrollo ở Verona, ông dùng một phần lợi tức đáng kể trong công việc kinh doanh để hỗ trợ và giúp đỡ những người nghèo nhất ở các quốc gia khác nhau ở châu Phi, Ấn Độ và Châu Mỹ Latinh, xây dựng trường học, giếng nước và các công trình vệ sinh.

Giải thưởng là quả địa cầu nhỏ trên mặt đất, được đặt bên trong một khối lập phương, như biểu tượng của tình yêu duy trì thế giới. Trên quả địa cầu có vẽ một cửa sổ, phía sau là hình Mẹ Têrêxa đang hôn một em bé. Cửa sổ này lấy cảm hứng từ những lời của Đức Gioan Phaolô II khi Mẹ Têrêxa qua đời năm 1997: “Mẹ Têrêsa là cửa sổ rộng mở qua đó Chúa Giêsu nhìn và mỉm cười, ban sự an ủi và phẩm giá cho rất người nghèo ở nhiều nơi trên thế giới.”

Lễ trao giải này, để ghi nhớ Mẹ Têrêxa người gốc Albania được Đức Phanxicô phong thánh năm 2016, sẽ được tổ chức với sự hiện diện của khoảng 20 nữ tu Thừa Sai Bác Ái và nhiều người được chào đón trong lưu xá của họ tại Rôma. Hiện nay có hơn 6.000 Thừa sai Bác ái tiếp tục giúp người nghèo tại 762 Nhà Bác ái, trải rộng trên 139 quốc gia.

Vào ngày sinh nhật của mình, Đức Phanxicô thường có những sáng kiến liên quan đến việc phục vụ người nghèo. Năm 2021, ngài tổ chức sinh nhật 85  tuổi với các em bé được bệnh xá nhi Nhà Thánh Marta chăm sóc.

Marta An Nguyễn dịch

Tình đoàn kết ấm áp, gây quỹ mua áo giữ nhiệt cho Ukraine

Tình đoàn kết ấm áp, gây quỹ mua áo giữ nhiệt cho Ukraine

eppela.com, 2022-12-15

Hồng y Konrad Krajewski, chánh sở Ủy ban Từ thiện Giáo hoàng 

https://youtu.be/8FSjJV4irTshttp://

Người dân Ukraine đang trải qua một tình trạng khẩn cấp không chỉ liên quan đến chiến tranh mà còn thiếu điện, thiếu khí đốt và cái lạnh khắc nghiệt của mùa đông.

Giáng sinh này chúng ta có thể giúp họ chống lại cái lạnh bằng tình đoàn kết ấm áp của những chiếc áo giữ nhiệt.

Đó là cam kết của Ban Từ thiện Giáo hoàng, qua hoạt động gây quỹ này, Ủy ban dự định quyên góp số tiền cần thiết để mua quần áo cho người dân Ukraine đang cần để chịu đựng qua cái lạnh mùa đông Ukraine, trầm trọng hơn do chiến tranh và do thiếu điện.

Hồng y Konrad Krajewski đã được Đức Phanxicô cử đến Ukraine nhiều lần để hỗ trợ người dân, ngài cám ơn những người đã ủng hộ chương trình gửi áo giữ nhiệt đến Vatican để chuyển đi Ukraine. Mục đích là quyên 100.000 âu kim, hiện tại đã thu được 14.030 âu kim.

Ngài đảm bảo cam kết của mình theo hướng này và cam kết của nhiều nhà máy, đã liên hệ trước đây, quyên góp cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua hàng với giá sản xuất.

Sau đó, chính hồng y sẽ mang tất cả các áo quần thu thập lên đường phân phối rộng rãi ở Ukraine. Chiến dịch quyên góp sẽ tiếp tục để đáp ứng với bất kỳ nhu cầu mới nào. Hồng y giải thích: “Như thế sẽ là một lễ Giáng Sinh đích thực”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Vatican kêu gọi gởi quần áo ấm cho Ukraine

Các tu sĩ Dòng Tên tiết lộ linh mục Marko Ivan Rupnik bị dứt phép thông công vì tha tội cho người phụ nữ cùng có hoạt động tình dục với ông

Các tu sĩ Dòng Tên tiết lộ linh mục Marko Ivan Rupnik bị dứt phép thông công vì tha tội cho người phụ nữ cùng có hoạt động tình dục với ông

americamagazine.org, Nicole Winfield, 2022-12-14

Đức Phanxicô và bề trên tổng quyền Dòng Tên Arturo Sosa khi rời nhà thờ Gesù, nhà thờ mẹ của Dòng Tên sau khi chủ trì thánh lễ  ngày 12 tháng 3 năm 2022. (Ảnh AP/Domenico Stinellis)

Ngày thứ tư 14 tháng 12, linh mục Arturo Sosa bề trên tổng quyền Dòng Tên cho biết linh mục Dòng Tên nổi tiếng Rupnik đã bị kết một trong những tội nghiêm trọng nhất trong Giáo hội công giáo, khoảng hai năm trước khi Vatican quyết định gác lại vụ khác chống lại ông vì cáo buộc này, lạm dụng những phụ nữ trưởng thành khác dưới sự hướng dẫn thiêng liêng của linh mục.

Linh mục Arturo Sosa, bề trên tổng quyền Dòng Tên, đã thừa nhận trong một cuộc họp báo với các nhà báo đang quan tâm đến vụ tai tiếng của linh mục Marko Ivan Rupnik và sự miễn cưỡng của cả Vatican và Dòng Tên khi lên tiếng về câu chuyện đằng sau vụ việc ngoại thường, đối xử khoan dung mà linh mục được hưởng cả sau khi ông đã bị dứt phép thông công tạm thời.

Đa số người công giáo không biết đến Rupnik nhưng ông là một người nổi tiếng trong Dòng Tên và trong hệ thống la-mã, là một trong những nghệ sĩ được Giáo hội chiếu cố nhiều nhất. Những bức tranh khảm mô tả các cảnh trong Kinh thánh của ông trang trí vương cung thánh đường ở Lộ Đức, nhà nguyện Mẹ Cứu chuộc ở Vatican, học viện Gioan Phaolô II ở Washington và sắp được trang trí cho vương cung thánh đường mới ở Aparecida, Brazil.

Linh mục Arturo Sosa bề trên tổng quyền Dòng Tên cho biết linh mục Dòng Tên nổi tiếng Rupnik đã bị kết một trong những tội trọng nhất trong Giáo hội công giáo, khoảng hai năm trước khi Vatican quyết định gác lại vụ khác chống lại ông vì cáo buộc này, lạm dụng những phụ nữ trưởng thành khác dưới sự hướng dẫn thiêng liêng của linh mục.

Vụ bê bối liên quan đến Rupnik nổ ra vào tuần trước khi ba trang blog Ý – Silere non Possum, Left.it Messa in Latino – bắt đầu tiết lộ những cáo buộc lạm dụng thiêng liêng, tâm lý và tình dục của linh mục Rupnik với các phụ nữ tại một cộng đồng Dòng Tên mà ông liên kết ở quê hương Slovenia của ông.

Ban đầu, ngày 2 tháng 12, Dòng Tên phản hồi bằng một tuyên bố xác nhận đã nhận khiếu nại năm 2021 nhưng cho biết văn phòng lạm dụng tình dục của Vatican đã xác định các cáo buộc có từ những năm 1990 ở Slovenia, đã quá thời hiệu để truy tố. Các tu sĩ Dòng Tên cho biết họ vẫn quyết định giữ nguyên “những hạn chế phòng ngừa” trong chức vụ linh mục như cấm giải tội, cấm hướng dẫn thiêng liêng và giảng linh thao.

Tuyên bố đặt ra nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời và hoàn toàn bỏ qua sự thật – lần đầu tiên của báo Messa tiếng la-tinh và sau đó được hãng tin Associated Press xác nhận – Rupnik đã bị Vatican kết án và xử phạt sau một khiếu nại năm 2019 rằng linh mục đã tha tội cho một phụ nữ khi bà xưng tội có hành  động tình dục với linh mục.

Cái gọi là tha tội cho kẻ tòng phạm là một trong những tội trọng nhất trong giáo luật Giáo hội và có thể bị vạ tuyệt thông tự động cho linh mục.

Cái gọi là tha tội cho kẻ tòng phạm là một trong những tội trọng nhất trong giáo luật Giáo hội và có thể bị vạ tuyệt thông tự động cho linh mục mà chỉ có thể được dỡ bỏ nếu ông thừa nhận tội lỗi và ăn năn – điều mà linh mục Rupnik đã làm như linh mục Sosa trả lời câu hỏi của hãng tin AP.

Linh mục Sosa cho biết điều đó đã xảy ra, có tha tội cho người đồng lõa: “Vì vậy, linh mục Rupnik đã bị vạ tuyệt thông. Làm thế nào để  gỡ bỏ vạ tuyệt thông? Người đó phải nhận tội  và phải ăn năn, điều mà linh mục Rupnik đã làm.”

Sau đó, linh mục Sosa đã mâu thuẫn với tuyên bố trước đó của các tu sĩ Dòng Tên, nói rằng những hạn chế trong chức vụ của linh mục Rupnik thực sự bắt nguồn từ bản án đó, chứ không từ cáo buộc năm 2021 mà văn phòng tội phạm tình dục của Vatican đã quyết định gác lại vì bị cho là quá thời hiệu để truy tố.

Không có lời giải thích nào về lý do vì sao văn phòng thường không miễn thời hiệu với các tội phạm liên quan đến lạm dụng, lại quyết định bỏ qua lần này, đặc biệt là xem trọng tiền án trước đó về tội trọng như thế với một phụ nữ trưởng thành. Văn phòng, hiện được gọi là Bộ Tín Lý do một tu sĩ Dòng Tên đứng đầu, có một công tố viên về tội phạm tình dục Dòng Tên và có vị trí số 2 vào thời điểm đó là người sống trong cộng đồng Dòng Tên của Rupnik ở Rôma.

Các giám chức của Bộ hoặc không trả lời e-mail yêu cầu bình luận hoặc từ chối bình luận, chuyển câu hỏi cho phát ngôn viên của Vatican, người này lại chuyển câu hỏi cho các tu sĩ Dòng Tên.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Linh mục Hans Zollner: Vatican phải trả lời về vụ linh mục Rupnik

Dòng Tên lên tiếng về vụ linh mục Rupnik: “Chúng tôi không buộc phải công bố tất cả”

Lạm dụng, các biện pháp trừng phạt nhẹ cho linh mục Dòng Tên Marko Rupnik

Vụ linh mục Rupnik, Dòng Tên bị chia rẽ

Vatican xác nhận xin lỗi Maxcova sau phát biểu của giáo hoàng

Vatican xác nhận xin lỗi Maxcova sau phát biểu của giáo hoàng

Bộ Ngoại giao Nga đã nhận thư xin lỗi do hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin ký. Vatican | © Jacques Berset

cath.ch, I. Media, 2022-12-15

Hãng thông tấn Nga RIA Novosti đưa tin bộ Ngoại giao Nga đã nhận lời xin lỗi của Tòa thánh sau những nhận xét của Đức Phanxicô về người Buryats và người Chechnya. Hãng tin đã tham dự cuộc họp báo với bà Maria Zakharova, phát ngôn viên của bộ ngày 15 tháng 12 năm 2022.

Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí America đăng ngày ngày 28 tháng 11, Đức Phanxicô đã tạo làn sóng phản đối kịch liệt ở Nga khi ngài nói về sự tàn ác của những người dân tộc thiểu số này như một phần của quân đội Nga, bà Maria Zakharova cho biết bà đã nhận một thông điệp qua hệ thống ngoại giao từ Hồng y Quốc vụ khanh Tòa thánh Pietro Parolin, trong đó ngài bày tỏ “lời xin lỗi của ngài đến Nga.” Theo bà Maria Zakharova, “Tòa Thánh có sự tôn trọng sâu sắc đối với tất cả các dân tộc Nga, phẩm giá, đức tin và văn hóa của họ, cũng như đối với các quốc gia và dân tộc khác trên thế giới”.

Một tín hiệu gián tiếp về việc mở cửa với Maxcova?

Khi được hãng tin I. Media liên hệ, Văn phòng Báo chí của Tòa thánh đã xác nhận “các liên hệ ngoại giao theo hướng này”.

Bà Maria Zakharova đảm bảo: “Chúng tôi tin rằng vụ việc đã được giải quyết và chúng tôi mong muốn tiếp tục hợp tác mang tính xây dựng với Vatican.”

Đức Phanxicô đã làm Nga tức giận khi trong cuộc phỏng vấn ngài tuyên bố: “Theo quy định, những kẻ tàn ác nhất trong quân đội Nga có lẽ là những người đến từ Nga nhưng không theo truyền thống Nga, chẳng hạn như Chechnya, Buryats, v.v.” Nếu những lời này chắc chắn nhằm mục đích làm giảm bớt tiếng tăm bạo lực mù quáng của quân đội Nga, và do đó để gởi một tín hiệu gián tiếp cởi mở với Moscow, thì tác dụng của những lời nói này lại ngược lại. Bà Maria Zakharova tố cáo lời của giáo hoàng là “xuyên tạc sự thật” cáo buộc ngài muốn chia rẽ các lực lượng Nga: “Chúng tôi là một gia đình với Buryats, Chechens và các đại diện khác của đất nước đa quốc gia, đa tôn giáo của chúng tôi.”

Theo những người chỉ trích Điện Kremlin, các nhóm thiểu số tập trung ở các vùng nghèo và xa xôi của Nga cũng có nhiều binh sĩ thiệt mạng tại mặt trận ở Ukraine hơn so với người dân tộc Nga. Nhưng những nhóm thiểu số này cũng bị cáo buộc có vai trò trong các hành động tàn bạo mà Kyiv quy cho lực lượng Nga, như vụ thảm sát tại Boutcha.

Sự phẫn nộ của Nga

Một số nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo trong các khu vực này cũng lên án nhận xét của giáo hoàng, nhà lãnh đạo Chechnya Ramzan Kadyrov cho rằng “người đứng đầu Vatican là nạn nhân của tuyên truyền và sự tàn nhẫn của các phương tiện truyền thông nước ngoài”.

Đại sứ Nga tại Tòa thánh, Alexander Avdeev, người mà Đức Phanxicô thường đánh giá cao “chủ nghĩa nhân văn” của ông cũng phản đối các cơ quan ngoại giao của Vatican. Ông tuyên bố với RIA Novosti: “Tôi bày tỏ sự phẫn nộ sau những lời bóng gió này và không có gì có thể lay chuyển được sự gắn kết và đoàn kết của người dân đa quốc gia Nga”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Đức Phanxicô trả lời phỏng vấn về phân cực, về phong chức phụ nữ, các giám mục Hoa Kỳ và về nhiều chủ đề khác

Các giám mục Pháp thảo luận với Đức Phanxicô về các vụ lạm dụng

Các giám mục Pháp thảo luận với Đức Phanxicô về các vụ lạm dụng

cath.ch, I. Media, 2022-12-15

Đức Phanxicô gặp các giám mục Pháp Vincent Jordy, Philippe Blanchet và Éric de Moulins-Beaufort | © I.Media

Trong cuộc họp báo tại Rôma ngày thứ tư sau ba ngày họp tại Vatican, tổng giám mục  Éric de Moulins-Beaufort cho biết, “ngay cả ở Rôma, mọi thứ đều đã chuyển động”. Đặc biệt, các trường hợp lạm dụng tình dục đã được thảo luận rộng rãi.

Đến Rôma cùng với hai giám mục phó chủ tịch của Hội đồng Giám mục Pháp, Vincent Jordy và Philippe Blanchet, để trình bày các biện pháp mà các giám mục Pháp đã làm để phản ứng với các vụ của giám mục Santier và của hồng y Ricard, tổng giám mục chủ tịch nhấn mạnh đến sự đón tiếp tích cực và khích lệ của Giáo triều và Đức Phanxicô dành cho họ.

Trong cuộc hội kiến dài 45 phút với Đức Phanxicô ngày 12 tháng 12, các giám mục đã thảo luận về các vụ lạm dụng gần đây làm rung chuyển Giáo hội Pháp. Giám mục Vincent Jordy nói, Đức Phanxicô biết chúng tôi đang mang một gánh nặng, ngài hiệp thông sâu sắc với Giáo hội Pháp.

Tuy nhiên, giáo hoàng đã không đưa ra bất kỳ chi tiết nào về hồng y Jean-Pierre Ricard, người đã thừa nhận có “hành vi đáng trách” với một bé gái 14 tuổi vào những năm 1980.

Năm 2023, các giám mục Pháp sẽ đến Rôma để được đào tạo

Ngày thứ tư 14 tháng 12, các giám mục Pháp đã đến bộ Giám mục và bộ Tín Lý, hai bộ liên quan đến việc quản lý các trường hợp lạm dụng. Họ trao đổi một giờ với các bộ trưởng, hồng y Marc Ouellet và hồng y Luis Ladaria Ferrer.

Chính tại hai bộ này, tất cả các giám mục Pháp, được chia thành ba nhóm, sẽ thực hiện chuyến đi tháng 2, tháng 5, tháng 7 năm 2023. Các giám mục sẽ tập trung vào việc quản lý các vụ lạm dụng theo giáo luật – đặc biệt là với tự sắc Các con là ánh sáng thế gian, Vox estis lux mundi được giáo hoàng thiết lập năm 2019 – và các vấn đề chăm sóc mục vụ và truyền thông. Các giám mục tham gia cũng sẽ thăm Ủy ban Giáo hoàng Bảo vệ Trẻ vị thành niên.

Vatican và các giám mục bàn đến những rối loạn chức năng

Đức giám mục Blanchet cho biết, trong các cuộc trao đổi, các giám mục cũng như các nhà lãnh đạo của Giáo triều đã nhận ra những sai sót trong việc quản lý các trường hợp được đề cập đến.

Giám mục Blanchet nhấn mạnh đến vấn đề chậm trễ rất lâu trong việc xử lý và báo cáo vụ giám mục Santier, điều này có liên quan đến sự thiếu hiểu biết về chủ đề và các thủ tục. Cuối cùng, sự chậm trễ trở nên không biện minh được

Giám mục Blanchet giải thích, ngài đã làm việc với với các bên liên hệ về các vấn đề nhất quán và công khai các bản án cũng như các biện pháp phòng ngừa.

Giáo hoàng đã gặp một số nạn nhân của hai anh em linh mục Philippe

Câu hỏi về hồ sơ của hai anh em Thomas và Marie-Dominique Philippe cũng được đặt ra với hồng y Ladaria cũng như với giáo hoàng. Tổng giám mục chủ tịch Hội đồng Giám mục Pháp cho biết, giáo hoàng chia sẻ cảm xúc của ngài, ngài đã gặp một số nạn nhân của hai linh mục này.

Một cuộc điều tra sẽ được trình bày vào tháng 1 sắp tới, tập trung vào lý do vì sao những người sáng lập cộng đồng Arche và Saint Jean dù đã bị Rôma lên án vào những năm 1950 vì lạm dụng tình dục, vẫn có thể tiếp tục hoạt động. Cuộc điều tra sẽ quay trở lại các hành vi lạm dụng của hai anh em linh mục đã được hai cộng đoàn và Dòng Đa Minh của họ giao cho một cơ quan độc lập điều tra.

Tình trạng sức khỏe của Đức Phanxicô đã tốt

Phái đoàn Pháp cũng ghi nhận sự cải thiện về tình trạng sức khỏe của giáo hoàng so với lần họ gặp vào tháng 8 vừa qua. Giám mục Jordy nói: “Chúng tôi thấy tình trạng sức khỏe của ngài tốt hơn nhiều, không giống như lần trước, ngài không ngồi trên xe lăn, nhưng đứng đón chúng tôi.”

Các giám mục gặp hồng y Leonardo Sandri, tổng trưởng danh dự bộ Giáo Hội Đông Phương, người kế vị là Đức ông Claudio Gugerotti đã cám ơn Giáo hội và chính phủ Pháp trong cam kết của họ với các Giáo hội đang đau khổ ở Đông phương, đặc biệt ở Liban và ở Armenia.

Các giám mục cũng đã gặp hồng y Mario Grech, thư ký của Thượng Hội đồng, người đã làm rõ về quá trình theo dõi Thượng Hội đồng về tương lai Giáo hội, chính xác là giai đoạn châu lục đang diễn ra.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đôi mắt đăm đăm nhìn ánh sáng

Đôi mắt đăm đăm nhìn ánh sáng

Ronald Rolheiser, 2022-12-12

Trong quyển sách Sự khôn ngoan nơi bàn bếp – Những câu chuyện chữa lành (Kitchen Table Wisdom, Stories That Heal), bác sĩ kiêm nhà văn Rachel Naomi Remen đã chia sẻ câu chuyện sau.

Năm 14 tuổi, bà nhận việc làm thêm mùa hè tình nguyện viên ở nhà dưỡng lão. Việc này không mấy dễ dàng với bà. Bà còn nhỏ tuổi, ngại ngùng và gần như sợ người người lớn tuổi. Một hôm, bà được phân công ngồi một giờ với một bà 96 tuổi, suốt cả năm chưa nói câu nào và đang bị mất trí nhớ nặng. Rachel cầm theo một túi hạt thủy tinh, dự định có thể cùng bà xâu chuỗi hạt với mình. Nhưng chẳng được thế.

Rachel gõ cửa, không ai trả lời, cô vào và thấy bà cụ đang ngồi trên ghế, mắt nhìn đăm đăm qua cửa sổ. Rachel kéo ghế ngồi cạnh bà, và suốt một tiếng cô cố kéo ánh mắt bà ra khỏi khung cửa. Nhưng chẳng thành công. Theo lời kể của bà thì “căn phòng thinh lặng một cách tuyệt đối”. Bà cụ chưa một lần nhận thấy sự hiện diện của Rachel, cũng chưa hề nhìn cô, mà cứ liên tục nhìn chăm chăm ra cửa sổ.

Khi chuông reo báo hiệu đã qua một tiếng, Rachel đứng dậy, cô hỏi bà: “Nãy giờ bà nhìn gì vậy ạ?” Bà cụ trả lời: “Sao con lại hỏi thế, bà nhìn vào ánh sáng mà”. Rachel sửng sốt, không phải bởi sự lạ thường nơi lời nói, nhưng do một diễn xúc lạ thường, một say mê trên gương mặt bà cụ. Cô bé Rachel 14 tuổi chẳng biết sau biểu cảm lạ thường đó là gì. Phải mất nhiều năm, Rachel mới hiểu ra.

Rachel đã là bác sĩ sản khoa, nhi khoa. Khi bà đỡ đẻ lần đầu tiên, đứa bé ra đời đã mở mắt, bà nhìn thấy trong gương mặt đứa bé biểu cảm mà nhiều năm về trước bà đã thấy nơi bà cụ. Đứa bé cũng nhìn vào ánh sáng, vô thức, im lặng, rạng rỡ, đôi mắt dán chặt vào ánh sáng mà nó chưa từng thấy.

Có gì tương đồng giữa biểu cảm của một đứa bé lần đầu tiên mở mắt nhìn đời và của một bà cụ chăm chăm nhìn về phía ánh sáng? Rachel Remen có một hình ảnh lột tả được điều này.

Về căn bản, nếu ta sống đủ lâu, sẽ có lúc những phương thức nhận thức cũ của chúng ta sẽ không còn hữu ích nữa, lòng chúng ta sẽ buộc phải hướng về những thứ vượt trên những vết thương của chúng ta, những bất an của chúng ta sẽ tan biến cả và chúng ta sẽ chăm chăm hướng mắt về một ánh sáng khác. Điều này sẽ thay đổi triệt để cái nhìn của chúng ta, xóa bỏ hết mọi thứ từng có lý, cho chúng ta trở nên trẻ sơ sinh, câm lặng chăm chăm nhìn vào điều chưa biết, vào ánh sáng mời gọi đó. Tại sao lại thế? Chuyện là thế nào?

Khi trẻ mới sinh, nó rời một nơi nhỏ bé, hạn chế và tối tăm, nhưng lại bảo bọc, nuôi dưỡng và an toàn. Nó cũng rời nơi duy nhất nó từng biết, và có thể nó chẳng biết điều gì đang chờ mình khi sinh ra. Thật sự là, nếu đứa trẻ biết suy nghĩ một cách ý thức, chắc chắn nó sẽ khó lòng tin nổi có bất kỳ thứ gì, kể cả người mẹ mà nó chưa hề thấy, có tồn tại bên ngoài cung lòng này. Do đó, biểu cảm gương mặt của đứa trẻ khi lần đầu mở mắt nhìn ánh sáng sẽ là hoang mang, kinh sợ, mê ly.

Chúng ta sinh ra từ cung lòng này sang cung lòng khác. Chúng ta sống trong một cung lòng thứ hai, là thế giới của chúng ta, rộng lớn hơn, bớt hạn chế hơn, bớt tối tăm hơn, và cũng đem lại bảo vệ, nuôi dưỡng và an toàn như trong cung lòng mẹ. Gần như cả đời chúng ta, cung lòng thứ hai này tốt với ta, cho những thứ chúng a cần. Khi còn trẻ, khỏe, dường như chẳng có mấy lý do để chúng ta hướng ánh nhìn đến một ánh sáng khác. Cung lòng mà chúng ta đang sống cho chúng ta đủ ánh sáng rồi. Hơn nữa, nó cũng là nơi duy nhất chúng ta biết. Thật sự là, theo tự nhiên và chính mình, thì chúng ta không có gì chắc chắn rằng có một nơi nào khác ngoài nơi này.

Hơn nữa, chúng ta giống những đứa trẻ trong bụng mẹ ở điểm này. Từ thời điểm thụ thai, tiền định cho đứa trẻ là nó sẽ phải sinh ra. Sẽ đến lúc nó phải bước vào một thế giới rộng lớn hơn. Và chúng ta cũng thế. Chúng ta cũng được tiền định sẽ phải sinh ra, ra khỏi cung lòng hiện thời của mình. Do đó, như đứa trẻ trong bụng mẹ, chúng ta cũng có sự “điên rồ” đối với một ánh sáng lớn lao hơn.

Trong bài thơ Khao khát linh thánh (The Holy Longing), Johann Wolfgang von Goethe đã diễn tả điều này một cách thi vị như sau:

Bây giờ ta đã hết chìm sâu

Ngập trong ám ảnh với bóng tối

Khao khát ân ái cao bội phần

Đang đẩy ta lên, lên thật cao

Xa xôi không làm ta nản chí,

Vì giờ diệu kỳ ta đang bay,

Cuối cùng cuồng điên vì ánh sáng

Hóa thân thành bướm bay đi xa.

J.B. Thái Hòa dịch

Bài đọc thêm: Bây giờ chúng ta yêu thương ít hơn thời còn trẻ

Nguyên tắc kép

Nguyên tắc kép
osservatoreromano.va, Marinella Perroni, nhà Kinh Thánh học, 2022-12-03

La Pietà, Michelangelo
Gần đây một đoạn video ngắn lan truyền những phản ứng đầy xúc động và nhiệt tình của nhiều cô gái người Mỹ gốc Phi khi họ xem bộ phim Disney Nàng tiên cá, The Little Mermaid trên truyền hình, trong đó nhân vật Ariel có làn da ngăm đen. Một video hay nhắc chúng ta nhớ tính hội nhập văn hóa cũng được dựa trên trí tưởng tượng. Và những cô gái người Mỹ gốc Phi phấn khích khi thấy Ariel da ngăm đen nói với chúng ta điều gì đó vẫn còn giá trị cho bất cứ giao tiếp nào, ngay cả với giáo hoàng: nghe, đọc, nhìn có nghĩa là nhận được tín hiệu rõ ràng hoặc tiềm ẩn, mà trong chúng ta có một tập hợp các niềm tin góp phần cấu trúc nên bản sắc chúng ta, những thứ có lợi cho việc xây dựng một trí tưởng tượng tập thể mà tất cả chúng ta đều được phản ánh trong đó. Đây chính là mấu chốt: làm sao để tự thấy mình?
Tư đó bắt đầu một thảo luận về một điều gì đó rất nghiêm túc, thậm chí có thể khó khăn, có vẻ lạ. Chưa hết, trong quảng cáo của Disney có chìa khóa để hiểu những gì tôi sắp nói về cái mà “trong mật mã” được gọi là “nguyên tắc Maria-Phêrô”. Một công thức lặp đi lặp lại trong Huấn quyền của bốn giáo hoàng gần đây nhất nói về đời sống của Giáo hội và trên hết là sự tham dự của nam giới, nữ giới: chúng ta cảm nhận ngay Đức Maria là nguyên mẫu của người nữ, Phêrô là người nam và rõ ràng, khi các giáo hoàng dùng công thức “nguyên tắc Maria-Phêrô”, các ngài muốn khẳng định, mọi người, nam cũng như nữ, phải cảm thấy như mình ở nhà mình, trong Giáo hội vì đó là nơi diễn ra mối quan hệ giữa nam và nữ tuyệt đối hỗ tương nhau. Tuy nhiên, vào đầu thiên niên kỷ thứ ba, hỗ tương qua về trao cho phụ nữ đặc sủng tình yêu, còn đàn ông là quyền lực, ít nhất điều này cũng phải làm chúng ta suy nghĩ. Nhưng, có lẽ, tốt hơn là nên đi theo thứ trật.
Chúng ta mắc nợ việc phát minh ra “nguyên tắc Maria-Phêrô” của một trong những nhà thần học vĩ đại nhất thế kỷ trước, hồng y Hans Urs von Balthasar, người đã hy vọng làm cho tất cả các tín ngưỡng kitô giáo chấp nhận quyền ưu tiên của Giáo hội Rôma trên cơ sở hội nhập thừa tác vụ thánh Phêrô trong thần nghiệm về Đức Mẹ. Không phải ngẫu nhiên mà bản văn trong đó nhà thần học người Thụy Sĩ giải thích nguyên tắc kép Maria-Phêrô, có tựa đề là Phức hợp chống-la mã. Làm thế nào để tích hợp chức vụ giáo hoàng trong Giáo hội phổ quát. Dĩ nhiên chính hồng y cũng không ngờ lưỡng cực Maria-Phêrô lại thành công lớn như vậy. Nhưng cũng đúng, ít nhất cho đến vài chục năm trước, việc dùng các nguyên mẫu nam tính và nữ tính có thể dễ dàng áp dụng trong bất kỳ lĩnh vực nào.
Tuy nhiên, Von Balthasar sẽ không bao giờ hình dung được, kể từ thời điểm đó trở đi, tất cả các giáo hoàng sẽ đề cập đến nó, tuy nhiên, không còn là hội nhập chức vụ giáo hoàng vào đời sống của Giáo hội hoàn vũ, mà là hội nhập người nam và nữ trong Giáo hội. Đức Phaolô VI đã dùng một lần trong Marialis Cultus, Đức Gioan Phaolô II tiếp nhận và đưa ra trong Mulieris Dignitatem, Đức Bênêđictô XVI đã dùng để giải thích ý nghĩa và giá trị của màu đỏ hồng y. Và Đức Phanxicô đã đề cập đến nó ngay từ đầu triều giáo hoàng của ngài, để mọi người hiểu ngài xem đó là mô hình giáo hội học hữu ích nếu không muốn nói là hết sức cần thiết. Chính xác vì ngài có nhiều uy tín thẩm quyền, nên theo tôi, điều quan trọng là phải đề xuất một suy nghĩ, thậm chí nên mở một cuộc thảo luận. Thánh Phaolô khẳng định, Thiên Chúa “đã đặt trong Gia Đình-Giáo Hội của Ngài, cũng như trong mọi gia đình, hình ảnh Người Phụ Nữ, người âm thầm và trong tinh thần phục vụ, theo dõi và nhân từ bảo vệ hành trình của họ về quê hương, cho đến ngày vinh quang của Chúa”. Nói cách khác, theo nghĩa đen khẳng định của Von Balthasar, qua đó “yếu tố Đức Mẹ ẩn mình trong Giáo hội, giống như người phụ nữ trong mái ấm gia đình”.
Vì thế nguyên tắc Maria dự trù đặc tính “làm mẹ” và “nội trợ”. Tuy nhiên, Von Balthasar nhấn mạnh vào ưu tiên toàn diện của thần nghiệm Maria so với chức vụ thừa tác viên của Phêrô: nguyên tắc thứ nhất là điều kiện hóa vì nó bao trùm và giải phóng tất cả, trong khi nguyên tắc thứ hai bị điều kiện hóa vì mang tính chất thừa tác và quản lý. Còn Đức Gioan Phaolô II khẳng định, về bản chất, Giáo hội vừa là “Mẹ Maria” vừa là “tông truyền-Phêrô” vì cấu trúc phẩm trật của Giáo hội hoàn toàn hướng đến sự thánh thiện của các chi thể Chúa Kitô, nhưng cũng vì trong phẩm trật thánh thiện chính xác là “người phụ nữ”, Maria Nadarét là “hình ảnh”Giáo hội và vì điều này, Giáo hội đề cao chức năng lành mạnh của “thiên tài nữ tính” so với đàn ông-nam giới. Còn với Đức Bênêđíctô XVI, thì “mọi sự trong Giáo hội, mọi định chế và thừa tác vụ, kể cả của Thánh Phêrô và những người kế vị ngài, đều được “bao gồm” dưới áo choàng của Đức Trinh Nữ, trong không gian tràn đầy ân sủng của lời “xin vâng” của Mẹ với thánh ý Chúa”. Cuối cùng, Đức Phanxicô cũng cảm thấy khó vượt qua tầm nhìn gia trưởng vốn buộc nam và nữ vào một sơ đồ, không vì thế mà ít nguy hiểm hơn khi Phêrô và Maria được thiết lập như những nhân vật quy chiếu mang tính biểu tượng và dành quyền hành chức vụ cho Phêrô, tức là cho nam giới, và Maria, là với phụ nữ, có đặc sủng của tình yêu.
Thuyết lưỡng cực luôn quyến rũ bởi vì chúng lừa dối. Chúng làm chúng ta nghĩ rằng các khác biệt có thể được giải quyết theo một công thức và sự phức tạp có thể được đánh lừa bằng sự đơn giản hóa. Nhưng các khuếch đại tu từ khác nhau mà gốc rễ của nó là sự đồng nhất phụ nữ và lò sưởi, có nghĩa giữa một bên là nữ tính và nội trợ, nữ tính và nội tâm, nữ tính và chào đón, nữ tính và tâm linh, và mặt khác, nam tính và chức vụ, nam tính và uy quyền, nam tính và quyền lực, cho thấy một khó khăn thực sự, theo nghĩa kỹ thuật là một “bê bối”, cho phụ nữ và nam giới, những người không được quan niệm sự khác biệt giới tính theo thứ bậc. Cũng bởi vì giờ đây đã hoàn toàn rõ ràng, các hình thức tôn vinh nữ tính một cách thần bí tỷ lệ thuận với việc từ chối công nhận quyền lực của phụ nữ.
Do đó, câu hỏi được đặt ra với tất cả sự khắc nghiệt của nó: nguyên tắc Maria-Phêrô có thể hiện một ý thức hệ và tu từ học về sự khác biệt dục tính và giới tính mà hiện nay đã bị vạch trần như một trong những vỏ bọc của các đặc quyền gia trưởng không? Trong số những chuyện khác, hệ thống kiến thức mà trong đó đánh giá sự khác biệt dục tính và giới tính ngày nay đã hoàn toàn xa rời tâm sinh lý học vốn có nền tảng từ sinh học Aristotle và không cho phép phù hợp với sự phân bố vai trò và quyền hạn đối với sinh học, hình thái hoặc, ít hơn nhiều, với các phân loại tâm sinh lý.
Lưỡng cực nam-nữ, thậm chí đã chiếm lĩnh bối cảnh một cách ám ảnh khi tư tưởng thần học hoàn toàn lấy trọng tâm là nam giới và gia trưởng từ hơn một thế kỷ, nghĩa là, kể từ khi phụ nữ lần đầu tiên trở thành “vấn đề phụ nữ” và sau đó, bỏ biểu hiện xúc phạm này, đã quyết định cảm thấy hoàn toàn là nhân vật chính của đời sống xã hội, chính trị và giáo hội, hiện đã là chủ đề của những sửa đổi quyết định và đảo ngược quan trọng. Ngay cả trong đời sống giáo hội. Và nguyên tắc Maria-Phêrô vốn đảm bảo cho việc duy trì các khuôn mẫu học thuyết, các sắp xếp thể chế, các thực hành sùng kính, giờ đây bộc lộ tất cả sự mong manh của nó. Cũng bởi ngày nay không gì có thể thoát khỏi sự kiểm soát của mối quan hệ giữa trật tự biểu tượng, tiền đề nhân học và hệ quả xã hội. Ngay cả tư tưởng thần học cũng không. Đó là lý do vì sao những cô gái người Mỹ gốc Phi vui mừng vì Ariel có cùng màu da nhắc nhở chúng ta rằng không có từ ngữ, suy nghĩ, hình ảnh nào là “trung lập”: tất cả đều truyền tải một tầm nhìn về cuộc sống. Bao gồm hoặc phân biệt đối xử. Đó là lý do vì sao bây giờ lời mời gọi thành cấp bách: chúng ta hãy nói về nó.
Marta An Nguyễn dịch
Bài đọc thêm: Phong chức cho phụ nữ: “Lập luận của Đức Phanxicô có giá trị… và những giới hạn của nó”

Gianfranco Rosi, nhà làm phim trong hành lý của Đức Phanxicô

Gianfranco Rosi, nhà làm phim trong hành lý của Đức Phanxicô

Đạo diễn Gianfranco Rosi
lacroix.com, Loup Besmond de Senneville, Roma, 2022-12-13

Gianfranco Rosi, nhà làm phim trong hành lý của Đức Phanxicô

Nhưng Gianfranco Rosi đã làm gì? Đạo diễn từng đoạt giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venice năm 2013, ba năm sau là Gấu vàng Berlin, tác giả của những bộ phim tài liệu trên toàn thế giới, tại sao ông lại ký hợp đồng với bộ phim tài liệu sẽ chiếu ngày 14 tháng 12 và sau đó là chiếu riêng… cho Đức Phanxicô? Tám mươi phút theo bước chân của người mặc áo trắng chu du khắp thế giới.
Để làm được điều này, cần phải ngâm mình trong nước sâu, xem tám trăm giờ hình ảnh lưu trữ Vatican cung cấp. Gần mười năm du hành, kể từ cuộc hành hương đầu tiên năm 2013 trên đảo Lampedusa, tâm điểm của cuộc khủng hoảng di cư ở châu Âu, nơi mà vài giờ trước đó, một chiếc thuyền đến từ châu Phi của những người hy vọng tìm thấy một cuộc sống tốt hơn ở châu Âu bị đắm.

Không có gì rõ ràng với nhà làm phim tài liệu người Mỹ gốc Ý này, ông sinh ra cách đây 59 năm ở Asmara, Eritrea, “người cha không theo công giáo, người mẹ theo đạo công giáo”, sau đó ông làm nhân viên ngân hàng. Kể từ đó, ông sống ở Hoa Kỳ, đi du lịch khắp thế giới, được giáo dục tại các trường Lasan, “những người thầy tuyệt vời” khi ông sống ở châu Phi.

Sự khâm phục

Ông luôn khẳng định mình là người “không công giáo, nhưng không vô thần”: “Tinh thần của tôi luôn được hướng dẫn bởi một tâm linh bên trong. Tôi liên tục tìm kiếm người hướng dẫn. Và có thể với giáo hoàng này, tôi đã tìm thấy người hướng dẫn tinh thần, theo nghĩa mạnh của từ này.”

Thật ra trước năm 2016, Gianfranco Rosi không biết Đức Phanxicô. Chính khi ông làm phim Fuocoammare, bộ phim tài liệu dài hơn một giờ cho truyền hình về Lampedusa. “Số phận của chúng tôi đã giao nhau”, ông châm điếu thuốc đầu tiên, sau đó là nhiều điếu khác trong cuộc phỏng vấn.

Với phim tài liệu này, Gianfranco Rosi đã sử dụng tám trăm giờ xem phim lưu trữ do Vatican cung cấp, hồi tưởng lại mười năm tông du. Tối chủ nhật, ông quấn mình trong chiếc áo parka màu đen, đội mũ trên đầu đã cạo trọc và đeo kính đen. Từ Milan, ông đồng ý thực hiện phỏng vấn này, giữa chuyến đi đến Amsterdam và chuyến đi khác đến Paris, và đồng ý bật camera máy tính của mình. Khoảnh khắc. “Bạn sẽ thứ lỗi cho tôi, tôi đã tắt Zoom, tôi ghét nó”, ông rõ ràng thích đứng sau máy quay.

Một bộ phim “không có thần học hay ý thức hệ”

Sau Lampedusa, nơi đầu tiên diễn ra cuộc “giao thoa” giữa con người của đức tin và con người của điện ảnh, vài năm sau, một bộ phim tài liệu khác, Notturno. Trong bộ phim này, đạo diễn đi đến biên giới của Syria, Lebanon, Kurdistan và Iraq… Một khu vực Đức Phanxicô cũng hướng tới vào mùa xuân năm 2020, khi ngài thực hiện chuyến đi lịch sử tới Iraq.

Đối với Gianfranco Rosi, xem các phim tài liệu là “hành trình nội tâm”, cuộc hành trình của Đức Phanxicô trên các vùng đất trong Kinh thánh là dấu hiệu cho thấy chúng ta phải quan tâm nhiều hơn đến giáo hoàng du hành phi thường này. Theo ông Rosi, trong ba mươi tám chuyến đi nước ngoài kể từ khi bắt đầu triều giáo hoàng, Đức Phanxicô “chưa bao giờ đi để chiêu dụ”, ông muốn làm một bộ phim “không có thần học hay ý thức hệ”.

Đức Phanxicô khi đến Lampedusa ngày 8 tháng 7 năm 2013. / Alessandro Bianchi/Reuters

Tuy nhiên, In Viaggio tràn ngập những im lặng này mà giáo hoàng đã làm khi ngài cầu nguyện hoặc lắng nghe những người nói chuyện với ngài. “Ngài là người biết quan sát và lắng nghe. Khi ngài ở trước đám đông, ngài dường như quan sát mọi người có mặt. Và khi ngài chào bạn, bạn có ấn tượng ngài chỉ nhìn thấy bạn. Ngài có một khả năng hiện diện to lớn.”
Gianfranco Rosi đi theo ngài đến Malta tháng 3 năm 2022 và Canada tháng 7 cùng năm, ông chào ngài trên máy bay như tất cả các nhà báo trên máy bay, tuy nhiên, ông quan sát không phải với tư cách nhà báo nhưng với tư cách nhà làm phim. Qua các chuyến tông du của giáo hoàng trên khắp thế giới. Rosi nhìn thấy trong đó một “Via Crucis” (con đường thập giá) mà Đức Phanxicô đã vượt qua, ở vùng ngoại vi thế giới.

Nhà làm phim cho biết: “Tôi đã làm một bộ phim không biên giới về một giáo hoàng không biên giới. Điều gây ấn tượng với tôi là vị giáo hoàng này nói chuyện với tất cả mọi người, một cách phổ quát từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam, cho người giàu và người nghèo. Nhưng về cơ bản, tất cả những chuyến đi này thực sự thay đổi điều gì? Nó thay đổi cuộc sống của những người gặp nó. Rõ ràng, nó không ngăn được chiến tranh và không giải quyết được các cuộc khủng hoảng. Đây cũng là lý do vì sao có một dạng cô đơn ở ngài. Về cơ bản, tôi muốn tri ân một người đang cố gắng thay đổi điều gì đó.»

Đức Phanxicô tại Cuba năm 2015. / Photos Météore Films

“In viaggio”, một chân dung nổi bật

Bộ phim của Gianfranco Rosi đi theo Đức Phanxicô trong cuộc hành trình kéo dài 80 phút, từ Lampedusa đến Canada, đặc biệt đi qua Chile, Malta, Mexico, Israel và Palestine. Ngoài bức chân dung nổi bật, không có lời bình luận về một giáo hoàng rong ruổi khắp thế giới, Rosi tìm cách đưa ra một sợi dây chung thông qua những hành vi của người mặc áo trắng đối diện với những đau khổ của thế giới, quyết tâm đối diện với hậu quả của chiến tranh, chia rẽ và hận thù. Cố gắng kêu gọi thế giới thay đổi hướng đi. Ngay cả khi điều đó có nghĩa là chấp nhận rủi ro khi kêu lên trong sa mạc.

Đức Phanxicô đến Lampedusa 8 -7-2013, “Những bông hoa nơi người di dân chết”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Phanxicô kêu gọi tiết kiệm dịp lễ Giáng sinh để quyên góp cho Ukraine

Đức Phanxicô kêu gọi tiết kiệm dịp lễ Giáng sinh để quyên góp cho Ukraine

la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, 2022-12-14

Ngày thứ tư, 14 tháng 12, Đức Phanxicô kêu gọi tiết kiệm trong dịp lễ Giáng sinh, làm một lễ Giáng sinh khiêm tốn với những món quà khiêm tốn hơn và gửi số tiền tiết kiệm cho người dân Ukraine.

Trong buổi tiếp kiến hàng tuần ngày thứ tư 14 tháng 12, Đức Phanxicô kêu gọi làm những món quà khiêm tốn hơn vào dịp Giáng sinh, vìl ợi ích cho Ukraine. Ngài giải thích: “Thật vui khi đón lễ Giáng sinh. Nhưng chúng ta nên hạ thấp mức chi tiêu cho Giáng sinh một chút. Làm một Giáng sinh khiêm tốn hơn, với những món quà khiêm tốn hơn.”

Người dân Ukraine đau khổ quá nhiều

Trước hàng ngàn tín hữu có mặt ở hội trường Phaolô VI, Đức Phanxicô kêu gọi chúng ta gần gũi với người tử đạo Ukraine, kiên trì sốt sắng cầu nguyện cho anh chị em chúng ta, những người đang phải chịu đau khổ. Anh chị em thân mến, tôi xin nói với anh chị em: có quá nhiều đau khổ ở Ukraine, quá nhiều! Chúng ta gần gũi với người tử đạo Ukraine, kiên trì sốt sắng cầu nguyện cho anh chị em chúng ta, những người đang phải chịu đau khổ. Và tôi muốn anh chị em chú ý một chút vào Giáng sinh và các lễ hội. Đón Giáng sinh, tiệc tùng là tốt… nhưng chúng ta nên giảm chi tiêu, hãy làm một Giáng sinh khiêm tốn hơn với những món quà khiêm tốn. Xin anh chị em gửi những gì chúng ta tiết kiệm được cho người dân Ukraine, những người đang cần giúp đỡ, họ chịu đựng rất nhiều, họ đói, họ lạnh và nhiều người chết vì không có bác sĩ, không có y tá. Xin anh chị em đừng quên: một Giáng sinh hòa bình với Chúa, với người Ukraine trong trái tim chúng ta. Và xin anh chị em hãy làm những việc cụ thể cho họ. 

Ngày thứ ba, 13 tháng 12, Quốc vụ khanh Tòa thánh đưa ra lời kêu gọi tổchức một hội nghị lớn của châu Âu về hòa bình, giống như hội nghị được tổ chức tại Helsinki năm 1975, giữa các nước châu Âu, Hoa Kỳ và Liên Xô.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Nói lên đức tin của tôi hay đức tin của Giáo hội?

Nói lên đức tin của tôi hay đức tin của Giáo hội?

Chương 5 sách Công giáo trong tự do

 Trích sách Công giáo trong tự do (Catholique en liberté, nxb. Salvator, 2019)

Thời gian vào Mùa Vọng là thời gian người công giáo được mời gọi để tuyên xưng đức tin nơi Đấng Kitô. Sự “trở về với đức tin chân chính” có vẻ như siêu hiện thực với những ai nhìn vào niềm tin thực sự của các tín hữu, những xác tín và câu hỏi của chính mình…

Nói lên đức tin của tôi hay đức tin của Giáo hội?

Từ những năm sinh viên của tôi, tôi vẫn còn nhớ lần đi tĩnh tâm ở giáo xứ đại học đường Valade, Toulouse, nơi tôi thường hay đến và nơi chúng tôi có hai cha tuyên úy, cha Robert Boucher Dòng Tên, và hồng y-tổng giám mục tương lai Bernard Panafieu, giáo phận Marseille. Cuối tuần đó có cha Dòng Tên đến giúp, và bây giờ tôi không còn nhớ tên, nhưng cha đã nói hai câu, giờ đây vẫn còn trong trí nhớ của tôi, hai câu làm tôi suy nghĩ trong một thời gian dài và bây giờ tôi vẫn còn suy nghĩ. Bằng chứng cha đã hoàn thành sứ vụ cao cả của cha. Đặt câu hỏi về tính hữu ích của cầu nguyện, chủ đề của ngày hôm đó nếu trí nhớ của tôi còn tốt, linh mục đã nói như sau: “Cầu nguyện chẳng ích gì. Chính vì thế mà nó quan trọng.” Nhưng câu thứ hai mới làm sáng tỏ quan điểm của tôi. Trong những năm sau Công đồng Vatican II, khi tôi bắt đầu để dành tiền túi để mua các tài liệu về công đồng, khi các tài liệu này dần dần được nhà xuất bản Centurion phát hành, linh mục đã triển khai suy nghĩ này trước chúng tôi: “Chúng ta không thể tưởng tượng được tầm mức các bản dịch của các văn bản phụng vụ được dịch sang tiếng bản xứ. Kể từ ngày người công giáo bắt đầu hiểu những gì người ta nói cho họ nghe về đức tin của họ, họ sẽ bước vào một cuộc chất vấn bất tận và bổ ích.” Cha nói đúng.

“Xem lại” kinh Tin Kính mà ngày nay các tín hữu đang tranh luận

Tôi sẽ không xem lại các quy tắc của thánh lễ ở đây. Nhưng để đưa ra sự bối rối mà đôi khi chỉ đơn thuần  Kinh Tin Kính cũng làm cho tôi khó chịu. Có gì tự nhiên hơn cho người tín hữu khi họ có thể đọc chính xác những gì họ tin? Một lần nữa, tôi không tự cho mình là thần học gia ở đây, điều mà tôi không phải. Tôi chỉ đơn giản và khiêm tốn cố gắng giải mã, từ kinh nghiệm của chính tôi, điều mà ngày nay theo tôi, dường như đang gây tranh cãi cho nhiều tín hữu đến mức có thể giải thích cho cơn khủng hoảng gặm nhắm Giáo hội, chứ không chỉ do các tội phạm ấu dâm. Như thế thì quá đơn giản. Tôi đã nêu lên những câu hỏi mà một số tín điều công giáo có thể gợi lên. Tôi sẽ dừng lại ở đây, để minh họa quan điểm của tôi, về việc lên công thức cho Kinh Tin Kính, tôi không tự cho mình là tác giả hay đưa ra phân tích đầy đủ về các câu hỏi mà Kinh Tin Kính khơi lên nơi người này người kia. Lúc viết các dòng này, tôi nhớ lại một buổi đi bộ chầm chậm ở vườn Élysée thời tổng thống François Mitterrand, vào một ngày 14 tháng 7 đầy nắng, cùng với giám mục Jean-Michel di Falco, khi đó là phát ngôn viên của Hội đồng Giám mục Pháp, người cũng như tôi, đến bữa tiệc ở vườn tổng thống sớm một chút… Trong khi đi dạo trên bãi cỏ công viên, chúng tôi thảo luận về kết quả của một cuộc khảo sát của báo Người Hành hương (Le Pèlerin) phát động về đức tin của người tín hữu. Và tôi còn nghe ngài tâm sự bằng một giọng nhẹ nhàng nhưng chắc nịch: “Họ tin hay không tin không quan trọng. Chỉ có đức tin của Giáo hội mới tính!” Đó là điều mà Giáo hội hình thành trong các văn bản của mình.

Mỗi người đến với Kinh Tin Kính bằng sự nhạy cảm, bằng lịch sử cá nhân, bằng nghi ngờ và xác tín của mình.

Tuy nhiên, ngay sau khi chúng ta đi ra khỏi bản kinh bằng tiếng la-tinh Credo in unum Deum, Patrem omnipotentem, factorem caeli et terrae, visibilium omnium et invisibilium… thì mọi thứ trở nên phức tạp. Và thậm chí còn hơn thế nếu chúng ta hoán đổi Kinh Tin Kính thường đọc trong các buổi lễ, được gọi là Kinh Tin Kính Các Tông Đồ, vì đó là kinh được cho là phản ánh đức tin của các tông đồ Chúa Giêsu, khác với Kinh Tin Kính của Công đồng Nixê-Conxtăntinốp sau này, xuất phát từ hai công đồng đại kết đầu tiên năm 325 và năm 381. Trong tuổi vị thành niên của tôi, kết quả của những tranh luận lớn gợi lên bản chất của Chúa Kitô đã cho tôi hương vị kỳ diệu: “Tôi tin kính một Thiên Chúa duy nhất là Chúa Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình.

Tôi tin kính một Chúa duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Con một Thiên Chúa, sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn đời: Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật; được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha. Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành”. Và ở đó tôi hiểu, người tín hữu trung thực của thiên niên kỷ đầu tiên này có thể tự vấn, nhưng vẫn trung thành tin cậy vào đức tin của Giáo hội khi cần thiết.

Mỗi người đến với Kinh Tin Kính bằng sự nhạy cảm, bằng lịch sử cá nhân, bằng những nghi ngờ và xác tín của mình. Về phần tôi, lạ lùng thay, tôi luôn dính chặt vào ý tưởng hiệp thông các thánh, có thể vì chúng ta có kinh nghiệm “trần thế” nhờ sự hỗ trợ nhân bản và tinh thần được chia sẻ với những người có cùng đức tin và yêu thương nhau trong tình anh em. Để xóa tội có thể dẫn xuống địa ngục hoặc lên thiên đàng, tôi hoàn toàn tin tưởng vào lòng thương xót vô hạn của Chúa và tôi muốn tin, một ngày nào đó, tôi sẽ gặp lại những người tôi thương yêu, “để muôn đời ca tụng” (bài hát của André Gouzes), ngay cả khi sự sống lại của xác thịt làm tôi bối rối.

Một niềm đam mê kỳ lạ với trinh tiết…

Tôi cũng tự hỏi về vũ trụ học thần thánh này, nơi mà từ muôn thuở, Người Con ngự trị bên Người Cha trong khi chờ ngày, xin tha cho tội  xấc xược của tôi, một điều gì đó cuối cùng sẽ xảy ra làm xáo trộn trật tự đẹp đẽ này: Ngày  Phán Xét Cuối Cùng. Tôi sẽ chỉ trích dẫn trong Kinh Tin Kính này, việc gợi lên sự đồng trinh của Đức Maria rất gần với các câu chuyện thần thoại lương dân, mà tôi không còn cho đó là quan trọng, dù ngày nay trong Giáo hội, nó không còn biện minh cho sự mê hoặc lạ lùng về trinh tiết – và từ đó là nỗi kinh hoàng của tình dục – như thể cuộc sống lý tưởng cho bất kỳ người phụ nữ tử tế nào là sống như một trinh nữ và chết… như một vị thánh!

Điểm khó khăn của tôi, tôi không phải là đồ đệ của triết gia Michel Onfray, là tin Chúa Giêsu thực sự sinh ra thời vua Hêrôđê, chịu khổ nạn, chịu chết và được táng xác. Việc Ngài xuống địa ngục, theo tôi, dường như đến từ một văn hóa không còn là văn hóa thực sự của chúng ta nữa và làm cho ý nghĩa câu đó trở nên mờ nhạt với chúng ta, chỉ vì sự đa nghĩa của từ địa ngục. Còn với sự Sống lại của Ngài mà theo Thánh Phaolô, nếu không có sự sống lại thì đức tin của chúng ta vô nghĩa, tôi gắn chặt vào đó với một đức tin cháy bỏng. Mặc dù nó đưa tôi trở lại sự chia cách vẫn còn của tôi, và trong một thời gian dài, giữa suy nghĩ của triết gia Simone Weil, chúng ta có thể từ bỏ tôn giáo của mình nếu tôn giáo này không phải sự thật, và chứng từ của nhà văn Dostoyevsky khẳng định ngược lại, nếu Chúa Giêsu không phải là Sự thật, thì ông thà ở với Chúa Giêsu hơn là với Sự thật.

Tạo Dựng như một công trình khai phá mà con người được tạo thành để làm người tiếp nối

Về nguồn gốc vạn vật, với tôi, từ lâu chính ý tưởng sáng tạo đã là một tiến trình khai phá, đặc biệt qua những kỳ quan khó lường của thiên nhiên, nhưng cũng liên tục mà con người được liên kết với ý chí thần thánh. Tôi thích trong Thông điệp Chúc tụng Chúa Laudato Si, Đức Phanxicô nói về bảo vệ tạo dựng, ý tưởng con người không phải là kẻ săn mồi, nhưng là văn hóa mà con người là nghệ nhân – trong đó các tôn giáo trong sự đa dạng của mình – là một phần không thể thiếu của tạo vật cần được bảo vệ, do đó đây không phải là công việc chỉ có một mình Chúa làm.

Rằng Chúa Giêsu là con một của Chúa Cha làm tôi yên tâm. Và tôi tuyên xưng, chính Chúa Giêsu trước hết, hơn là với Chúa Cha, mà tôi mới có được sự dịu dàng, cha Pierre thường nói với tôi, cha chỉ khám phá Chúa Kitô trong Phúc Âm ở thời kỳ sau, cũng như cha đã bị cuốn hút bởi Chúa của Cựu Ước. Còn về Chúa Thánh Thần, tôi nghĩ tôi cảm nhận sự hiện diện của Ngài, đối với tôi, Ngài vẫn là một bí ẩn, là tất cả nhưng không phải là  một vấn đề. Nhưng tôi yêu Ba Ngôi Thiên Chúa đối thoại một Chúa có Ba Ngôi mà không ai tự cho mình là đủ. Và điều này mạc khải cho chúng ta, bản chất của chính chúng ta chỉ có ý nghĩa trong sự hiệp thông và gặp gỡ.

Những câu hỏi thực sự của tôi là về Thiên Chúa “toàn năng”

Thực chất, những câu hỏi đích thực của tôi là về Thiên Chúa “toàn năng” được nhắc đến hai lần trong Kinh Tin Kính. Vì dường như với chúng ta, trên thực tế Ngài là một Thiên Chúa mong manh, chấp nhận một khi đã trao tự do cho con người là có thể làm cho nó quay lại chống mình, từ chối tình yêu mà không nên bị trừng phạt vì bất kỳ một kết án địa ngục nào. Trừ khi người đó lầm với ý tưởng, người chối Chúa, người hết lòng hết sức từ chối Chúa, có thể thấy với tự do mình được ban, họ có thể sống đời đời không có Chúa, xa Chúa. Đó chỉ có thể được xem là nỗi đau khổ khôn tả của những ai đích thực tin vào Chúa. Nhưng, làm ơn, xin đừng có lửa thiêu, đừng có quỷ có sừng… nhưng đơn giản chỉ là sự trống rỗng. Nếu đức tin là “ơn của Chúa” thì làm sao Chúa của tình yêu lại có thể lên án địa ngục cho người từ chối món quà đức tin?

Nếu Chúa không phải là Đấng Tối Cao này, mà theo hình ảnh tuyệt đẹp của nhà văn Christian Bobin, “Đấng Tối Thấp” thì vì sao lại tiếp tục giới thiệu Ngài là Đấng Toàn Năng trong Kinh Tin Kính cho chúng tôi? Toàn năng nhưng không kềm được phần này của cái ác mà không gán cho tự do của con người. Tôi tin các nhà thần học có câu trả lời này. Nhưng nó không mang lại cho tôi một an ủi nào. Và cũng không mang lại gì hơn cho nhân vật trong quyển tiểu thuyết của tôi. Trên bài viết về Kinh Tin Kính này, quý vị nghĩ sẽ thấy tôi. Tôi có đang biện hộ cho việc viết lại Kinh Tin Kính không? Thành thật mà nói, tôi sẽ không mạo hiểm khi tôi thấy có những cuộc chiến phi lý có thể tạo ra chỉ vì một câu chống lại rất nhỏ trong sách giáo lý Giáo hội công giáo. Một ngày nọ, người cha của một thiếu niên giải thích cho tôi, ông đã rút con trai ra khỏi Hướng đạo Pháp, mà tôi là trưởng nhóm chỉ vì một trưởng hướng đạo nói với ông thủ dâm không phải là tội trọng… Quý vị hình dung nếu chúng ta bắt đầu xem lại Kinh Tin Kính! Vậy thì diễn giải làm sao để con người của thế kỷ 21 này dễ hiểu? Với tất cả lòng kính trọng Đức Phaolô VI vĩ đại, “Kinh Tin Kính của Dân Chúa” được công bố ngày 30 tháng 6 năm 1968 tại Quảng trường Thánh Phêrô vào lúc cao điểm của cuộc tranh cãi về giáo lý Hà Lan đã làm nản lòng những người có thiện tâm nhất.

Chỉ một người công giáo trên hai nói rằng họ tin vào Chúa…

Như người bạn đồng hành của tôi trong vườn Élysée, Kinh Tin Kính thể hiện đức tin của Giáo hội. Tôi chỉ đơn giản yêu cầu tự do – thực tế là tôi đã luôn cho tôi tự do, giống như nhân vật trong quyển tiểu thuyết của tôi – để tiếp tục, trong nội tâm của tôi, nuôi dưỡng những xác tín cũng như các nghi ngờ và thắc mắc của tôi. Và tôi tin, về cơ bản, đây là điều mà tín hữu của thế kỷ này cũng đòi hỏi. Đồng ý – và tại sao lại không đồng ý với các giáo phái kitô giáo khác – trên cùng một “cốt lõi của đức tin” (Jean Delumeau) mà chung quanh nó, mỗi người có tự do vun trồng sự khác biệt của mình. Đồng thời, tôi nhận thức rõ việc đặt vấn đề về nội dung của Kinh Tin Kính này chỉ thực sự có ý nghĩa đối với một số ít tín hữu. Từ lâu cuộc thăm dò dư luận đã cho chúng ta thấy một thực tế có phần huyền bí này – theo nghĩa mặc khải – rằng chỉ có một trên hai người công giáo nói họ tin vào Chúa và phần lớn họ vẫn tin Chúa như một “sức mạnh, một năng lực, một tinh thần…” chứ không phải một Chúa riêng tư mà họ có thể đến với Ngài trong lời cầu nguyện và hơn thế nữa với sự sống lại của Chúa Kitô, mà như Thánh Phaolô nói, nếu không có sự sống lại thì “đức tin của chúng ta trống rỗng; chỉ một phần ba tin vào khái niệm đồng trinh của Đức Mẹ và tin vào Chúa Ba Ngôi; và một phần mười tin vào sự sống lại của thể xác. Những con số này có từ tháng 1 năm 2007 (cuộc khảo sát của CSA cho báo Thế giới các Tôn giáo) nhưng có ít khả năng cấu trúc đức tin của tín hữu đã thay đổi nhiều kể từ đó.

Đi từ một đức tin bị hạn chế lâu dài và “bắt buộc” sang một đức tin tự do và cá nhân

Một số người sẽ nghĩ: liệu người ta có thể tiếp tục cho mình là công giáo khi xa với đức tin của Giáo hội mà mình vẫn tuyên xưng mình thuộc về không? Nhưng liệu đức tin của tín hữu có được đảm bảo tốt hơn, trong nội tâm của họ khi đạo công giáo là tôn giáo chính thức của đa số người Pháp không? Họ thực sự tin gì trong những lời tuyên xưng đức tin nào mà Giáo hội đòi hỏi ở họ? Khi mọi bất đồng trở thành nghi ngờ trong mắt của một thể chế quyền lực, ngoại trừ một số nhà tư tưởng tự do, ai sẽ mạo hiểm nói lên? Đối với tôi, một câu hỏi khác có vẻ thú vị hơn: điều gì có thể thúc đẩy nam giới, nữ giới ngày nay vẫn kiên trì cho mình là người công giáo khi không có gì bắt buộc họ phải làm như vậy? Sức nặng của thói quen, của bản sắc của chữ công giáo với một nền văn hóa đã mất hết chiều kích tôn giáo, một hoài niệm đơn thuần sẽ qua đi với họ, mối lo âu gượng nhẹ với tương lai trong trường hợp… hoặc sự gắn bó cứu họ với người tên là Giêsu, dù sao cũng nói với họ hay hỏi họ về Thiên Chúa, cha của Ngài?

Có sự thừa nhận của một thuộc về mà cuối cùng họ sẽ cảm thấy khi không truyền đi theo một cách nào đó không? Có lẽ là một chút trong số những lời giải thích này. Có nên ngạc nhiên về sự bùng nổ của việc tuân thủ vào tín điều kitô khi cả một cộng đồng thấy mình được mời gọi chuyển từ một đức tin bị hạn chế và “bắt buộc” từ lâu sang một đức tin tự do và cá nhân không? Khi đó, “dưới sự thuận lợi của việc kiểm kê”, không còn là đòi hỏi của nhân vật trong tiểu thuyết mà là câu hỏi chung của rất nhiều người. Nó đưa Giáo hội về câu hỏi tối hậu này: đằng sau việc công bố một tín điều bất di bất dịch của mình, Giáo hội có tự tạo cho mình phương tiện dạy giáo lý cho phép những người đã rửa tội làm cho thích hợp lại trong sự thật, theo ngôn ngữ của thế kỷ không?

 “Đức tin muốn hiểu những gì nó tin. (linh mục Dòng Tên Bernard Sesboué)

Trong quyển sách Làm thế nào Chúa Giêsu lại thành Thiên Chúa (Comment Jésus est devenu Dieu, nxb. Fayard, Paris, 2010), tác giả Frédéric Lenoir đã biện minh cho luận điểm rằng niềm tin vào thiên tính của Chúa Giêsu Kitô chỉ xuất hiện muộn (thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 5) trong đức tin của Giáo hội, qua các công đồng đại kết được các hoàng đế triệu tập và những gì thu được từ các quan điểm chính trị hơn là thần học. Trong một tác phẩm nhỏ có ý nghĩa như một câu trả lời (1), nhà thần học Dòng Tên Bernard Sesboué đã nhắc lại, thiên tính của Chúa Kitô, giống như mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, đã được đảm bảo ngay từ thế kỷ thứ nhất và thách thức trong bốn công đồng đại kết đầu tiên không nhằm mục đích giảm bớt tranh cãi, nhưng là chuyển thành các loại “hiện đại” của thế giới hy lạp, vốn đã trở thành vùng đất truyền giáo, các niềm tin cho đến lúc đó đã được hình thành bằng bằng ngôn ngữ sêmita. “Đức tin đã có thể tìm ra cách để thể hiện bản thân một cách chặt chẽ và dễ hiểu về mặt văn hóa với tâm trí người hy lạp và la-tinh. Công việc này rất vất vả và khó khăn, nhưng người ta có thể nói về một ‘hội nhập văn hóa’ thành công. Đồng thời, các tín hữu kitô ý thức hơn cách tin có suy nghĩ hơn”. Và linh mục viết thêm: “Đức tin muốn hiểu những gì nó tin.” Đây có phải thêm một lần nữa, mười lăm thế kỷ sau, thách thức thực sự của việc truyền bá phúc âm không? Truyền lại đức tin sang một ngôn ngữ có thể tiếp cận được với văn hóa của thế kỷ 21 để trả lời cho cảm nhận của nhiều tín hữu cho rằng họ không “hiểu” những gì người ta mang đến cho họ để họ tin!

Đôi khi tôi nghĩ đến các bạn của tôi, những người mà tôi đã mài đủng quần với họ trên băng ghế nhà thờ ngày xưa và tự hỏi điều gì làm cho họ còn gắn bó với một đức tin chung của chúng ta. Và hành trình của họ thật lạ lùng! Không nghi ngờ gì, giống như nhân vật trong tiểu thuyết của tôi, theo cách riêng của họ, họ đã khẳng định “quyền được kiểm kê” của họ và có lẽ, vào cuối cuộc kiểm kê này, họ sẽ tách ra khỏi Giáo hội. Tuy nhiên, tôi biết họ thường trung thành, hơn cả tôi, với tinh thần của các Mối Phúc và với Phúc âm thánh Mátthêu: “Ta đói và các con đã cho Ta ăn…”

Và tôi không nghi ngờ, họ đã truyền những “giá trị” này cho con cái của họ. Nghĩ rằng có lẽ đó là điều chính. Và rằng, dù sao đức tin cũng là món quà của Chúa?

1- Bernard Sesboué, Chúa Kitô, Chúa và Con của Chúa: Trả lời tự do cho Frédéric Lenoir, Lethielleux, Paris, 2010 (Christ, Seigneur et fils de Dieu: Libre réponse à Frédéric Lenoir).

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Charles Darwin hay Bernadette Soubirous

Bài mới nhất