Home Blog Page 385

Đức Phanxicô muốn nói gì về “thói thời thượng”

Đức Phanxicô muốn nói gì về “thói thời thượng”

fr.aleteia.org, Xavier Lefebvre, 2022-12-04

Đức Phanxicô xem thói thời thượng là sự suy đồi của đời sống thiêng liêng. Ngài thấy ở đây không hẳn chỉ gắn bó với thế gian mà nhất là sự tự đủ kể cả với Chúa.

Tính thời thượng: đây là một từ đã được chú ý ngay từ đầu triều giáo hoàng của ngài! Hồng y hay linh mục, trẻ hay già, giáo sĩ hay giáo dân, tất cả đều đi qua con đường này. Trong tiếng Pháp, chữ này có nghĩa giao du với những người có quyền lực hay giàu có và sùng bái hình thức. Người Ý giữ lại ý nghĩa ban đầu nhiều hơn: gắn bó với của cải thế gian. Nhưng Đức Phanxicô còn đi xa hơn. Sau khi đọc các văn bản ngài nói về vấn đề thói thời thượng, chúng ta có thể trả lời theo các câu hỏi hợp lý để tìm hiểu mình có phải là người theo thói thời thượng như ngài mô tả hay không và mình đang ở đâu: hơi quá “với thế gian” hay chưa đủ “trong thế gian”? theo ngài, thói thời thượng đại diện cho một mối nguy hiểm thực sự, đó là ”điều xấu nhất có thể xảy ra cho Giáo hội của Chúa”.

Đức Phanxicô nhắc đến quyển sách của hồng y thần học gia Dòng Tên người Pháp Henri de Lubac, Suy gẫm về Giáo hội (Méditation sur l’Église, 1953), trong đó hồng y định nghĩa, đây là “thái độ đặt con người vào trọng tâm triệt để” ẩn dưới các thái độ tôn giáo hoàn hảo… Điều mà nhà văn Pháp André Mauriac mô tả rất hay trong quyển tiểu thuyết Bà Biệt phái (La Pharisienne, 1941) của ông, người phụ nữ này cảm thấy được Chúa chọn, được giám mục chú ý vì khổ hạnh khắt khe của mình, bà biết cách áp bức người chung quanh mình bằng sự khắc nghiệt của một nhân đức hoàn hảo nhưng xa với sự thánh thiện.

Sự nhầm lẫn giữa cầu toàn và thánh thiện

Đây là nguồn gốc của tinh thần thế tục bị tố cáo: nhầm lẫn giữa cầu toàn và thánh thiện, được ngăn bởi bề dày của sự quá chu đáo. Điều khác biệt giữa hai điểm: kiêu hãnh đi tìm chính mình (“Gương kia, nói cho tôi biết ai là người đẹp nhất”) hay vinh quang duy nhất của Chúa trong đức khiêm nhường (“Chúa đã làm nên điều kỳ diệu cho tôi, Danh Ngài là Thánh!”). Mình là nữ hoàng hay nữ hoàng trên trời… tình yêu dành cho cái “tôi và tôi” đi đến mức coi thường Chúa, hoặc tình yêu của Chúa đến mức khinh miệt cái “tôi và tôi” của mình.

Văn bản quy chiếu về thói thời thượng vẫn là tông huấn Niềm vui Tin mừng Evangelii Gaudium (n. 93-97) năm 2013, trong đó khái niệm này được định nghĩa rõ ràng: “Tính thời thượng thiêng liêng, ẩn sau vẻ bề ngoài sùng đạo và thậm chí cả lòng yêu mến Giáo hội, nhưng cốt lõi của việc tìm kiếm, thay vì tìm vinh quang của Chúa thì tìm vinh quang con người và hạnh phúc cá nhân” (số 93). Nó gần giống như một hồng y (rồi thì cũng làm đến hồng y!) đi tìm loại vải tốt nhất có màu đỏ chói cho bộ lễ phục, mà không cần biết màu sắc này ám chỉ: chứng từ cho Chúa Kitô đến phải đổ máu. Thói thời thượng nói ở đây có thể tóm tắt như sau: có ứng xử tôn giáo hoàn hảo… nhưng đức tin đã chết.

Thuyết ngộ đạo và thuyết Lạc giáo Pêlagiô không cần ơn Chúa

Trong tông huấn Niềm vui Tin mừng Evangelii Gaudium, Đức Phanxicô cho thấy hai khía cạnh của sự suy đồi thiêng liêng, sau đó ngài còn đề cập đến trong hai bản văn khác: tông huấn Vui mừng và Hân hoan Gaudete et exultate (lời kêu gọi nên thánh, 2018) và tông huấn Thầy những khát khao Desiderio desideravi ( 2022).

Nói cách khác, người tu sĩ thời thượng có bề ngoài thánh thiện theo hai cách: thứ nhất, họ theo thuyết ngộ đạo “nghĩ rằng mình biết điều gì đó hoặc có thể giải thích điều đó theo một logic nào đó, nên mình đã thánh thiện, hoàn hảo, tốt hơn ‘đám người dốt nát’… Thuyết ngộ đạo tự bản chất muốn gần với mầu nhiệm”, cả mầu nhiệm về Thiên Chúa và ân sủng của Ngài cũng như mầu nhiệm về cuộc sống của những người khác (Gaudete et exultate, n. 40).

Theo một cách nào đó, đó là “Chúa trong giới hạn của lý trí đơn thuần.” Ở đây, người thời thượng vui hưởng những gì mà chỉ lý trí của họ có thể cho họ biết về Chúa với bằng chứng, bỏ qua xác tín của đức tin… Sự đồi trụy thứ hai, người thời thượng theo thuyết lạc giáo Pêlagiô không cần ơn Chúa: họ tận hưởng những nỗ lực đơn thuần của ý chí để đạt được hoàn hảo, từ chối mọi nhu cầu về ân sủng… “một ý chí không khiêm nhường” (Gaudete et exultate, số 47), hoặc biện minh bằng sức riêng của mình (số 57).

Chúa Kitô là vị cứu tinh duy nhất

Ở đây, cái “tôi” tỏa sáng trong mọi phòng khách, trên mạng xã hội, hơn cả Chúa mà họ muốn là phát ngôn viên nhưng họ lại thành màn hình; ở đó, “tôi” được phản ánh trong sự tốt lành của chính họ, hoàn toàn không có nhân đức bác ái. Thói thời thượng tấn công hai khả năng tinh thần của chúng ta: trí thông minh và ý chí, qua đó chúng ta trở thành người mang ánh sáng của chính mình (theo nghĩa từ nguyên: Lucifer), tự gán cho mình Vinh quang mà Vinh quang này chỉ thuộc về Chúa. Chúng ta có thể hiểu được những rủi ro và cám dỗ trong lãnh vực phụng vụ (Desiderio desideravi, n. 17-20).

Làm sao để thoát ra? Sự thánh thiện theo tinh thần kitô không thể có nếu không có đức tin và đức khiêm nhường. Việc đón nhận Lời Chúa trong khiêm tốn của đức tin với sự thánh thiện của trí thông minh; khiêm tốn đón nhận ân sủng cho sự thánh thiện của ý chí. Nói tóm lại, Chúa Kitô là Đấng Cứu Rỗi duy nhất. Có nhiều đức tính tự nhiên nâng cao con người trong việc đi tìm chân lý và thiện mỹ: thận trọng, công bằng, sức mạnh, tiết độ, thông minh, hiểu biết, khôn ngoan, tất cả đều cần thiết nhưng chưa đủ. Chỉ có ơn Chúa mới làm cho chúng ta thánh thiện, mới cho phép chúng ta sống như con cái Thiên Chúa, được tự do và được cứu rỗi… nhất là được cứu khỏi chính chúng ta!

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Phỏng vấn Đức Phanxicô: “Điều tệ nhất cho Giáo hội là thói thời thượng thiêng liêng”

Làm sao thoát ra khỏi thói thời thượng thiêng liêng?

 

Bạo lực giữa vợ chồng: “Nghĩa vụ” thời Trung cổ, không thể chấp nhận ở thế kỷ 21

Bạo lực giữa vợ chồng: “Nghĩa vụ” thời Trung cổ, không thể chấp nhận ở thế kỷ 21

lemonde.fr, Anne Chemin, 2022-11-25

Vào thời Trung cổ, việc chồng “sửa sai” vợ không những là một quyền mà còn là một bổn phận. Mãi cho đến Thời Khai sáng, nguyên tắc này mới thành lỗi thời và vào cuối thế kỷ 19 xã hội mới bớt khoan dung với sự tàn bạo đối với phụ nữ.

Cảnh người đàn ông đe dọa, tay giơ lên, trước cái nhìn dửng dưng của những người hàng xóm, ông túm tóc người phụ nữ đang khiếp sợ, dí cô xuống đất. Cảnh này trích từ bản thảo quyển Roman de la Rose của Guillaume de Lorris và Jean de Meung, hình ảnh minh họa có từ cuối thế kỷ 15. Cũng cảnh tương tự vẽ bốn thế kỷ sau, năm 1899, người đàn ông tức giận sắp ném ghế vào đầu người phụ nữ tội nghiệp mặc áo ngủ, đi chân đất, đang sợ hãi ôm lấy đầu.

Cùng một cảnh, cách nhau bốn trăm năm? Cùng cái chết sẽ đeo đuổi phụ nữ trong nhiều thế kỷ?

Bạo lực giữa vợ chồng không phải lúc nào cũng có cùng một khuôn mặt, nhưng nó trải dài qua các thời đại với tính nhất quán cao: trong các thủ tục ly thân hợp pháp thời trung cổ cũng như trong các đơn khiếu nại gởi đến hệ thống tư pháp hình sự của thế kỷ 19, trong các vụ được đưa ra Nghị viện Paris, Chế độ cũ, cũng như các bài phát biểu của phụ nữ bị ngược đãi trong những năm 1970, các kịch bản thường lặp lại. Những lời xúc phạm, sỉ nhục, đòn roi…

Nếu lời nói và hành động giống nhau, thì cách xã hội nhìn nhận những trường hợp này cũng đã thay đổi sâu sắc. Được xem là cần thiết, thậm chí hợp pháp do “phong tục” thời Trung cổ – các quyền, phong tục và quy tắc cụ thể cho từng cộng đồng, áp đặt lên người chồng “nghĩa vụ sửa chữa” – bạo lực vợ chồng không còn được khuyến khích, nhưng được chấp nhận rộng rãi ở thế kỷ 19 vì xã hội được tổ chức xung quanh nhân vật có toàn quyền là chủ gia đình. Một thế kỷ rưỡi sau, sự khoan dung này nhường chỗ cho sự lên án mạnh mẽ: ngày nay, bạo lực giữa vợ chồng dấy lên sự phản đối nhất trí về mặt đạo đức, xã hội, chính trị và hình phạt.

“Nhiệm vụ sửa sai bằng đòn”

Làm thế nào để hiểu, cùng một cử chỉ được cho là chính đáng và hợp pháp ở thời Trung cổ lại là hành vi đáng trách nhưng có thể hiểu được ở thế kỷ 19 và bây giờ là hành vi không thể chấp nhận được ở thế kỷ 21?

Bà Elisabeth Lusset, sử gia, nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia CNRS phân tích: “Sự thay đổi quan điểm này là kết quả của một quá trình phát triển tâm lý chậm chạp. Trong quá trình kéo dài hàng thế kỷ này, có ba yếu tố mang tính quyết định: sự phản đối ngày càng tăng với bạo lực thể xác trong gia đình, sự can thiệp ngày càng hợp pháp của nhà nước vào lĩnh vực tư nhân và dĩ nhiên là sự xuất hiện dần dần quyền bình đẳng giữa nam nữ.”

Trào lưu lên xuống của ba cuộc cách mạng tâm lý này, kể từ thời Trung cổ, đã định hình cách chúng ta nhìn nhận cái mà ngày nay chúng ta gọi là “bạo lực vợ chồng”. Qua nhiều thế kỷ, bằng cách đảo ngược hệ thống phân cấp của các giá trị chung, họ đã dần dần theo dõi thềm chịu đựng, thay đổi diễn từ chính trị, sửa đổi các tiêu chuẩn tư pháp.

Ngược với những gì chúng ta thường nghĩ, cú đánh của người chồng trên người vợ không phải là bất biến, nhưng là một “quá trình xây dựng tập thể lâu dài” theo nhà sử học Victoria Vanneau nghiên cứu. Vào thời điểm đó, những người đứng đầu gia đình có nhiệm vụ phải sửa sai bằng đòn roi tất cả những ai sống dưới mái nhà của họ – người giúp việc, con cái và cả vợ của họ. (Từ điển về đòn roi và đánh đòn. Sửa sai và trừng phạt Dictionnaire du fouet et de la fessée. Corriger et punir, nxb. PUF). Bà Vanneau nói tiếp: “Sự tàn bạo hoàn toàn được chấp nhận: vào thời Trung Cổ, chúng ta không thể quan niệm giáo dục mà không có bạo lực, với trẻ em cũng như với phụ nữ, những người bị cho là trẻ vị thành niên mà chồng của họ phải đưa họ trở lại con đường đúng đắn.”

“Nhắc các ông chồng lỏng lẻo vào lệnh”

Được viết vào thế kỷ 13 và 14, “phong tục” cho phép gia chủ ø được quyền làm bị thương vợ mình – với điều kiện không được làm vợ bị thương quá nhiều, nhà sử học André Maillard tóm tắt vào năm 1908.  Trong quyển Phong tục của Clermont-en-Beauvaisis (1283), luật gia Philippe de Beaumanoir xác định, nếu người phụ nữ “phát điên với cơ thể của mình, hoặc bà nói dối chồng, nguyền rủa chồng hoặc không tuân theo lệnh hợp lý của chồng, người chồng có quyền trừng phạt cách hợp lý”.

Vì ông có toàn quyền ở nhà, toát khỏi công lý của lãnh chúa hoặc nhà vua – quy định theo phong tục Bergerac, chỉ trừ khi có “cái chết, cắt xén các cơ quan hoặc ông dùng vũ khí nhọn để cắt”.

Vì hôn nhân là bất khả phân ly và cấm ly dị nên phụ nữ chỉ có cách duy nhất là xin thẩm phán cho phép ly thân hợp pháp – một thủ tục mà nhà sử học Martine Charageat và luật gia Simona Feci nhấn mạnh trong quyển Từ điển về đòn roi và đánh đòn, một thủ tục thường ít thành công kể cả khi đòn roi tàn bạo, nằm trong lãnh vực lạm dụng trong giáo luật.

Theo các sử gia, vào thời Trung cổ, để đàn ông tuân thủ nghĩa vụ sửa sai trong hôn nhân, các nhà chức trách thế tục và tôn giáo đã không ngần ngại kêu gọi họ không được lỏng lẻo với các bà vợ khó bảo hoặc không chung thủy của họ. Sử gia Elisabeth Lusset cho biết thêm: “Thời Trung Cổ, xã hội có quy định về ‘nghĩa vụ’ sửa sai. Vai trò của người chủ gia đình là đảm bảo trật tự trong gia đình mình: nếu ông không xử phạt hành vi sai trái của vợ, ông bị cho là người chồng lỏng lẻo.”

Ngưỡng chịu đựng rất cao

Từ thế kỷ 12, đã có các nghi thức lễ hội và trừng phạt chế giễu những người chồng không biết cách “trị” vợ. Họ bị ngồi lộn ngược trên lưng lừa, tay cầm đuôi con vật, họ bị đem đi diễu hành trên đường phố trước tiếng cười, bài hát và sự chế nhạo của đám đông. Nhà sử học Diane Roussel viết trong Từ điển về đòn roi, hình phạt khét tiếng này cho thấy sức mạnh của xã hội nhằm dạy những ông chồng bằng lòng vợ, nhưng cũng dạy cho các người hàng xóm đã để chuyện này xảy ra.

Nếu việc cưỡi lừa này bị cấm từ thế kỷ 16, thì “nghĩa vụ sửa chữa” vẫn tồn tại hàng trăm năm, bám chặt vào tâm lý tập thể. Vào thế kỷ 17 và 18, sự tàn bạo của người chồng vẫn được xem là cần thiết, thậm chí là hợp pháp, nhà sử học Charlotte Solange Fuchs ghi lại, người vợ đã phải chịu tai họa của họ, tuân mệnh lệnh, luôn sẵn sàng theo ý chồng, dù chỉ là một nháy mắt nhỏ nhất, thực hiện mọi ý muốn của chồng.

Ngưỡng chịu đựng trong Chế độ Cũ rất cao: cả khi hành vi hung bạo khi ở trong trạng thái “điên tiết”, diễn ra trước mắt mọi người, những người xung quanh chỉ can thiệp khi thấy người vợ sắp bị nguy hiểm. Phản ứng phổ biến nhất là để vợ chồng tự dàn xếp. Theo thống kê, sự can thiệp của công chúng vào cảnh gia đình vẫn còn rất ít.

Thế kỷ 19, “hôn nhân tình yêu”

Đến Thời Khai sáng, quan điểm về nghĩa vụ sửa sai bắt đầu thay đổi nhưng rất chậm. Frédéric Chauvaud, giáo sư lịch sử đương đại tại Đại học Poitiers, nhận xét: “Sau đó, một số nhà văn và triết gia bảo vệ ý kiến cho rằng hôn nhân nên là nơi của một khuynh hướng đã chọn. Vào năm 1780, luật gia vĩ đại Pierre-François Muyart de Vouglans trong một tác phẩm về luật hình sự, cho rằng người chồng sát nhân phải đền tội suốt đời. Quan điểm này dần xuất hiện sẽ được thể hiện rộng rãi hơn vào thế kỷ 19, với ý tưởng về hôn nhân tình yêu.”

Bằng cách sửa đổi các giá trị xã hội của Chế độ Cũ, quan niệm mới về tình vợ chồng này dần dần thay đổi ranh giới của những gì không thể chấp nhận được. Nhà sử học Elisabeth Lusset nhấn mạnh: “Thế kỷ 18 là thời kỳ đạo đức hóa các mối quan hệ hôn nhân. Người chồng chắc chắn phải sửa dạy vợ mình, nhưng họ phải làm trong điều độ hoặc ‘bác ái’ theo cách nói của các cha giải tội. Họ phải đối xử dịu dàng và trong tình bạn như Bách khoa toàn thư khuyến nghị. Từ đó là ý tưởng hỗ tương với quyền và nghĩa vụ nhiều hơn giữa vợ chồng: bạo lực ngày càng ít được chấp nhận.

Nguyên tắc sửa sai vẫn chưa được đặt vấn đề, nhưng tàn ác hung bạo đã bị xã hội lên án và đôi khi bởi công lý. Dù các trường hợp bạo lực gia đình rất hiếm xảy ra, ngày càng có nhiều phụ nữ quyết định ra tòa.

… Cả một tiến trình lịch sử kéo dài cho đến khi làn sóng nữ quyền xuất hiện

Trong những năm hoạt động tích cực, việc chính trị hóa vấn đề bạo lực gia đình đi kèm với hành động trên địa bàn: năm 1978, cơ quan Cứu giúp Phụ nữ (SOS Femmes Alternative) lần đầu tiên mở nơi trú ẩn cho phụ nữ bị bạo hành ở Clichy, trụ sở có tên một nhân vật của chủ nghĩa xã hội không tưởng của Thế kỷ 19, Flora Tristan. Bà Christine Bard lưu ý: “Phong trào Giải phóng Phụ nữ từ chối thay thế các cơ quan công quyền, nhưng các nhóm đấu tranh chống bạo lực gia đình áp dụng cách tiếp cận vừa thực dụng vừa tiên phong. Họ thành lập các hiệp hội và thiết lập các trung tâm tiếp nhận, đường dây điện thoại sẽ cùng tồn tại với các công trình công cộng.”

Đầu thế kỷ 21, cuộc chiến chính trị và ý thức hệ chống bạo lực gia đình đã giành thắng lợi. Sự tàn bạo này, hóa ra lại phổ biến hơn chúng ta nghĩ rất nhiều – cuộc khảo sát quốc gia về bạo lực trên phụ nữ công bố năm 2000, cho thấy cứ mười phụ nữ có một phụ nữ bị bạo lực gia đình.

Nhà sử học Frédéric Chauvaud nhận xét: “Từ những năm 1990, vấn đề này đã được chú ý ở Pháp cũng như ở các diễn đàn quốc tế, qua Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc về xóa bỏ bạo lực với phụ nữ năm 1993 hay Hội nghị thế giới về xóa bỏ bạo lực với phụ nữ ở Bắc Kinh, năm 1995.

Sự huy động của các cơ quan công quyền rõ ràng đã không chấm dứt bạo lực vợ chồng như dùng đũa thần, nhưng nó đã biến những hành vi bạo lực trong nhiều thế kỷ được xem là tầm thường, thậm chí hợp pháp, trở thành một điều bất thường bị xã hội, công lý và chính quyền lên án mạnh mẽ.

Kể từ năm 2017, một cuộc cách mạng về tinh thần được củng cố qua phong trào #metoo, đã đánh dấu sự thống nhất của làn sóng nữ quyền xung quanh cuộc chiến chống lại bạo lực đối với phụ nữ. Bà Christine Bard kết luận: “#metoo sẽ vẫn là một trong những sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử nữ quyền” và cuộc chiến chống lại sự tàn bạo giữa vợ chồng, trong 5 năm, là tâm điểm cuộc chiến của phong trào mạnh mẽ này.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Ngoài Indonesia, còn có quốc gia nào cấm quan hệ tình dục ngoài hôn nhân không?

Đức Phanxicô và nhóm ngoại giao của ngài luôn nghĩ đến Hiệp định Helsinki  

Đức Phanxicô và nhóm ngoại giao của ngài luôn nghĩ đến Hiệp định Helsinki

cruxnow.com, John L. Allen Jr., 2022-12-12

Thành phố Helsinki, Phần Lan. (Từ màn hình.)

Dù nước Phần Lan chỉ có một ít giáo dân công giáo và kể từ năm 2019, giáo hoàng không bổ nhiệm một giám mục mới nào ở đây, nhưng thủ đô Helsinki của Phần Lan vẫn chiếm một vị trí trong tinh thần tri thức chung của Vatican bây giờ hơn bất cứ thành phố nào khác trên thế giới. Nhưng không phải vì lý do giáo hội, mà vì địa chính trị. Helsinki là bối cảnh của “Hiệp định Helsinki” năm 1975, đại diện cho thời điểm quan trọng của ngoại giao Chiến tranh Lạnh, đỉnh cao cho chính sách Ostpolitik (đối thoại với thế giới Xã hội Chủ nghĩa) của Vatican, và là nguồn cảm hứng cho những nỗ lực hiện tại của Rôma nhằm chấm dứt chiến tranh ở Ukraine.

Thứ ba sắp tới, nguyện vọng của một phiên bản thế kỷ 21 Hiệp định Helsinki sẽ được trình bày trong hội nghị “Châu Âu và Chiến tranh: Từ Tinh thần Helsinki đến Triển vọng Hòa bình,” do sứ quán Ý tại Tòa thánh đồng tổ chức với nhật báo L’Osservatore Romano, Vatican Radio, Vatican News, và tạp chí Ý Limes.

Chương trình có sự hiện diện của hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin, tháng 4 vừa qua ngài kêu gọi tổ chức một “hội nghị Helsinki mới” như một cách để giải quyết cuộc xung đột Ukraine. Các nhân vật quan trọng khác của Đức Phanxicô cũng sẽ có mặt, ông Andrea Tornielli, giám đốc Bộ Truyền Thông, ông Andrea Riccardi, nhà sáng lập cộng đoàn Sant’Egidio, sự kiện này sẽ được phát trực tiếp trên phương tiện truyền thông của Vatican.

Tổng thống Ý Sergio Mattarella dự kiến sẽ có mặt nhưng ngày thứ bảy tuần rồi ông bị dương tính với Covid nên có thể ông sẽ không có mặt trong cuộc họp này.

Tháng 9 vừa qua, khi đi Kazakhstan, Đức Phanxicô nhắc đến ước mong có các hiệp định Helsinki, ngài tuyên bố: “Bây giờ là lúc ngừng tăng cường cạnh tranh, ngừng củng cố các khối đối lập. Chúng ta cần những nhà lãnh đạo, ở cấp độ quốc tế, có thể giúp các dân tộc phát triển trong sự hiểu biết và đối thoại lẫn nhau, tạo một ‘tinh thần Helsinki’ mới, quyết tâm củng cố chủ nghĩa đa phương, xây dựng một thế giới hòa bình và ổn định, nghĩ đến các thế hệ tương lai.”

Tóm lại, Hiệp định Helsinki là kết quả của hai năm đàm phán giữa mọi quốc gia ở châu Âu vào thời điểm đó (ngoại trừ Andorra và Albania) cũng như Hoa Kỳ và Canada. Mục đích là để thúc đẩy hòa dịu giữa Đông và Tây và giảm khả năng Chiến tranh Lạnh có thể trở nên nóng bỏng.

Hiệp định phê chuẩn một số nguyên tắc, bao gồm quyền bất khả xâm phạm biên giới quốc gia, kiềm chế không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, không can thiệp vào công việc nội bộ và quyền tự quyết. Và đã tạo tranh cãi lớn giữa những người diều hâu trong Chiến tranh Lạnh ở Mỹ, những người cho rằng đã ký kết về việc Liên Xô chiếm đóng các quốc gia vùng Baltic của Estonia, Litva và Latvia, nói chung là về sự thống trị của Liên Xô với Tây Âu – tờ Wall Street Journal khi đó đã xin – tổng thống Gerald Ford không tham dự lễ ký kết hiệp định với tiêu đề “Jerry, Don’t Go!” (Jerry, đừng đi!)

Tuy nhiên, khi nhìn lại, nhiều sử gia tin rằng Hiệp định Helsinki là công cụ ngăn chặn sự leo thang xung đột Đông-Tây. Về lâu dài, một số sử gia tin thực sự đây là các phong trào độc lập đằng sau Bức màn sắt với một ngôn ngữ về quyền tự quyết.

Có ba lý do vì sao Hiệp định Helsinki chiếm một chỗ quan trọng trong ký ức và trí tưởng tượng ngoại giao của Vatican.

Đầu tiên, Hiệp định Helsinki đại diện một bước đột phá cho chính sách Ostpolitik, có nghĩa đối thoại với thế giới Xã hội Chủ nghĩa, được tổng giám mục Agostino Casaroli thời đó đưa ra, ngài là người đứng đầu phái đoàn Vatican tham gia các cuộc đàm phán và được một số người tham gia ghi nhận là đã đóng góp vào kết quả cuối cùng.

Sau này tổng giám mục Casaroli là hồng y và là ngoại trưởng dưới thời Thánh Gioan Phaolô II. Trong cuộc phỏng vấn gần đây với tạp chí Dòng Tên America, Đức Phanxicô xem hồng y Casaroli là “người vĩ đại nhất Giáo hội trong thời hiện đại” về đối thoại, như một nhà chiến lược ngoại giao, và Helsinki được nhớ đến như một trong những khoảnh khắc tỏa sáng nhất của ngài.

Thứ hai, Vatican luôn xem Ý là đồng minh tự nhiên nhất của mình trên chính trường toàn cầu, một loại âm vang khuếch đại cho chương trình nghị sự ngoại giao và nhân đạo của Vatican. Hiệp định Helsinki có lẽ là ví dụ hiện đại tốt nhất về ý tưởng này trong thực tế, vì cùng với hồng y Casaroli, một nghệ nhân chính cùng với thủ tướng Ý Aldo Moro lúc bấy giờ, người bạn thân của Thánh Giáo hoàng Phaolô VI.

Moro ở một vị trí đặc quyền làm trung gian trong các hiệp định, vì cho đến nay Ý có Đảng Cộng sản lớn nhất phương Tây và chính Moro là người đầu tiên trực tiếp đưa những người theo Chủ nghĩa Xã hội vào chính phủ Ý. Kết quả, thủ tướng Moro đã có thể bàn thảo với các quốc gia thuộc Liên Xô theo cách mà các nhà lãnh đạo phương Tây khác cảm thấy khó khăn.

Mặc dù ngày nay rất ít người ở Vatican có cùng hy vọng với tân thủ tướng Giorgia Meloni hiện nay, họ xem tổng thống Mattarella, 81 tuổi, không chỉ là một chính khách tài năng mà còn là một đồng minh, người có thể đóng vai trò quan trọng ở hậu trường.

Thứ ba, Đức Phanxicô và nhóm của ngài có thiện cảm với Helsinki vì hiệp định minh chứng cho chính sách kiên nhẫn và kiềm chế mà họ cố gắng ứng xử với Nga gần một nửa thế kỷ sau.

Khi nói đến nước Nga (và cả Trung Quốc), Đức Phanxicô không phải là người “Hãy hạ bức tường này!” (cũng nên nhắc lại, tổng thống Ronald Reagan đã trích dẫn Hiệp định Helsinki như một phần lý do ông chọn để thách thức tổng thống Ford trong các cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Cộng hòa năm 1976.) Về mặt ngoại giao, Đức Phanxicô là con bồ câu, không phải diều hâu, và Helsinki có lẽ được xem là thành công ưu việt của chính sách ôn hòa, bản năng trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

 

Ngày nay, Hiệp định Helsinki có thực sự cung cấp một khuôn mẫu hay không, vẫn còn phải chờ xem. Ngay cả thông cáo báo chí thông báo về sự kiện ngày thứ ba cũng thận trọng: “Nhiều thay đổi kể từ đó khiến sáng kiến tương tự trở nên khó khăn, nhưng Helsinki vẫn là điểm tham chiếu và một giá trị, bắt đầu với tinh thần đã thúc đẩy hội nghị, và không phải ngẫu nhiên mà ngày nay những người tìm kiếm hòa bình đề cập đến nó.”

 

Theo nghĩa đó, không chỉ “tinh thần của Vatican II” xác định triều Đức Phanxicô. Nhưng cũng là “tinh thần Helsinki”, một điểm chắc chắn sẽ xuất hiện nhiều trong tuần này.

 

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Ngoài Indonesia, còn có quốc gia nào cấm quan hệ tình dục ngoài hôn nhân không?

Ngoài Indonesia, còn có quốc gia nào cấm quan hệ tình dục ngoài hôn nhân không?
Kể từ ngày 6 tháng 12, Indonesia cấm quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Một số quốc gia khác đã có các quy định tương tự trong luật pháp của họ.
la-croix.com, Leo Durin, 2022-12-06
Một cặp trên vỉa hè Jakarta ngày 4 tháng 12 năm 2022, khi Indonesia vừa thông qua luật xem quan hệ tình dục ngoài hôn nhân là một tội phạm. MAST IRHAM/EPA/MAXPPP
Ngày thứ ba 6 tháng 12, Indonesia quyết định sửa đổi bộ luật dân sự để hình sự hóa quan hệ tình dục giữa những người chưa kết hôn. Những người vi phạm có thể bị phạt tù một năm. Quốc gia Nam Á này không phải là quốc gia duy nhất có những thỏa thuận tương tự.
Pakistan xem quan hệ tình dục trước hôn nhân cũng như ngoại tình là một tội phạm. Ở Afghanistan, những người bị kết tội có thể bị ném đá.
Qatar, quốc gia đăng cai World Cup 2022, cũng cấm quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Những người ủng hộ bóng đá, trong chuyến đi của họ, họ được ở cùng nhà và được cảnh báo nếu họ có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, về mặt lý thuyết họ sẽ bị tù 7 năm dù luật này trên thực tế rất ít khi được áp dụng.
100 roi
Nước láng giềng đồ sộ Saudi Arabia của Qatar cũng cấm quan hệ tình dục với những người chưa lập gia đình. Ở Iran, bộ luật hình sự trừng phạt thủ phạm “100 roi cho cả đàn bà lẫn đàn ông”. Ngoại tình bị trừng phạt bằng cách ném đá.
Sudan cũng trừng phát bằng cách ném đá với quan hệ tình dục ngoài hôn nhân cũng như ngoại tình. Năm 2012, bà Intisar Sharif Abdallah bị kết án tử hình bằng cách ném đá vì tội ngoại tình, nhưng sau đó bản án được hủy bỏ. Ở Somalia, hình phạt có thể lên tới mức tử hình.
Philippines cũng coi ngoại tình là một tội ác. Ở Malaysia, thậm chí còn cấm hai người chưa kết hôn gặp nhau ở một nơi kín mà không có người chứng kiến. Thủ phạm có thể bị phạt hơn 200 âu kim và có thể bị sáu tháng tù.
Năm 2017, người dẫn chương trình Ai Cập Doaa Salah bị kết án 3 năm tù vì thảo luận về chủ đề quan hệ tình dục trước hôn nhân trên truyền hình. Công lý Ai Cập đã tuyên bố cô phạm tội “khinh thường lễ nghi nơi công cộng”.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bạo lực giữa vợ chồng: “Nghĩa vụ” thời Trung cổ, không thể chấp nhận ở thế kỷ 21

Càng ngày càng có nhiều người xin “rút tên ra khỏi sổ rửa tội”; đó là vấn đề

Càng ngày càng có nhiều người xin “rút tên ra khỏi sổ rửa tội”; đó là vấn đề

ncregister.com, Jimmy Akin, 2022-12-08

Khi chúng ta rửa tội, chúng ta mang dấu ấn không thể xóa được trong tâm hồn, không gì có thể xóa được. Có thể rút tên ra khỏi sổ rửa tội được không? Câu trả lời ngắn gọn: Không, nhưng không vì thế mà ngăn giáo dân đòi hỏi. Đúng, ‘xin rút tên ra khỏi sổ rửa tội’ là thành ngữ họ dùng.

Giải thích:

Ngày thứ tư 7 tháng 12, Giáo hội công giáo Bỉ báo cáo số lượng người xin xóa tên ra khỏi hồ sơ rửa tội gia tăng. Báo cáo thường niên mới nhất của Giáo hội công bố ngày 30 tháng 11 cho biết năm 2021 có 5.237 người yêu cầu, so với năm 2020 là 1.261 người và năm 2019 là 1.800 người.

Tuy nhiên, một phong trào đang phát triển ở châu Âu thúc đẩy việc ‘xóa tên ra khỏi sổ rửa tội’ đã khuyến khích người công giáo làm đơn xin Giáo hội xóa tên họ khỏi hồ sơ rửa tội của giáo xứ. Phong trào này là nhóm các phái chính trị và triết học của những người theo chủ nghĩa thế tục ở châu Âu.

Phong trào này có một quá khứ

Phong trào này đã có từ lâu. Năm 2012 hãng tin NPR đưa tin: Tại Pháp, một người đàn ông lớn tuổi đấu tranh để chính thức cắt đứt với Giáo hội công giáo. Ông kiện Giáo hội vì đã từ chối không cho ông bỏ phép rửa tội, trong một trường hợp có thể có những ảnh hưởng sâu rộng.

Xác tín của ông đã thay đổi trong những năm 1970 khi ông biết đến phong trào của những người có tư tưởng tự do. Vì không còn tin ở Chúa, ông nghĩ rời Giáo hội sẽ thành thật hơn. Vì vậy, ông viết đơn xin giáo phận rút tên ông ra khỏi sổ rửa tội.

Các vấn đề của những người xin rút tên ra khỏi sổ rửa tội

Yêu cầu của những người xin rút tên ra khỏi sổ rửa tội đặt ra vấn đề. Không thể đổ nước lên người sau, khi nước đã được đổ lên người họ. Điều này làm cho việc xin rút tên không thể thực hiện được (dù một vài tổ chức vô thần đã dùng nghi thức châm biếm là dùng máy sấy tóc).

Nhưng về mặt thần học cũng không thể đảo ngược tất cả các tác động của phép rửa tội. Sách Giáo lý của Giáo hội công giáo nêu rõ:

Được tháp nhập vào Chúa Kitô qua phép rửa tội, người được rửa tội đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô. Phép rửa tội đóng dấu ấn thiêng liêng không thể xóa nhòa: người này đã thuộc về Chúa Kitô. Không tội lỗi nào có thể xóa dấu ấn này, dù khi tội lỗi ngăn cản phép rửa tội mang lại hoa trái cứu rỗi. Được ban một lần trong đời, phép rửa tội không thể lặp lại. (1272)

Do đó, khi chúng ta chịu phép rửa tội, một dấu ấn thiêng liêng không thể xóa nhòa được ghi trên tâm hồn và không gì có thể xóa được. Chúng ta có thể phạm tội và làm mất đi ơn thánh mà phép rửa tội đã ban, nhưng dấu ấn vẫn còn. Và – nếu chúng ta ăn năn – chúng ta có thể trở lại với ân sủng và tiếp tục cuộc sống kitô hữu của mình. Chúng ta không phải rửa tội lại. Trên thực tế, chúng ta không thể rửa tội thêm một lần nữa vì dấu ấn thiêng liêng vẫn còn.

Điều gì xảy ra trong các vụ “xin rút tên ra khỏi sổ rửa tội”

Điều gì xảy ra khi một người quyết định không muốn là tín hữu kitô và gởi đơn xin rút tên ra khỏi sổ rửa tội? Trang Le Pillar giải thích: ngày 1 tháng 12, một phát ngôn viên của hội đồng giám mục Bỉ nói với trang Pillar, khi Giáo hội nhận đơn “xin rút tên”, đơn này được ghi chú bên lề của sổ đăng ký, người này xin ‘hủy đăng ký’. Không được phép gạch bỏ hoặc xóa một mục nào trong hồ sơ chính thức.

Đó là hợp lý, vì hồ sơ phải có dấu tích người này đã được rửa tội. Giả thử sau này, người này đổi ý và quyết định sống trong tư cách là tín hữu kitô. Phải có hồ sơ về việc người này đã được rửa tội để chứng tỏ họ không nên rửa tội thêm một lần nữa.

Điều gì đã xảy ra trong trường hợp của ông LeBouvier? NPR báo cáo: “Họ gởi cho tôi bản sao hồ sơ của tôi, và ở lề bên cạnh tên tôi, họ viết tôi đã chọn rời bỏ Giáo hội. Cụ thể, hồ sơ sửa đổi, tôi đã từ bỏ phép rửa tội của tôi.” Nhưng điều đó không đủ với ông LeBouvier, ông kiện Giáo hội ra tòa để tên ông được rút ra khỏi hồ sơ.

Trường hợp song song

Vì sao ông phải làm như vậy? Chúng ta xem xét một trường hợp song song: hôn nhân dân sự. Khi hai người đến trước nhân viên ở tòa để kết hôn, sau đó họ đổi ý và quyết định họ không muốn kết hôn với nhau. Trong trường hợp này, họ ly hôn và họ đồng ý. Họ không đòi hỏi Nhà nước phải quay lại, xóa mọi dấu vết hôn nhân của họ.

Có những lý do chính đáng để Nhà nước không làm như vậy. Nhiều vấn đề pháp lý khác nhau có thể phụ thuộc vào việc hai người có kết hôn vào thời điểm nào đó hay không (thuế, quyền nuôi con, thừa kế, kiện cáo, v.v.) và nhà nước phải có hồ sơ về cuộc hôn nhân, dù bây giờ đã giải thể.

Vậy tại sao một người như ông LeBouvier lại muốn xóa hồ sơ rửa tội của mình? Một phần có thể do ông không hiểu rõ giáo lý. Ông nghĩ sự tồn tại của dấu vết vật lý về phép rửa tội làm cho ông thành tín hữu kitô. Tuy nhiên, đây là ảo tưởng vì không phải viết trên giấy tờ mà làm được điều này.

Mặt khác, có thể do đương sự khó tính. Đơn giản có thể ông đã giận Giáo hội và nói lên đòi hỏi của mình. Thay vì bằng lòng để giáo xứ ghi chú bên cạnh ông xin rút tên khỏi sổ rửa tội, thì ông lại muốn đi xa hơn, đưa ra yêu cầu mà ông biết không thể  đáp ứng được, để ông có cớ đi kiện Giáo hội. Dù động cơ của ông là gì, nhưng rốt cuộc ông thua. Năm 2014, Tòa án Tối cao Pháp ra phán quyết bất lợi cho ông LeBouvier, đó là chuyện bình thường.

Chuyện ông LeBouvier được rửa tội là chuyện đơn giản. Điều đó đúng cho dù tác động của phép rửa tội như thế nào, nhưng là người không tin, có thể ông không tin vào dấu ấn không thể xóa nhòa mà phép rửa tội để lại trong tâm hồn ông. Đúng là – vào một ngày nào đó – ông đã được rửa tội ở một giáo xứ nào đó, và có thể có những ghi chép về sự kiện này cũng như có những ghi chép về bất kỳ sự kiện lịch sử nào khác. Trừ khi bạn có chiếc máy thần, còn không, thì không có cách nào quay ngược thời gian để xóa sự kiện này.

Cũng như nhà nước lưu giữ tất cả hồ sơ về những gì đã xảy ra – như hôn nhân – dù tác động của chúng bây giờ có thể xem như  vô hiệu hóa (hoặc không nếu đứng về mặt tôn giáo), Giáo hội cũng vậy.

Tác dụng của tài liệu

Có một lý do làm cho những người như ông LeBouvier không hài lòng với Giáo hội, chỉ đơn giản là ghi trong hồ sơ rửa tội, họ không xem mình là tín hữu kitô nữa. Khi ly hôn, hai vợ chồng nhận phán quyết của tòa án – tờ giấy ghi họ không còn là vợ chồng hợp pháp – dù nhà nước không xóa hết dấu vết hôn nhân của họ, họ bằng lòng với phán quyết này. Nhưng Giáo hội không có tương đương như vậy khi có người từ bỏ đức tin. Bộ Giáo luật năm 1983 dự liệu khả năng có người rời bỏ Giáo hội “qua một hành vi chính thức”. Điều này có một số tác động giáo luật, chẳng hạn họ không còn bắt buộc phải có một hôn nhân công giáo.

Rời bỏ hàng ngũ và Thuế nhà thờ ở Đức

Nhưng hệ thống Thuế nhà thờ ở Đức (Kirchensteuer) làm phức tạp thêm vấn đề. Theo hệ thống này, chính phủ Đức tự động lấy một phần thu nhập của cá nhân và trả cho Giáo hội mà họ thuộc về. Kể từ đó, một số giáo dân Đức rời bỏ Giáo hội và tuyên bố họ không phải trả loại thuế này nữa.

Để đối phó với tình tình trạng này ở Đức, Hội đồng Giáo hoàng về Văn bản Pháp luật năm 2006 đã thiết lập một quy trình nặng nề làm cho việc chính thức rời bỏ Giáo hội thành khó khăn hơn. Một phần tiến trình này là phải gặp riêng giám mục của mình, thuyết phục ngài, mình rất chân thành và không muốn là tín hữu công giáo nữa.

Không bằng lòng với kết quả của quá trình này, năm 2009, Đức Bênêđíctô XVI quyết định bỏ hoàn toàn khái niệm chính thức rút tên ra khỏi giáo luật. Điều này tạo ra những hậu quả nghiêm trọng ngoài ý muốn, vì điều này, có nghĩa có những người đã rửa tội nhưng không được nuôi dạy trong đạo công giáo – nhiều người trong số họ thậm chí còn không biết mình đã rửa tội – bây giờ họ không có khả năng hợp pháp hóa hôn nhân (vì tôn trọng ‘hình thức giáo luật’) và bị ở trong tình trạng  gian dâm vĩnh viễn và khách quan.

Theo tôi, biện pháp khắc phục còn tệ hơn tác hại do tình trạng tài chính Đức gây ra, nhưng điều này có nghĩa là họ không còn nhận thơ giám mục của họ nói, ngài nghĩ bạn không còn xem mình là người công giáo nữa.

Nhìn về tương lai

Khi quá trình thế tục hóa của Âu châu tiến triển, vẫn còn liệu xem các nhà lãnh đạo Giáo hội tương lai có thấy phù hợp để tạo ra một tài liệu xác nhận ‘Chúng tôi công nhận quý vị không xem là tín hữu kitô hoặc không muốn sống như người công giáo’. Hy vọng một tài liệu như vậy sẽ không cần thiết – và Chúa gìn giữ chúng ta để chúng ta không cần đến nó. Nhưng nếu tòa án Pháp đã ra phán quyết chống lại ông LeBouvier, chúng ta cũng không thể không xem đây là vấn đề của tương lai.

Sự thù địch bài-công giáo và bài-kitô giáo vẫn tiếp tục lan trong hệ thống pháp luật, và cũng giống như có những đương sự gắt gỏng chỉ muốn gây chiến với Giáo hội, thì có thể có những thẩm phán gắt gỏng cũng muốn làm như vậy.

Để tránh xung đột pháp lý có thể xảy ra do các thẩm phán năng nổ đòi hỏi Giáo hội cắt bỏ hồ sơ rửa tội, một ngày nào đó có thể nên thận trọng tạo một cách thức chính thức để công nhận một thực tế đáng buồn của những người không còn xem mình là tín hữu kitô nữa.

Tác giả bài viết Jimmy Akin Jimmy sinh ra ở Texas và lớn lên trong đạo tin lành, nhưng ở tuổi 20, ông trở lại sâu đậm với Chúa Kitô. Muốn trở thành mục sư tin lành hoặc giáo sư chủng viện, ông bắt đầu nghiên cứu Kinh thánh. Càng đào sâu Kinh thánh, ông càng tìm ra nhiều lập luận để ủng hộ đức tin công giáo. Cuối cùng ông theo đạo công giáo. Câu chuyện trở lại của ông Một chiến thắng và một Thảm kịch (A Triumph and a Tragedy được xuất bản trong Surprised by Trust). Ngoài vai trò là tác giả, Jimmy còn là nhà biện giải chính cho Catholic Answers (Những câu trả lời của Công giáo), ông ở trong ban biên tập Catholic Answers và là khách mời hàng tuần trên chương trình “Catholic Answers Live).

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Năm 2021, Giáo hội Đức mỗi ngày mất 1000 tín hữu

Kỷ niệm 10 năm thành lập tài khoản Twitter của giáo hoàng

Kỷ niệm 10 năm thành lập tài khoản Twitter của giáo hoàng

la-croix.com, Le Figaro với AFP, 2022-12-12

Tài khoản Twitter của giáo hoàng với 53,5 triệu người theo dõi  kỷ niệm 10 năm thành lập. Tài khoản được Đức Bênêđíctô XVI thành lập tháng 12 năm 2012, có 9 ngôn ngữ gồm cả tiếng la-tinh và ả-rập.

Từ tiếng la-tinh đến tiếng ả-rập, tài khoản Twitter của giáo hoàng đã hiện đại hóa giao tiếp của người đứng đầu Giáo hội công giáo: tài khoản có chín ngôn ngữ với tổng số khoảng 53,5 triệu người theo dõi. Được Đức Bênêđíctô XVI khai trương ngày 12 tháng 12 năm 2012, tài khoản @pontifex bằng tiếng Anh có 18,9 triệu người theo dõi, sau đó là tiếng Ý có 5,3 triệu, tiếng Bồ Đào Nha có 5,1 triệu, tiếng Pháp có 1,7 triệu và và tiếng Ba Lan có 1 triệu người. Tài khoản tiếng la-tinh thành công đáng ngạc nhiên, với 1 triệu người đăng ký, vượt xa tiếng Đức và tiếng Ả Rập.

Khuyến khích đối thoại

Vatican đăng các câu tweet mỗi ngày, chủ yếu là tôn giáo được trích từ các bài diễn văn, văn bản, các can thiệp công khai của nhà lãnh đạo tinh thần của 1,3 tỷ người công giáo trên thế giới, ngài sẽ kỷ niệm 10 năm triều giáo hoàng của ngài vào tháng 3 năm 2023.

Năm 2022, các câu tweet được chia sẻ nhiều nhất là những câu kêu gọi chấm dứt chiến tranh ở Ukraine và các thông điệp gởi đến người dân bị ảnh hưởng bởi các cuộc xung đột. Ngày thứ hai nhật báo Osservatore Romano, cơ quan ngôn luận chính thức của Vatican vui mừng trước thành công ngày càng tăng của mạng lưới. Hôm nay Đức Phanxicô đăng câu tweet cám ơn: “Tôi xin cám ơn tất cả những ai đã theo dõi tôi trên tài khoản Twitter đã mở ra cách đây 10 năm để loan báo niềm vui Tin Mừng. Chúng ta tiếp tục xây dựng mạng lưới này như một không gian tự do để thúc đẩy gặp gỡ, đối thoại và đánh giá cao những gì liên kết chúng ta.”

Một số nhà quan sát đang đặt câu hỏi về tương lai của sự hiện diện của giáo hoàng trên tài khoản Twitter khi tỷ phú Mỹ Elon Musk mua lại Twitter và chính sách mới tạo nhiều tranh cãi của ông. Nhà báo Michael O’Loughlin, tác giả quyển The Tweetable Pope nói với hãng tin AFP: “Mười năm sau, văn hóa của Twitter đã thay đổi rất nhiều và không còn hào hứng như thuở ban đầu. Bây giờ mọi người bắt đầu đặt câu hỏi về việc họ có nên tiếp tục sử dụng mạng này hay không, và sẽ rất thú vị để biết ý kiến của Vatican, vốn phải luôn chú ý đến cách thông tin được dùng để tiếp tục truyền tải thông điệp của mình.” Khi được AFP hỏi về tương lai của những tài khoản phải được chứng thực, Vatican không bình luận. Đức Phanxicô có gần 9 triệu người theo dõi ngài trên tài khoản Instagram.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Hồng y Kasper: “Chúng tôi hy vọng giữ Đức Phanxicô thêm vài năm nữa, những người kế vị ngài sẽ hoàn tất các cải cách của ngài” 

Hồng y Kasper: “Chúng tôi hy vọng giữ Đức Phanxicô thêm vài năm nữa, những người kế vị ngài sẽ hoàn tất các cải cách của ngài” 

ilmessaggero.it, Franca Giansoldati, 2022-12-11

 

 

 

 

 

 

 

 

Hồng y Kasper: “Chúng tôi hy vọng giữ Đức Phanxicô thêm vài năm nữa, những người kế vị ngài sẽ hoàn tất các cải cách của ngài.”

“Sự thành công của triều giáo hoàng hiện tại sẽ được những người kế vị của triều giáo hoàng này quyết định. Tôi chỉ hy vọng triều giáo hoàng hiện tại không phải là một tình cờ nhưng là mở đầu cho một kỷ nguyên mới và chúng tôi hy vọng có thể duy trì triều giáo hoàng này thêm vài năm nữa”. Thần học gia người Đức Walter Kasper, một trong những hồng y đã đóng góp nhiều nhất trong việc bầu chọn Bergoglio tại mật nghị năm 2013, ngài nói về cải cách Đức Phanxicô đã khởi xướng trong mười năm qua, qua đó nhằm mục đích thay đổi mối quan hệ giữa Giáo hội và Huấn quyền. Dự đoán của hồng y Kasper dựa trên một phân tích sâu rộng.

Theo ngài, sự thúc đẩy khai phá có thể thay đổi học thuyết về đồng tính, giai đoạn cuối cuộc đời, phá thai, độc thân linh mục và tính đại diện trong Giáo hội, chắc chắn những điều này sẽ không được Đức Phanxicô thực hiện. “Quá trình biến đổi như vậy không thể một sớm một chiều mà cần có thời gian và một hơi thở thật dài. Không thể trong một triều giáo hoàng mà phải hai hoặc ba triều.” Thật vậy, con đường cải cách đầy trắc trở và phải mất một thời gian dài để mang lại một thay đổi văn hóa lâu dài. Theo hồng y Kasper, đó là khái niệm về tính cách phi-đồng nghị, “có nghĩa là sự kết thúc của chủ nghĩa giáo sĩ thứ bậc cũ”. Phân tích của nhà thần học người Đức được thực hiện ở Lateran trong một cuộc họp do Ordine dei Giornalisti del Lazio tổ chức để nói về triều giáo hoàng của Đức Phanxicô. “Phanxicô là giáo hoàng phúc âm, không phải theo nghĩa tuyên xưng nhưng theo đúng nghĩa đầu tiên của thuật ngữ này. Với ngài, ưu tiên tuyệt đối không phải là học thuyết nhưng là Tin Mừng, sứ điệp sống của Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót, Đấng đã cứu chuộc chúng ta qua Con của Người và Đấng luôn hiện diện trong Giáo hội trong Chúa Thánh Thần. Trong tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng Praedicate Evangelium, bộ loan báo Tin Mừng được ưu tiên hơn Bộ Tín Lý. Ngài không còn rao giảng một Thiên Chúa đe dọa, lên án và trừng phạt nhưng rao giảng một Thiên Chúa đón nhận, chấp nhận, tha thứ và hòa giải mọi người trong tình yêu. Đó là tông giọng mới, tốt cho Giáo hội, nhưng không làm mọi người hài lòng, đôi khi còn bị hiểu lầm như một “loại tương đối hóa”.

Hồng y Kasper không che giấu những khó khăn của triều giáo hoàng và cả những sai lầm đã mắc phải cho đến nay. Ngài hy vọng triều giáo hoàng này sẽ kéo dài thêm vài năm: “Vì thế mỗi giáo hoàng đều có những điểm mạnh của mình, nhưng cũng có những khía cạnh mà ngài phải để lại cho người kế vị. Tôi muốn nói về những điểm mạnh của triều giáo hoàng; tôi để cho các nhà báo nói về những thiếu hụt còn tồn tại và sẽ trở nên hiển nhiên khi triều giáo hoàng kéo dài. Tuy nhiên, tôi hy vọng, nếu Chúa muốn, chúng ta có thể giữ giáo hoàng này thêm vài năm nữa.”

Những người cấp tiến

Tình hình phức tạp này là do sự kết hợp của nhiều yếu tố, kể cả hố sâu đã phát triển giữa những người cải cách và những người bảo thủ trong Giáo hội. “Đức Phanxicô thấy mình ở trong một tình huống khó khăn. Một bên là những người bảo thủ theo trào lưu chính thống, một bên là những người tiến bộ về ý thức hệ, họ cũng đã trở thành những kẻ gièm pha ngài trong thời gian này. Giữa hai bên có một khoảng trung gian rộng lớn, hài lòng và hạnh phúc hoặc thường xuyên dửng dưng. Những người bảo thủ theo chủ nghĩa cơ bản đã là những người chỉ trích giáo hoàng ngay từ đầu. Họ chưa bao giờ thích giáo hoàng này. Ngài không cư xử và nói năng như một giáo hoàng nên làm.” Nhưng phong cách chỉ trích chỉ là hình thức bên ngoài.” Nó sâu sắc hơn: họ hỏi: Liệu ngài có thực sự còn là người công giáo không? Đồng thời, là người công giáo, họ phần nào mang các hình thức căn tính đồng nhất, họ kiên quyết về vấn đề phá thai, chống lại các cuộc diễn hành và người đồng tính như thượng phụ Kyrill đã làm”.

Còn ở phía “cánh tả”, có những người tiến bộ chỉ trích. “Họ nói: giáo hoàng này không muốn cải cách. Trên thực tế, ngài làm rất nhiều cải cách, thậm chí theo cánh hữu là quá nhiều, nhưng ngài không muốn tất cả các cải cách tự do như trong đường lối công nghị của Đức. Ngài không phải là nhà cải cách tự do, nhưng là nhà cải cách triệt để, muốn cải cách Giáo hội từ gốc rễ, tức là từ Tin Mừng”.

Theo hồng y Kasper, Giáo hội đang đối diện với cuộc khủng hoảng về căn tính: “Thay đổi đồng nghĩa với mất trật tự và kéo theo khủng hoảng, và sẽ là thiếu trung thực nếu không công khai nói rằng: Giáo hội đang khủng hoảng sâu sắc. Chúng ta có thể nói về một khủng hoảng căn tính, cái gì còn nguyên giá trị trong quá trình biến đổi mà chúng ta thấy mình trong đó, cái gì có giá trị phải ở lại và cái gì cần cải cách phải được cải cách khẩn cấp?”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Đức Phanxicô trả lời phỏng vấn về phân cực, về phong chức phụ nữ, các giám mục Hoa Kỳ và về nhiều chủ đề khác

Sinh hoạt của Đức Phanxicô trên đường phố Rôma

Sinh hoạt của Đức Phanxicô trên đường phố Rôma

Đúng với phong cách của ngài, Đức Phanxicô chọn phương tiện nhỏ nhất và thoải mái nhất để đến quảng trường Tây Ban Nha ngày 8 tháng 12-2022

diariodesevilla.es, r0, 2022-12-12

Không giống với chiếc xe giáo hoàng, ngài có thể đứng và chào giáo dân. Với chiếc Fiat 500 nhỏ bé, Đức Phanxicô đến quảng trường Tây Ban Nha thứ năm tuần rồi để cầu nguyện trước Đài tưởng niệm Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội. Ngài tự ra khỏi xe không cần trợ giúp, dù sau đó ngài được nhân viên trợ tá đưa cây gậy. Đức Phanxicô ngồi cạnh người lái xe, ngài không ngồi đàng sau như nghi thức.

Việc ngài đi chiếc xe nhỏ làm mọi người không biết tìm ngài ở đâu khi thấy hàng dài xe bọc thép xuất hiện, những chiếc xe to lớn, màu sẫm và bằng kim loại. Ngài không có ở đó, ngài trên chiếc nhỏ nhất và chiếc Fiat mở đầu đoàn xe. Đức Phanxicô đã có phong cách đơn giản từ đầu triều giáo hoàng khi ngài sống đơn giản, không sống ở các căn hộ truyền thống dành cho giáo hoàng. Ngài ở Nhà Thánh Marta, nhà trọ của các hồng y khi các ngài về mật nghị. Phong cách của ngài luôn đơn giản đến từng chi tiết. Không xe xa hoa, không phẩm phục, không phụ tùng hào nhóng. Ngài là như thế, luôn đơn giản.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Charles Darwin hay Bernadette Soubirous

Charles Darwin hay Bernadette Soubirous

Chương 4 sách Công giáo trong tự do

Trích sách Công giáo trong tự do (Catholique en liberté, nxb. Salvator, 2019)

Năm 1996, Đứa Gioan-Phaolô II đã công nhận rằng thuyết tiến hóa còn “nhiều hơn là một giả thuyết” đã làm cho các tín hữu đặt câu hỏi lại về thần thoại của A-đam và Ê-va và về sự “sa ngã” như nền tảng của các tín điều về tội nguyên tổ và về sự “vô nhiễm nguyên tội”, dù Đức Mẹ đã xác nhận với Bernadette năm 1858.

Charles Darwin hay Bernadette Soubirous?

Trong một nghiên cứu về nhà thơ Baudelaire, nhà văn qua đời quá sớm Jean-René Huguenin đã nhấn mạnh theo Beaudelaire ý tưởng mặc cảm tội lỗi có trước lỗi. Mặc cảm tội lỗi không phát sinh từ nhận thức về việc đã phạm sai lầm. Xu hướng nghiêng về tội sẽ như món tiền chuộc để trả cho cảm nhận tội lỗi bẩm sinh của chúng ta. Với người công giáo là tôi, được rửa tội từ khi còn nhỏ, sự soi sáng này mang một ý nghĩa quyết định. Giáo hội nói với chúng ta rằng chúng ta sinh ra đã có tội. Tất nhiên, có tội thì được tha thứ, nhưng vẫn là có tội. Như thế khi được vài tuần tuổi, lễ rửa tội đã tẩy sạch cho tôi một tội lỗi mà tôi sẽ rất khó phạm phải. Sẽ hiểu!

Với tôi, ý tưởng tội di truyền là không thể hiểu được

Nguyên tội vẫn tiếp tục chất vấn tôi. Tôi biết rõ, không nên lấy mức độ đầu tiên là tường thuật trong Kinh thánh về Ađam và Êva và về sự sa ngã của họ, trong dấu ngoặc, người do thái cũng như hồi giáo không bao giờ hình thành ý tưởng về một khái niệm nguyên tội. Một khái niệm mà đối với tôi, tôi không thể chịu được, thêm nữa, là đứa trẻ của Khai sáng và của Nhân quyền, ý tưởng của một tội di truyền là điều tôi không thể chịu được. Một ý tưởng đơn giản ngược với những gì tôi hiểu từ Phúc Âm qua cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với các môn đệ về người mù: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Đã có một minh họa đẹp về một vũ trụ tư tưởng không còn là của chúng ta ngay cả khi nó vẫn tồn tại ở Châu Phi, chẳng hạn: làm thế nào tưởng tượng được sự tàn tật khi sinh ra đã là hậu quả tội lỗi của một người chưa được sống? Chúa Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cả cha mẹ anh ta cũng không.” Nhưng điều chính yếu không nằm ở tội lỗi mà ở việc nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được thể hiện. Mặt khác, các nhà thần học chính thống, dựa vào thẩm quyền của các Giáo phụ đơn thuần bỏ qua luận điểm của một tội lỗi di truyền.

Từ những suy đoán của Thánh Âugutinô, Giáo hội đã đưa ra những tín điều. Một chân lý của đức tin cho vĩnh cửu. Ngoại trừ, khi công nhận “lý thuyết về sự tiến hóa của các loài còn hơn là một giả thuyết”, năm 1996 Đức Gioan-Phaolô II đã cho con sâu vào trái, trong trường hợp này là trái cấm. Nếu A-đam và Ê-va thực sự là một huyền thoại và không phải là một lịch sử tồn tại, thì thật là choáng váng. Không có A-đam và Ê-va, không có tội nguyên tổ, do đó không có Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc là trọng tâm đức tin kitô giáo. Không có sự khác biệt giữa trước và sau sa ngã. Không có lối thoát lãng mạn cho những dịu ngọt của Vườn Địa Đàng, thiên đường trần thế. Và theo đó, nếu tôi dám diễn tả như thế, thì không có Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, long trọng công bố và thánh hiến rằng Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu sẽ là sinh vật duy nhất của nhân loại được sinh ra mà không có vết nhơ của nguyên tội, vì số phận đã được của mình. Gần với điều này là thông điệp của Đức Trinh Nữ ở Lộ Đức, năm 1858: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”, chỉ bốn năm sau khi Đức Piô IX công bố tín điều và chúng ta đi đến đỉnh cao của sự bối rối.

Tin ai: Darwin hay Bernadette Soubirous?

Làm sao chúng ta không ngạc nhiên trước sự hoài nghi của người có lòng tin chân thành?

Trình bày quá biếm họa không? Đúng, có lẽ, với các nhà thần học dày dạn kinh nghiệm. Ở đây chúng ta đụng đến các giới hạn của lời Đức Phanxicô nói ngày 21 tháng 6 năm 2019 tại Naples, trong bài nói chuyện về nghiên cứu thần học. Tôi trích dẫn: Giữa các học thuật, chúng ta phải đi đến trước một cách tự do; sau đó, trong trường hợp cuối cùng, sẽ tùy thuộc vào huấn quyền để tuyên bố, nhưng chúng ta không thể làm thần học nếu không có tự do này. Nhưng, trong lời rao giảng với Dân Chúa, xin quý vị đừng làm tổn hại đến đức tin của Dân Chúa với các vấn đề đang tranh cãi. Hãy để những chuyện này trong phạm vi các nhà thần học. Đó là nhiệm vụ của bạn. Vậy, chúng ta phải cung cấp cho dân Chúa chất nuôi dưỡng đức tin nhưng không không tương đối hóa.”

Không có gì mà các vị tiền nhiệm của ngài đã không nói theo cách của họ. Nhưng chính xác trong giới hạn của một môn thần học “trong phòng”, dĩ nhiên là được dạy trong các phân khoa thần học, nhưng những người không bao giờ vượt qua ngưỡng cửa của người dân hiền, thì chúng ta gặp khoảng cách giữa kiến thức của các chuyên gia và kiến thức của tín hữu giản dị, về phần mình, luôn tìm thấy trong Giáo lý của Giáo hội công giáo một loại “tội lỗi của các cha mẹ đầu tiên của chúng ta” và sự “sa ngã” của họ như những sự thật lịch sử.

Từ đó làm sao có thể ngạc nhiên về tội nguyên tổ, trước sự hoài nghi của người có lòng tin chân thành, dù họ diễn tả một cách vụng về? Vì nếu họ gắn bó với Giáo hội thì họ cũng giống như giới luật cũ mà theo đó “lý trí có thể thừa nhận những gì vượt quá nó, không mâu thuẫn với nó.” Cứ lẫn lộn giữa đức tin và niềm tin quá nhiều, chúng ta chấp nhận rủi ro, khi một số trong số họ mất hết uy tín, để trong lẫn lộn đó bỏ luôn đức tin. Đó là một trong những thảm kịch của thời đại chúng ta và một trong những lý do sâu xa dẫn đến cuộc khủng hoảng của Giáo hội. Một trong những trở ngại của học thuyết công giáo, mà trong bản thảo quyển tiểu thuyết tuổi hai mươi của tôi, đã làm cho nhân vật của tôi đòi lợi ích của việc kiểm kê!

Đóng băng nội dung của học thuyết là chấp nhận rủi ro một ngày nào đó nó đặt lại câu hỏi của sự tiến bộ của khoa học.

Nếu tôi hầu như không tin vào tội nguyên tổ, thì sự tồn tại của cái ác là điều hiển nhiên đối với tôi. Và đến tận riêng tôi. Làm sao có thể khác được? Không có gì là đặc biệt ở đây. Thánh Phaolô xác định rõ trong Thư gởi tín hữu Rôma: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” Sự tồn tại của cái ác làm chúng ta chìm đắm trong bí ẩn sâu thẳm. Chúng ta có thể – chúng ta phải – sống với nó. Và trong mầu nhiệm này, Chúa Kitô, Đấng cứu chuộc mời tôi đi theo Ngài để chiến thắng cái ác và cái chết mà chính Ngài đã chiến thắng, đã tìm thấy chỗ đứng của nó. Cũng giống như Mẹ Maria, người mà những cộng đồng đầu tiên có trực giác cho rằng “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ”, Mẹ thoát khỏi số phận chung, ngoại trừ Mẹ không cần điều kỳ diệu nào để tỏa sáng trong lòng tín hữu. Bằng chứng cho việc chúng ta có thể bảo vệ bản chất đức tin công giáo mà vẫn cho phép mình đặt câu hỏi về một số tín điều.

Chắc chắn, Giáo hội công giáo, nếu tôi có thể nói như vậy, đã phạm tội bởi quá nhiều chủ nghĩa giáo điều, cũng như ở những nơi khác bởi chủ nghĩa đạo đức thái quá. Muốn đóng băng nội dung của học thuyết để tạo thành một cơ sở của niềm tin, trên đó thực hiện được sự thống nhất là điều có thể hiểu được. Nhưng cũng ghi chắc như đinh đóng cột những gì chúng ta nghĩ mình nắm được bằng Mạc khải, tại một thời điểm nào đó, ẩn chứa nguy cơ nhìn thấy một ngày nào đó, nó bị đặt vấn đề vì các tiến bộ khoa học, như ở đây là thuyết tiến hóa hoặc bằng sự hiểu biết sâu sắc và mới mẻ về Kinh thánh và Truyền thống. Tôi luôn ấn tượng bởi số lượng các thông điệp, tông huấn và tuyên bố các loại… của các giáo hoàng, cẩn thân trích dẫn rộng rãi các văn bản của các vị tiền nhiệm trong một quan tâm rõ ràng về tính liên tục. Và trở nên lúng túng khó gỡ như thế nào khi một liên kết trong chuỗi này một ngày nào đó bị vỡ!

Tất nhiên, Giáo hội không phải là một nền dân chủ, nhưng…

Trong quyển tiểu thuyết tuổi trẻ của tôi, nhân vật chính đã chia sẻ với Hermann Hesse trực giác này: “Cũng như cơ thể chúng ta mang trong mình tất cả các mức độ tiến hóa […] vì thế trong tâm hồn chúng ta, sống lại tất cả những gì đã được sống trong tất cả tâm hồn con người.” Và tôi tưởng tượng nhân vật của tôi, trong “di sản” này, kể cả di sản thiêng liêng mà anh muốn kiểm kê trước khi trao truyền, xác nhận với đầy đủ kiến thức về nguyên nhân, các lựa chọn của các thế hệ đi trước. Một hoạch định ảo tưởng và chắc chắn là hủy hoại. Vì có gì là chắc chắn, nếu mọi thứ có thể bị giám sát liên tục, dựa trên kiến thức nào được mọi người chấp nhận để tạo cơ sở cho sự thống nhất và bền vững của cộng đồng không? Nhưng tiểu thuyết gia có bổn phận phải giải quyết mâu thuẫn mà ông nuôi sống tác phẩm của ông không?

Đã có lúc tôi tự hỏi, tôi sẽ ở phía nào nếu tôi sống trong hoàn cảnh này hoặc hoàn cảnh kia phải đối đầu với những chạm trán lớn trong lịch sử kitô giáo, dẫn đến việc lên án một số người nào đó là dị giáo. Nếu tôi phải đưa tin cho báo Pèlerin về công đồng Nicea năm 325, được hoàng đế Constantine vừa mới trở lại kitô giáo dẫn đầu, lòng tôi có quyết định cho luận cứ Arius khẳng định Chúa Con (Giêsu) có cùng “bản chất giống như” Chúa Cha, hay tôi theo đa số chọn khái niệm “cùng bản chất” không? Chúa Giêsu có phải là Thiên Chúa từ muôn thuở hay Ngài trở thành do nhận bản chất thần thánh như người Nestorians và người Adoptians nghĩ không? Đó là một thăm dò không để mạo hiểm với người công giáo vào đầu thế kỷ 21 này! Và mặt khác, không phải chỉ để hiểu các thách thức? Chúng tôi nhớ câu Galilê thì thầm năm 1633, khi buộc phải từ bỏ lý thuyết của mình để thoát khỏi dàn thiêu của Tòa án dị giáo: “Nhưng nó vẫn quay”… Cũng vậy, tôi cũng có thể thì thầm khi buộc hủy bỏ luận án dị giáo của một Giêsu đã trở thành Thiên Chúa do nhận chức thánh, vậy mà Chúa Giêsu đã xác nhận trong Phúc Âm Thánh Gioan: “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.”

Trong suốt lịch sử, có bao nhiêu người dũng cảm đã quan tâm đến các cuộc cãi vã học thuyết không liên quan gì đến họ?

Điều gì, trong sách giáo lý của Giáo hội công giáo sẵn sàng trình bày cho chúng ta, như điều bất biến thường chỉ được giành cho một thiểu số nhỏ tiếng nói trong các công đồng, không có gì so sánh với các cuộc tranh luận quốc hội của chúng ta. Giáo hội không phải là một nền dân chủ! Chắc chắn! Điều này chưa bao giờ ngăn cản Giáo hội – tạ ơn Chúa – thực hiện những điều đó. Xem là chân lý các lựa chọn vĩnh cửu do đa số bỏ phiếu đòi hỏi phải hết sức tin tưởng vào sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Tất nhiên đó là trường hợp của tôi. Không muốn quyển sách này kết thúc bằng sự thanh tẩy tự hủy, và tôi cùng với quyển sách, tôi sẽ không đi xa hơn trên con đường này. Nhưng chúng ta sẽ hiểu những câu hỏi mà trong Cái chết của Người cha, những câu hỏi mà nhân vật của tôi làm việc!

Tất nhiên, có nguy cơ lặp lại chính mình hoặc dự đoán những diễn biến khác, một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự xa cách của nhiều tín hữu “có học” của một Giáo hội vẫn còn đưa ra những lời ấu trĩ với họ. Mặt khác, sự tồn tại của dị giáo có ở mức độ thảm kịch này không? Điều thiết yếu có phải là “đi theo con đường của Chúa Giêsu” không? Chỉ điều này mới được tính đến vào Ngày Phán xét. Vì thế có ai cho tôi biết, làm thế nào chúng ta có thể phân biệt cuộc sống của một người “có bản chất giống như“ và một người có “cùng bản chất” không? Biết bao nhiêu người dũng cảm trong suốt lịch sử đã phải lo lắng, đôi khi đến chết, vì những cuộc tranh cãi học thuyết, không liên quan đến họ theo bất kỳ cách nào, nếu họ không tự giới hạn mình như người ngoại phạm trong các trò chơi quyền lực đơn giản? Nhưng đến hôm nay cũng đủ quen với Internet và mạng xã hội để trải nghiệm, hàng ngày, rằng Tòa án dị giáo không phải là không có hậu duệ!

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Từ bệnh dịch ấu dâm đến bệnh tả lệch lạc bè phái

Lạm dụng tình dục: đứng vững trong đức tin

Lạm dụng tình dục: đứng vững trong đức tin

la-croix.com, Christopher Henning, 2022-12-08

Một cuộc khủng hoảng không bao giờ kết thúc. Sau những tiết lộ gần đây ảnh hưởng đến Giáo hội Pháp, làm thế nào để không rời bỏ con thuyền. Dù vậy giáo dân đã làm chứng cho ý chí bám trụ của họ.

Báo cáo của ủy ban Sauvé đã tiết lộ mức độ thảm kịch, nhưng thêm một lần nữa “các vụ việc” được đưa ra ánh sáng trong vài tuần qua đã làm cho giáo dân công giáo Pháp rụng rời.

Cựu giám mục Santier của giáo phận Créteil bị kết án vì tội “lạm dụng thiêng liêng vì mục đích tình dục” và án phạt chỉ được công bố một năm sau. Những lời thú tội của hồng y Ricard, người thừa nhận những sự thật “đáng trách” liên quan đến một thiếu niên, sau đó là lời thú tội tương tự của cựu giám mục Strasbourg với một phụ nữ trẻ tuổi. Làm thế nào các điều này lại có thể xảy ra? Làm thế nào để còn tin vào Giáo hội khi những người phục vụ Giáo hội lại bệnh hoạn như thế. Tóm tắt,  làm thế nào để “đứng vững”.

Theo các chứng từ báo La Croix thu thập, dám tin vào Giáo Hội không phải là thoái thác hay phủ nhận nhưng ngược lại. Các tín hữu cho biết, để giữ vững đức tin, trước tiên họ phải chấp nhận tức giận, một số còn nhấn mạnh, họ “rất tức giận”. Một số bị cám dỗ rời bỏ Giáo hội. Nhưng một số khác, các linh mục, giáo dân, đàn ông và phụ nữ xác nhận “chúng tôi là Giáo hội”.

Và từ đó, việc bám trụ đã thành lý do để họ ở lại với Giáo hội,  để sống đức tin của mình. Trước hết, đức tin vào Chúa Kitô. Niềm tin vào Giáo hội, trong đó Giáo hội mang Tin Mừng bất chấp mọi thứ. Chúng tôi đã hỏi hàng chục nhân chứng để xác định điều gì giúp họ đứng vững: cầu nguyện, không mệt mỏi nói những gì mình tin, hành động với những người nghèo nhất, lắng nghe các nạn nhân, đọc Kinh thánh, không ở một mình, tham gia sinh hoạt giáo xứ và các phong trào… Đứng vững Đối diện với khủng hoảng, các tín hữu còn làm nhiều hơn là đứng vững, họ dấn thân. Vì đó cũng là Giáo Hội của họ, vì Giáo Hội vẫn là một lời hứa. Vì đức tin không bao giờ chận được bão tố. Nhưng điều cần giữ vững trong đức tin là tiếng gọi khẩn cấp phát sinh trong đêm Mùa Vọng.

Cô Isabelle de la Garanderie: “Đừng đổi hướng trong cơn bão”. Là trinh nữ thánh hiến của giáo phận Nanterre, giáo sư văn chương và là nghiên cứu sinh tiến sĩ thần học, cô giữ vững hướng, tiếp tục hành trình với lời cầu nguyện hàng ngày, nghiên cứu về các Giáo phụ, những người đã tái tập trung Giáo hội vào Chúa Kitô.

Ông Nicolas Truelle: “Ở gần những người dễ bị tổn thương nhất”. Ông là giám đốc của Tổ chức Học việc ở Auteuil, thành viên của phong trào “Lời hứa của Giáo hội”, kitô hữu phải bám lấy và ở lại với những người nghèo nhất và nhỏ bé nhất.

Bà Béatrix Bréauté: “Học hỏi trong một thế giới mới”. Bà là huấn luyện viên, người sáng lập Viện Talenthéo, bà cho rằng, Giáo hội có thể học hỏi từ cuộc khủng hoảng và tìm ra phương thức quản trị tập thể hơn.

Linh mục Erwan Barraud: “Khuyến khích những ai đang cố gắng sống trung thành”. Linh mục là phó giám đốc chủng viện Saint-Yves và tuyên úy giới trẻ ở Rennes, cha làm chứng cho vẻ đẹp của các mối liên kết giữa con người với nhau, vốn tạo nên “thực tại của Giáo hội”.

Bà Bérangère Blondeau: “Khơi dậy niềm hy vọng của các tình huynh đệ nhỏ bé”. Là bà mẹ, là huấn luyện viên của các huấn luyện viên, trưởng nhóm dự tòng, bà là người đồng sáng lập nhóm “Với phụ nữ”, các thành viên nhóm chia sẻ cầu nguyện,  suy tư và đọc sách.

Giám mục Jean-Marc Eychenne: “Đi xuống vùng tối”. Theo giám mục giáo phận Grenoble, chúng ta không thể tìm thấy ánh sáng nếu không chấp nhận vượt qua những giờ phút đen tối, những tiết lộ, những kinh hoàng. Nghệ thuật, cầu nguyện với thánh vịnh và đức tin của dự tòng là nguồn trợ sức rất lớn.

Ông Thomas Laborde: “Gắn bó với Chúa Kitô và Thánh Thể”. Ông là nhà sư phạm trong các nghề của tình liên đới, ông nhắc lại, Đấng thực sự lãnh đạo Giáo hội là Chúa Kitô.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Kitô giáo sẽ có chết không?

Bài mới nhất