Home Blog Page 360

Mariam, 7 tuổi, bảo vệ em dưới đống đổ nát trong khi chờ được cứu

Mariam, 7 tuổi, bảo vệ em dưới đống đổ nát trong khi chờ được cứu

Mariam, 7 tuổi và em trai dưới đống đổ nát

fr.aleteia.org, ban biên tập Aleteia, 2023-02-09

Các cuộc tìm kiếm người mất tích trong trận động đất ngày thứ hai 6 tháng 2 tại Thổ Nhĩ Kỳ và Syria vẫn còn tiếp tục. Hai em bé vừa được giải cứu khỏi đống đổ nát của tòa nhà ở Harem, Syria.

Trong thảm họa động đất này, đã có những tia hy vọng cho các cuộc giải cứu. Trong khi số người thiệt mạng ước tính hiện nay đã vượt quá 20.000 người, có khi mạng sống được cứu trong đường tơ kẻ tóc. Sau cái mà bây giờ mọi người gọi là “phép lạ ở Jandairis”, một em bé sơ sinh vừa lọt lòng mẹ được cứu khỏi đống đổ nát, bây giờ là câu chuyện hai em bé được cứu khỏi đống đổ nát của tòa nhà ở Syria đang được lan truyền trên mạng xã hội. Thành phố của hai em ở là thành phố Harem, cách Aleppo khoảng 60 cây số.

Phép lạ ở Jandairis, một em bé sinh ra dưới đống đổ nát trong trận động đất ở Syria

Em Mariam, 7 tuổi cùng với em trai bị chôn vùi dưới đống đổ nát trong 17 giờ. Hình ảnh cho thấy hai em bị kẹt giữa những khối bê tông khổng lồ, bám đầy bụi trắng. Mariam đặt cánh tay của mình trên đầu em trai như để bảo vệ em trong khi chờ được cứu. Cả hai được đưa đến nơi an toàn và được sơ cứu. Ông Mohamad Safa, đứng đầu một tổ chức phi chính phủ làm việc với Liên Hiệp Quốc chia sẻ bức hình này trên Twitter với bình luận: “Cô bé 7 tuổi đã giữ tay trên đầu em trai để bảo vệ em giữa đống đổ nát trong 17 giờ, chờ để được cứu an toàn và lành mạnh.”

Một trận động đất chết người

Dù trận động đất mới xảy ra 3 ngày nhưng hy vọng sống sót của những người còn kẹt dưới đống đổ nát ngày càng giảm. Lực lượng cứu cấp được gởi đến, họ tiếp tục tìm kiếm và tìm cách sơ tán người dân. Cùng với các đội sở tại của Thổ Nhĩ Kỳ và Syria, một số quốc gia trên thế giới cũng đã gởi các đội cứu cấp đến. Viện trợ nhân đạo cũng đã được gởi đến để giúp người sống sót sau thảm họa này, thiệt hại về người và vật chất rất lớn.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Thượng Hội Đồng: hồng y Hollerich cảnh báo chống lại cám dỗ “làm chính trị”

Thượng Hội Đồng: hồng y Hollerich cảnh báo chống lại cám dỗ “làm chính trị

Khi phần đầu tiên của Đại hội các Giáo hội châu Âu tại Praha (chưa từng có) sắp kết thúc vào ngày thứ năm 9 tháng 2, hồng y Jean-Claude Hollerich, tổng tường trình của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị chia sẻ hy vọng của ngài về tương lai của tiến trình .

la-croix.com, Malo Tresca, đặc phái viên tại Praha, Cộng hòa Séc, 2023-02-09

Hồng y Jean Claude Hollerich, tổng tường trình của Thượng hội đồng về tính đồng nghị trả lời phỏng vấn báo La Croix.

Cha đánh giá thế nào về Đại hội đồng châu Âu chưa từng có này ở Praha?

Hồng y Jean-Claude Hollerich: Tôi cảm thấy được an ủi, vì chúng ta đã biết những khác biệt đã có giữa các Giáo hội Âu châu. Chúng tôi lắng nghe những ý kiến khác biệt của nhau trong tinh thần tôn trọng nhau. Chúng tôi nhận thức để cùng nhau tiến về phía trước.

Tôi đặc biệt ấn tượng với những chia sẻ của những người theo dõi buổi trực tuyến (200 đại biểu Âu châu tại chỗ và 400 người trực tuyến). Tôi có cảm tưởng họ đã tìm cách đặt những câu hỏi đúng về tính đồng nghị…

Thượng Hội đồng này đương nhiên tập trung vào sự hiệp thông, truyền giáo và tham gia. Chúng ta đã quên quá nhiều động lực này, một động lực mời gọi chúng ta đừng trở thành một Giáo hội khép kín với chính mình. Giáo hội phải là một Giáo hội hướng ngoại, Giáo hội loan báo Chúa Kitô, phục vụ người khác và không bận tâm đến những vấn đề riêng của mình.

Cha có cảm thấy Đại hội ở Praha đã bị vượt quá bởi các vấn đề không? Đó là những vấn đề gì?

Đôi khi. Một số đòi phải có chức tư tế cho phụ nữ; một số xem đây là thảm họa. Một số muốn tiếp nhận người đồng tính; một số thấy họ là kẻ có tội, những người họ không thể hòa hợp. Nhưng tất cả những vấn đề này – cũng như vị trí phụ nữ trong Giáo hội, vấn đề những người bị gạt ra bên lề xã hội, kể cả người nghèo – không phải là những vấn đề tự chúng cần nghiên cứu.

Chúng ta không sống một thượng hội đồng về đồng tính hay thượng hội đồng về chức linh mục của phụ nữ – tôi không nói đây không phải là những chủ đề quan trọng! – nhưng đó không phải là vấn đề. Những chủ đề này có thể được tiếp cận trong bối cảnh tính đồng nghị, của tham gia và sứ mệnh.

Liệu nếu tiếp tục tiến trình này sẽ có nguy cơ làm rạn nứt thêm các Giáo hội ở Âu châu hay không?

Tôi không nghĩ vậy, thậm chí tôi còn nghĩ ngược lại. Đây là lần đầu tiên chúng tôi thực sự nói chuyện với nhau, giữa các tín hữu từ Trung Âu, Đông Âu và Tây Âu. Vì vậy, tôi rất hài lòng. Nó đã có thể trở nên hung bạo hơn nhiều.

Ngược lại, cha đã xác định được điểm hội tụ chính nào chưa?

Đó là một Giáo hội truyền giao, vậy mà chúng ta thiếu người trẻ. Người trẻ có cách suy nghĩ khác, cảm nhận khác; họ đã có một chân trong thời đại kỹ thuật số đang bắt đầu, còn chúng ta thì thường đã quay lui… Sự hiện diện của họ là điều cần thiết trong Giáo hội, họ có quyền được lắng nghe.

Chúng tôi cũng đã nói rất nhiều về phụ nữ: với tôi, điều này rất quan trọng. Bây giờ tôi không muốn đề cập đến chức linh mục, đến truyền chức: chúng ta phải đi sâu hơn, nhưng có những điều đã có thể được thực hiện trong các giáo phận. Họ có tiếng nói của họ, có cách phản ứng khác. Khi tôi nghĩ về các vấn đề lạm dụng, tôi nghĩ sự hiện diện của phụ nữ sẽ tránh được rất nhiều vấn đề.

Giai đoạn thứ hai của Đại hội đồng này sẽ được đánh dấu bằng một suy tư giữa các chủ tịch của các hội đồng giám mục… Tiến trình của họ sẽ là gì và vì sao lại cần thiết?

Tôi rất bằng lòng khi nghe Đại hội đồng các giám mục và các chủ tịch Hội đồng Giám mục sẽ không sửa chữa những gì đã được làm. Họ sẽ làm tài liệu của riêng họ – và chúng ta sẽ xem nó có hình thức như thế nào. Tôi hy vọng là tôi sai, nhưng tôi nghĩ đại hội đồng các giám mục có thể phức tạp hơn các hội đồng giáo hội khác. Vấn đề không phải là chơi trò chính trị, mà là cùng nhau tiến tới tương lai, cùng nhau ra đi loan báo Chúa Kitô và phục vụ thế giới.

Các thách thức là rất lớn. Tại Thượng hội đồng ở Rôma (tháng 10 năm 2023 và tháng 10 năm 2024), chính tất cả các giám mục sẽ quyết định. Đó là chức năng của họ trong Giáo hội, nhưng cũng có những lo ngại…

Tomas Halik: “Để là tiếng nói có uy tín, Giáo hội phải chịu một cuộc cải cách sâu sắc”

Đó là những lo ngại gì?

Trước hết là lo ngại các giám mục sẽ đảo ngược nội dung. Tôi không nghĩ rằng các giám mục có thể làm điều đó. Mọi người cảm thấy quá có trách nhiệm với tiến trình này. Tôi chắc chắn, dư luận và giáo dân sẽ không chịu đựng được điều này. Các giám mục kết thúc bằng phân định; nhưng dân Chúa đưa ra chất liệu. Vì vậy chúng ta không thể nói: “Bây giờ chúng tôi sẽ làm một cái gì đó hoàn toàn khác.” Điều đó sẽ không.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Thượng hội đồng Praha: những căng thẳng cần thiết để tiến lên

Hội đồng Nam nữ Tu sĩ Pháp: qua các vụ lạm dụng, ngày nay chúng ta phải đặt vấn đề về toàn bộ nền văn hóa giáo hội

Hội đồng Nam nữ Tu sĩ Pháp: qua các vụ lạm dụng, ngày nay chúng ta phải đặt vấn đề về toàn bộ nền văn hóa giáo hội

la-croix.com, Christophe Henning, 2023-02-08

Sau các báo cáo về ông Jean Vanier và hai anh em linh mục  Philippe, Hội đồng Nam nữ Tu sĩ Pháp (Corref) kêu gọi tăng cường cảnh giác. Theo sơ chủ tịch Hội đồng, Véronique Margron, “chúng ta sẽ phải xem xét kỹ lưỡng tất cả các cộng đồng và nhóm tôn giáo bị mang dấu ấn sâu đậm bởi sự điên rồ của những người này. Chúng ta phải đặt vấn đề về toàn bộ nền văn hóa giáo hội”.

Nữ tu Véronique Margron, chủ tịch Hội đồng Nam nữ Tu sĩ Pháp (Corref) tại Lộ Đức ngày 19 tháng 11 năm 2021. GAIZKA IROZ / AFP

Điều mà hai báo cáo công bố ngày 30 tháng 1 đã tiết lộ về những sai lệch của hai anh em linh mục Philippe và ông Jean Vanier đã làm cho Giáo hội bị chấn động sâu đậm, và còn hơn thế nữa. Dòng Đa Minh bị liên lụy trực tiếp, Hội Đồng Nam nữ Tu sĩ Pháp phản ứng.

Trong thông cáo báo chí đăng ngày thứ tư 8 tháng 2, nữ tu Véronique Margron, chủ tịch Hội đồng Nam nữ Tu sĩ Pháp vừa chia sẻ nỗi “kinh hãi”, vừa suy ngẫm về những bài học rút ra từ công việc sự thật này: “Cũng không thể bỏ qua sự mù quáng – giả hay thật, tùy theo – của một số người có trách nhiệm trong Giáo hội như Dòng Đa Minh. Nhưng chắc chắn, ngoài những người này còn có cả một dân tộc tín hữu chân thành. Và đó là điều chúng ta còn phải hỏi đi hỏi lại về khả năng phán đoán của chúng ta và sự cần thiết phải phá vỡ tình trạng giải quyết giữa nhau để hy vọng phát hiện ra các tín hiệu mạnh hay yếu của sự lạm dụng.”

Trong các báo cáo do các ủy ban độc lập thực hiện, một do hiệp hội L’Arche, một do các tu sĩ Dòng Đa Minh ủy nhiệm   để làm sáng tỏ những lạm dụng tình dục và thiêng liêng của ông Jean Vanier và hai anh em linh mục Philippe gây ra, đã tiết lộ sự kéo dài đáng kinh ngạc trong nhiều thập kỷ, của một nhân tố tà phái, với những niềm tin và thực hành thần bí-khiêu dâm ngay trong lòng Giáo hội.

Hội đồng Nam nữ Tu sĩ Pháp khen ngợi “tính chất chuyên nghiệp rất cao của các nhà nghiên cứu, sự độc lập, lòng dũng cảm của họ và của các cơ quan đã ủy quyền cho họ, L’Arche và Tỉnh dòng Đa Minh Pháp”, Hội đồng nhấn mạnh những cuộc khảo sát này “xác nhận – vẫn còn cần thiết – sức mạnh và tính chính xác của công việc được Ủy ban Độc lập về các vụ Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp (CIASE) thực hiện”. Sơ Véronique Margron xem đây là sự xác nhận rằng, “không có tiếng nói của các nạn nhân thì không có gì có thể và cũng không có gì có thể hiểu được”.

Bắt đầu từ kinh nghiệm tháp tùng các nạn nhân, Hội đồng Nam nữ Tu sĩ Pháp ghi nhận những gì mà hai báo cáo đưa ra, đó là “động lực tông đồ có thể che giấu một loại văn hóa chi phối, một chủ thuyết khắt khe về luân lý, sự trụy lạc tình dục và một sự quay ngược biến ác thành thiện”.

Các cộng đồng mới

Vượt ra ngoài khuôn khổ của đời sống tu trì, thông cáo báo chí mời gọi toàn thể Giáo hội phân tích khuôn khổ của các vụ tấn công tình dục: “Quả thật ngày nay toàn bộ nền văn hóa giáo hội, thần học và mục vụ cần phải được đặt vấn đề vì nó đã là nơi phát sinh ra lạm dụng, thao túng, hung hăng, dối trá và thậm chí cả cái chết.”

Một lần nữa khi tố cáo loại văn hóa giữ bí mật, các tu sĩ chất vấn về việc “kéo dài cơn mê sảng duy tri của những người này, về việc họ không bị trừng phạt, về ảnh hưởng và lạm dụng tình dục của họ”. Hội đồng Nam nữ Tu sĩ Pháp kêu gọi cảnh giác và kiểm tra nghiêm ngặt “những người thừa kế” của hai anh em linh mục Philippe: “Chúng ta sẽ phải xem xét kỹ lưỡng tất cả các cộng đồng và nhóm tu sĩ bị dấu ấn sâu đậm bởi sự điên rồ của những người này, vì họ có quan hệ với nhiều người, được gọi là cộng đồng “mới” vào thời điểm đó hoặc nơi chốn truyền thống như tu viện hoặc đan viện.”

Nhận biết và sửa chữa

Hội đồng Nam nữ Tu sĩ Pháp đã thành lập Ủy ban Công nhận và Bồi thường (CRR) do luật gia Antoine Garapon làm chủ tịch, nhân dịp này ông nhắc lại, bất kỳ nạn nhân nào của cộng đồng tôn giáo đều có thể liên hệ với Ủy ban CRR. Hiệp hội L’Arche ở Pháp đã tham gia Ủy ban CRR, các nạn nhân của ông Jean Vanier hoặc của Hiệp hội L’Arche cũng có thể nhờ đến cấu trúc này.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Trong các hồ sơ chi phối, chúng ta thường thấy hai anh em linh mục Philippe”

Sử gia Tangi Cavalin: “Anh em linh mục Philippe biết cách xây dựng lại bản thân dù đã bị lên án”

Hồng y Gerhard Müller tấn công Đức Phanxicô trong một quyển sách mới

Hồng y Gerhard Müller tấn công Đức Phanxicô trong một quyển sách mới

lanacion.com.ar, Elisabetta Piqué, 2023-01-21

Hồng y Gerhard Müller đã có những lời chỉ trích mạnh mẽ và tố cáo sự tồn tại của “một vòng ma thuật thu hút xung quanh Nhà Thánh Marta tạo thành từ những người không được chuẩn bị từ quan điểm thần học”.

Đức Phanxicô và hồng y Gerhard Müller, năm 2014 / Andrew Medichini – AP

Còn vài tuần nữa là kỷ niệm 10 năm triều giáo hoàng Phanxicô, trong một suy tư luôn cho rằng có nhiều người đang chuẩn bị cho mật nghị bầu chọn người kế nhiệm ngài, một quyển sách mới của hồng y Gerhard Müller bảo thủ sẽ phát hành tuần tới.

Đây là một cuộc tấn công khác nhằm vào Đức Phanxicô sau quyển sách gây tranh cãi của tổng giám mục Georg Ganswein, thư ký riêng của Đức Bênêđictô XVI, và “bản ghi nhớ” nặc danh khắc nghiệt của cố hồng y George Pell được đưa ra sau cái chết đột ngột gần đây của ngài.

Quyển sách mới của hồng y Gerhard Müller

Hồng y Müller, thần học gia 75 tuổi, rất thân cận với Đức Joseph Ratzinger viết trong lời nói đầu quyển sách “Với tất cả thiện ý”: “Tôi chưa bao giờ hành động bất công với giáo hoàng Phanxicô và Chúa là nhân chứng. Do sự nghiêm ngặt của tôi, các phương tiện truyền thông đã xếp tôi vào danh sách hồng y chống lại triều giáo hoàng hiện tại, nhưng điều đó không đúng, đó là sai.” Tuy nhiên qua quyển sách này, hồng y Müller đã bắn những viên đạn nặng nề vào Đức Phanxicô. Và ngài báo động về sự nhầm lẫn học thuyết ngày càng tăng làm suy yếu Giáo hội công giáo.

Được học giả Vatican nổi tiếng người Ý Franca Giansoldati của báo la-mã Il Messaggero phỏng vấn, hồng y Müller, tổng giám mục giáo phận Regensburg, người đã được Đức Bênêđictô XVI đưa về Rôma năm 2012 để làm bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, ngài đã rất tổn thương khi Đức Phanxicô không gia hạn tiếp theo cho ngài năm 2017, sau 5 năm hoàn thành nhiệm vụ người “canh giữ” học thuyết.

Hồng y bảo thủ Gerhard Müller / Franco Origlia – Getty Images Europe

Trong quyển sách mà báo La Nación được đọc, hồng y kể: “Không thông báo hay giải thích trước, giáo hoàng nói với tôi: Anh đã hoàn thành nhiệm vụ của anh, tôi cám ơn anh về công việc của anh.” Trong thượng hội đồng về các thách thức gia đình, hồng y đã công khai lên tiếng phản đối với bất kỳ mục vụ nào mở ra liên quan đến các cặp vợ chồng ly dị và tái hôn hoặc đồng tính, hồng y hy vọng giáo hoàng sẽ hỗ trợ, nhưng thay vào đó, ngài bổ nhiệm ngay tu sĩ Dòng Tên người Tây Ban Nha Luis Ladaria thay thế hồng y.

Đức Phanxicô ngồi xe lăn đến cạnh quan tài của hồng y của hồng y George Pell, trong thánh lễ an táng tại Đền thờ Thánh Phêrô, ở Vatican ngày 14 tháng 1-2023 / VINCENZO PINTO – AFP

Hồng y Müller được Đức Phanxicô phong hồng y năm 2014, ngài rời chức vụ bộ trưởng bộ Giáo lý Đức tin và ở lại Rôma mà không có một chức vụ nào khác, ngài sống trong cùng căn hộ nơi Đức Joseph Ratzinger đã sống trong 20 năm, một căn hộ đầy các sách đủ loại, đủ ngôn ngữ và ngài dành thì giờ đi dự các hội nghị trên khắp thế giới. Cũng trong tòa nhà này, người bạn của ngài là hồng y người Úc Pell vừa qua đời, người đã được xem như một phát ngôn viên mới của mặt trận bảo thủ đối lập với Jorge Bergoglio.

Trong quyển sách, hồng y Müller cho biết ngài không phải là người duy nhất bị giáo hoàng cách chức ngay mà “không có lý do chính đáng”. Hồng y nói về các trường hợp khác và lấy làm tiếc “cách hoạt động này đã gây ra nhiều lo ngại ở Vatican trong những năm gần đây.” Trong đó có trường hợp của một giám mục người Ý không rõ danh tính, bị sa thải vì không đồng ý với các quy định chống Covid, một điều được cho là “hành động không thể hiểu nổi”.

Việc chấm dứt nhiệm vụ của hồng y ở bộ Giáo lý Đức tin – điều làm cho hồng y rất giận – vì có thể thần học gia Víctor Manuel Fernández, tổng giám mục La Plata, bạn thân của Đức Phanxicô đã có ảnh hưởng trên ngài, “đã nói chuyện cởi mở với ngài, yêu cầu ngài đuổi tôi vì tôi đã chỉnh sửa ngài, rõ ràng tôi tự cho là bề trên của ngài.”

Dù hồng y là bạn của nhà thần học Peru, Gustavo Gutiérrez cha đẻ của thần học giải phóng, nhưng hồng y cũng phê bình: “Có lẽ một số thần học gia mỹ-latinh không bao giờ hết mặc cảm tự ti, một mặc cảm khó che giấu, họ xem các nhà thần học châu Âu như những cái vỏ cũ, hơi trung cổ, đã nhuốm bụi thời gian và thậm chí là lỗi thời.”

Hồng y Bảo thủ Gerhard Müller / Franco Origlia – Getty Images Europe

Khi bình luận về các quyết định và bổ nhiệm khác, hồng Müller còn đi xa hơn, ngài tố cáo sự tồn tại của một vòng ma thuật thu hút xung quanh Nhà Thánh Marta tạo thành từ những người không được chuẩn bị từ quan điểm thần học. Dù ngài thừa nhận không thể nói đây là “chế độ độc tài” nhưng ngài tố cáo bầu khí nặng nề ở Vatican, trong đó các hồng y không thể phát biểu trong các công nghị, “bất kỳ ai nêu lên hoặc chỉ trích mang tính xây dựng thì bị buộc tội là chống đối và là kẻ thù của Đức Phanxicô.”

Hồng y nói về tông huấn Anh em hãy rao giảng Tin Mừng, Praedicate evangelium, tông huấn đã cải cách mạnh mẽ giáo triều Rôma, có hiệu lực từ năm ngoái. Theo hồng y, ngay cả tựa đề tông huấn cũng sai, “có ít sự hiện diện của các nhà thần học” và thuật ngữ dùng không nhất quán. Hồng y chỉ trích thượng hội đồng về tính đồng nghị hiện đang được tiến hành, mà hồng y Pell, bạn của ngài trong một ghi nhớ được tiết lộ sau khi ngài qua đời, cho rằng đây là một “cơn ác mộng thảm hại”.

Hồng y Müller nói: “Theo tôi, những gì diễn ra là phi-dân chủ hóa, thực tế là một tin lành hóa.”

Liên quan đến việc xử lý các vụ tai tiếng lạm dụng trong hàng giáo sĩ, hồng y cáo buộc Đức Phanxicô đã đối xử đặc biệt với giám mục người Argentina, Gustavo Zanchetta, ông đã bị kết án ở Argentina vì tội lạm dụng tình dục: “Giám mục Zanchetta đã hưởng đặc quyền là bạn của giáo hoàng.”

Cũng như tổng giám mục Georg Ganswein đã tiết lộ cách đây vài tuần, việc giới hạn thánh lễ theo nghi thức la-tinh cổ đã “làm tan nát” trái tim Đức Bênêđictô, hồng y Müller chỉ trích quyết định được đưa ra bằng một sắc lệnh vào tháng 7 năm 2021: “Quyết định này đã có tác động tiêu cực, điều đó thật bất ngờ và đối với những người theo chủ nghĩa truyền thống, họ như bị tát vào mặt. Việc cấm sử dụng hình thức phụng vụ này đã đào mồ, đã tạo đau đớn.”

Và như cố hồng y Pell trong “bản ghi nhớ”, hồng y Müller bênh vực hồng y Angelo Becciu, người đang bị tòa án Vatican truy tố về tội biển thủ: “Hồng y Becciu bị sỉ nhục và trừng phạt trước thế giới mà không có cơ hội để tự bảo vệ mình.”

Và như phe đối lập thường làm, họ chỉ trích việc nối lại quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, thỏa thuận tạm thời được ký kết về việc bổ nhiệm các giám mục và trên hết là sự “thiếu minh bạch” về các vấn đề khác nhau.

Hồng y lấy làm tiếc: “Thật không may, một số quan điểm của Đức Phanxicô không phải lúc nào cũng rõ ràng và đã góp phần làm rối mù vấn đề. Chẳng hạn trước tổng thống Trump, ngài khẳng định việc xây bức tường ngăn cách giữa Mexico và Hoa Kỳ là không đúng với tinh thần kitô giáo. Rõ ràng là tất cả chúng ta đều đồng ý. Nhưng sau đó, Tổng thống Joe Biden, người ủng hộ mạnh mẽ việc phá thai, để tránh đụng độ trực tiếp với Nhà Trắng, ông đã được rước lễ. Đó là một mâu thuẫn.”

Dĩ nhiên quyển sách được viết trước khi Đức Bênêđictô XVI qua đời (31 tháng 12-2022), quyển sách cũng dành một chương để nói về sự chung sống chưa từng có giữa giáo hoàng đương nhiên và giáo hoàng nghỉ hưu. Hồng y Müller nói rõ ngài hoàn toàn không đồng ý với suy nghĩ một giáo hoàng từ nhiệm thành một giáo hoàng danh dự: “Tôi hy vọng trường hợp Đức Bênêđictô XVI là trường hợp cá nhân và ngoại lệ. Và vào thời điểm đó, tôi đã khuyên Đức Phanxicô không nên đi theo cùng con đường này, nhưng vì tính cách của ngài, rồi ngài sẽ luôn làm ngược lại những gì người khác khuyên.”

Phản ánh trung thực môi trường ở Rôma, nơi mọi người cố gắng định vị bản thân cho những gì sẽ đến, sớm hay muộn, trong lời nói đầu, học giả chuyên gia người Ý Franca Giansoldati nhấn mạnh tầm nhìn của hồng y Müller, người bảo vệ học thuyết, “dường như là chiếc la bàn để hiểu trên cơ sở nào mật nghị tiếp theo sẽ đi trong tương lai”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Hồng y Müller và “trật tự thế giới mới”: một cuộc phỏng vấn bùng nổ

 

Ông Raymond, 89 tuổi để lại toàn bộ tài sản của ông để cứu nhà thờ thời thơ ấu của mình  

Ông Raymond, 89 tuổi để lại toàn bộ tài sản của ông để cứu nhà thờ thời thơ ấu của mình

 

Ông Raymond Landy © Christian Chevallier

fr.aleteia.org, Anna Ashkova, 2022-12-15

Đó là món quà Giáng sinh tuyệt đẹp ông Raymond Landy tặng cho La Chapelle-sur-Aveyron, một thị trấn nhỏ ở Loiret, nước Pháp. Năm nay 89 tuổi, ông là cựu nông dân, ông quyết định hiến một triệu âu kim cho thị trấn để làm cho nhà thờ giáo xứ Saint-Loup và Saint-Roch được sống lại, đó là nhà thờ tuổi thơ ấu của ông.

Ông là người khiêm tốn và kín đáo, ông muốn giữ bí mật và nhất là không quảng cáo tên tuổi của mình. Nhưng tin tức đã lan truyền nhanh chóng, người cựu nông dân 89 tuổi này nhanh chóng thành tâm điểm chú ý của giới truyền thông. Rất khiêm tốn, ông để người khác kể câu chuyện của mình. Nhưng với trang Aleteia, ông mở cửa căn phòng nghỉ hưu, nơi ông sống được một năm nay để tâm sự mối dây ràng buộc ông với ngôi nhà thờ, nơi ông muốn hết lòng sửa chữa hơn bất cứ chuyện gì khác.

Mười năm gây quỹ

Bên cạnh ông là ông Christian Chevallier, thị trưởng của thị trấn, người không có đủ lời để cám ơn nhà tài trợ quãng đại của mình. Ông nói: “Từ nhiều năm nay, sườn gỗ ở gian giữa bắt đầu có vấn đề. Vòm trên cao cũng muốn sập. Để ngăn các mảnh thạch cao rơi xuống, chúng tôi làm tấm lưới bảo vệ. Nhà thờ Saint-Loup và Saint-Roch là tài sản duy nhất của xã chúng tôi. Không có chuyện đóng cửa nhà thờ. Nhưng dỡ bỏ toàn bộ mái nhà, làm lại khung, làm lại vòm… là cả một khối tiền! Một kiến trúc sư định giá khoảng 1,2 triệu âu kim. Một con số khổng lồ cho thị trấn nhỏ với 642 giáo dân.

“Chúng tôi cố gắng kiếm tiền trong gần mười năm. Nhà thờ không ở trong danh sách di sản, vì thế chúng tôi sẽ không nhận quá hơn 20% tiền trợ cấp của vùng và sở. Ngân sách 140.000 âu kim của chúng tôi không cho phép chúng tôi dự tính công việc sửa chữa như vậy. Tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ làm xong công việc”. Vì vậy, ông rất ngạc nhiên khi thấy ông Raymond Landy nói ông sẽ cho số tiền cần thiết để sửa chữa.

Nhà thờ Saint-Loup và Saint-Roch ở La Chapelle-sur-Aveyron, ở Loiret. © Chapelle-sur-Aveyron

Cha Jean Sigot, chánh xứ của mười một nóc  chuông của khu liên hợp giáo xứ Chatillon-Coligny – Nogent sur Vernisson cho biết ngài rất xúc động trước “cử chỉ khiêm tốn” của ông Raymond Landy. Giống như ông thị trưởng Christian Chevalier, ông thường đến thăm cựu nông dân này tại nhà hưu trí. Ông nói với trang Aleteia: “Đó là món quà bất ngờ cho thị trấn, chúng tôi đã lo lắng trong nhiều năm về tình trạng nhà thờ, nhờ ông Raymond Landy, nhà thờ sẽ mở cửa cho các đám tang, đám cưới, lễ rửa tội, các ngày lễ Giáng sinh và Ngày Di sản giáo dân.”

Tôi đã được rửa tội, rước lễ lần đầu, thêm sức ở đây

Cách đây hai năm, n gười nông dân vui tính này mất người anh trai Roger của ông. Cả hai đều độc thân, họ luôn sống cùng nhau nơi họ sinh ra. Ông tâm sự: “Tôi được thừa kế từ anh trai. Tôi không có người thừa kế, tôi không muốn sau khi tôi chết, tất cả số tiền phải giao cho nhà nước.” Vì thế ông quyết định giao cho thị xã… để sửa chữa nhà thờ: “Tôi đã được rửa tội ở đó, tôi đã rước lễ lần đầu, tôi thêm sức ở đó. Trước đây lúc nào cũng có thánh lễ…” Giọng run run, ông tiếp tục: “Ngày nay, nhà thờ ở trong tình trạng rất tệ, không có việc làm, nhà thờ phải đóng cửa. Vì vậy, tôi quyết định đưa tiền cho tòa thị chính để sửa chữa. Số tiền đáng kể này sẽ chỉ dành riêng cho việc này”. Ông Landy sẽ theo dõi tiến trình sửa chữa.

Nhà thờ Saint-Loup và Saint-Roch ở La Chapelle-sur-Aveyron, ở Loiret. © Chapelle-sur-Aveyron

“Mong mau thấy nhà thờ được sửa xong”

Để cám ơn lòng quãng đại, thị trấn muốn đổi tên Place de l’Eglise (Quảng trường nhà thờ) thành tên của hai anh em ông, một ý tưởng ông Raymond Landy thẳng thừng bác bỏ. Nơi của Giáo hội sẽ vẫn là nơi của Giáo hội. Ông thị trưởng đang xem xét việc lắp đặt một tấm bảng bên ngoài hoặc bên trong nhà thờ để nhớ lại lịch sử của nhà hảo tâm. Ông Raymond Landy chuẩn bị mừng Chúa Giáng sinh, ông mong được dự thánh lễ Giáng Sinh tại giáo xứ thân yêu nhưng không được: “Tôi không đi lại nhiều nữa vì tôi bị bệnh Parkinson. Tôi sẽ dự thánh lễ ở tại nhà hưu trí,” ông không bỏ một thánh lễ chúa nhật nào, ông mong nhà thờ của ông chóng được sửa chữa. Công việc này sẽ bắt đầu vào mùa xuân năm 2024. Năm 2023, chúng tôi sẽ lập hồ sơ để xin trợ cấp. Họ sẽ tài trợ cho việc trùng tu một phần dàn đồng ca và tháp nhà thờ. Như vậy, chúng ta sẽ có lại nhà thờ và nó sẽ trường tồn một thế kỷ!

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Ông Gian Piero không phát điên nhờ lòng nhân hậu

Hành tinh quá tải của chúng ta  

Hành tinh quá tải của chúng ta


Rác thải ở các bãi biểnRonald Rolheiser, 2023-02-06

Tạo ra nhân loại có lẽ là sai lầm lớn nhất của tiến hóa. Douglas Abrams đã viết như vậy trong Quyển sách Hy vọng (The Book of Hope), đồng tác giả với Jane Goodall. Dù đây là một quan điểm khá tuyệt vọng, nhưng đến tận cùng, đó là quyển sách của hy vọng, dù không phải là không có lời cảnh tỉnh thảm khốc. Hiện nay trên hành tinh có hơn tám tỷ người, và chúng ta đang dùng nguồn tài nguyên có hạn nhanh hơn mức mà thiên nhiên có thể bù đắp vào. Trong chưa đầy 30 năm nữa, nhân loại sẽ có khoảng 10 tỷ người và nếu chúng ta cứ hành động như lâu nay, thì lúc đó có thể sẽ là hồi kết của trái đất mà chúng ta biết.

Chúng ta cần làm gì để đảo ngược tình thế này? Hai tác giả Goodall và Abrams gợi ý bốn điều:

Trước hết, phải giảm nghèo đói. Khi người ta đói và tuyệt vọng, suy nghĩ của họ không còn hướng đến toàn cục, cụ thể là tương lai lâu dài và lợi ích chung của toàn thể nhân loại và địa cầu. Một chuyện dễ hiểu là suy nghĩ của họ sẽ hướng đến chuyện sinh tồn và họ sẽ không ngần ngại đốn hạ cái cây cuối cùng để kiếm thức ăn hoặc bắt luôn con cá cuối cùng còn sống. Sự tuyệt vọng và bận tâm cho toàn cục thường không đi đôi với nhau.

Thứ hai, chúng ta phải giảm những lối sống dư dật không bền vững. Mẹ Trái đất không phải là nguồn tài nguyên vô hạn và không thể duy trì mãi những lối sống hiện thời của chúng ta. Hơn nữa, đây không chỉ nói đến lối sống xa hoa của người giàu, mà là lối sống của tất cả chúng ta ở hầu hết các quốc gia. Chúng ta chưa đối diện với sự thật, mọi thứ đều có hạn, do đó chúng ta cứ mua sắm quá độ, tiêu dùng quá độ, sử dụng điện năng quá độ, lãng phí thực phẩm quá độ, dùng khí đốt quá độ và sản sinh rác thải quá độ. Không thể tiếp tục như thế nữa. Đã có hàng triệu người tị nạn tuyệt vọng ở các đường biên giới, đã có những biến đổi khí hậu nghiêm trọng ở gần như mọi nơi, và những điều đó cảnh tỉnh chúng ta phải thay đổi, và thay đổi sớm. Hành tinh của chúng ta lớn đấy, nhưng nó có hạn, và nó không thể đáp ứng mãi được cho những nhu cầu tiêu dùng bừa bãi vô giới hạn của chúng ta.

Thứ ba, chúng ta phải diệt trừ sự hủ bại và tư lợi kinh tế. Nếu không có chính phủ tốt và lãnh đạo liêm chính biết tập trung vào toàn cục thay vì vào tư lợi, thì không thể giải quyết được những vấn đề môi trường, kinh tế, xã hội khổng lồ của chúng ta. Như lời châm biếm của một nhân vật trong tiểu thuyết Không chốn nương thân (Unsheltered) của Barbara Kingsolver, đạo đức của thị trường tự do cũng chỉ bằng đạo đức của tế bào ung thư. Tinh thần doanh nhân chủ đạo của nền kinh tế này đã đem lại nhiều lợi ích cho chúng ta và cho chúng ta nhiều tiện nghi, tự do và cơ hội mà ít người trong lịch sử từng có. Tuy nhiên, nhìn chung, tác hại của nó với toàn cục thì cũng như tác hại của tế bào ung thư đối với cơ thể, một tế bào duy nhất cứ phát triển mà chẳng hề có liên kết với sức khỏe của tổng thể cơ thể. Như một tế bào ung thư, thị trường tự do (ngoài một số ngoại lệ) không đặt nặng về toàn cục và sức khỏe lâu dài của cả cơ thể địa cầu này.

Thứ tư, chúng ta phải đối diện với những vấn đề gây ra do dân số tăng không ngừng. Trong hầu hết lịch sử, tôn giáo và luân lý đã huấn lệnh con người phải có con cái. Phải nhân lên và phát triển. Đây là nghĩa vụ thiêng liêng của chúng ta đối với Thiên Chúa và nhân loại. Tuy nhiên, phần lớn điều này là do nỗi sợ rằng nhân loại, giống như bất kỳ giống loài này khác, liên tục đối diện với nguy cơ tuyệt chủng. Thật sự mối nguy này luôn thường trực. Bệnh tật, nạn đói, chiến tranh, tỷ lệ tử vong sơ sinh cao, tuổi thọ giảm, và các tai ương đủ loại liên tục đe dọa nhân loại. Cũng như mọi giống loài khác, con người cần phải bảo đảm giống loài của mình tiếp tục tồn tại. Và suy nghĩ này hợp lý, cho đến thế kỷ này. Hiện giờ, với dự kiến dân số 10 tỷ người trên hành tinh này, nguy cơ tuyệt chủng phát xuất từ con số khổng lồ của chúng ta hơn là từ bất kỳ mối đe dọa nào bên ngoài. Hành tinh này chỉ có thể chứa được một số người nhất định. Nhưng khi bàn đến chuyện kìm hãm tăng trưởng dân số là có các vấn đề về tôn giáo, luân lý và tâm hồn. Dù vậy, bất kể các vấn đề này phức tạp đến đâu, chúng ta đều phải xem xét cẩn thận sự tăng trưởng này.

Abrams sai rồi. Tạo ra nhân loại không phải là sai lầm lớn nhất của tiến hóa! Tạo ra nhân loại không phải là một sản phẩm phát sinh ngẫu nhiên của một tiến hóa mù quáng. Thiên Chúa là đấng tạo ra tiến trình tiến hóa và Thiên Chúa không phạm sai lầm. Ngay từ đầu, Thiên Chúa dự định cho chúng ta xuất hiện. Hơn thế nữa, Thiên Chúa dự định cho chúng ta đóng một vai trò rất đặc biệt trong tiến trình này, cụ thể là ở một vị trí trong tiến trình mà tự nhiên sẽ dần tự ý thức và chủ động giúp Thiên Chúa định hình tiến trình này hướng đến sự yên bình và hợp nhất tối hậu (là vương quốc Thiên Chúa) bao gồm tất cả chúng ta và cả hành tinh này.

Nhân loại không phải là một sai lầm, dù phải thừa nhận rằng chúng ta cai quản địa cầu chủ yếu theo kiểu nghĩ rằng thế giới là thứ mà chúng ta có thể làm bất kỳ việc gì sinh lợi cho mình thay vì nghĩ nó là một khu vườn với tài nguyên có hạn mà chúng ta được yêu cầu phải chăm sóc bằng tình yêu.

J.B. Thái Hòa dịch

Bài đọc thêm: Ngày mai và ngày mai

Tự do của con cái Chúa

Tự do của con cái Chúa

Kết luận: sách Công giáo trong tự do

Trích sách Công giáo trong tự do (Catholique en liberté, nxb. Salvator, 2019)

renepoujol.fr, René Poujol, 2022-01-30

Nếu tương lai của Giáo hội có một vai trò, đó là điều tôi tin, trong một thế giới phong phú đa dạng của nó, thì bản thân Giáo hội không thể thoát khỏi một số đa dạng nào đó, cũng như các tín hữu không tránh một hình thức trung thành nào đó trong tự do. Tự do của con cái Chúa. Tôi vẫn nghĩ, đó là trực giác sâu đậm của Đức Phanxicô. Nhưng chín năm sau ngài được chọn kế vị Thánh Phêrô, tôi tự hỏi: làm thế nào để thành công trong một cá cược như thế, khi một số người đáng lý nên là nghệ nhân cho sự đổi mới này: các hồng y, giám mục, linh mục… lại nuôi dưỡng sự ngờ vực hay thái độ chờ đợi với sự quan tâm của ngài?

Kết luận

Hôm đó, trong phòng khách căn nhà gia đình chúng tôi, cũng dùng làm phòng ăn trong những ngày lễ, cha tôi tiếp mẹ bề trên của cộng đoàn các nữ tu Saint-Joseph-de-Cluny. Ở Saint-Affrique, nơi chúng tôi sống, dòng điều hành trường trung học tư thục Jeanne d’Arc dành cho các cô gái trẻ, cha tôi làm chủ tịch hội phụ huynh. Đó là chuyến thăm xã giao, trước khi sơ đi nhận nhiệm sở mới. Tôi nghĩ, tôi đã hiểu giữa cha mẹ tôi, rằng có một quyết định hoàn toàn độc đoán chống lại sơ. Tôi không dự buổi nói chuyện. Nhưng tôi hiểu qua bữa ăn chiều, khi mẹ tôi nhắc lại mẫu đối thoại ngắn hài hước:

– Thưa ngài, ngài Poujol, ngài muốn gì thưa ngài, tôi phải vâng theo thánh ý Chúa!

– Theo thánh ý Chúa hay theo mẹ bề trên của sơ?

Năm đó tôi khoảng 14 hoặc 15 tuổi. Ngày đó tôi hiểu, trong Giáo hội, hai điều đó có thể không nhất thiết phải trùng hợp.

Đây là giai thoại đến trong đầu tôi một cách tự nhiên nhất, khi tôi nghe một linh mục trẻ khoảng bốn mươi, thường mặc áo chùng vui mừng cởi mở cho biết mình “dễ bảo với Chúa Thánh Thần” của các thế hệ thanh niên công giáo ngày nay, “họ không có chuyện gì phải giải quyết với Giáo hội”. Quý vị nhìn ánh mắt của tôi…

Bạn có nói “bạn dễ bảo với Chúa Thánh Thần” không?

Dễ bảo với Chúa Thánh Thần hay vâng lời với một quyền lực mới của hàng giáo sĩ? Và nếu đó là một “dễ bảo với Chúa Thánh Thần” mà cách đây nửa thế kỷ đã cảm hứng cho nhà văn trong quyển tiểu thuyết của tôi, chỉ chấp nhận nhận phần gia sản “sau khi kiểm kê tài sản” không? Vì có quá nhiều nguyên tắc kế thừa từ quá khứ, rút ra từ sách giáo lý, nên với nhân vật này, dường như trái ngược với lý lẽ đơn giản cũng như những gì nhân vật này hiểu và yêu thích từ các sách Phúc âm! Và nếu vẫn còn cùng “sự dễ bảo với Chúa Thánh Thần” mà tôi thấy mình nơi nhân vật của tôi, thì tôi đã cảm thấy được mời gọi, trong suốt cuộc đời, ít tái tạo điều tương tự hơn là đào sâu vào truyền thống tôn giáo của riêng tôi, để khám phá những phong phú đằng sau bẩn quặng những bổ sung liên tiếp, những táo bạo vượt ra ngoài những hãi sợ được dựng lên, những lời mời đối thoại chống lại sự cám dỗ của sự rút lui và tự tách biệt?

Trong một vài thập kỷ, nếu cuộc ly giáo âm thầm này đã làm cho hàng triệu người được nuôi dạy trong đạo công giáo xa rời Giáo hội, cũng là một hình thức còn tận căn hơn sự “dễ bảo với Chúa Thánh Thần” không? Tai tiếng ư, một số người sẽ nghĩ! Làm sao hình dung một sự bội giáo như vậy lại do Thần Khí soi dẫn? Nhưng ai đã nói về bội giáo nếu không phải là Vatican, như thể để biện minh tốt hơn cho sự bất động của họ, sự bất lực của họ để cân nhắc các câu hỏi của một số tín hữu? Bằng cách từ chối bất kỳ việc đặt vấn đề nào!

Tương lai của phúc âm cũng bị đe dọa trong các xã hội kỹ thuật và đô thị hóa của chúng ta

Đức Phanxicô có nói điều gì khác khi ngài phát biểu trước các giám mục Brazil ngày 27 tháng 7 năm 2013: “Có lẽ Giáo hội đã có câu trả lời cho thời thơ ấu của con người, nhưng không có cho tuổi trưởng thành của họ”. Khi nghe câu này, cả một gánh nặng mặc cảm tội lỗi được trút bỏ khỏi trái tim tôi. Người này hiểu chúng ta, đồng ý với ý tưởng rằng tương lai của phúc âm hóa cũng đang bị đe dọa ở đất nước chúng ta, không qua một lệ thuộc mới nào của kiến thức- quyền lực giáo sĩ mà qua “sự hòa nhập văn hóa của đức tin trong một xã hội dư thừa, kỹ thuật cao, khoa học, đô thị hóa, phức tạp” (Hervé Legrand) nơi mà lời nói của mỗi người đã rửa tội phải được nghe và chính trong sự phủ nhận của mình, một phần, đã làm cho nhiều con cái của Giáo hội xa Giáo hội.

Nhiều người trong số những người bị cho là “bội giáo” này sẽ đơn giản nhận ra chính mình trong hành trình thiêng liêng của tác giả Gustave Thibon: “Với tôi, Chúa trước hết là toàn năng là luật pháp cho tôi; rồi mới đến ánh sáng và tình yêu; cuối cùng là sự vắng mặt và màn đêm: và có lẽ trong chính điều này mà Ngài giống với chính Ngài nhất. Tôi sẽ chết như một đứa con hoang đàng của Giáo hội. Nhưng tôi hầu như không có hương vị của bầy đàn. Tôi như con chiên lạc trốn bầy vì tình yêu thầm kín với Mục tử. Chúa dường như thích người trở lại với Ngài hơn là người chưa bao giờ rời bỏ Ngài. Có lẽ vì họ đã đi tìm Ngài thay vì đi theo Ngài.”

Vượt lên những cãi vã xưa cũ

Trong kịch bản quyển tiểu thuyết của tôi, tôi đã hình dung sự cố tình cắt đứt giữa nhân vật của tôi và người bạn thơ ấu của anh, người ủng hộ một “Giáo hội muôn thuở”phải được bảo vệ bất chấp mọi trở ngại và nhất là cơn gió công đồng “đầu hàng” trước thế giới, sẽ chỉ kết thúc hai hoặc ba thế hệ sau đó. Và bây giờ, kinh nghiệm cụ thể của cuộc đời tôi kể từ những năm 1970, là nhà báo rồi sau đó là giám đốc biên tập, một giáo dân dấn thân trong đời sống Giáo hội của tôi, người hoạt động liên kết… đã xác nhận trực giác lãng mạn này. theo tôi và những người cùng lứa tuổi của tôi, những người ngày nay tiếp tục dạy  một vụ kiện không-chuyển tiếp, thuộc thế hệ ngay sau thế hệ chúng tôi. Và không nghi ngờ gì, một thế hệ có thể đã cảm thấy mồ côi và bị bỏ rơi. Và đảm nhận sứ mệnh cuối cùng làm điều mà chúng tôi đã từ chối làm: truyền tải. Trong khi dòng đời trôi qua không chút khó khăn với những người trẻ ba mươi: Samuel, Paul, Grégory, Pierre, Domitien… những người không quan tâm đến những cuộc cãi vã này, những người hiếu kỳ, nhân từ nhận “câu chuyện cuộc đời” của tôi, nếu tôi biết chân thành và tôn trọng hành trình và cam kết của riêng họ! Sai lầm là luôn muốn nhắm việc trao truyền của người lớn tuổi nhất qua người trẻ tuổi nhất. Đã có lần khi tiếp xúc với họ, tôi cảm thấy tôi là người thừa kế đàn em của tôi. Và tôi tự hào được như vậy.

Và nếu chính những trang của quyển sách tôi sắp viết xong này là một dạng “dễ bảo với Chúa Thánh Thần” thì sao? Bởi vì những trang này muốn làm chứng, cùng với nhân vật trong quyển tiểu thuyết thời non trẻ của tôi, rằng trọng tâm đức tin không bị phá hủy mà được hồi sinh bằng cách tìm kiếm, không mệt mỏi, điều cốt yếu dưới phụ kiện, để “thở ở độ cao”, để chấp nhận rủi ro của cuộc gặp gỡ và đối thoại trong sự thật xô đẩy các xác tín của chúng ta.

Cái bóng luôn luôn hiện hữu của Quan tòa Dị giáo

Điều gì sẽ xảy ra nếu “sự dễ bảo với Chúa Thánh Thần”, ngày hôm nay cũng như hôm qua đơn giản chỉ là lời mời gọi con cái Chúa tự do chống lại mọi chủ nghĩa giáo quyền, cổ xưa hay hiện đại, thế tục hay trong hàng giáo sĩ, bảo thủ hay tiến bộ? Có một góc kín đáo trong thư viện của tôi, nơi lưu giữ khoảng mười lăm quyển sách tôi thường thích đọc lại. Có Nhật ký của Jean-René Huguenin, Có Các ghi chép thân mật của Marie Noël, có Sổ tay của Etty Hillesum, nhưng cũng có sách của Serge de Beaurecueil, Denis Vasse, Jean Delumeau, Marie-Alain Couturier, Albert Camus, Simone Weil… Trong “thánh của các thánh” này ẩn chứa một quyển sách rất nhỏ bề ngoài khắc khổ, vỏn vẹn vài chục trang: “Huyền thoại của Quan tòa Dị giáo“ của Dostoïevski. “Câu chuyện trong một câu chuyện” này trích từ sách Anh em nhà Karamazov, kể về sự trở lại của Chúa Giêsu Kitô ở Seville vào thời điểm khủng khiếp nhất của Tòa án Dị giáo. Ở đó Chúa Giêsu gặp những người như ngày xưa ngài đã gặp ở Ga-li-lê và làm rất nhiều vụ chữa lành, một lần nữa Ngài lại tạo sự hỗn loạn trong mắt những kẻ có quyền. Ngài bị bắt và bị tống vào tù theo lệnh của Quan tòa Dị giáo. Và chính ở đó, trong nhà tù, diễn ra cuộc đối thoại này, hay chính xác hơn là cuộc độc thoại không có một loại nào tương đương như thế trong văn học của chúng ta:

“Tại sao anh lại đến làm phiền chúng tôi? Tất cả đã được anh truyền cho giáo hoàng, nên mọi thứ bây giờ phụ thuộc vào giáo hoàng. Anh đừng đến đây làm phiền chúng tôi, ít nhất là trước (cuối) thời gian. Anh không muốn tước đoạt tự do của con người. Nhưng để tước đoạt tự do của con người thì phải cho nó bình an lương tâm. Vậy anh quên con người thích bình an và thậm chí thích cả cái chết, hơn là tự do phân định cái tốt cái xấu sao? Ồ! chúng ta sẽ biết cách thuyết phục để họ chỉ thực sự tự do bằng cách từ bỏ tự do của họ để có lợi cho chúng ta!”

Người chính thống giáo là Dostoïevski chắc hẳn đã rất vui khi viết quyển sách nhỏ này chống lại những người thần phục giáo hoàng ly giáo. Nhưng cả là một gánh nặng! Một sức mạnh!

Không có sự trung tín thật sự mà không có tự do

Đúng, tự do! Có thể có một quy tắc nào khác để hướng dẫn trong những thời điểm bất ổn và sụp đổ này không? Tự do đích thực giả định trước sự trung tín, cũng như lòng trung thành không thể được hình thành nếu không có tự do! Tự do “cho” nhiều hơn tự do “của”, để sử dụng một sự khác biệt thân thiết của Cha xứ Pierre. Bởi vì tự do không thể tự nó là cùng đích. Giáo hội dạy chúng ta, người phán xét cuối cùng cho hành động chúng ta là chính lương tâm chúng ta. Nhưng một “lương tâm sáng suốt” có vội vàng thanh minh không. Chúng ta không làm lại! Và chúng ta đoán được ở đây lời mời gọi khẩn thiết xem lại Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo. Tuy nhiên, tôi học được từ việc đọc sách của linh mục Timothy Radcliffe, cựu Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh, rằng hồng y Newman vừa được phong thánh, “phân định ba thẩm quyền phân biệt rõ ràng trong Giáo hội: thẩm quyền của truyền thống, thẩm quyền của lý trí và thẩm quyền của kinh nghiệm, mà ngài đặt lần lượt trong hệ thống phẩm trật, trong trường đại học và trong cộng đồng tín hữu.”

Tự do cần ba hiểu biết này vượt ra ngoài giới hạn của huấn quyền. Và khi Đức Phanxicô, trong Tông huấn Niềm vui của Tình yêu, Amoris Laetitia, mở quyền tiếp cận các bí tích – trong một số điều kiện nào đó – cho cả những người ly dị và tái hôn và những người đồng tính, chúng ta có thể thấy rõ, ngài tôn trọng cách đọc này của thẩm quyền nơi huấn quyền, cân nhắc đến việc nghiên cứu thần học cũng như yêu cầu của các tín hữu, tóm tắt đó là cảm thức đức tin của người tín hữu, sensus fidei fidelium. Vì vậy, chỉ là rất cổ điển, dù cho một số người có thể lên án ngài!

Từ thực hành nghĩa vụ đến thực hành xác tín

Cuộc khủng hoảng mà Giáo hội đang trải qua không chỉ do tích tụ của các vụ bê bối về giáo quyền hoặc lạm dụng đủ loại, mà chúng ta còn lâu mới biết đến phần kết. Trong cuốn sách Làm thế nào thế giới của chúng ta không còn là kitô giáo (Comment notre monde a cessé d’être chrétien 1) tác giả Guillaume Cuchet đã đặt giả thuyết về sự sụp đổ của việc giữ đạo – của những ơn gọi có từ trước – tại bước ngoặt này vào những năm 1960 khi chúng ta “thoát khỏi văn hóa giữ đạo bắt buộc”. Ngắn gọn, sự xông tới của quyền tự do tin hay không tin, giữ đạo hay không trong một thế giới bị khoa học tràn vào, khám phá ra các tôn giáo khác, thói dửng dưng và chủ nghĩa vô thần gia tăng. Chúng ta có nên tiếc nuối, và nhân danh điều gì để từ giữ đạo bắt buộc qua giữ đạo vì xác tín không? Vào giữa thế kỷ trước, ở thời điểm thể chế giáo xứ còn hưng thịnh, François Mauriac đã nhận định: “Rước lễ lần đầu của đứa trẻ là dấu hiệu chính thức được tất cả mọi người công nhận rằng nó sắp từ bỏ Chúa Kitô và Giáo hội.”

Ngày chúa nhật, ở giáo xứ đầy màu sắc của tôi bên bờ sông Marne, vào lúc rước lễ, các trẻ em khoanh tay trước ngực lên bàn thờ rước lễ từ linh mục hoặc từ giáo dân phát bánh thánh và làm dấu thánh giá trên trán. Khi tôi được mời để cho rước lễ, tôi muốn thêm vài lời sau đây: “Xin Chúa chúc phúc và gìn giữ con.” Tôi rất ngưỡng mộ những người bỏ thì giờ để thức tỉnh niềm tin này. Nhưng tôi tự hỏi, trong mười lăm năm nữa, có bao nhiêu em bé này sẽ hoàn toàn tự do quyết định mình có tiếp tục là tín hữu kitô hay không? Như tôi đã nói, với những người cùng thế hệ tôi, “vết thương” vẫn còn nóng khi nghe mình bị trách móc, hơn cả lý do, vì sao đã không thể trao truyền đức tin. Và thường cũng từ muệng những người này nhắc nhở chúng ta, đó là “ơn Chúa.” Tôi nhớ tôi đã tranh luận chủ đề này trên mạng xã hội với cha Grosjean ở Padreblog. Nhưng chính ngài, ngày 6 tháng 11 năm 2018 trên kênh RCF đã ngạc nhiên khi thấy:

“Có bao nhiêu người trẻ, những người đã nhận được tất cả mọi thứ, đã đi hướng đạo, đã sinh hoạt trong giáo xứ, trong các ban tuyên úy, đôi khi đã buông hết ở tuổi 25. Chuyện gì đã xảy ra? Họ “nhận” vậy mà hôm nay họ không còn đi lễ, không còn giữ đạo, không đi xưng tội nữa.”

Từ bỏ cá nhân hay những biến động của nền văn minh?

Vì thế, sẽ không chỉ có chúng ta “thất bại”… mà thực sự có thất bại không?

Và nếu chính chúng ta, như chúng ta thường bị cáo buộc, là mắt xích yếu đuối trong việc truyền tải, thì trách nhiệm thuộc về phần nào, ở nguồn, ở những người là cha mẹ, là nhà giáo chúng ta không? Vì rốt cuộc, có phải họ cũng đã thất bại trong việc chia sẻ hiểu biết và xác tín với chúng ta, không cho chúng ta biết hương vị hoặc lý do để đến lượt chúng ta, chúng ta truyền tải cho một thế giới bị đảo lộn không? Một phiên tòa vô nghĩa không tính đến những đứt gãy văn hóa đã đánh dấu thời buổi này và áp đặt lên tất cả. Phiên tòa vô nghĩa gấp đôi, để trấn an những người nuôi dưỡng nó, yêu cầu chúng ta vạch ra thủ phạm ở những nơi không có. Thể chế đã dùng ngôn ngữ kép trong vấn đề này. Tôi vẫn còn nghe hồng y Jean-Marie Lustiger phỉ báng trên các phương tiện truyền thông những người công giáo “nguội lạnh” này về tội không trao truyền. Ngài nói, ngài thấy ở đây nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng mà Giáo hội đang phải trải qua. Nhưng đồng thời, ngài là khách mời danh dự trong bữa ăn tối do Tạp chí Hai Thế giới (Revue des Deux Mondes) tổ chức, với sự tham dự của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, đại sứ, trí thức và công chức cao cấp, tôi nghe ngài bình tĩnh giải thích với cử tọa, rằng đã tìm được nguồn gốc của cuộc khủng hoảng này, cũng như nhiều cuộc khủng hoảng khác, trong những biến động văn minh mà chúng ta không có chìa khóa.

Và Phanxicô đã đến!

Trong suốt những năm này, tôi làm việc trong ngành báo công giáo, tôi quan sát thấy sự già đi của những người có đức tin, dù có những làn gió tươi mát của những Ngày Thế Giới Trẻ và ngoại lệ của một số giáo xứ thành thị, nhưng không đủ để lật ngược xu hướng; tôi đã gặp các linh mục, phó tế, tu sĩ, nam nữ giáo dân, các giám mục, say mê và kiệt sức vì sứ vụ; bên cạnh một vài vị thánh; tôi khâm phục trí thông minh bền bỉ và lòng dũng cảm của các thần học gia bạn; xúc động với niềm tự hào và lòng biết ơn với một số sáng kiến của giáo hoàng; bị cản trở với quá nhiều căng thẳng, rụt rè và sự khép kín về mặt giáo lý; chiến đấu cơn buồn bã Savonarola; từ chối dự vào các chiến lược chỉ trích thể chế có hệ thống; đau khổ, cùng với những người khác, chịu đựng những tai tiếng đã làm ô uế Giáo hội và thậm chí còn nhiều hơn nữa do xu hướng bóp nghẹt; nghe thố lộ đau đớn của các ông, và cả các bà, những người cảm thấy bị anh em đức tin loại trừ mình; với quả tim nặng trĩu thấy sự từ bỏ mà không hề hối tiếc rõ ràng nào về việc giữ đạo hoặc thuộc về tôn giáo của những người bạn cũ; ca ngợi nhiệt huyết, trí tưởng tượng và lòng quãng đại của thế hệ trẻ; tố cáo sự trỗi dậy của chủ nghĩa khinh miệt tôn giáo trong xã hội chúng ta, sự tẩy chay và thiếu văn hóa của nhiều phương tiện truyền thông; lấy làm tiếc về việc một số môi trường công giáo từ chối đối thoại với thế giới; đôi khi giả định rằng những lời chỉ trích và những lời chê bai như cái giá của một quyền tự do ngôn luận nào đó; và cũng biết ơn vì những những chứng từ công nhận và sự tin tưởng luôn kín đáo, đến “từ trên cao”; tuyệt vọng, thường xuyên, khi thấy tổ chức bị tê liệt bởi điều mà theo tôi dường như là tầm nhìn sai lầm, thậm chí tồi tệ hoặc tự mãn về sự vâng lời của người kế vị Thánh Phêrô…; và cuối cùng cầu nguyện để Giáo hội của tôi thức tỉnh! Và Phanxicô đã đến!

Ngài đến để khẳng định các định hướng của công đồng, vốn đã nuôi dưỡng hy vọng cho những năm tháng tuổi trẻ của tôi, ngài nói đến chào đón, cởi mở, tha thứ và dịu dàng cho những tổn thương của cuộc sống; mời chúng ta lắng nghe thế giới chúng ta đang sống, đó không chỉ diệt vong; phải nhanh chóng bảo vệ ngôi nhà chung của chúng ta và không đóng cửa với người nước ngoài; ngài thúc đẩy sự đa dạng trong đường lối mục vụ hợp pháp để đáp ứng với các thực tại của chính những đa dạng mà không sợ làm suy yếu sự hiệp nhất của Giáo hội hoặc sự toàn vẹn đức tin; hãy tưởng tượng một chỗ đứng công bằng hơn cho phụ nữ và giáo dân trong Giáo hội, quyền tự quyết cao hơn cho các giám mục quốc gia, tự do hơn cho việc nghiên cứu thần học, không bị ám ảnh về việc biện minh cho các quan điểm của Huấn quyền… Khi làm như vậy, ngài đã không ngăn cuộc khủng hoảng làm nặng thêm hay cũng không ngăn được những người gièm pha tuyên bố ngài sẽ chịu một phần trách nhiệm nặng nề.

Tôi thấy phác thảo của những phản xạ co cụm căn tính

Đứng trước mối đe dọa của những sụp đổ mới, với giáo sĩ khan hiếm, với lượng tín hữu sút giảm, với khó khăn tài chính, những lời chỉ trích phát sinh từ mọi phía… tôi thấy phác thảo của những phản xạ co cụm căn tính, để phòng thủ, để bảo vệ. Tôi quan sát gần đây các nhà sử học nổi tiếng xuất bản các tác phẩm, họ triển khai một loại biện giải cho công giáo mà không có một tự phê bình hay xem xét thực tế nào. Tôi thấy việc triển khai các phương thức tổ chức dường như đã lỗi thời với tôi. Tôi cảm nhận có những pháo đài của các giáo phận mà ngày mai sẽ chỉ còn là những lâu đài cát. Tôi quan sát thấy sự say mê của một thế hệ linh mục mới với một viễn tượng về chức tư tế mà theo tôi dường như không còn phù hợp với sự trưởng thành tín hữu kitô. Tôi bực tức khi nghe từ miệng người này, người kia rằng bậc sống độc thân linh mục là “kho tàng quý giá nhất của Giáo hội” (Cha xứ Amar), trong khi kho tàng này là Chúa Kitô và cùng với Ngài là những người đã được rửa tội. Tôi nhận thấy các chiến lược truyền bá phúc âm lớn không che được các chiến lược quyền lực khác, với rủi ro, phi lý thuyết, khi nhìn các cộng đoàn đã đặc biệt thành khối u nang của những Giáo hội trong Giáo hội.

Khiêm tốn lắng nghe thế giới

Tôi thấy nảy sinh một loại cám dỗ chống lại thế giới, với lý do nó phớt lờ chúng ta, coi thường chúng ta hoặc chống lại chúng ta, những đức tính của một đô thị kitô đầy mộng tưởng, hoàn toàn không có mọi thỏa hiệp. Như thể các Quốc gia Giáo hoàng, cho đến khi nước Ý thống nhất, đã để lại ký ức về sự hóa thân hoàn hảo của Đô thị của Chúa! Như thử khẩn cấp là phải biến mình thành khuôn mẫu hoặc cứu, bằng cách bảo tồn nó, “bầy đàn nhỏ” sắp tuyệt chủng. Dĩ nhiên phải hiểu trong suốt lịch sử, sức mạnh của dân tộc do thái, “những người được chọn” ít có khuynh hướng thuyết phục người tân tòng, là từ khả năng, thường là anh hùng của họ để tồn tại trong lòng trung tín. Nhưng ngược lại, thiên tài của kitô giáo mang tính phổ quát, có thể chết cho chính mình để tái sinh vào các nền văn hóa và nền văn minh mới để được “vỗ béo bằng Phúc âm” như tác giả yêu mến Joseph Delteil đã viết đó sao? Thêm một lần nữa, thách thức bây giờ là thách thức của một hội nhập văn hóa, mà trước hết là giả định, khiêm tốn lắng nghe thế giới như nó vốn là, chứ không như chúng ta mơ ước đó sao? Và liệu chúng ta còn ở đó không nếu chúng ta vẫn thận trọng trong lời “ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian”. Khi đó, chúng ta buộc phải nghi ngờ Charles Péguy: “Bởi vì họ không có đủ can đảm thuộc về thế gian, họ nghĩ rằng họ là của Chúa.”

Điều gì sẽ xảy ra nếu trong những thời khải huyền này, mà người công giáo nên biết đó là những thời ít thảm họa hơn là thời mạc khải, thì “sự dễ bảo với Chúa Thánh Thần ” đã mời gọi họ dám đa dạng hóa trong tự do và trung thành đó không? Ích gì kéo dài quá nhiều cuộc cãi vã, thường đi kèm với việc loại nhau ra khỏi giao tiếp, thực tế là phải biết liệu sự cấp bách sẽ là ánh sáng của thế giới, hơn là muối của đất hoặc men của bột, khi các sách Phúc âm kêu gọi cả ba không? Bởi vì nếu thực tế, đặt một ngọn đèn dưới bình chữa cháy không có ý nghĩa gì, thì việc từ chối chôn muối hoặc men trong bột cũng không có ý nghĩa gì hơn! Và những lời ca ngợi đạo công giáo “rõ ràng” và “mạnh mẽ” thì cũng đừng quên câu chuyện trên đường Ê-mau, các môn đệ hầu như không hé một lời khi Chúa Giêsu “giải thích cho họ bằng tất cả Kinh thánh những gì liên quan đến Ngài” nhưng chính ở bàn quán trọ, họ mới nhận ra Ngài khi Ngài “bẻ bánh”.

Sợ rằng sự đa dạng đến đe dọa sự thống nhất…

Nhưng sự đa dạng là đáng sợ hay ít nhất là nó chất vấn. Tháng 10 năm 1981, cùng với người bạn Jean-Claude Escaffit, ký giả của báo La Vie, chúng tôi tổ chức một hội thảo báo chí ở Lộ Đức, trong khuôn khổ cuộc hành hương Mân Côi do các cha dòng Đa Minh tổ chức. Mỗi ngày, chúng tôi bình luận thời sự “trong ngày” cho khoảng hàng ngàn khách hành hương tụ tập tại một trong các sảnh của thánh địa. Hôm đó, chúng tôi phải vội vàng làm sáng tỏ vụ ám sát Tổng thống Anouar el-Sadat ở Cairo, người vừa phải trả giá bằng mạng sống của mình cho các cuộc đàm phán hòa bình với Israel. Vì đã có sự đồng ý ít nhiều giữa chúng tôi về việc phân tích sự kiện và như chúng tôi đã đề cập, một ngày trước đó, trước những khó khăn của báo chí công giáo, một người tham gia đã đặt câu hỏi với chúng tôi: “Tại sao báo chí công giáo lại đa dạng như vậy, có nguy cơ làm suy yếu nó, trong khi các bạn tất cả đều quy chiếu vào một Tin Mừng?” Câu hỏi hay mà tôi thường thấy trong suốt sự nghiệp làm báo của tôi. Chúng tôi trả lời liên quan đến “cùng một Tin Mừng”, nhưng, trong sự khôn ngoan cao cả của mình, Giáo hội đã chọn bốn trong số đó, không phải tất cả đều nói cùng một điều, để tường thuật về cuộc đời của Chúa Kitô và cố gắng làm cho chúng ta thấm nhập vào mầu nhiệm của Ngài.

Vào thời điểm nhà xã hội học Yann Raison du Cleuziou, trong một tác phẩm hấp dẫn2 xác định “các quan sát viên” là thiểu số phản kháng (bảo thủ) nhất của công giáo Pháp, có nguy cơ ám chỉ chính từ họ mới phác họa ra sự canh tân của họ, những người muốn thành “tín hữu kitô cởi mở” kêu gọi mở Công đồng Vatican III để kết thúc sự đổi mới của Công đồng trước đó. Tôi không tin, ngày mai, có cơ may quay trở lại hình thức Giáo hội tiền công đồng, cũng không tin một hội đồng giám mục thế giới mới không thể tổ chức ở một nơi duy nhất, chỉ tính đến số lượng của họ. Và tôi nghĩ, để thoát khỏi tình thế tiến thoái lưỡng nan này, Đức Phanxicô cố gắng mở ra cho chúng ta chủ nghĩa đa nguyên, kể cả học thuyết và tính đoàn thể. Chắc chắn ngài nhận thức được, việc bám vào sự bảo vệ quyết liệt về tính đồng nhất có thể phản tác dụng, nơi dường như sự hiệp nhất không tồn tại hoặc không còn tồn tại. Từ những ngày Essentiel’Mans của tháng 10 năm 2013, được giáo phận Sarthe tổ chức, nơi tôi được giao làm điều phối viên sinh hoạt, tôi nhớ suy nghĩ này của sư huynh Émile của cộng đoàn Taizé: “Nơi mà chúng ta nghĩ sự hiệp nhất có được, quyền lực được kích động bởi sự sợ hãi đi chệch khỏi sự thật; nơi mà tính hiệp nhất còn phải làm, thì quyền lực đương nhiên chú ý đến tính phức tạp của sự thật.” Có lẽ đây là bước quyết định đã được thực hiện giữa Đức Phanxicô và các vị tiền nhiệm của ngài.

Ảo tưởng quay về với “Giáo hội muôn thuở…”

Tôi cũng không tin vào những hoang tưởng đồi trụy được nuôi dưỡng trong một số môi trường nào đó, thích một mật nghị mới,  mà cuối cùng sẽ đến, quay về một con lắc “cứu” Giáo hội. Nhìn lại, Đức Phanxicô chưa bao giờ là một “thời kỳ tồi tệ để trôi qua” trước khi tìm lại một Giáo hội như mọi khi. Điều này sẽ lên án người công giáo chẳng khác gì một giáo phái không dính gì với thực tế, trong chốc lát đã nằm ngoài lịch sử nhân loại. Liệu sự “cởi mở” của Đức Phanxicô có đủ để đưa những người đã xa Giáo hội và những người chưa hoàn toàn đoạn tuyệt với di sản này trở lại không? Hay ngược lại, sự cởi mở này có củng cố họ về tính hợp pháp của một sự mơ hồ dính kết mà không dấn thân và tham gia vào đời sống của cộng đồng không? Ở đây, với từng người, chúng ta có một lời mời về tính nhất quán và trách nhiệm. Chúng ta có thể đổ lỗi cho Giáo hội vì sự bất động của Giáo hội và khi một giáo hoàng mạo hiểm thay đổi, thì chúng ta lại làm như không có gì xảy ra không? Vì thế, có thể trong ngắn hạn, Đức Phanxicô sẽ thất bại và các đối thủ của ngài sẽ làm ngài phải trả giá đắt cho điều này, với ý định đã nêu – ảo tưởng – là “cứu những gì còn có thể cứu được” và ngài sẽ phải hy sinh. Tuy nhiên, không trút bỏ thử thách, không đặt vấn đề, thì không có bước vọt lên để cứu. Tôi tin Đức Phanxicô biết điều này và ngài chấp nhận, bất kể ngài phải trả giá nào, là giáo hoàng, là người sẽ tạo ra thời khắc quyết định này trong lịch sử Giáo hội. Bởi vì ngày nay, và đối với Giáo hội, thử thách chủ yếu không phải là chinh phục và chiêu dụ dưới hình thức truyền bá phúc âm hóa, nhưng là sự thật với chính mình và với thông điệp của nó.

Mặt đất, bỗng sụt đi

Các cánh cửa mở ra với Công đồng Vatican II, ngay cả khi chúng làm gió thổi ngược, sẽ không đóng lại, bởi vì chúng đánh dấu sự hiểu biết sâu sắc hơn về sứ điệp kitô giáo trong một thế giới đang trải qua nhiều thay đổi sâu sắc. Một hồng y đã từng hỏi đại tướng De Gaulle: liệu chúng ta có thể tiếp tục ca ngợi Giáo hội về lòng can đảm tiên tri của Công đồng Vatican II, ngay cả khi khan hiếm ơn gọi và nhà thờ không còn giáo dân không? Đại tướng trả lời, vào năm 1959, vụ vỡ đập Malpasset làm 423 người thiệt mạng không phải do cấu trúc đập mong manh, nhưng do đất, đột ngột sụt.

Do đó, chúng ta phải liều lĩnh, với đôi mắt rộng mở, chủ nghĩa đa nguyên mà Thánh Phaolô đã hiểu từ Giáo hội sơ khai và đã làm cho ngài khôn ngoan viết trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô: “Những sự chia rẽ giữa anh em, thế nào cũng có, nhưng nhờ vậy mới rõ ai là người đạo đức chắc chắn.”

Nói điều tương tự, nhưng một cách khác!

Qua các trang sách này, tôi muốn nói với Giáo hội của tôi, rằng qua nhiều thế kỷ và cho đến tận bây giờ, quá nhiều chủ nghĩa tập trung, giáo quyền, giáo điều, chủ nghĩa đạo đức… đã dập tắt ngọn lửa nhiệt thành của Tin Mừng và làm nản lòng nhiều tín hữu “thiện tâm”, họ đã ra đi! Với anh em kitô giáo của tôi, tôi muốn chia sẻ niềm xác tín của tôi, rằng chúng ta bước đi trong tình huynh đệ bên cạnh những người cùng thời với chúng ta dường như cấp bách đối với tôi hơn là không ngừng giảng cho họ, và đối với chúng ta, hãy chấp nhận bản thân là khác biệt trước khi đưa ra những vụ kiện ngụy tạo chống nhau về sự bất trung. Đối với các bạn công dân đất nước tôi, những người mà tôi cùng chung số phận, tôi muốn nói, người công giáo chúng ta không đòi hỏi độc quyền về đức hạnh hay lòng quãng đại, nhưng việc tin vào Thiên đàng không làm cho chúng ta có quyền lên tiếng công khai trong các cuộc tranh luận liên quan đến tương lai chung của chúng ta và hành trình đi tìm ý nghĩa của dân tộc chúng ta.

Trong nửa thế kỷ, ước muốn của nhân vật anh hùng trong quyển tiểu thuyết của tôi chỉ chấp nhận di sản kitô giáo “dưới quyền lợi của việc kiểm kê”, đã trở thành động cơ của cuộc đời tôi và chắc chắn là số phận chung – số phận có hàng trăm khuôn mặt – của thế hệ mà tôi thuộc về. Hôm nay tôi nghĩ tôi có thể kết luận, cùng với thần học gia Yves Congar, rằng khi nói đến trọng tâm đức tin mà tôi hằng gắn bó: “Cách duy nhất để nói cùng một chuyện, trong bối cảnh đã thay đổi, là nói cách khác.”

Và rằng cuộc chiến này là vô tận!

  1. Làm thế nào thế giới của chúng ta không còn là kitô giáo (Comment notre monde a cessé d’être chrétien, Guillaume Cuchet, nxb. Seuil, Paris)
  2. Một cuộc phản cách mạng của công giáo (Une contre-révolution catholique, Yann Raison du Cleuziou, Nxb. Seuil, Paris)

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Hệ sinh thái, di cư: thách thức ở hai đầu

 

 

Trước sự dữ, hết quá mức này đến quá mức khác

Trước sự dữ, hết quá mức này đến quá mức khác

Trận động đất tàn khốc ở Thổ Nhĩ Kỳ và Syria đặt ra câu hỏi về sự dữ: làm sao một Thiên Chúa tốt lành lại có thể để những điều như vậy xảy ra?

la-croix.com, Dominique Greiner, Tổng biên tập báo La Croix, 2023-02-08

Ngày thứ hai 6 tháng 2, Thổ Nhĩ Kỳ và Syria bị một trận động đất mạnh 7.8 độ Richter. Thiệt hại về con người rất nặng: hơn 11.200 người chết vào lúc những hàng chữ này được viết. Một con số tạm thời, cọng thêm hàng ngàn người bị thương và vô gia cư phải đối diện với thời tiết mùa đông khắc nghiệt. Như mọi lần, mỗi khi đứng trước những thảm kịch như vậy, câu hỏi về sự dữ, sự dữ thái quá, lại được đặt ra. Kinh nghiệm về sự dữ và lòng tốt của Thiên Chúa ‘toàn năng’ dường như không thích hợp nhau, đến mức câu hỏi về sự tồn tại của Chúa được đặt ra. Nếu tạo dựng là tốt, thì vì sao tạo dựng lại gây ra hoang tàn và chết chóc? Nếu Chúa tồn tại, vì sao Ngài không ngăn chặn cái ác xâm nhập vào tạo vật?

Dù câu trả lời nào chúng ta có thể đưa ra cho những câu hỏi này, thì cái ác, dù phải gánh chịu hay cố ý phạm vẫn luôn là điều bí ẩn. Sự dữ đã luôn ở đó. Nguồn gốc của nó là khó nắm bắt. Nó đã có từ trước, không thể dò được. Do đó, thật vô ích khi tìm kiếm lời giải thích cho nguồn gốc của nó. Mặt khác, những gì chúng ta phải làm là tự nguyện dấn thân để đối đầu với sự dữ này, hết sức có thể. Sự dữ khi đó trở thành thứ mà chúng ta chiến đấu chống lại và dù hy vọng của chúng ta như thế nào, chúng ta hướng tới tương lai.

Theo một công thức rất hay của Paul Beauchamp, học giả Kinh thánh Dòng Tên: “Cái quá mức là nguồn gốc, chính cái quá mức điều thiện mới có thể chiến thắng cái quá mức điều ác ”. Một quá mức sự thiện mà mọi người có thể đóng góp, để bày tỏ tình tương trợ với các nạn nhân theo cách riêng của mình.

Marta An Nguyễn dịch

Đứng trước bí ẩn của cái ác

 

Thượng hội đồng Praha: những căng thẳng cần thiết để tiến lên

Thượng hội đồng Praha: những căng thẳng cần thiết để tiến lên

Vài giờ trước khi kết thúc giai đoạn lục địa của Thượng hội đồng về tính đồng nghị, ngày 8 tháng 2 năm 2023, hai tham dự viên đến từ Thụy Sĩ vùng nói tiếng Pháp và một tham dự viên từ Ticino đã chia sẻ với trang Công giáo Thụy Sĩ (cath.ch) cảm giác đầu tiên của họ về một Thượng hội đồng “sâu đậm”, trong đó họ tham dự trực tuyến từ Wislikofen (AG).

cath.ch, Bernard Halle, 2023-02-08

Phiên họp chuyên sâu và “dày đặc” dành cho những người Thụy Sĩ tham dự trực tuyến tại Thượng hội đồng Praha | DR

Bà Malika Schaeffer, ban truyền thông của Giáo hội công giáo vùng Vaudois, đồng nghiệp của bà là bà Marie-Antoinette Lorwich, từ mục vụ đường phố, và bà Valantina Anzini từ Ticino, điều phối viên mục vụ giới trẻ của giáo phận Lugano, ba người cùng ngồi với nhau sau màn hình để thực hiện cuộc phỏng vấn trực tuyến họ thực hiện cho trang Công giáo Thụy Sĩ. Họ cho biết họ có ít thì giờ. Phiên họp và họp trực tuyến đã diễn ra được ba ngày. Và tất cả làm việc nhanh cho đến ngày kết thúc, ít nhất là với giáo dân.

Ngay lập tức, họ bày tỏ mối quan tâm liên quan đến thông báo trong ngày, về việc xuất bản một bản văn tóm tắt thứ hai do các giám mục viết và sẽ được gửi về Rôma. Các chủ tịch của các hội đồng giám mục hiện diện tại Praha sẽ tiếp tục công việc cho đến ngày 12 tháng 2. Văn bản này sẽ chứa những gì và nó sẽ định vị như thế nào trong mối quan hệ với tài liệu lục địa? “Chúng tôi chưa biết gì hơn vào lúc này.”

Đặt những câu hỏi đúng

Bà Malika Shaeffer, một trong mười người Thụy Sĩ tham dự Thượng hội đồng Praha trực tuyến từ Wislikofen cho biết: “Tôi yên tâm vì thực tế là Giáo hội đang bắt đầu tự đặt ra những câu hỏi đúng đắn và đồng ý đặt câu hỏi về chức năng của mình.” Bà nghĩ rằng, với thượng hội đồng, chúng ta đang bước vào một cách hiểu Giáo hội và sống trong đó và không còn chấp nhận việc đi lui lại đằng sau.

Bà Marie-Antoinette Lorwich, phụ trách mục vụ đường phố cho biết thêm: “Giáo hội phải học cách lắng nghe chứ không phải chỉ biết lắng nghe những gì làm cho mình bằng lòng. Kể từ khi khai mạc giai đoạn châu lục này của Thượng Hội đồng vào ngày 6 tháng 2, đã có nhiều can thiệp ở Praha, nơi các đại biểu đã lên bục thảo luận về các khía cạnh khác nhau của cuộc khủng hoảng mà Giáo hội Công giáo đang trải qua.

Các can thiệp khá suôn sẻ

Bà Marie-Antoinette Lorwich lưu ý: “Các can thiệp khá suôn sẻ, sự độc thân của các linh mục hầu như không được đề cập đến.” Đã có cuộc nói chuyện về những “nỗi đau” do lạm dụng tình dục, thiêng liêng và quyền lực gây ra. Những căng thẳng về học thuyết/mục vụ đã phát sinh nhiều quan điểm, cũng như sự đối lập giữa lòng thương xót và sự thật. Nhưng bà nhấn mạnh: “Tuy nhiên, những căng thẳng cần thiết để cho phép chúng ta tiến về phía trước và tìm thấy sự hài hòa.”

Bà Marie-Antoinette Lorwich nhận xét: vẫn còn sự hiện diện của nam giới chiếm đa số ở thượng hội đồng. | © Bernard Hallet

Bà Lorwich nói: “Chúng tôi mong đợi nhiều hơn nữa để lên tiếng về vị trí của phụ nữ trong Giáo hội,” Bà Valentina Anzarini và Malika Schaeffer đồng ý quan điểm của bà Lorwich. Bà cảm thấy mình được đại diện tốt trong các nhận xét của các đại biểu Caritas có mặt tại Praha về người nghèo. Bà vui mừng nhận xét: “Bài phát biểu của họ có thể là của tôi.

“Chăm sóc”, “Hiệp thông”, “Hoán cải” là những từ khóa của cuộc gặp gỡ ở Praha này.

Các cuộc họp trực tuyến

Nếu họ không thể can thiệp được trong các phiên họp ở Praha, thì các phụ nữ này không chán. Sau khi tham dự các cuộc họp kéo dài khoảng ba giờ, đại diện các nước họp trực tuyến từ xa theo nhóm ngôn ngữ đã có dịp thảo luận các vấn đề họ quan tâm. Những lạm dụng trong Giáo hội là tâm điểm trao đổi của nhóm nói tiếng Pháp. Nhóm nói tiếng Ý là đồng hành với người trẻ trong Giáo hội và về “việc đào tạo… Bắt đầu bằng tính đồng nghị! Nhiều người vẫn chưa biết nó là gì!”

Các cuộc họp không ngừng nghỉ, với “nhịp điệu dồn dập”. Sẽ cần thời gian để họ “tiêu hóa hết”. Ngay từ đầu, bà Marie-Antoinette Lorwich nghĩ bà đến trong tư cách là người chiến đấu nhưng bà nhận ra, bà sẽ thanh thản ra về, vì bà bị đánh động bởi sự tương phản giữa các Giáo hội ở châu Âu. “Tôi như được di chuyển từ nơi này qua nơi khác khi tôi nghe chứng từ”.

Bà Malika Schaeffer và bà Marie-Antoinette Lorwich trước khi lên đường đi Wislikofen tham dự trực tuyến. | © Bernard Hallet

Còn với bà Malika Schaeffer thì đây là một bất ngờ lớn cho bà, chẳng hạn, “Giáo hội Latvia mới chỉ có bản dịch của Công đồng Vatican II cách đây 5 năm!” Bà có thể nhận ra sự nghèo nàn của các Giáo hội ở các nước phương Đông, nơi tín  điều quan trọng hơn những cân nhắc về mục vụ. Và nhận ra vấn đề của người này không liên quan gì đến mối quan tâm của người khác.

Ba phụ nữ cho biết, tuy xa Praha nhưng bầu khí ở Wislikofen rất tốt, chúng tôi đã mở rộng căn lều và chúng tôi đã sống một quá trình đồng nghị nhỏ. Mọi người đều nỗ lực, đặc biệt ở cấp độ ngôn ngữ để giao tiếp và lắng nghe. “Các trao đổi hài hòa hơn sau ba ngày của thượng hội đồng.”

Nhiều cảm nhận đến mức nhóm quyết định viết một thư ngỏ về những gì họ đã trải qua và sẽ chia sẻ rộng rãi sau cuộc họp.

Marta An Nguyễn dịch

Giáo hội Đức muốn truyền quan điểm của mình cho người công giáo Âu châu ở thượng hội đồng Praha

Ở Nam Sudan, em bé, bà góa phụ nghèo và Đức Phanxicô  

Ở Nam Sudan, em bé, bà góa phụ nghèo và Đức Phanxicô

Em bé tặng tiền cho Đức Phanxicô, chắc chắn đây sẽ là một trong những bức ảnh nổi bật chuyến tông du của Đức Phanxicô đến Nam Sudan.   © VATICAN MEDIA

fr.aleteia.org, Hugues Lefèvre, 2023-02-04

Đức Phanxicô đến thăm Nam Sudan, một trong những nước nghèo nhất thế giới. Đất nước bị tàn phá bởi xung đột, đang ở trong tình trạng khẩn cấp về lương thực. Trong bối cảnh này, bức hình đã ở trong tâm trí người xem ngày thứ bảy 4 tháng 2 khi Đức Phanxicô ở Nam Sudan.

Chúng ta không biết tên và tuổi của em bé. Em bé nhỏ hơn các em bé khác đang chen chúc ở phía sau, em mặc chiếc áo đỏ cũ, cố gắng chui qua kẽ hở cánh cổng màu xám của nhà thờ chính tòa Thánh Têrêxa. Em đã ở đó bao lâu, chờ dưới ánh nắng gay gắt ở Juba? Cánh tay dang rộng, mắt nhắm và bây giờ em đang chạm vào Đức Phanxicô bằng đầu ngón tay của em. Đức Phanxicô cũng dang tay ra. Ánh mắt ngài nhìn chăm vào tay đứa bé. Một tờ tiền. Đúng, một tờ tiền em bé đưa cho ngài. Trong bức hình, Đức Phanxicô như cảm thấy khó hiểu trước hành vi này của em, nhưng ngài cũng cho thấy một cảm xúc dịu dàng trào dâng.

“Người nghèo cho tất cả những gì họ có”. Đó là câu ông Andrea Tornielli, giám đốc biên tập của bộ Truyền thông Tòa thánh đã viết trên Twitter về “bức ảnh của chuyến đi”, nhắc đến dụ ngôn bà góa nghèo; người, với hai đồng xu nhỏ đã cúng tất cả những gì mình có cho Đền thờ.

Đến thủ đô của Nam Sudan chiều thứ sáu 3 tháng 2, Đức Phanxicô được giáo dân nồng nhiệt chào đón dọc hai bên đường. Đằng sau nụ cười và tiếng hò reo vui vẻ của các phụ nữ châu Phi, giáo hoàng biết ngài đang đến thăm một dân tộc bị bầm dập. Đất nước này ở cuối danh sách Chỉ số Phát triển Con người của Liên Hiệp Quốc. Và tương lai có thể trở nên xấu hơn. Trong hàng chục năm qua, thảm kịch xung đột đã làm cho khoảng 4 triệu người phải di dời, số người phải tản cư tương đương với một phần ba toàn dân số. Ở Nam Sudan, thảm họa khí hậu làm tăng thêm sự hỗn loạn về an ninh. Trong cuộc gặp với 2.300 người di tản trong nước ở trung tâm Juba, bà Sara Beysolow Nyanti, đại diện Liên Hiệp Quốc tại Nam Sudan nói với Đức Phanxicô: “Đây là cuộc khủng hoảng tị nạn lớn nhất ở châu Phi. Hai phần ba dân số bị ảnh hưởng vì mức độ mất an ninh lương thực và suy dinh dưỡng cực độ.”

Trước tình huống khẩn cấp này, nhu cầu nhân đạo là rất lớn. Năm 2023, ước tính các tổ chức nhân đạo sẽ cần 1,7 tỷ đô la để đáp ứng cho nhu cầu của 6,8 triệu người, ở thời điểm cuộc chiến Ukraine đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc phân bố. Chính vì ý thức được hoàn cảnh kinh hoàng này, nên giáo hoàng, tổng giám mục Canterbury và Nhà lãnh đạo Giáo hội Scotland đã cùng đi Nam Sudan để một lần nữa đánh động lương tâm của chính quyền nước này, vẫn tiếp tục lấy lý do đấu tranh sắc tộc để chia xé dân tộc.

Sau khi lên tiếng một cách sắc bén trong bài diễn văn đầu tiên trên đất Nam Sudan, Đức Phanxicô đã gặp người dân, đặc biệt là giới trẻ và phụ nữ, những người mà ngài xem là “nhân vật chính để biến đổi đất nước”. Khi đến đất nước vẫn còn chảy máu này, ngài chỉ mới gieo hạt giống trên sa mạc. Nhưng chúng ta có thể hy vọng các em bé mặc áo đỏ này sẽ giữ trong lòng thông điệp mà giáo hoàng đã 86 tuổi mang đến cho các em: “Cha muốn nói với các con: “Hạt giống của một Nam Sudan mới là các con.”

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Đức Phanxicô biện hộ cho quyền của phụ nữ ở Nam Sudan

Bài mới nhất