Home Blog Page 353

Hồng y Konrad Krajewski, cánh tay bác ái của Đức Phanxicô ở Ukraine

Hồng y Konrad Krajewski, cánh tay bác ái của Đức Phanxicô ở Ukraine

Kể từ khi cuộc xung đột ở Ukraine bùng nổ ngày 24 tháng 2 năm 2022, hồng y Ba Lan Konrad Krajewski đã đến thăm đất nước này năm lần. Bộ trưởng bộ Bác ái giải thích cho trang Công giáo Thụy Sĩ cath.ch hiểu, Đức Phanxicô bị tác động sâu đậm bởi cuộc chiến này đã muốn gần gũi với người dân Ukraine đến như thế nào.

Hồng y Krajewski phân phát lương thực cứu trợ trong chuyến đi Lviv năm 2022 | © Mariusz Krawiec

cath.ch, Bernard Litzler, 2023-02-22

Năm 2022 là năm đặc biệt với hồng y Krajewski “tuyên úy” của giáo hoàng, hồng y đã đến Ukraine năm lần, mỗi lần ngài đến một vùng khác nhau. Qua sự hiện diện của ngài, ngài cho thấy cuộc xung đột ở Đông Âu đã ảnh hưởng sâu đậm đến Đức Phanxicô như thế nào.

Nhưng chuyến đi của ngài đến đất nước này không hề dễ dàng: thậm chí ngài xém bị nguy hiểm vào tháng 9 năm 2022 khi đoàn của ngài bị bắn tỉa.

Cha là đặc phái viên của Đức Phanxicô ở Ukraine. Làm thế nào để người dân nhận thấy được hành động từ thiện của giáo hoàng?

Hồng y Konrad Krajewski: Thật khó để nói về người dân Ukraine, vì mỗi chuyến đi của tôi đều đến một vùng khác nhau, đi dọc theo biên giới Nga, đến Odessa, đến Kharkiv, rồi đến Kyiv. Tôi đã đem hai xe cứu thương mới đến đây, một chiếc dành cho bệnh viện nhi đồng và một chiếc dành cho bệnh viện tim mạch, là món quà của Đức Phanxicô tặng người dân Ukraine.

Trong một lần đi sứ vụ dài hơn một chút, tôi đã để lại một chiếc xe cho giáo phận gần biên giới Nga. Và một chiếc khác trong chuyến đi vào dịp lễ Giáng sinh. Tôi đi cùng hai chiếc xe tải TIR với quần áo chống lạnh do người Ý tặng, và máy phát điện vì Ukraine đang gặp tình trạng thiếu điện.

Hồng y Krajewski ăn trưa cùng đoàn cứu trợ nhân đạo và hỏi thăm tình hình dân chúng | © Mariusz Krawiec

Hồng y Krajewski bên cạnh chiếc xe tải mang theo máy phát điện và áo giữ nhiệt đến Ukraine

Cha nhìn tình trạng của những người bị ảnh hưởng của cuộc xung đột như thế nào?

Ukraine là một quốc gia rất rất lớn. Càng đi xa về phía biên giới Nga, càng đến gần nơi chiến đấu tình hình càng thay đổi vì không có ánh sáng, không có nước, hầu như không có gì. Đó là sự hủy diệt hoàn toàn, còi báo động vang lên mỗi năm phút. Ngược lại, ở vùng gần phía Ba Lan, tuy không có hòa bình nhưng không nguy hiểm như ở đầu kia của đất nước.

“Khi càng đến gần những nơi giao tranh thì không có ánh sáng, không có nước, hầu như không có gì. Đó là sự hủy diệt hoàn toàn.”

 

Vào tháng 9 năm 2022, cha là mục tiêu của vụ một bắn tỉa, cha sống kinh nghiệm này như thế nào?

Tôi đi cùng với một giám mục tin lành và một giám mục la-tinh. Chúng tôi đến khu vực nơi người dân muốn ở lại, họ không muốn rời đi. Chúng tôi muốn mang thức ăn đến cho họ, vì họ được như vậy hai lần một tuần. Họ chỉ sống nhờ vào sự giúp đỡ này.

Chúng tôi đã đến được ba hoặc bốn nơi. Tại một thời điểm, chúng tôi bị ngắm bắn vì có người phản bội, họ cho điện thoại di động của chúng tôi. May mắn, chúng tôi thoát được khi vụ nổ súng bắt đầu. Thật khó khăn, vì chúng tôi không biết đường nào để đi trốn, sau đó chúng tôi mới được một người lính hướng dẫn một chút.

Hồng y Konrad Krajewski và Đức Phanxicô trước xe cứu thương ngài sẽ lái đến Lviv | © Truyền thông Vatican

Trên thực tế, đó là một kinh nghiệm đặc trưng của chiến tranh: bất cứ ai đến đó đều phải hiểu chuyện này có thể xảy ra như thế. Một tuần trước, những người đi phân phát thực phẩm đã bị giết.

Giáo hoàng đã nói về sự tàn khốc của chiến tranh, dựa trên chứng từ của cha…

Ngài đã đau khổ rất nhiều về cuộc chiến này. Khi tôi ở Ukraine, ngài gọi cho tôi mấy lần để biết tình hình thực sự ở đây. Tôi nói với ngài về những ngôi mộ tập thể có nhiều người được chôn vài ngày trước đó. Và tôi cho ngài biết, người dân Ukraine đã đoàn kết như thế nào với ý chí chiến thắng.

 

“Đức Phanxicô đau khổ rất nhiều với cuộc chiến này”

 

Cha đã cầu nguyện ở những ngôi mộ tập thể ở Ukraine. Đối diện với quá nhiều cái chết, làm sao chúng ta có thể giữ vững niềm tin vào sự sống lại?

Đó là lần đầu tiên khi tôi đến những ngôi mộ hoặc những thị trấn như Boutcha và những thị trấn khác đã bị phá hủy hoàn toàn. Ở đó, tôi cùng sứ thần chờ họ đưa các thi thể ra khỏi đống đổ nát và chúng tôi cầu nguyện. Điều này thật không dễ dàng, nhưng như thế, chúng tôi ở bên người dân và có thể kết hiệp được với nỗi đau của họ. Chúng tôi làm việc này như một tín hữu. Chúa Giêsu sẽ làm gì khi Ngài ở vị trí của chúng ta? Ngài luôn chia sẻ nỗi đau của những người xung quanh. Chúng tôi muốn giống như Ngài ở vùng đất xung đột này, nơi mọi người đang đau khổ, và trong tư cách là người tín hữu, chúng tôi cầu nguyện cho những người đã chết và những người phải gánh chịu tất cả đau khổ.

Hồng y Konrad Krajewski cầu nguyện bên những ngôi mộ được tìm thấy ở Izyoum | © Truyền thông Vatican

Mối quan hệ giữa Giáo hội công giáo và Giáo hội chính thống Nga rất khó khăn, hiện tại là do chiến tranh. Cha có nghĩ các quan điểm có thể xích lại gần nhau không?

Tin Mừng nói ngôi nhà nào bị chia rẽ, ngôi nhà đó dễ bị phá hủy. Và thật không may, Giáo hội ở đó rất chia rẽ. Có Giáo hội theo Nga, có Giáo hội theo Kyiv, có người công giáo hy lạp, người la-tinh, tất cả phụ thuộc vào vùng nào họ ở.

Nhưng tôi cũng thấy những điều phi thường, như cộng đoàn Đa Minh ở Fastiv cách Kyiv 70 cây số. Dù là giáo phái nào, tôn giáo nào, mọi người giúp đỡ nhau, cùng cầu nguyện với nhau và ăn chung với nhau. Trong cộng đồng của các tu sĩ Đa Minh điều khiển, họ mang lại hy vọng, chúng tôi nhận ra, chúng ta có thể vượt qua chia rẽ bằng cách làm điều tốt.

 

“Tôi vẫn tin khi chiến tranh này đến bất ngờ thì hòa bình cũng sẽ đến bất ngờ.”

 

Cuộc chiến ở Ukraine dường như dài bất tận. Cha có nghĩ hòa bình sẽ có con đường của nó?

Ai biết được điều này? Cuộc chiến là sự trả thù của người Nga với người dân Ukraine. Có sự thù hận của người Nga với người dân Ukraine. Người Ukraine có quyết tâm giành chiến thắng. Tôi đến bệnh viện nơi có rất nhiều thương binh. Một người lính bị mất đôi chân nói với tôi, ngay khi bình phục, anh sẽ ra chiến trường lại. Điều đó nói lên họ có một ý chí chiến thắng phi thường, để đánh đuổi quân xâm lược Nga ra khỏi đất nước. Bây giờ nói về hòa bình là khó khăn. Nhưng tôi vẫn tin, khi cuộc chiến này đến bất ngờ thì hòa bình cũng sẽ đến bất ngờ. Vì suy cho cùng, đây là cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Nga.

Đức Phanxicô muốn đến thăm Ukraine. Cha có nghĩ chuyến đi này sẽ có thể?

Đức Phanxicô nhiều lần nói ngài muốn đi Nga và Ukraine, chứ không phải chỉ một quốc gia. Nhiều nhà lãnh đạo đã đến Kyiv, chụp ảnh và không có gì thay đổi. Không ai nói về hòa bình. Họ đến Kyiv chỉ để chào tổng thống Zielinsky. Đức Phanxicô cũng muốn đến đây để chấm dứt cuộc chiến.

Hình kỷ niệm với các tình nguyện viên đã giúp dỡ hàng cứu trợ của hồng y tuyên uý © Mariusz Krawiec

Trong chuyến đi Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan gần đây, ngài lặp lại, ngài  sẵn sàng gặp Vladimir Putin và tổng thống Ukraine ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới để nói chuyện, vì không đối thoại sẽ không bao giờ có hòa bình.

Với tư cách là bộ trưởng bộ Bác ái, cha có nghĩ các mục tiêu từ thiện của Giáo hội đã thay đổi để tập trung vào người nghèo và vùng ngoại vi không?

Theo tôi, không có gì thay đổi. Tầm nhìn của Chúa Giêsu là Tin Mừng. Và khi Chúa Giêsu gặp người dân, Ngài giúp mọi người theo nhu cầu của họ. Vì vậy, chúng ta khám phá chiều kích này luôn có trong Tin Mừng. Đơn giản với Đức Phanxicô, điều này còn thấy rõ hơn.

Đức Phanxicô thích định nghĩa Giáo hội như một bệnh viện dã chiến. Trong Giáo hội, bộ của chúng tôi là cánh tay bác ái cứu trợ khẩn cấp. Vì giáo hoàng không thể đích thân hành động nên chính chúng tôi là người đại diện cho ngài.

Cánh tay từ thiện của Giáo hội

Hồng y Krajewski, 59 tuổi, đến từ Lodz, Ba Lan, trước đây ngài là trưởng ban nghi lễ của các giáo hoàng Gioan-Phaolô II và Bênêđictô XVI. Tháng 8 năm 2013, Đức Phanxicô bổ nhiệm ngài tuyên úy từ thiện của Tòa thánh. Vì vậy, ngài làm việc từ thiện nhân danh giáo hoàng, giúp người tị nạn và người vô gia cư.

Tháng 6 năm 2022, ngài được bổ nhiệm làm bộ trưởng bộ Bác ái. Ngài nói rõ về khía cạnh từ thiện của Giáo hội: “Chúng tôi cũng làm những việc như trước đây, nhưng như Đức Phanxicô giải thích, Giáo hội luôn có hai cánh tay: cánh tay đức tin và cánh tay bác ái. Và vì cánh tay đức tin được đại diện bởi một thánh bộ, nên thánh bộ thứ hai cũng phải như vậy”.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Ngoại giao của giáo hoàng ở Ukraine gặp bế tắc, một năm sau khi bắt đầu “cuộc chiến phi lý và tàn khốc”

Hồng y Ambongo: “Châu Phi là tương lai của Giáo hội, đó là điều hiển nhiên”

Hồng y Ambongo: “Châu Phi là tương lai của Giáo hội, đó là điều hiển nhiên”

Phỏng vấn

Hồng y Fridolin Ambongo, tổng giám mục giáo phận Kinshasa, Cộng hòa Dân chủ Congo đã được bầu làm chủ tịch Hội nghị chuyên đề của các Hội đồng Giám mục châu Phi và Madagascar (Sceam) trong cuộc họp bất thường được tổ chức tại Accra (Ghana), từ ngày 14 đến 17 tháng hai. Ngày thứ bảy 18 tháng 2, bên lề thánh lễ phong tân giám mục Joseph Aka, giáo phận Yamoussoukro do ngài chủ tế, ngài đã trả lời phỏng vấn.

la-croix.com, Guy Aimé Eblotié, đặc phái viên tại Yamoussoukro, 2023-02-20

Hồng y Fridolin Ambongo, ngày 5 tháng 10 năm 2019, trong một công nghị ở Đền thờ Thánh Phêrô, Vatican. ANDREW MEDICHINI/AP

Cách đây vài tuần, Đức Phanxicô đã đến thăm đất nước Cộng hòa Dân chủ Congo của cha. Chúng ta có thể học được gì từ chuyến đi này và thông điệp của chuyến đi này với toàn bộ châu Phi là gì?

Hồng y Fridolin Ambongo: Điều đầu tiên chúng tôi cảm nhận hạnh phúc trong chuyến đi này của ngài. Một cảm nhận ai cũng đồng ý với kinh nghiệm này. Bốn ngày sống với Đức Phanxicô là trải nghiệm thực sự về Núi Tabor biến hình với người dân Congo đang chịu đau khổ.

Ngoài cảm xúc hạnh phúc này, điều quan trọng nhất là thông điệp của giáo hoàng mang lại. Như quý vị biết, Congo là quốc gia tử vì đạo do sự tham lam của tất cả những người muốn chiếm đoạt tài nguyên của đất nước. Những người duy nhất không được hưởng lợi chính là người dân Congo. Và giáo hoàng nhận ra trong lời nói của ngài. Ngài đã ví đất nước chúng tôi như viên kim cương. Một viên kim cương mà mọi người đều muốn có, nhưng họ muốn muốn có viên kim cương mà không có người Congo. Ngài đã dùng những lời nói rất mạnh khi nói về tất cả những kẻ săn mồi: “Hãy rút tay ra khỏi Congo, hãy rút tay ra khỏi châu Phi.” Và tôi nghĩ thông điệp này không chỉ áp dụng cho Congo mà còn cho toàn cả châu Phi.

Thông điệp trực tiếp của Đức Phanxicô: “Xin quý vị rút tay ra khỏi Phi châu”

Về chủ đề châu Phi, châu lục thường được xem như tương lai của Giáo Hội. Đâu là dữ liệu khách quan để chúng ta suy nghĩ như thế?

Châu Phi là tương lai của Giáo hội, đó là điều hiển nhiên. Chúng ta chỉ cần xem các con số thống kê, đó là các dữ liệu khách quan. Tôi nghĩ ai cũng hiểu tình hình Giáo hội châu Âu. Giáo hội ở châu Âu đang chết dần, khi đến nhà thờ, chúng ta chỉ thấy nhà thờ trống rỗng. Người đi lễ đều đã ngoài 70 tuổi. Khi họ ra đi, ai sẽ là người đi lễ?

Nhưng khi chúng ta vào các nhà thờ ở miền Nam bán cầu ở châu Phi chẳng hạn, chúng ta thấy Giáo hội ở đó đang phát triển, về số lượng cũng như về chất lượng. Mọi thứ cho thấy tương lai của Giáo hội là ở châu Phi, vì khi đến đây, bạn thấy mọi nơi đều có người trẻ tuổi. Và đó là điều đã làm cho Đức Phanxicô ấn tượng, ngài hỏi những người trẻ này từ đâu đến. Thanh niên tượng trưng cho năng động. Trong cuộc gặp với các bạn trẻ tại Sân vận động Các vị Tử đạo ở Kinshasa, ngài dùng năm ngón tay để nói về giáo lý. Và những người trẻ được đánh động bởi bài giáo lý này, bài này đã thách thức họ. Họ đang phản ứng trước những thách thức của ngài, và đó là khoảnh khắc phi thường.

Tôi nghĩ chúng tôi phải chăm sóc những người trẻ này. Vấn đề là chúng ta không chăm sóc họ, không cho họ hy vọng, hy vọng về một ngày mai tốt đẹp hơn. Đó là lý do vì sao đôi khi người trẻ làm chúng ta thất vọng và nghĩ rằng thiên đàng ở nơi khác. Và điều này kết thúc trong các thảm kịch mà chúng ta đã biết. Chúng ta phải chăm sóc giới trẻ vì họ thực sự là tương lai của xã hội chúng ta, tương lai của Giáo hội chúng ta.

Cha vừa được bầu đứng đầu chủ tịch Hội nghị chuyên đề các Hội đồng Giám mục châu Phi và Madagascar Sceam. Ưu tiên của cha cho nhiệm vụ mới này là gì?

Ưu tiên hàng đầu của tôi là hoàn tất tiến trình đồng nghị. Bây giờ chúng ta đang ở trong giai đoạn lục địa của thượng hội đồng về tính đồng nghị. Từ ngày 1 tháng 3, tất cả chúng tôi sẽ có mặt ở Addis Ababa (Ethiopia) để tổ chức lễ kỷ niệm giai đoạn này. Phần còn lại, đó là tất cả công việc truyền giáo mục vụ chuyên sâu ở châu Phi và  cũng là tất cả các vấn đề liên quan đến nghèo đói, bất công, nhập cư của những người trẻ của chúng tôi, những người từ bỏ lục địa này để tìm kiếm điều mà họ nghĩ là thiên đàng, và nó thường kết thúc trong bi kịch. Tất cả những điều này đưa chúng tôi trở lại với trách nhiệm của mình với tư cách là Giáo hội châu Phi.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Đức Phanxicô nói với các bạn trẻ ở Congo: hãy dũng cảm chống tham nhũng

“Với người cùng thời chúng ta, đa thần hiệu quả hơn đơn thần”

“Với người cùng thời chúng ta, đa thần hiệu quả hơn đơn thần”

la-croix.com, Laurence Devillairs, 2022-110-31

Triết gia Laurence Devillairs, Cao đẳng Hành chánh, tiến sĩ triết, giáo sư tại Paris 1 Panthéon-Sorbonne. Hannah ASSOULINE / P.U.F.

Theo triết gia, vì chúng ta đã thay thế, một cách khó nhận thấy, một Chúa của cứu rỗi cho một Chúa bảo vệ, nên chúng ta mơ một thế giới của các vị thần, mạnh mẽ quay về với ngoại giáo qua các tín ngưỡng đa thần, phù thủy, hay thiêng liêng hóa thiên nhiên, một hiện tượng ngày càng nhân lên trong xã hội.

Đã có thời gian chúng ta tranh luận không mệt mỏi để xem liệu chúng ta đã ngừng tin vào Chúa, liệu lương tâm và xã hội chúng ta đã không còn hình ảnh của Chúa. Khi đó chúng ta nói đến phi-kitô giáo, thế tục hóa, loại bỏ các giá trị kitô giáo… Niềm tin thuộc về một thời khác, tác động bởi vâng lời, hoặc nghiêng về hy vọng nhiều hơn.

Thời buổi đó và những câu hỏi này dường như đã lỗi thời. Thế tục hóa, phi-kitô giáo…: các câu hỏi đã được xếp qua. Có lẽ ngày nay câu hỏi đặt ra nhiều hơn là liệu chúng ta có còn là những người theo đơn thần hay không. Giả thuyết của một chủ nghĩa ngoại giáo đương thời không chỉ duy nhất do Giáo hội, thể chế canh giữ lòng tin đã mất, không những mất thẩm quyền mà còn mất cả tính hợp pháp, mất uy tín vì các tội phạm tình dục và nói chung là bạo lực liên quan đến các vụ lạm dụng quyền lực. Đây là nhận định tự đặt lên chính mình khi đối diện với tầm nhân rộng các hiện tượng và các tín ngưỡng đa thần, từ thuyết vật linh đến bói toán, từ các phù thủy đến các bùa chú biểu hiện đầu tiên ở Pháp là cơn sốt Halloween, phần lớn người dân đã thay thế ngày này cho ngày lễ Các Thánh.

Một Thiên Chúa bảo vệ

Không chỉ vì Giáo hội đã làm loãng đi tính bất khả quy độc đáo của Tin Mừng mà Tin Mừng bị thế chấp thành lời kêu gọi khá trừu tượng với lợi ích chung hay với một chủ nghĩa nhân bản vô định. Không phải chỉ đơn giản vì Giáo hội không còn cho phép kitô giáo làm nên lịch sử, nuôi dưỡng một nền văn hóa, làm thay đổi lương tâm. Tất cả điều này là đúng, và phải thất vọng. Nhưng lý do cũng là vì cuối cùng chúng ta chỉ tin vào một Thiên Chúa bảo vệ.

Một quan điểm tiến hóa mong kitô giáo chấm dứt những niềm tin và những thực hành mê tín dị đoan. Nó không phải là không có gì: ngược lại, vì chúng ta đã thay thế, một cách khó nhận thấy, một Chúa của Cứu rỗi, và do đó là tội lỗi và cứu chuộc thành một Chúa bảo vệ, nên chúng ta mơ một thế giới của các vị thần. Vì Chúa đơn thần ít thực thi chức năng bảo vệ này cho bằng các đa thần.

Một tôn giáo của sự bảo vệ

Tôi đã đọc bài bình luận này của Ricœur về Freud: “Tôn giáo đối với Freud (…) là bù đắp cho những khó khăn của cuộc sống (…); nhiệm vụ của tôn giáo là bảo vệ con người (…). Khuôn mặt mới mà tôn giáo hướng tới cá nhân không còn là cấm đoán, mà là bảo vệ.”

Đây là một sáng suốt đúp: trước hết là nhà phân tâm Freud, sau đó là triết gia Paul Ricœur. Để không phải đối diện với khả năng, thực tế không quan tâm gì đến chúng ta và nó cũng chẳng có gì để nói với chúng ta, chúng ta đã tìm được an ủi nơi Chúa, không phải để có lý do để sống, nhưng để mang lại cho cuộc sống có màu sắc.

Như thế lãnh vực hiệu năng của tôn giáo không còn là đời sau, nhưng ngắn gọn là chính cuộc sống. Và vì thế Ricœur phân tích tiếp: “Bỗng, tôn giáo ít nói đến sợ cho bằng mong muốn.” Tôn giáo không còn gắn liền với mệnh lệnh phải cứu những gì phải cứu, nhưng để đáp lại mong muốn được an ủi và bảo vệ của chúng ta. Một loại bảo hiểm cho cuộc sống: mọi thứ sẽ ổn thôi, có Chúa ở đó để đảm bảo điều này.

Ngoại giáo, hiệu quả hơn

Nhưng trong trường hợp này, chủ nghĩa ngoại giáo hiệu quả hơn là đơn thần. Vì Chúa của của kitô giáo không bảo vệ điều kỳ diệu nhất: Ngài không có ý định biến thế giới thành thiên đàng, đời sống thành yến tiệc. Người tín hữu kitô không ở thế giới này như cá gặp nước, nhưng họ đảm nhận vai trò chứng nhân: làm chứng cho một sự thật mà thế giới này không muốn, một thế giới không tìm đâu ra nguồn gốc, cùng đích và biện minh cho mình. Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô không bảo vệ để chống lại thực tại: Ngài xin chúng ta đối diện với nó. Ngài không biến chì thành vàng, biến nghịch  cảnh thành cơ hội thăng tiến. Như thế sẽ đi quá nhanh từ Thứ Sáu Tuần Thánh đến Chúa nhật Phục Sinh. Nếu ngài bảo vệ cái ác – nếu ngài hứa với chúng ta là đừng để cái ác thắng cái thiện – thì ngài không bảo vệ thực tế. Nhưng đó lại là sự bảo vệ chúng ta tìm kiếm.

Chúng ta cần thần thoại, cần thần thánh, những người sẽ đến cư trú trên thế giới, để giải thoát khỏi sự im lặng. Vì vậy, ước muốn của chúng ta là ước muốn thần thánh hơn là siêu việt: chúng ta muốn cảm nhận sự hồi hộp của một thiên nhiên sôi động và sống động. Vì thế gần như chúng ta nói về một sự sùng bái cây cối, thực vật, thảo mộc, sinh vật sống, một thế giới không có thứ bậc hay phân biệt. Bởi vì cái thiêng liêng mà chúng ta cháy bỏng để tin phải rất gần gũi, nhưng cũng khá khác biệt, đó là thần thánh. Trái lại, Thiên Chúa siêu việt vừa xa cách – Người là tất cả những gì mà tôi không có: vô hạn, vĩnh cửu, tình yêu và toàn năng – vừa giống đến độ mặc lấy thân phận con người của chúng ta.

Thần Thiên nhiên, Thần Động vật

Tính siêu việt của Chúa quá bí ẩn. Nói qua dụ ngôn, đặt thách thức hơn là an ủi. Vậy mà chúng ta đòi hỏi phải hiểu ý nghĩa ngay lập tức, có sẵn và rõ ràng. Không phải là một ý nghĩa tiên tri, đi ngược dòng và cần được giải mã, nhưng là một kho của những ý nghĩa rõ ràng, có thể hành động được và phân cực rõ ràng: thất bại-thành công, tiêu cực-tích cực, xấu xa-phục hồi. Nhưng Chúa của tín hữu kitô khi nào cũng nói qua những nghịch lý và mơ hồ: người đầu tiên sẽ là người cuối cùng, chính khi mất  mạng sống mới có được sự sống, phúc thay cho người khốn khổ… Điều chúng ta muốn, là liên kết thân thiết với thế giới, thậm chí hòa tan vào nó, để làm loãng đi tính hung hãn bản chất con người của chúng ta, ý thức của chúng ta với khuynh hướng ly khai (con người không phải là động vật, chủ thể không phải là vật thể, tinh thần không phải là xác thịt). Chúng ta sẽ phải giải phóng bản thân khỏi những khác biệt này để đón nhận một thực tại sống duy nhất, và từ đó cảm thấy được bao bọc, ôm lấy – và do đó được bảo vệ, an ủi. Vị thần thiên nhiên, thần Cây, Thần động vật có nhiều khả năng làm mê hoặc lại thế giới mà chúng ta đã cơ giới hóa, phá nát, và kitô giáo đòi hỏi chúng ta không xem thế giới này là vương quốc, nơi cư trú duy nhất của chúng ta.

Và khi đó, kitô giáo không là thảm kịch. Nếu kitô giáo trải qua những thảm kịch, thì chúng chỉ tạm thời, chuyển tiếp – được mùa kế tiếp mất mùa, những gì đã mất sẽ được tìm thấy lại. Nhưng chúng ta sống một thời rất khó để hình dung ngày hôm sau ngày thảm kịch sẽ như thế nào. Sẽ sai lầm nếu tiếp tục giải thích điều này bằng một thực tế đơn giản là chúng ta không còn tin vào sự tiến bộ. Về cơ bản, đó là vì chúng ta không còn tin vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng cho chúng ta một hoạch định, một  ý chí và một cứu rỗi. Tóm lại, chúng ta không còn tin vào một Thượng đế mà tin vào con người.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Cái chết của giám mục David O’Connell: chồng của bà quản gia bị bắt

Cái chết của giám mục David O’Connell: chồng của bà quản gia bị bắt

cath.ch, Maurice Page, 2023-02-21

Giám mục David G. O’Connell của giáo phận Los Angeles

Cuộc điều tra về vụ sát hại giám mục David G. O’Connell của giáo phận Los Angeles đang tiến triển. Chính quyền thành phố Los Angeles đã bắt giữ ông Carlos Medina, chồng của quản gia làm việc cho giám mục O’Connell

Cảnh sát trưởng thành phố Los Angeles cho biết các nhà điều tra đã liên kết nghi phạm với tội ác qua video giám sát cho thấy một chiếc xe bên ngoài nhà của giám mục O’Connell vào thời điểm xảy ra vụ giết người. Súng đã được tìm thấy tại nhà của nghi phạm và cuộc thử nghiệm đạn đạo đang tiến hành. Theo truyền thông địa phương, một người cung cấp thông tin đã nói với chính quyền nghi phạm đã cư xử kỳ lạ sau vụ giết người, ông tuyên bố giám mục nợ ông tiền.

Cảnh sát trưởng xác nhận giám mục được tìm thấy trong phòng ngủ của ngài với “ít nhất một vết thương do đạn bắn vào phần trên cơ thể” và không có dấu tích đột nhập vào nhà. Như thế có nghĩa, có thể  ngài đã mở cửa cho kẻ tấn công và do đó ngài biết họ.

Báo động cũng đã được một phó tế đưa ra khi ông đến nhà giám mục O’Connell, vì ông đến muộn trong một cuộc họp. “Các nhà điều tra đang thẩm vấn bà quản gia, bà hoàn toàn hợp tác trong cuộc điều tra.”

Cái chết của giám mục O’Connell đã tác động đến toàn bộ cộng đồng công giáo ở Los Angeles, đặc biệt là những người di cư mà ngài đã chăm sóc họ rất nhiều.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bắt giữ nghi phạm giết giám mục O’Connell. Giáo dân Los Angeles thương tiếc ngài

Afraa, em bé Syria sinh ra dưới đống đổ nát được người thân nhận về

Afraa, em bé Syria sinh ra dưới đống đổ nát được người thân nhận về

Afraa trong vòng tay của người chú Khalil al-Suwadi ngày 21/2. © AFP

parismatch.com, AFP, 2023-02-21

Em bé Syria Afraa sinh ra dưới đống đổ nát của một tòa nhà bị phá hủy bởi trận động đất sẽ rời bệnh viện và về sống với người thân yêu gần Jandairis, phía tây bắc Syria.

Em bé là người duy nhất sống sót trong gia đình, cha, mẹ, anh chị em của em đều chết trong tòa nhà bốn tầng sau trận động đất ngày thứ hai 6 tháng 2 tại Thổ Nhĩ Kỳ và Syria. Trận động đất đã làm thiệt mạng gần 46.000 người.

Những người thân đã cứu em bé sinh ra dưới đống đổ nát, dây rốn còn nối liền với người mẹ đã chết của em trong đống đổ nát.

Phép lạ ở Jandairis, một em bé sinh ra dưới đống đổ nát trong trận động đất ở Syria

Người chú của em là Khalil Sawali nói với hãng tin AFP: “Em bé là linh hồn, là cuộc sống và là cả thế giới của tôi”, ông bế em trong chiếc lều tạm, quấn em trong chăn, em đội mũ đỏ thắt nơ đen.

Người thân đặt cho em tên Afraa, theo tên người mẹ quá cố của em.

Đoạn video về cuộc giải cứu của em Afraa đã lan truyền trên mạng xã hội và Afraa đã gây chú ý trên toàn thế giới, em là em bé phép lạ đã thoát khỏi trận động đất.

Sau mười ngày nằm viện ở một địa phương gần Jandairis, em Afraa đã được xét nghiệm DNA để đảm bảo mối quan hệ gia đình của em với Khalil Sawadi, là người anh họ của cha của em.

Ông Sawadi nói: “Em là ký ức sống của cha mẹ, anh chị em của em. Ngày tôi được biết chúng tôi có thể giữ được em, niềm vui của tôi là vô song, không thể diễn tả được.” Ông hứa, một ngày khi em bé lớn lên, ông sẽ kể cho em nghe câu chuyện ngày em sinh ra đời.

Ông đặt Afraa bé nhỏ xuống một tấm nệm trên sàn và các con gái của anh vây quanh em bé để bế em và hôn em.

Ông cho biết vợ ông vừa sinh con cách đây vài ngày, nhưng ông dành toàn thời gian cho Afraa: “Bây giờ Afraa là con của chúng tôi.”

Marta An Nguyễn dịch

Vụ linh mục Rupnik: thêm 15 nạn nhân mới và một thủ tục giáo luật bất tận

Vụ linh mục Rupnik: thêm 15 nạn nhân mới và một thủ tục giáo luật bất tận

Ngày thứ ba 21 tháng 2, các người có trách nhiệm ở Dòng Tên Rôma  đã củng cố các lệnh trừng phạt linh mục Marko Rupnik, nghệ nhân khảm Slovenia, là đối tượng của nhiều khiếu nại về lạm dụng thiêng liêng và bạo lực tình dục. Dòng Tên thông báo có thêm 15 nạn nhân mới đã được xác định, nâng tổng số lời khai chống lại linh mục Rupnik lên 24 nạn nhân.

la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2023-02-21

Linh mục Marko Rupnik tại xưởng Aletti ở Rôma tháng 11 năm 2007, thực hiện một bức bích họa khảm rộng 160 mét vuông cho mặt tiền của vương cung thánh đường Lộ Đức. VANDEVILLE ERIC/ABC/ANDIA.FR

Mỗi từ được cân nhắc, mỗi câu được đo lường, sau nhiều tuần do dự, ngày thứ ba 21 tháng 2, những người có trách nhiệm của Dòng Tên ở Rôma đã công bố biện pháp trừng phạt mới đối với linh mục người Slovenia và nghệ sĩ khảm Marko Rupnik, bị khép vào tội sờ soạng và cưỡng hiếp dưới sự khống chế tâmlý-thiêng liêng.

Do đó, Dòng Tên buộc phải ngừng mọi “hoạt động nghệ thuật công khai”, điều này được thêm vào lệnh cấm đã có hiệu lực trước đây, cấm tổ chức các buổi hội thảo, cử hành thánh lễ nơi công cộng hoặc rời khỏi khu vực Rôma mà không được phép của cấp trên.

Từ những năm 1980 đến 2018

Các biện pháp trừng phạt này nhằm kết thúc một cuộc điều tra nội bộ do Dòng Tên khởi xướng ngày 18 tháng 12, hai tuần sau những lời khai đầu tiên chống lại linh mục Rupnik. Kể từ đó, ba chuyên gia giáo dân đã thu thập được 15 lời khai mới từ 12 phụ nữ và 3 người đàn ông, họ cho biết họ đã bị “lạm dụng lương tâm, bị sách nhiễu thiêng liêng, tâm lý hoặc tình dục trong những kinh nghiệm cá nhân  quan hệ với linh mục Rupnik”. Những vụ việc này xảy ra từ những năm 1980 đến 2018.

Vụ Rupnik: “Các nạn nhân chờ lời công nhận họ không phải là người đi dụ dỗ”

Bản thông cáo báo chí do linh mục Johan Verschueren ký cho biết, “mức độ đáng tin cậy của mười lăm lời chứng mới này, cọng thêm vào chín lời chứng đã được thu thập năm 2020 ở Slovenia trong Cộng đồng Loyola, được các tu sĩ Dòng Tên đánh giá rất cao.” Linh mục Verschueren phụ trách các ngôi nhà quốc tế của Dòng Tên ở Rôma kể cả căn nhà nơi linh mục Marko Rupnik sống. Linh mục Rupnik được mời trình bày với nhóm điều tra do Dòng Tên thành lập, đã không bao giờ trả lời các yêu cầu.

Bản thông báo ghi: “Bản chất của các khiếu nại nhận được có xu hướng loại trừ khả năng hình sự với các cơ quan tư pháp Ý về hành vi của Cha Rupnik. Tuy nhiên, liên hệ này hoàn toàn khác so với quan điểm giáo luật, liên quan đến đời sống và trách nhiệm tôn giáo và chức linh mục của cha Rupnik.”

“Lạm dụng tâm lý và thiêng liêng”

Linh mục Marko Rupnik đã bị rút phép thông công một thời gian ngắn năm 2020 – trước khi lệnh trừng phạt này được dỡ bỏ – vì năm 2015 linh mục đã xá tội cho một nữ tập sinh mà ông đã tấn công tình dục trước đó. Năm 2018 vụ này được báo cáo cho Dòng Tên dẫn đến các lệnh trừng phạt đầu tiên vào năm 2019.

Ngày thứ ba 21 tháng 2, linh mục Verschueren xác nhận trên trang La Repubblica: “Tôi biết báo chí tập trung vào các khía cạnh tình dục, nhưng xin quý vị tin tôi, những lạm dụng về tâm lý và thiêng liêng còn tai hại hơn nhiều.” Trang La Repubblica và hãng hãng thông tấn Mỹ Associated Press là hai phương tiện truyền thông được Dòng Tên chọn để thông tin về vụ này.

Theo nhật báo La Repubblica, các nhà điều tra do Dòng Tên ủy quyền đã đưa ra một báo cáo dài 150 trang, quan tâm đến “các bài giảng trước đây của Cha Rupnik về tình dục”. Linh mục Verschueren giải thích với nhật báo Ý: “Ý kiến của các nhà thần học là các bài giảng không dị giáo, nhưng có các yếu tố có thể hợp pháp hóa các vi phạm hoặc hành động không đúng.”

Vụ Rupnik: “Các nạn nhân chờ lời công nhận họ không phải là người đi dụ dỗ”

Hậu quả tiếp theo sẽ là gì? Báo cáo của các chuyên gia đệ trình lên các nhà lãnh đạo Dòng Tên sẽ dẫn đến một “thủ tục” nội bộ, những hậu quả có thể xảy ra được bề trên của linh mục Rupnik trình bày chi tiết với nhật báo La Repubblica: bồi thường cho các nạn nhân, nghĩa vụ chăm sóc cho họ, quay về đời sống đền tội và cầu nguyện, thậm chí trục xuất khỏi Dòng. Theo linh mục Verschueren, hình phạt cuối cùng này là mức cao nhất trong giáo luật, có thể ngăn chặn bất kỳ sự kiểm soát nào với “các hành động, quyết định và di chuyển” của Marko Rupnik.

Dòng Tên yêu cầu linh mục Marko Rupnik ở gần Rôma trong thời gian ‘điều tra sơ bộ đang diễn ra’

Minh bạch

Cuộc điều tra giáo luật đầu tiên là từ năm 2018 đến năm 2020, sau lời khai của một nữ tập sinh, linh mục đã tấn công tình dục và sau đó giải tội cho đồng phạm. Năm 2018 vụ này được báo cáo cho Dòng Tên dẫn đến các lệnh trừng phạt đầu tiên vào năm 2019.

Cuộc điều tra giáo luật thứ hai vào năm 2021, tập trung vào các hành vi lạm dụng tình dục và bạo lực với khoảng 20 nữ tu Slovenia. Các chứng từ thu thập được trong một chuyến thăm tông đồ của giám mục  phụ tá Rôma, Daniele Libanori. Các tu sĩ Dòng Tên đã xin bộ Giáo lý Đức tin dỡ bỏ thời hiệu nhưng không được. Bộ đã đóng hồ sơ theo quan điểm tội phạm nhưng không có bình luận nào.

Tuy nhiên, trong giáo luật, có thể mở một cuộc điều tra giáo luật mới dựa trên những lời khai mới, bao gồm cả việc chúng có liên quan đến các sự kiện tương tự như các thủ tục tố tụng trước đó hay không. Đây là con đường mà linh mục Johan Verschueren đã chọn, hy vọng lần này sẽ dẫn đến việc “khám phá ra toàn bộ sự thật”. Bởi vì hồ sơ sẽ không trở lại Vatican: vì không có “tội ác bí tích” mới nào, nên Dòng Tên sẽ lãnh đạo thủ tục. Linh mục Johan Verschueren, nhấn mạnh trên báo chí Ý, với hai lưu ý: các nạn nhân hôm nay được công nhận trong sự đau khổ của họ và không có sự xâm lược nào khác có thể xảy ra.

Linh mục Verschueren hy vọng sẽ không lặp lại tình hình của những năm trước, nghĩa là đã có mơ hồ cho phép linh mục tiếp tục hành động khi ông thấy phù hợp. Nếu các biện pháp kỷ luật đầu tiên năm 2018 được đưa ra như lệnh cấm giải tội và đồng hành thiêng liêng, thì các biện pháp này chỉ được công khai vào tháng 12 năm 2022.

Trong một phỏng vấn dành cho báo La Croix – cuộc phỏng vấn đầu tiên kể từ khi bắt đầu vụ việc – giám mục Dòng Tên Daniele Libanori, Dòng Tên, và là giám mục phụ tá của giáo phận Rôma, năm 2020 ngài được giao nhiệm vụ điều tra ở Cộng đồng Loyola, Slovenia, yêu cầu linh mục Marko Rupnik phải được xét xử: “Các nạn nhân, đã hơn ba mươi năm sau – thời gian tương đương với bản án chung thân – có quyền được nghe lời nói cuối cùng từ chính quyền để dập tắt mối nghi ngờ về tội lỗi và phục hồi phẩm giá của họ khi khẳng định điều gì là sự thật, rằng họ là nạn nhân.”

Vụ Rupnik: Ai tố ai?

“Công việc nghệ thuật”

Dù linh mục Rupnik đã bị cấm giảng dạy nơi công cộng từ nhiều tháng, nhưng lệnh cấm này đã không ngăn cản ông, cho đến cuối năm 2022, đăng các video lên mạng xã hội, tổ chức hội nghị và hướng dẫn  các khóa tĩnh tâm, một trong số đó đã được lên lịch, đã thông báo vào tháng 2 năm 2023 tại thánh địa Loreto, Ý, trước khi bị hủy bỏ.

Những câu hỏi rắc rối được đặt ra trong vụ Rupnik

Cuối tháng 12, trước các nhà báo, Linh mục bề trên tổng quyền Dòng Tên Arturo Sosa, đã thừa nhận những hoạt động này, lẽ ra không nên được tổ chức, đã thoát khỏi sự cảnh giác của Dòng Tên. Ngài cũng nói ngài không có vấn đề gì với việc Marko Rupnik tiếp tục công việc  nghệ sĩ, cho rằng công việc nghệ sĩ không thuộc sứ vụ của ông.

Sau cuộc điều tra này, mà các tu sĩ Dòng Tên đã chọn để thông báo bằng văn bản, sau khi cân nhắc tổ chức một cuộc họp báo, vẫn còn một số câu hỏi, bao gồm các chi tiết về thủ tục giúp dỡ bỏ vạ tuyệt thông năm 2020. Thàng 1 năm 2023, trả lời câu hỏi của hãng thông tấn AP, Đức Phanxicô khẳng định không can thiệp vào hồ sơ này.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Marko Rupnik, vụ tai tiếng mới làm chấn động Giáo hội và Đức Phanxicô

“Thánh lễ truyền thống”: Đức Phanxicô tái khẳng định các giám mục phải được sự chấp thuận của Vatican để cử hành thánh lễ

“Thánh lễ truyền thống”: Đức Phanxicô tái khẳng định các giám mục phải được sự chấp thuận của Vatican để cử hành thánh lễ
Trong một chỉ dụ được công bố ngày thứ ba 21 tháng 2, Rôma yêu cầu các giám mục trên toàn thế giới phải được sự đồng ý của Rôma trước khi ủy quyền cho một linh mục cử hành thánh lễ theo nghi thức cũ, hoặc cho phép cử hành thánh lễ này ở một giáo xứ mới.
la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2023-02-21
Rôma áp đặt một thỏa thuận với các giám mục trên thế giới trước khi ủy quyền cho một linh mục cử hành thánh lễ theo nghi thức cổ (Ảnh minh họa thánh lễ bế mạc theo nghi thức Tridentine ở Chartres tháng 6 năm 2022). FREDERIC PETRY/HANS LUCAS QUA REUTERS
Tin đồn đã lan truyền từ vài tuần nay nhưng một chỉ dụ đã được công bố ngày thứ ba 21 tháng 2. Vatican làm rõ chỉ dụ được hồng y Arthur Roche, bộ trưởng bộ Phụng tự và Kỷ luật ký về các điều kiện chung quanh việc cử hành thánh lễ theo hình thức tiền công đồng. Một văn bản ngắn gọn củng cố thêm sự kiểm soát của Rôma với những người muốn chọn phụng vụ trước cuộc cải cách năm 1969.
Do đó, theo các quy định mới, bất kỳ giám mục nào muốn ủy quyền cho một linh mục được thụ phong sau tháng 7 năm 2021 để cử hành theo nghi thức cũ, bây giờ phải xin phép Rôma. Như thế Tòa Thánh có đặc quyền “trao quyền cho các linh mục được thụ phong sau khi công bố tự sắc Cử hành thánh lễ theo phụng vụ tiền Công đồng, Traditionis custodes để cử hành thánh lễ với Sách lễ Rôma năm 1962”.
Những hạn chế đầu tiên vào tháng 7 năm 2021
Trong một tự sắc xuất bản tháng 7 năm 2021, có tựa đề Traditionis custodes, giáo hoàng đã hạn chế nghiêm nhặt khả năng cử hành thánh lễ theo nghi thức trước Công đồng Vatican II. Kể từ đó, những nơi cử hành thánh lễ theo nghi thức này phải được xác định rõ ràng và việc dùng các sách lễ trước công đồng được quy định chặt chẽ.
Nghĩa vụ phải xin Rôma để ủy quyền cho một linh mục cử hành nghi thức cổ xưa không có trong tự sắc của Đức Phanxicô, nhưng tháng 12 đã được trình bày trong một bức thư do hồng y Roche gởi cho các chủ tịch các Hội đồng Giám mục trên thế giới: “Đây không phải là một ý kiến tham vấn đơn giản, mà là một ủy quyền cần thiết của bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích.”
Nhưng chỉ dụ mới này của Rôma có một điểm thứ hai, sẽ được các nhóm theo chủ nghĩa truyền thống và các giám mục trên khắp thế giới theo dõi chặt chẽ: một giám mục muốn cho phép cử hành thánh lễ theo nghi thức tiền công đồng tại một giáo xứ mới bây giờ phải có sự đồng ý của Rôma.
Kiểm soát chặt chẽ từ Rôma
Sự thay đổi này tạo sự mở rộng một chút về phạm vi giám hộ của việc Cử hành thánh lễ theo phụng vụ tiền Công đồng, các văn bản trước đây đã loại trừ việc cử hành thánh lễ theo nghi thức cũ trong “các nhà thờ giáo xứ” hoặc “các giáo xứ tư nhân”. Hạn chế này hiện đã được dỡ bỏ. Tuy nhiên với điều kiện phải tuân theo sự kiểm soát chặt chẽ của Rôma.
Một dấu hiệu cho thấy giáo hoàng muốn đưa ra điều mà một số người chắc chắn sẽ hiểu là một bước ngoặt mới chống lại các cộng đồng theo chủ nghĩa truyền thống, chế độ ủy quyền mới này không chỉ áp dụng cho các giáo xứ tương lai hoặc các linh mục tương lai được ủy quyền cử hành nghi thức cũ. Nó có hiệu lực hồi tố, vì bất kỳ giám mục nào đã cấp phép như vậy trong quá khứ “được yêu cầu phải thông báo với bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, cơ quan sẽ đánh giá các trường hợp cá nhân” như chỉ dụ mới đưa ra.
Một kiểm soát mà Đức Phanxicô muốn thiết lập, vì ngài sợ việc cử hành nghi thức cổ xưa sẽ là cái cớ để tranh cãi những lời huấn dạy của Công đồng Vatican II.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Cách Đức Phanxicô nhìn những người “truyền thống” như thế nào
Đức Phanxicô cảnh báo chống lại việc đi lui trong phụng vụ

Hồng y Marc Ouellet ủng hộ suy tư thần học về các vụ lạm dụng

Hồng y Marc Ouellet ủng hộ suy tư thần học về các vụ lạm dụng

cath.ch, I.Media, 2023-02-20

Hồng y Marc Ouellet, nữ tu Linda Pocher và hồng y Gianfranco Ghirlanda trong cuộc họp báo do Radio Vatican tổ chức ngày 20 tháng 2 năm 2023 | © Cyprien Viet

Hồng y người Canada Marc Ouellet giải thích: “Chúng tôi có các nghiên cứu xã hội học và lịch sử, nhưng về mặt thần học và luân lý chúng tôi thiếu các công cụ để đi đến một phản ánh toàn cầu và nghiêm túc về vấn đề lạm dụng” trong cuộc họp báo được tổ chức tại Vatican ngày 20 tháng 2 để trình bày Kỷ yếu của Hội nghị chuyên đề về chức linh mục được tổ chức tại Rôma một năm trước đó.

Trong số nhiều vấn đề được đề cập đến trong Hội nghị chuyên đề, hồng y Ouellet nhấn mạnh đến vấn đề “giải thiêng hóa” hình ảnh của linh mục, thẳng thắn đặt ra câu hỏi trực diện: “Có phải hào quang thiêng liêng bao quanh linh mục đã tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ thao túng bạo lực của một số thừa tác viên đồi trụy không”.

Báo cáo Ciase

Chắc chắn ngài muốn nói đến báo cáo Ciase của Ủy ban Độc lập về các vụ Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp, cựu bộ trưởng bộ Giám mục công nhận có một số nghiên cứu đề cập đến “tính cách thánh thiêng của linh mục trong số những nguyên nhân được gọi là ‘hệ thống’ của các vụ lạm dụng”.

Là người nhiệt thành bảo vệ luật độc thân của linh mục và có cái nhìn được cho là truyền thống về hình ảnh linh mục, hồng y Ouellet được biết đến qua sự dè dặt của ngài với những phân tích này. Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh vấn đề lạm dụng này phải được tính đến “trong bất kỳ đề xuất nào về việc cập nhật hóa thần học hoặc mục vụ”.

Trả lời câu hỏi của hãng tin I.Media, hồng y Ouellet, chính ngài đã bị chất vấn về thái độ của ngài khi còn là tổng giám mục giáo phận Québec, thừa nhận rằng “vấn đề lạm dụng đã đặt các giám mục, linh mục và mối quan hệ hỗ tương của họ vào cuộc khủng hoảng”.

Hồng y Ouellet giải thích: “Thượng Hội đồng hiện tại, nhằm mục đích làm nổi bật sự đồng trách nhiệm giữa giáo dân và các thừa tác viên, vì thế phải tạo khả năng xây dựng bầu khí lắng nghe lẫn nhau, chắc chắn điều này đã thiếu trong những thập kỷ trước.” Do đó, việc khám phá lại “mối liên hệ nội tại giữa chức tư tế của các thừa tác viên và chức tư tế của người đã được rửa tội” có thể tạo thành một công cụ quý giá để tránh lặp lại các hiện tượng lạm dụng.

Rủi ro zero là không có

Linh mục Vincent Siret, giám đốc Chủng viện Pháp ở Rôma từ năm 2017 đến năm 2022 giải thích: “Thật ảo tưởng khi tuyên bố có thể loại bỏ hoàn toàn nguy cơ này. Mỗi người phải tái thích hợp ơn gọi rửa tội này, nối kết nó với ơn gọi cụ thể chức linh mục, tuy nhiên, ngài nhấn mạnh, sự thống nhất khác biệt này trong Giáo hội, mỗi người có vị trí của mình giúp hạn chế nguy cơ lạm dụng.”

Trong bối cảnh của Thượng hội đồng, nơi có các cuộc đấu tranh quyền lực làm cho các linh mục trẻ có cảm giác bị “lệch và đặt câu hỏi”, linh mục Siret giải thích rõ “thực tế của Giáo hội không thể chỉ giới hạn trong một thể chế với những công việc phải làm”, linh mục nhấn mạnh: “Các linh mục trẻ đặt ơn gọi của họ trong một tầm nhìn sâu sắc và thần bí hơn về Giáo hội, không thể tương ứng với logic cân bằng quyền lực hay logic của nghị viện.”

Đào tạo tốt hơn và tháp tùng tốt hơn

Là thành phần của hội nghị trình bày Kỷ yếu của Hội thảo chuyên đề, được xuất bản thành hai tập, giám mục thần học gia người Ý Marco Busca của giáo phận Mantua nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc phát triển đào tạo trong các chủng viện. Đảm bảo các linh mục tương lai cũng được các giáo dân đào tạo và đặc biệt là phụ nữ, giúp họ tránh được nguy cơ đào tạo “trong một thế giới khép kín, với hai tốc độ, ít có khả năng tương tác với văn hóa hiện tại”.

Hồng y Marc Ouellet, cần có nhiều phụ nữ hơn trong việc đào tạo các linh mục

Đặc biệt, một “phân định chu đáo hơn” qua quá trình dự bị dài hạn hơn, để nhận ra những khả năng không phù hợp với chức linh mục cũng như những giới hạn có thể có của sự tiến bộ. Giám mục Busca giải thích các rối loạn cụ thể được xác định ở một số chủng sinh đòi hỏi “thời gian để xem lại, chữa lành và trưởng thành”.

Hồng y Dòng Tên Gianfranco Ghirlanda và là nhà giáo luật, thừa nhận mọi trường hợp lạm dụng của một linh mục đều cho thấy “có một điều gì đó không ổn” trong việc đào tạo ở chủng viện. Ngài nhấn mạnh đến tầm quan trọng của “một đào tạo thiêng liêng vững chắc” và việc nhờ đến “sự trợ giúp của khoa tâm lý” để phát hiện các chủng sinh có rủi ro.

Các linh mục trẻ bị bỏ một mình

Hồng y Ghirlanda cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng trong việc đồng hành của giám mục với các linh mục trẻ. Ngài lấy làm tiếc: “Tôi có nhiều phản hồi từ các linh mục trẻ, những người cảm thấy bị chính giám mục của mình bỏ rơi hoàn toàn. Họ đang gặp khó khăn và không biết tìm đến ai,” hồng y nhấn mạnh, nhiệm vụ của các giám mục là đảm nhận vai trò “người cha và mục tử” của mình.

Nữ tu Linda Pocher dòng Salêdiên nhấn mạnh: “Lạm dụng tình dục ở trong một hệ thống rộng hơn, bao gồm lạm dụng thiêng liêng, lạm dụng lương tâm, không chỉ do các linh mục phạm phải. Nếu chúng ta không nhận thức được điều này, chúng ta có nguy cơ đối diện với cuộc săn lùng phù thủy và sẽ đi vào ngõ cụt. Chúng ta sẽ đi tìm một vật tế thần, và các hình thức lạm dụng khác có nguy cơ bị chôn vùi.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Trong Giáo hội, lạm dụng luôn là lạm dụng thiêng liêng

Bắt giữ nghi phạm giết giám mục O’Connell. Giáo dân Los Angeles thương tiếc ngài

Bắt giữ nghi phạm giết giám mục O’Connell. Giáo dân Los Angeles thương tiếc ngài
Tin tổng hợp, 2023-02-20
Một nghi phạm đã bị bắt trong vụ sát hại giám mục David O’Connell ngày thứ bảy vừa qua ở Los Angeles, trong một tội ác gây chấn động cộng đồng công giáo và người nhập cư ở đây.
Các phương tiện truyền thông địa phương FOXLA cho biết vẫn chưa được xác định danh tính nghi phạm, nhưng nghi phạm đã bị bắt tại khu nhà 20400 S. Kenwood Avenue, thị trấn Torrance. Cho đến nay các cuộc điều tra cho biết đây không phải là phát súng do ngẫu nhiên nhưng kẻ bắn giám mục O’Connell là người biết ngài. Giám mục O’Connell, 69 tuổi, bị giết gần Nhà thờ Thánh Gioan Vianney, thuộc giáo phận của ngài ở Hacienda Heights.
Giáo dân trong vùng biểu lộ lòng thương tiếc vô bờ với ngài
Bà Rosa Maria Perez, cùng cháu gái Abigail Gil tưởng niệm cố giám mục David O’Connell tại góc nhà của ngài ở Hacienda Heights, California, ngày 19 tháng 2.
Giám mục O’Connell làm việc ở Nam Los Angeles trong nhiều năm và ngài lo các vấn đề băng đảng ở đây. Ngài luôn là người trung gian hòa giải giữa cư dân và cơ quan thực thi pháp luật sau cuộc nổi dậy bạo lực năm 1992, khi bồi thẩm đoàn tuyên bố trắng án cho bốn sĩ quan cảnh sát Los Angeles da trắng trong vụ đánh ông Rodney King, một người da đen.
Những ngọn nến và lời chia buồn được để lại gần nơi ở của Giám mục David O’Connell ở Hacienda Heights, California, ngày 19 tháng 2.
Trong những năm gần đây, ngài dẫn đầu các nỗ lực của người công giáo trong khu vực để làm việc với trẻ em và gia đình nhập cư từ Trung Mỹ.
Bà Gabriela Gil gặp gỡ giám mục O’Connell lần đầu khi bà mang thai đứa con út, bà cầu nguyện bên ngoài nhà của giám mục O’Connell. Bà  nói: “Tôi chưa bao giờ cảm thấy có người nào thấu hiểu được tôi như ngài.”
Nhiều người choáng váng trước cái chết bi thảm của ngài.
Bà Linda Dakin-Grimm, luật sư nhập cư từng làm việc với giám mục trong hơn một thập kỷ cho biết: “Giám mục dấn thân giúp mọi người gần lại với nhau. Tôi chưa bao giờ gặp ai nói điều gì xấu về ngài. Mọi người yêu quý ngài. Thật khó tin để nghĩ có ai muốn giết hại ngài.”
Bà nhắc lại công việc của giám mục O’Connell với các giáo phận nghèo ở Peru và dấn thân của ngài với các giáo xứ ở Nam Trung bộ Los Angeles. Ngài trả học phí cho những học sinh có nhu cầu hoặc giúp một gia đình nhập cư trả tiền thuê nhà.
Giám mục O’Connell, ở giữa, chụp hình với các tình nguyện viên và một gia đình được ngài bảo trợ xin tị nạn. Hình của luật sư Linda Dakin-Grimm
Luật sư Dakin-Grimm đại diện cho những trẻ vị thành niên không có người đi kèm và những người bị tách khỏi cha mẹ bị trục xuất dưới thời chính quyền Trump. Bà nói: “Ngài luôn ủng hộ những người tôi phụ trách. Ngài là người rất tốt, với một đức tin sâu sắc, một chứng nhân, một người nhân hậu. Tôi không biết làm thế nào để chúng tôi có thể lấp khoảng trống lớn lao và đau lòng này.”
Ông Jose và bà Teresa Diaz hướng dẫn buổi cầu nguyện lần hạt tối chúa nhật 19 tháng 2 ở Hacienda Heights, vùng ngoại ô của Quận Los Angeles. Ảnh RNS của Alejandra Molina.
Ông Jose Diaz là thành viên của hiệp hội nam công giáo, ông cho biết giám mục O’Connell thường tham dự các buổi cầu nguyện của nhóm, “ngài hướng dẫn cho tôi và cho cả nhóm.” Ông nói: “Ngài là ánh sáng của hy vọng và ngài đã hướng dẫn để chúng tôi quay về với Chúa.”
Bà Suzanne Hernandez ở thành phố San Dimas, Thung lũng San Gabriel cho biết: “Giám mục O’Connell là người quan tâm, khiêm tốn và là người của giáo dân, ngài khuyến khích mọi người lên tiếng. Nếu có bất công, ngài khuyến khích mọi người đừng sợ hãi. Ngài là người  đấu tranh cho người nhập cư ở California… Trong môi trường chính trị mà chúng ta không may đang sống, những người như ngài rất cần cho chúng tôi.”
Giám mục O’Connell là người của cộng đồng ở trong cũng như ở ngoài nhà thờ. Ngài tham dự các sự kiện cộng đồng, cùng chia sẻ ăn uống và nói chuyện với các thành viên của cộng đồng di cư Los Angeles. Hình của luật sư Linda Dakin-Grimm
“Ngài là một người trong số chúng tôi.”
Ông Larry Dietz, phó chủ tịch phân hội Hiệp sĩ Columbus ở Thung lũng San Gabriel xem giám mục O’Connell như một ‘hiệp sĩ anh em’: “Ngài là một người trong số chúng tôi. Ngài sẽ làm bất cứ điều gì cho các giáo xứ, cho các Hiệp sĩ, cho gia đình công giáo của ngài. Đó là điều ngài làm, ngài ở đó và chúng tôi luôn ở đó để hỗ trợ ngài. Chúng tôi được dạy để bảo vệ giám mục, linh mục, giáo sĩ của chúng tôi. Vì vậy, bất cứ điều gì họ cần, trong tích tắc, chúng tôi sẽ có mặt.”
Tổng giám mục José H. Gomez của giáo phận Los Angeles tuyên bố: “Ngài là người kiến tạo hòa bình với trái tim dành cho người nghèo và người nhập cư. Ngài có niềm đam mê xây dựng một cộng đồng tôn nghiêm và phẩm giá cho mọi người để mọi người được tôn trọng và bảo vệ.”
Ảnh hưởng của ngài lan rộng trong vùng Los Angeles, trên toàn quốc và toàn cầu.
Một tấm áp phích và chuỗi tràng hạt treo trên một tấm biển được đánh dấu bằng băng hiện trường vụ án để tưởng nhớ cố giám mục O’Connell  tối chúa nhật 19 tháng 2 năm 2023, ở Hacienda Heights. Ảnh RNS của Alejandra Molina
Giám mục O’Connell, 69 tuổi, người Ai-len, năm 2015 ngài được Đức Phanxicô bổ nhiệm làm giám mục phụ tá Vùng Mục vụ San Gabriel của tổng giáo phận. Ngài đã làm việc tại giáo phận Los Angeles từ  45 năm nay. Ngài sinh năm 1953 tại County Cork, Ai-len, theo học ở chủng viện Dublin và được thụ phong để phục vụ tại tổng giáo phận Los Angeles năm 1979. Sau khi chịu chức, ngài làm việc ở các giáo xứ vùng Nam Trung Los Angeles và tập trung vào việc can thiệp các băng đảng.
Cái chết của giám mục O’Connell gây thương tiếc và chấn động ở quê hương Ai-len của ngài, ngài thường về thăm gia đình và bạn bè ở đây.
Trong một tuyên bố sáng chúa nhật, giám mục Fintan Gavin, giáo phận quê hương Cork và Ross của ngài cho biết: “Tin tức về cái chết bi thảm của giám mục David O’Connell ở Los Angeles đã gây chấn động khắp quê hương của ngài. Chúng tôi sẽ cầu nguyện cho ngài trong các thánh lễ khắp giáo phận Cork và Ross trong những ngày tới, xin Chúa lòng lành an ủi gia đình, đồng nghiệp và tất cả tang quyến của ngài. Giám mục David đã làm việc không mệt mỏi vì hòa bình và hòa hợp trong các cộng đồng; giờ đây ngài an nghỉ trong bình an của Chúa.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Cuộc điều tra giết người đang được tiến hành về cái chết của giám mục phụ tá O’Connell, tổng giáo phận Los Angeles

Nhà làm phim bất đồng chính kiến Kirill Serebrennikov: Nga muốn loại bỏ mọi thứ liên quan đến đồng tính”

Nhà làm phim bất đồng chính kiến Kirill Serebrennikov: Nga muốn loại bỏ mọi thứ liên quan đến đồng tính”

Các diễn viên Odin Biron (trái) và Alyona Mikhailova (phải), Kirill Serebrennikov (trước), đạo diễn phim “Người vợ của Tchaikovsky”, ngày 18 tháng 5 năm 2022, trên du thuyền Arte, tại Cannes. AUDOIN DESFORGES/PASCO

Cuốn phim Người vợ của Tchaikovsky (Tchaikovsky’s Wife) của đạo diễn  Kirill Serebrennikov về cuộc đời đồng tính của nhà soạn nhạc đã bị cấm ở Nga. Đạo diễn Kirill Serebrennikov hiện sống lưu vong ở Berlin, trả lời phỏng vấn của báo La Croix, ông lên án thái độ của đất nước ông và cuộc chiến đang diễn ra ở Ukraine.

la-croix.com, Céline Rouden, 2023-02-15

Vì sao ông chọn cách đưa ra hình ảnh của nhạc sĩ Tchaikovsky qua chân dung người vợ của nhà soạn nhạc?

Kirill Serebrennikov: Vì chúng tôi không thể làm một bộ phim chỉ duy nhất về Tchaikovsky. Vì như thế đòi hỏi một cái nhìn lập thể. Nó quá lớn, quá quan trọng, quá phức tạp để có thể chỉ ở trong một bộ. Tchaikovsky là một vũ trụ theo đúng nghĩa của nó. Năm 2016, tôi đã làm phim Máy hát (Le Phonographe) một bộ phim ngắn dựa trên bản ghi âm giọng nói của ông. Một người bạn đã cho tôi biết có bản thâu âm giọng nói của ông. Bà hình dung xem, gần hai trăm năm sau, chúng ta nghe giọng nói của Tchaikovsky và những người bạn của ông. Với tôi, nó giống như mình nghe được giọng nói của Alexander Đại đế hay của Mozart!

Ông giới thiệu Tchaikovsky qua con mắt của bà Antonina, điều gì nơi nhân vật này đã làm ông chú ý?

Tôi bắt đầu từ những bức thư của Antonina, từ những ký ức của bà. Nhiều đến mức các mẫu đối thoại đều trích từ các bản gốc. Chữ “ích kỷ” được bà nhắc đến rất nhiều. Có lẽ vậy, vì ông chỉ chú tâm đến âm nhạc của ông và tất cả những gì quấy rầy ông khi ông sáng tác. Tôi muốn bảo vệ nhân vật Antonina và không giới thiệu bà như một người ngốc, một người tiểu tư sản hơi sơ khai như lịch sử ghi lại. Đó là một người phức tạp và đau khổ. Bà thấy đời mình bị hủy hoại, như cánh bướm bị cháy khi đến gần ngọn đèn.

Âm nhạc có vẻ quan trọng trong tác phẩm của ông…

Nó mang ý nghĩa. Nói về một nhà soạn nhạc thì lại càng tốt hơn, vì vừa như một cơ thể với tất cả những điều kỳ lạ của nó, vừa là âm nhạc như một biểu tượng hoàn toàn độc lập với con người. Tôi không ngạc nhiên khi đạo diễn Ken Russell (1) đã dành cả đời để làm phim về các nhạc sĩ. Và rồi, điện ảnh cũng như âm nhạc. Tôi thiết lập một cấu trúc giao hưởng đưa đến chuyển động.

Bộ phim sẽ không được phát hành ở Nga. Ngày nay tự do sáng tạo là điều không thể sao?

Khi chúng tôi quay phim, chúng tôi biết nó sẽ không bao giờ được chiếu ở Nga. Các quan chức áp dụng các hướng dẫn để loại bỏ khỏi văn hóa bất cứ điều gì liên quan đến đồng tính. Các chính khách và các dân biểu quốc hội ở đất nước tôi nghiêm túc tin rằng nếu chúng ta đọc sách về chủ đề đồng tính, chúng ta sẽ thành người đồng tính. Họ nói: “Hãy cẩn thận, điều này mâu thuẫn với các giá trị của chúng ta!” Ngay khi từ “giá trị” được liên kết với một danh tính, cho dù là người Pháp, người Đức hay chính thống giáo, nó sẽ dẫn đến các danh sách. Những cuốn sách hoặc nghệ sĩ bị cấm. Đó là những gì dẫn đến thiêu cháy và dẫn đến chiến tranh. Đó là những mắt xích của một chuỗi, và cũng phải hết sức cẩn thận với chúng.

Tôi hy vọng, một ngày nào đó, một đứa trẻ sẽ hỏi cha mình: “Có đúng là vào những năm 2020, cha đã chiến đấu chống  người đồng tính và ủng hộ cuộc chiến ở Ukraine không?” Nhưng tại sao lại có sự thù hận này? Cảnh này, tôi đưa nó vào kịch bản của bộ phim tiếp theo của tôi được chuyển thể từ quyển sách của tác giả Olivier Guez, Sự mất tích của Josef Mengele (La Disparition de Josef Mengele, nxb. Grasset) trong đó người con trai chất vấn người cha về tội ác của ông. Bộ phim sẽ được gọi là Mất tích. Ngắn gọn. Vì với tôi, ngắn gọn, đó là sự biến mất tâm hồn con người.

Ông đã quyết định rời Nga ngay sau cuộc xâm lược Ukraine. Ông sống tình trạng lưu vong như thế nào?

Lưu vong là khái niệm tôi không muốn để trong đầu. Tôi có bạn bè ở đây và ở Đức. Tôi làm việc ở đây và ở Đức. Tôi sẽ không nói chuyện tôi rời đất nước là không quan trọng, một đất nước tôi đã sống ở đó rất lâu, nhưng tôi đã bắt đầu một cuộc sống mới và nó tràn ngập những điều tốt đẹp. Điều duy nhất quan trọng với tôi hôm nay là chiến tranh ở Ukraine phải kết thúc và chúng ta bắt đầu dễ thở hơn.

Một đam mê đồi trụy

Là người đồng tính khét tiếng, Piotr Ilitch Tchaikovsky đồng ý kết hôn với một trong những người hâm mộ cuồng nhiệt ông, bà Antonina Milioukova để dập tắt tin đồn động tính và nhờ của hồi môn giúp ông hoàn thành vở opera Eugene Onegin. Cuộc hôn nhân này không phải là một hôn nhân trọn vẹn, và đã làm cho ông kinh hoàng. Nhục nhã, bị bỏ rơi, Antonina ngoan cố kiên trì vượt lên lý trí để tiếp tục là “người phụ nữ” của thiên tài. Đó là cuộc hành trình đến bờ vực của điên rồ, được nhấn mạnh bởi những cảnh kỳ ảo, nhà làm phim người Nga phối hợp với cảm giác chuyển động điêu luyện và một bố cục hình ảnh tài ba qua tranh tối-sáng.

  1. Đạo diễn Ken Russell đã làm một bộ phim về Tchaikovsky và vợ ông, Bản giao hưởng thống thiết, La Symphonie pathétique năm 1970.

Marta An Nguyễn dịch

Bài mới nhất