Home Blog Page 336

Hồng y Cantalamessa chỉ trích các ứng biến trong phụng vụ

Hồng y Cantalamessa chỉ trích các ứng biến trong phụng vụ

Trong bài giảng tuần thứ tư Mùa Chay cho Giáo triều Rôma ở Hội trường Phaolô VI tại Giáo triều Rôma ngày thứ sáu 24 tháng 3, hồng y Raniero Cantalamessa, nhà rao giảng của Phủ Giáo hoàng, kêu gọi chúng ta đừng phí phạm các cơ hội cải cách phụng vụ với những ứng biến tùy tiện và kỳ quái.

Hồng y Raniero Cantalamessa trong buổi giảng cho Giáo triều Rôma

cath.ch, I.Media, 2023-03-24

Hồng y Cantalamessa đề nghị nên giữ “giây phút bình tâm thinh lặng cần thiết sau khi rước lễ. Ngài giảng trước giáo hoàng và các giám chức trong Giáo triều một suy tư về phụng vụ, ý nghĩa của điều thiêng liêng ở một thế giới mà điều này trở nên hiếm hoi. Ngài nhận xét: “Người trẻ cảm thấy cần phải thoát ra khỏi sự tầm thường của cuộc sống hàng ngày, họ muốn đi ra và họ sáng chế ra những phương tiện của riêng mình để đáp ứng nhu cầu này, họ lập ra những buổi tụ tập đông đảo của các ca sĩ và các nhóm nhạc.”

Cảm nhận thiêng liêng

Ngài giải thích, trong phụng vụ, cảm nhận thiêng liêng được trải nghiệm là cảm nhận xác thực, duy nhất, chứ không phải những thế phẩm kế tiếp nhau, vì cảm nhận này được Chúa Thánh Thần khơi dậy chứ không nhờ một thần tượng khơi dậy. Nhưng cảm nhận thiêng liêng này đã có một “tiến hóa”.

Vì vậy trong những thập kỷ gần đây “trong một thời gian ngắn, phụng vụ công giáo đã biến đổi, chuyển từ hành động mang dấu ấn thiêng liêng và tư tế sang hành động có tính cộng đồng và có sự tham dự nhiều hơn. Mọi người có một tiếp cận mới, trực tiếp với Lời Chúa hơn”.

Phụng vụ là “cơ hội để cảm nghiệm thiêng liêng tính, không chỉ ở mức độ cá nhân mà còn ở mức độ cộng đồng”. Ngài giải thích có hai loại thinh lặng, một thinh lặng khổ tu và một thinh lặng thần bí. Thinh lặng khổ tu là thinh lặng qua đó thụ tạo tìm cách vươn lên để đến Chúa, thinh lặng thần bí là thinh lặng do Thiên Chúa khơi dậy, Đấng muốn đến gần thụ tạo.

Ngài khuyên, chúng ta “đừng bao giờ quên giây phút thinh lặng dù ngắn ngủi sau khi rước lễ, ngài cũng lấy làm tiếc một số bài thánh ca la-tinh đã không còn, những bài này đã phục vụ nhiều thế hệ giáo dân thuộc mọi ngôn ngữ bày tỏ lòng sốt sắng của họ với Chúa Giêsu Thánh Thể: Con tôn thờ Chúa hết lòng, Adoro te devour; Bánh Thiên thần Panis angelicus; Kinh Lạy Mình Thánh Chúa, Ave verum.

Ngài cũng làm rõ sự ngưỡng mộ và ngạc nhiên trong phụng vụ được khơi dậy không phải nhờ uy nghi nhưng nhờ sự sỉ nhục của Người Tôi Tớ.

Marta An Nguyễn dịch

Đức Phanxicô xin các cha giải tội đừng đóng vai “bác sĩ tâm thần”

Đức Phanxicô xin các cha giải tội đừng đóng vai “bác sĩ tâm thần”

Ngày thứ năm 23 tháng 3, khi tiếp các tu sĩ tham dự khóa thứ XXXIII về tòa trong do Tòa Ân giải Tông tòa tổ chức, Đức Phanxicô xin “anh em chỉ nghĩ đến việc tha thứ thôi”. Ngài xin các cha giải tội đừng tìm cách đối thoại với ma quỷ cũng như đừng đóng vai “bác sĩ tâm thần”.

famillechretienne.fr, I.Media, 2023-03-24

Trong buổi tiếp kiến này, Đức Phanxicô kêu gọi Giáo hội tái khám phá việc xưng tội, đặc biệt trong thời gian chuẩn bị cho Năm Thánh 2025, ngài xin các chương trình mục vụ của các Giáo hội địa phương dành “một vị trí xứng đáng” cho bí tích này.

Ngài xin không nên để các tòa giải tội bị “trống”, nhưng nên có một cha giải tội thường xuyên, giờ giấc rộng rãi hơn trong tất cả các lãnh vực mục vụ. Ngài nói, không bao giờ để tòa giải tội trống. Giáo dân không đến? Đọc một cái gì đó, cầu nguyện, nhưng xin chờ, họ sẽ đến.

Ngài cũng xin các cha giải tội “đừng bao giờ trò chuyện với ma quỷ” cũng như “đừng đóng vai bác sĩ tâm thần, nhà phân tâm học… không”. Ngài đi ra ngoài bài diễn văn soạn sẵn và nhấn mạnh: “Nếu ai trong số anh em có ơn gọi này, xin anh em làm ở nơi khác, nhưng không làm trong tòa giải tội.”

Ngài giải thích, sứ mệnh của cha giải tội là “đón nhận tất cả mọi người, không thành kiến và tìm cánh cửa để bước vào lòng tha thứ. Và khi anh em không đi vào bằng cánh cửa lớn thì anh em vào bằng cửa sổ và nếu anh em không khơi dậy được lòng ăn năn thì ít nhất cũng khơi dậy ước muốn ăn năn”.

Marta An Nguyễn dịch

“Nếu có bằng chứng về sự tồn tại của Chúa, tất cả các nhà khoa học sẽ là những người có đức tin”

“Nếu có bằng chứng về sự tồn tại của Chúa, tất cả các nhà khoa học sẽ là những người có đức tin”

lemonde.fr, Gaetan Supertino, 2023-03-05

Nhà sử học khoa học và thần học Jacques Arnould khẳng định: “Nghi ngờ vốn có trong sức sống của con người”, theo ông “đức tin là một sự hiếu kỳ vô cùng”. Trong một cuộc phỏng vấn với báo Le Monde, ông cho rằng những người theo chủ nghĩa chính thống tôn giáo và các chiến sĩ khoa học giáo điều không ai đồng ý với ai.

Là cựu tu sĩ Đa Minh, sử gia về khoa học và thần học gia công giáo, từ ba mươi năm nay đã đối đầu với đức tin “trên địa bàn”, đặc biệt là với các nhà thiên văn học, vật lý gia và các kỹ sư của Trung tâm Nghiên cứu Vũ trụ Quốc gia (CNES), nơi ông làm việc trong trách nhiệm của một sứ mệnh đạo đức.

Ông vừa xuất bản quyển Chúa không cần “bằng chứng” (Dieu n’a pas besoin de “preuves”, nxb. Albin Michel), một “tuyên ngôn” ca ngợi sự nghi ngờ và bí ẩn cả trong khoa học và tôn giáo. Trong một phỏng vấn với báo Le Monde, ông cảnh báo chống lại những tuyên bố của khoa học cũng như tôn giáo, đã nhầm lẫn bằng chứng với hành động đức tin.

Quyển sách của ông là quyển mới nhất trong loạt sách gần đây về chủ đề quan hệ giữa khoa học và đức tin, bắt đầu từ tháng 10 năm 2021 với việc phát hành quyển sách bán chạy gây tranh cãi Chúa. Khoa học. Các bằng chứng. Bình minh của một cuộc cách mạng (Dieu. La science. Les preuves. L’aube d’une révolution, Michel-Yves Bolloré và Olivier Bonnassies, nxb. Guy Trédaniel). Ông định viết thêm gì nữa? 

Jacques Arnould. Quyển sách của tôi không phải là câu trả lời trực tiếp cho những tác phẩm này. Nhưng thành công của họ cho thấy loạt sách này thu hút sự quan tâm của người đương thời với chúng ta và nó chưa khép lại. Tôi muốn tham dự vào các phản hồi này trong tư cách là một nhân vật đã quan tâm đến những vấn đề này từ ba mươi năm nay khi tôi tiếp xúc với các nhà khoa học.

Vì đã tham gia vào mối tương quan giữa khoa học và tôn giáo, tôi nhận đủ loại chỉ trích. Một mặt, một số tín hữu trách tôi quá “dán mắt” vào các nhà khoa học, cho rằng tôi “bán chính nghĩa cho họ”, rằng tôi không còn ủng hộ phụng vụ hay Chúa nữa.

Mặt khác, có những nhà khoa học xem tôi là con chuột chũi của Vatican, chất vấn tôi vì sao tôi còn đi lễ ngày chúa nhật, v.v. Ngoài trường hợp cá nhân tôi, đây là những lập trường mà chúng ta thường nghe khi nói đến tương quan giữa đức tin và lý trí. Tôi muốn làm cho họ nghe có một tiếng chuông khác.

Quyển sách của ông gởi đến cả hai bên, không bên nào chấp nhận bên nào, bên theo trào lưu chính thống tôn giáo là những người theo thuyết tạo dựng đi xa đến mức phủ nhận bất kỳ thuyết tiến hóa nào, bên các nhà khoa học nhất định không tiếp nhận bất kỳ ý tưởng nào về tôn giáo hoặc đức tin. Chúng ta thực sự có thể đặt tất cả trên cùng một mặt bằng không?

Trên thực tế, nơi những người theo thuyết sáng tạo, có những tư thế rất không trung thực, nơi những người phủ nhận tiến bộ khoa học thì không thể chối cãi. Nhưng cũng có những nhà khoa học có lập trường hiếu chiến và giáo điều, và những người đổ thêm dầu vào lửa. Tôi muốn nói đến Richard Dawkins, tác giả cuốn Ảo tưởng về Chúa, The God Delusion (xuất bản bằng tiếng Pháp với tựa đề Để chấm dứt với Chúa, Pour en fin avec Dieu, nxb. Perrin, 2018).

Nhà di truyền học nổi tiếng đã dùng ngòi bút của ông để mổ xẻ khá chính xác tất cả những sai lầm của các tôn giáo và những ngõ cụt mà chúng có thể dẫn đến trong lịch sử tư tưởng. Ông bắt đầu một cuộc thập tự chinh chống lại các tín hữu, thậm chí còn đi xa đến mức thành lập một hiệp hội để hỗ trợ các linh mục không còn đức tin.

“Đức tin là tinh thần hiếu kỳ và siêu việt bao la, mang lại sở thích cho cuộc sống”

 

Nhưng chừng nào sự chỉ trích các tôn giáo của ông được hiểu một cách hoàn hảo, được lập luận hóa, thì theo tôi, dường như là thái quá và rơi vào một chủ thuyết giáo điều nào đó khi ông đặt vấn đề về sự tồn tại của Chúa. Theo một cách nào đó, điều này góp phần thúc đẩy những phản ứng ngược lại của những người theo thuyết tạo dựng. Dawkins được biết đến nhiều nhất nhưng ông không phải là người duy nhất. Chẳng hạn vẫn còn một diễn từ trong sinh lý-xã hội học, nói rằng khoa học sẽ giải thích tất cả, rằng nó sẽ điều khiển thế giới, thay thế các tôn giáo, thậm chí cả triết học. Nhưng trên những lập luận nào một yêu cầu như vậy dựa lên? Hoàn toàn không có.

Khoa học vẫn không có khả năng phủ nhận cũng như chứng minh sự tồn tại của Chúa. Các nhà khoa học thuộc về thế giới, họ sẽ không bao giờ có thể thoát ra khỏi thế giới và có một độ lùi đủ để quan sát tất cả. Sẽ luôn có bí ẩn. Để nhắc lại William Blake (1757-1827), ông cho rằng không nhà khoa học nào có thể “nắm giữ vô hạn trong lòng bàn tay của họ” hoặc thấy được “thế giới trong một hạt cát” (Điềm báo của ngây thơ, Auguries of Innocence).

Quyển sách của ông là bài điếu văn thống thiết của nghi ngờ. Có phải xã hội chúng ta đã quên đi những đức tính của nó?

Sự vắng mặt của nghi ngờ mở ra cánh cửa cho các guru, cho những người theo chủ thuyết ý trời và lịch sử đã nhiều lần cho chúng ta thấy những thảm kịch như thế này đã có thể dẫn dắt chúng ta. Nghi ngờ là điều làm chúng ta xúc động, kể cả trong khoa học. Điều thúc đẩy một nhà khoa học là ý tưởng để trả lời cho câu hỏi: “Lý thuyết của tôi có đứng vững không?”. Theo tôi, đây gần như là động cơ chính cho tất cả các nghiên cứu.

Và nó cũng đúng với đức tin. Nghi ngờ vốn có trong sức sống con người, trí tuệ, tinh thần, ngay cả trong tâm lý chúng ta. Không nghi ngờ có nghĩa là ở trong một thứ trật hoàn hảo, bất động. Tôi chỉ biết có một trạng thái được làm như vậy: cái chết. Theo tôi, đức tin là một tinh thần hiếu kỳ vô cùng lớn. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nhận biết, chúng ta không biết mọi thứ. Và chúng ta sẽ không biết tất cả mọi thứ trong cuộc sống này.

Tôi chia sẻ sự khó chịu của một số người công giáo, những người tự hỏi xã hội chúng ta, thế giới chúng ta sẽ đi về đâu, những người cho rằng sự nghi ngờ đang thống trị một cách thái quá, rằng không còn bất kỳ sự chắc chắn hay tiêu chuẩn nào nữa. Nhưng liệu giải pháp có bao gồm việc hài lòng với sự “tái khẳng định các giáo điều và giữ lại chúng”, như đôi khi chúng ta có thể nghe thấy không? Theo tôi, đây là một quan điểm giáo điều chết người.

Giáo điều là ngọn hải đăng. Thật tốt khi có nó trong tầm nhìn, để hướng dẫn chúng ta. Nhưng chúng ta có thể thoát khỏi nó, đến gần nó hơn, ra đi rồi quay lại, khám phá và điều hướng. Tất nhiên vẫn có rủi ro là đôi khi chúng ta mất dấu ngọn hải đăng, đi ra khỏi vùng công giáo, thậm chí ra khỏi kitô giáo, không còn điểm quy chiếu khi đưa ra quyết định mạnh mẽ. Nhưng chúng ta không nên sợ dị giáo, cho chính mình cũng như cho người khác. Dù đáng tiếc là các phiên tòa và các kết án vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Nhưng không có gì buộc chúng ta phải bất động.

Theo tôi, thoát khỏi những xác quyết của mình để cho phép bản thân có khả năng bị chạm vào thứ gì đó mà chúng ta không kiểm soát được, thứ nằm ngoài chúng ta, chính là cốt lõi của ý tưởng về sự siêu việt. Và đó là những gì mang lại hương vị cho cuộc sống.

Dưới góc nhìn này, ông lên tiếng báo động chống lại sự nguy hiểm của “thuyết hòa hợp”, đưa ra ví dụ về một sai lầm nổi tiếng của Giáo hoàng Piô XII (1876-1958). Xin ông giải thích cho chúng tôi hiểu điều này là gì?

Cái mà tôi gọi là “thuyết hòa hợp” là cố gắng dung hòa các niềm tin của mình với chân lý khoa học. Sai lầm của Đức Piô XII là một trong những minh họa nổi tiếng nhất về điều này. Tháng 11 năm 1951, ngài tiếp một nhóm các nhà thiên văn tại Vatican. Trước mặt họ, ngài chúc  mừng các khám phá khoa học mới nhất về sự xuất hiện của vũ trụ và ngài nói đến Vụ nổ lớn. Ngài kết luận: “Đây là những gì chúng ta mong đợi từ khoa học.” Theo ngài, Vụ nổ lớn là chứng minh câu chuyện của Sáng thế ký, Fiat LuxHãy có ánh sáng” thần thánh.

Kinh sĩ công giáo Georges Lemaỵtre (1894-1966), nhà thiên văn học và cha đẻ của thuyết Vụ nổ lớn, đã cố gắng báo động với giáo hoàng nhưng vô vọng, rằng chúng ta không thể giải thích Vụ nổ lớn có thể xảy ra như thế nào, nó vẫn chỉ là một giả thuyết toán học, nhưng không giúp gì được: Đức Piô XII đã không rút lại lời nói của ngài.

Ngày nay chúng ta vẫn còn nghe loại diễn từ này. Tôi hiểu rõ, chúng ta có thể say mê, kinh ngạc trước vẻ đẹp của vũ trụ. Huyền thoại về Vụ nổ lớn là câu chuyện tuyệt vời. Nhưng đừng quên chúng ta không biết gì về thời gian zero của vũ trụ. Ngay cả chúng ta cũng không chắc thực sự có thời gian zero này. Đặt Chúa ở đó sẽ làm cho Ngài thành “người trám lỗ trống”, một Chúa của máy móc, deus ex machina để bù đắp cho sự thiếu hiểu biết của chúng ta.

Rằng ý tưởng về Vụ nổ lớn nuôi dưỡng đức tin của một tín hữu, người, bằng hành động đức tin, nhận ở đó như một hành động thiêng liêng là một chuyện. Nhưng muốn áp đặt lên người khác để làm bằng chứng cho sự tồn tại của Chúa lại là một chuyện khác. Nếu có bằng chứng về sự tồn tại của Chúa, tất cả các nhà khoa học sẽ là những người có đức tin. Hiện nay, chắc chắn có những nhà khoa học lỗi lạc có đức tin, nhưng cũng có nhiều người không.

Còn phép lạ thì sao? Những người tin vào phép lạ không xem phép lạ là bằng chứng cho sự tồn tại của thần thánh sao?

Nhiều bác sĩ nói với tôi, gần như ngày nào họ cũng gặp những trường hợp hồi phục không rõ lý do mà họ không cần can thiệp. Trong số họ, một số cho đây là may mắn, một số cho rằng có một lý do mà chúng ta chưa biết; vẫn còn những người cho rằng họ được lành nhờ Chúa, nhờ Đức Trinh Nữ hoặc nhờ sự can thiệp của thần thánh. Tôi không thấy điều này có gì hại: nếu điều này đến từ chính họ, thì sẽ giúp họ lớn lên trong đức tin, như thế lại càng tốt. Nhưng chúng ta không thể khẳng định điều này chứng minh Chúa tồn tại.

Thực chất, phép lạ là gì? Đó là điều khoa học không thể giải thích được trong những gì được biết hiện nay, theo một tiến trình tin tưởng. Tiến trình này mới thật sự quan trọng: chính hành động của đức tin đã làm nên phép lạ. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu chữa lành cho mười người phong cùi. Nhưng chỉ có một người đi trở lại tạ ơn Chúa. Phép lạ chỉ là bằng chứng cho những ai thấy nó trong hành động thiêng liêng; đối với người khác, phép lạ chỉ là một sự kiện chưa được khoa học giải thích. 

Thần học-thần kinh mà ông đề cập đến trong quyển sách là gì?

Từ lâu các nhà sinh học thần kinh đã quan tâm đến tôn giáo, như cách não bộ phản ứng khi chúng ta cầu nguyện hoặc thiền. Họ phát hiện, khi cầu nguyện hay thiền chúng ta đắm chìm trong những trạng thái ý thức cụ thể, những ánh sáng rất cụ thể sẽ bật sáng vào những lúc này trong não.

 

“Bộ não của chúng ta thích nghi đáng kể với việc thực hành tôn giáo”

 

Một số người đã kết luận Chúa là phát minh của bộ não chúng ta. Những người ủng hộ thần học-thần kinh đưa ra một kết luận khác: theo họ, bộ não của chúng ta thích nghi một cách đáng kể với việc thực hành tôn giáo. Có những đường ống trong não đặc biệt thích hợp để tiếp cận mối quan hệ với Chúa và với siêu việt. Đó có phải là công việc của một trí thông minh cao hơn không?

Một lần nữa, theo quan điểm của tôi, đó là vấn đề của đức tin. Thần kinh học không thể chứng minh hay phủ nhận sự tồn tại của Chúa. Nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản thân mình, và điều đó đã rất đáng chú ý rồi!

Theo ông, tư tưởng của linh mục dòng Tên Pierre Teilhard de Chardin (1881-1955) rất có giá trị để suy nghĩ về mối liên hệ giữa khoa học và tôn giáo. Vì sao?

Linh mục De Chardin sống trong một thời kỳ quan trọng, nửa đầu thế kỷ 20, chứng kiến sự phát triển của nhiều lý thuyết khoa học mang tính quyết định: Vụ nổ lớn, di truyền học, tiến hóa, thời tiền sử, v.v. Bản thân linh mục, với tư cách là một nhà cổ sinh vật học, đã đóng góp vào sự phát triển của những ngành khoa học này, mà ngày nay, cho phép chúng ta có một ý tưởng rõ ràng hơn về nguồn gốc của loài người.

Nhưng ngài luôn là người có đức tin. Đứng trước thế giới mà ngày nay chúng ta biết là có tiềm năng vô tận, trong quá trình tiến hóa có từ hàng tỷ năm, đưa ra khả năng có những người ngoài trái đất và do đó đặt câu hỏi về nghĩa đen các câu chuyện trong Sáng thế ký, ngài không ngừng phát triển một câu trả lời của kitô giáo. Giống như Thánh Phaolô (sinh vào đầu thế kỷ thứ nhất và qua đời khoảng năm 67) hay các Giáo Phụ trước ngài, ngài tự hỏi: công việc của Thiên Chúa có những giới hạn nào? Ngài không thấy một giới hạn nào.

Ý tưởng của ngài là chúng ta đừng bao giờ giảm bớt hành động của Chúa thành những gì chúng ta cảm nhận được từ những vấn đề nhỏ bé của chúng ta trên trái đất ngày nay. Chúng ta là ai để nói Chúa có phương tiện để làm hay không? Rõ ràng là chúng ta không đáng kể trong con mắt của vũ trụ sao? Không rơi vào chủ nghĩa tín điều, vẫn ở trong tiến trình đức tin, chứ không ở trong tiến trình đi tìm bằng chứng, linh mục Pierre Teilhard de Chardin vẫn còn rất hữu ích để làm cho chúng ta hiểu, làm thế nào khoa học có thể đặt câu hỏi về truyền thống, mở ra những quan điểm mới hoặc khám phá lại những điều đã bị lãng quên.

Tác giả Jacques Arnould, thần học gia, kỹ sư nông nghiệp, tiến sĩ về lịch sử khoa học. Cựu tu sĩ Dòng Đa Minh, giám đốc dự án tại Trung tâm Nghiên cứu Không gian Quốc gia (Cnes), hỗ trợ cho các nhà nghiên cứu và kỹ sư về các vấn đề đạo đức.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Các bằng chứng về sự tồn tại của Chúa: “Nghi ngờ là cấu thành của khoa học cũng như của tôn giáo”

Thời thượng thiêng liêng, một thói tự mê trong kitô giáo

Thời thượng thiêng liêng, một thói tự mê trong kitô giáo

Theo Đức Phanxicô, thói thời thượng thiêng liêng được xem là cuộc đi tìm bản thân, thái độ này là mối nguy hiểm chính của Giáo hội. Mùa Chay là dịp để chúng ta chiến đấu chống lại cám dỗ này.

 

la-croix.com, Charles Wright, 2016-02-01

Bữa ăn lễ Giáng sinh chia sẻ với người nghèo, do cộng đồng Sant’Egidio tổ chức tại Rôma. Để chống lại thói thời thượng thiêng liêng, Đức Phanxicô khuyến khích gần gũi với người nghèo. M.Migliorato/CPP/Ciric

Năm 2007, khi còn là hồng y, Đức Phanxicô đã nói trong một tờ báo Ý: “Thói thời thượng thiêng liêng là điều tệ nhất có thể xảy ra cho Giáo hội.” Sau khi là giáo hoàng, chủ đề thời thượng thiêng liêng đã trở thành một trong những chủ đề chính lặp đi lặp lại trong giáo huấn của ngài. Từ các bài giảng đến những huấn dụ, ngài liên tục cảnh báo chống lại điều mà ngài gọi là “ung thư, bệnh phong cùi, con sâu gặm nhấm hủy hoại từ từ”, mối đe dọa nguy hiểm hơn bội giáo vì nó tinh vi hơn.

Tính trung tâm của khái niệm này càng đáng ngạc nhiên hơn vì nó không thuộc về từ vựng truyền thống của Giáo hội. Đức Phanxicô cho rằng nguồn gốc của thói này là từ hồng y Henri de Lubac, ngài đưa ra trong quyển sách Suy niệm về Giáo hội (Méditation sur l’Église, 1953) và xem thói này là mối nguy hiểm lớn nhất, nhưng thật ra tác giả của từ ngữ này là từ cha Anschaire Vonier, tu viện trưởng của một Dòng Biển Đức ở Anh. Theo cha, ý nghĩa của thành mgữ này không tương ứng với những gì “chúng ta thường nghe thấy”.

Đức Phanxicô muốn nói gì về “thói thời thượng”

Tự xem mình là trọng tâm thế giới

Thật ra điều được nhắm đến không phải là sở thích các sự kiện xã hội hay được muốn nổi tiếng. Linh mục Dòng Tên Dominique Salin, giáo sư thần học thiêng liêng tại Trung tâm Sèvres, Paris khẳng định: “Hơn cả tu viện trưởng phòng khách đưa ra những câu cách ngôn tâm linh cho một nhóm phụ nữ hoặc trên truyền hình. Thói thời thượng trước hết là một thái độ thần học: không chịu từ bỏ mình để hướng về Thiên Chúa.”

Học giả Kinh Thánh Régis Burnet tại Đại học Công giáo Louvain-la-Neuve giải thích: “Thánh Gioan nói đó là sống ‘chung quanh tinh thần thế gian’, còn Thánh Phaolô gọi là ‘sống theo xác thịt’, khái niệm này trong Kinh Thánh chỉ nói thế, nhưng khái niệm này bao trùm cái mà các Tổ phụ Sa mạc gọi là ‘vinh quang hão’, Thánh Augutinô gọi là ‘tự yêu mình’, và các nhà tâm linh học người Pháp ở thế kỷ 17 gọi là ‘tự ái’, không dấu gạch nối, nghĩa là chỉ đi tìm chính mình hoặc ‘tinh thần làm chủ’ theo linh mục Dòng Tên Lallemant.” Dưới những tên gọi khác nhau, thời thượng thiêng liêng luôn là cùng một tội: coi mình là trọng tâm thế giới, và vì thế quên Chúa.

Đặt kitô giáo vào nguy cơ trở thành một tôn giáo thế tục

Do đó thói thời thượng tình rập Giáo hội khi Giáo hội rơi vào hai cám dỗ. Cám dỗ thứ nhất là “tự quy chiếu”, theo thành ngữ Đức Phanxicô dùng: thay vì mặt trăng phản chiếu mặt trời, là Chúa Kitô, “người thời thượng nghĩ rằng mình chính là ánh sáng”. Khi đó, Giáo hội ngừng lắng nghe và loan báo lời Chúa để chỉ sống cho chính mình, cho mình và cho mình. Cám dỗ thứ hai là cám dỗ của chủ nghĩa nhân văn, lãng quên Chúa Kitô. Điều mà giáo hoàng gọi là “kitô giáo không có thập giá”. Ngài nói: “Chúng ta có thể gây dựng nhiều điều, nhưng nếu chúng ta không tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô thì chúng ta sẽ trở thành một tổ chức phi chính phủ nhân đạo, chứ không phải là Giáo hội, người phối ngẫu của Chúa. Vì thế dưới một hình thức tinh tế, chủ nghĩa nhân văn này xuất phát từ cùng một thành kiến: đặt con người ở trung tâm, hạ Thiên Chúa xuống phía sau. Và làm cho kitô giáo có nguy cơ trở thành một tôn giáo thế tục.

“Tinh thần thế gian” là gì?

Thói thời thượng thiêng liêng có phải là đặc quyền của các giáo sĩ không? Thật ra, các hành vi cụ thể của nó cám dỗ tất cả các tín hữu kitô, thánh hiến hay không thánh hiến. Đức Phanxicô viết: “Đằng sau vẻ bề ngoài của lòng mộ đạo và thậm chí cả tình yêu đối với Giáo hội, đó là “đi tìm vinh quang của con người thay vì vinh quang của Chúa”.

Cơn sốt của chủ nghĩa tích cực hay cám dỗ của quyền lực

Điều này có thể diễn ra dưới những hình thức rõ ràng: tính phù phiếm của một số mục tử, những người xem “danh dự là mục tiêu chính”, hoặc sở thích quyền lực của những người lợi dụng Giáo hội cho sự nghiệp, với “tâm lý ông hoàng”. Nhưng thói tự mê này nghiêng về những thái độ tinh tế hơn. Việc đi tìm bản thân ngụy trang dưới vỏ bên ngoài của lòng tốt và tâm linh cao cả. Giáo sư Dominique Salin phân tích: “Trong tông huấn Niềm vui Tin mừng Evangelii Gaudium, Đức Phanxicô xếp các kiểu thời thượng khác nhau, với những động cơ ẩn giấu, xứng đáng với tài năng về chủ nghĩa đạo đức của La Bruyère.”

Trước hết, đó là “sự hấp dẫn của Thuyết ngộ đạo của một đức tin bao bọc trong chủ nghĩa chủ quan”. Linh mục Salin giải thích: “Một xu hướng rất thời thượng là ‘điều chỉnh tôn giáo của riêng mình thành thước đo của mọi thứ hay thậm chí là một thuyết lạc giáo Pêlagiô không cần ơn Chúa, một loại tự quy chiếu’. Người tín hữu kitô tự hào trung thành với một phong cách công giáo nào đó trong quá khứ. Công thức phức tạp này nhắm đến tất cả những ai đặt niềm tin vào các nghi thức, thực hành. Họ nói: ‘Tôi rước lễ đúng hình thức, tôi làm lễ Phục sinh vậy tôi được cứu’, nhưng đó là Thiên Chúa họ tìm kiếm hay họ tìm an toàn cho họ?”

Đức Phanxicô cũng trích dẫn trường hợp của những linh mục này, họ bị cuốn theo cơn sốt hoạt động, hoặc say sưa với thành công, hoặc trở thành những người đơn thuần quản lý, những người được trang bị các số liệu thống kê, ít bảo vệ Dân Chúa, họ bảo vệ Giáo hội với tư cách là một tổ chức. Linh mục Salin kết luận: “Không thể liệt kê tất cả các biến thể của nó. Điều quan trọng là phải hiểu tất cả chúng ta, ở những mức độ khác nhau, đều bị ảnh hưởng bởi tính thế gian này, những hiện thân của nó là những hậu quả hữu hình về mặt xã hội của tội nguyên tổ trong đời sống Giáo hội. Làm sao tránh khỏi sự tàn phá của sự dữ này, thứ nặng hơn rượu mạnh uống khi bụng đói dẫn đến đời sống hai mặt, tội lỗi của những người pharisêu tôn vinh Thiên Chúa bằng môi miệng, nhưng lòng họ xa cách Ngài? Đức Phanxicô đưa ra một số biện pháp khắc phục: tiếp xúc với người nghèo; liên kết với Chúa Kitô qua cầu nguyện; cuối cùng là thoát khỏi chính mình và mở ra những vùng ngoại vi, giúp chúng ta thoát ra khỏi việc tự quy vào chính mình, ẩn mình sau một vẻ bề ngoài tôn giáo không có Chúa”.

“Một dạng ngôi sao làm chúng ta mất thăng bằng”

Cha Geoffroy de la Tousche, chánh xứ Dieppe

“Đối với linh mục, thói thời thượng thiêng liêng trước hết là cám dỗ tự tách biệt. Họ phải gánh trách nhiệm đến mức có nguy cơ họ tự nhủ: ‘Tôi có một ngàn giáo dân, như thế cũng không đến nỗi tệ!’ Vì vậy, chúng ta ở giữa chúng ta, giữa những người tốt, chúng ta nghĩ mình đẹp, và chúng ta nghĩ mình có phước. Sự tự mãn này làm cho giáo xứ trở thành thước đo của chúng ta, chứ không phải thước đo của Tin Mừng. Cũng có nguy cơ bị say sưa bởi những lời khen, tâng bốc, quyền lực. ‘Cha thật giỏi, may mắn là có cha ở đây!’ Hình thức ‘ngôi sao hóa’ này có thể làm linh mục mất thăng bằng. Ngoài ra còn có các thủ tục giấy tờ, hành chính. Nhưng Chúa Kitô không đến thế gian để chủ tọa các buổi họp! Chủ nghĩa hình thức quản lý này bóp nghẹt lòng nhiệt thành, tinh thần sứ mệnh. Đúng vậy, trong đời sống linh mục, mọi sự đều hợp với tính trần tục, đó là việc bị cố định, bị dính chặt vào một vai trò, một thái độ, thay vì chuyển động, loan báo Tin Mừng thì điều chỉnh thừa tác vụ của mình sao cho phù hợp với những gì mình nghe bên ngoài. Điều bảo vệ linh mục khỏi sự dữ này là mỗi buổi sáng quỳ gối trước thánh giá, và đi ra ngoài, càng xa càng tốt để gặp giáo dân trong cuộc sống bình thường của họ.”

“Rủi ro bám vững chắc vào các tiêu chuẩn hiệu năng của thế gian”

Bà Florence de Leyritz, đồng sáng lập khóa đào tạo “Mục tử theo trái tim tôi”

“Khi phát động khóa đào tạo về quản lý mục vụ, ‘Mục tử theo trái tim tôi’, chúng tôi nhớ lời cảnh báo của Đức Phanxicô với những nhà lãnh đạo Giáo hội áp dụng các mô hình quản lý và tổ chức của thế giới kinh doanh. Qua điều này, ngài muốn nhắc chúng ta nguy cơ của tính thế tục mà Giáo hội gặp phải khi quá gắn bó với những tiêu chuẩn hiệu năng của thế gian. Ơn gọi của Giáo hội không phải là thành một tổ chức đẹp, được tổ chức tốt, với những mục tiêu tốt đẹp được cân nhắc; tất cả những điều này chỉ là phương tiện đơn giản phục vụ mục đích cuối cùng: loan báo Nước Trời cho mọi người. Vấn đề không phải là thần tượng hóa các quy trình, công cụ, kỹ thuật, phương thức quản trị, mà là đặt chúng phục vụ giáo dân để họ dấn thân vào điều mà Đức Phanxicô hết lòng đòi hỏi: hoán cải truyền giáo và mục vụ cho giáo dân, cho giáo xứ, mà ơn gọi không phải là việc chăm sóc công việc kinh doanh như chăm sóc cửa hàng – hình thức nghiêm trọng nhất của thói thời thượng thiêng liêng – nhưng là loan báo Chúa Kitô cho toàn thế giới.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Khi ma quỷ can dự vào: Năm vết thương của thời thượng thiêng liêng

Mùa Chay với các Tổ phụ Sa mạc: đức khiêm nhường

Mùa Chay với các Tổ phụ Sa mạc: đức khiêm nhường

Mùa Chay! Trong 40 ngày, chuyên gia về các Tổ phụ Sa mạc sẽ đồng hành với chúng ta trên con đường dẫn đến Lễ Phục Sinh. Một hành trình trong đức tin, lắng nghe Lời Chúa, hướng về nguồn tưới mát cho chiều sâu tâm hồn chúng ta.

lavie.fr, Jean-Guilhem Xerri, 2023-03-23

Tôi được biết một số anh chị em đã gặp nhau để thảo luận về các bài giáo huấn Mùa Chay các Tổ phụ Sa mạc đã gởi đến chúng ta để chúng ta chuẩn bị đón nhận cái chết và phục sinh của Chúa: điều này như một cách để tẩy uế nội tâm, mở tâm hồn ra với người khác, giúp chúng ta phân định, mang tình yêu của Chúa đến cho người khác, cầu nguyện, suy gẫm để chúng ta kết nối với nguồn Sự sống của Chúa.

Tôi rất vui, vì tôi xác tín Mùa Chay không phải là thời gian để sống một mình, nhưng ngược lại, là dịp để chúng ta cùng nhau chia sẻ. Và tôi ghi nhận mỗi người đã cố gắng thực hiện lời đề nghị này theo cách riêng và theo nhịp sống của mình, tùy theo tình trạng cuộc sống hoặc sức khỏe, những sự kiện trong cuộc sống phải trải qua, cũng như thời tiết nội tâm và mong muốn của chúng ta!

Những gì được nói bên ngoài lời nói

Tôi cũng rất vui khi thấy anh chị em chia sẻ với nhau, vì tôi biết có thể tôi đã nói nhiều và tôi phải cẩn thận để lời nói của tôi không chiếm nhiều chỗ hơn giáo huấn của các Tổ phụ Sa mạc, những người đã hướng chúng ta đến với Lời Chúa.

Nếu tôi có mối quan tâm này, chắc chắn vì tôi đã chú ý đến hai tấm gương. Đầu tiên là gương của tổ phụ Agathon. Tương truyền ngài đã ngậm viên sỏi trong ba năm để có thể giữ im lặng.

Mùa Chay với các Tổ phụ Sa mạc: khổ hạnh

Tìm câu thích hợp giữa lời nói và im lặng là điều không dễ dàng chút nào. Nhưng chính im lặng là trạng thái chúng ta nhìn lại chính mình, đào sâu bản thể và các mối quan hệ của mình, dù khi điều này có vẻ phản trực giác. Lắng nghe im lặng là mạo hiểm để nghe những gì được nói ngoài lời nói. Giống như các Tổ phụ, tôi nghĩ chất lượng của im lặng nói lên điều gì đó về chất lượng tình yêu và tâm hồn chúng ta.

Đi vào thinh lặng chính đáng, là có một kinh nghiệm nào đó về buông bỏ, như Truyền thống đã nói, đó là mặc lấy chiếc áo của con người nội tâm. Một Tổ phụ đã có một câu tóm tắt rất hay: “Nói thì phân tán, im lặng là hợp nhất.” Tôi sẽ phải bắt đầu bỏ những lời nói vô ích. Như thế sẽ là một khởi đầu tốt.

Một vài phương cách để phát triển tính khiêm nhường

Gương thứ hai là của Tổ phụ Amma Syncletic, một Người Mẹ Sa mạc. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu bạn chưa bao giờ nghe nói về Mẹ vì Mẹ làm mọi cách để ẩn mình. Mẹ xem đức tính khiêm tốn là “điều kiện” để phát triển đời sống thiêng liêng. Mẹ nói: “Chúng ta không thể đóng con tàu mà không có đinh, thì chúng ta cũng không thể tự cứu mình nếu không có đức khiêm tốn.”

Khiêm tốn là thái độ cơ bản phải đi kèm với tất cả các lời khuyên thực tế. Nó là liều thuốc giải độc cho căn bệnh thiêng liêng nền tảng: xem mình là trọng tâm, là nguồn gốc và cùng đích của chính mình, không thể chiêm nghiệm những thực tại khác, những thực tại mà các giác quan của cơ thể và tâm linh mang lại cho chúng ta. Tôi hiểu tất cả những cố gắng thiêng liêng của tôi là vô ích, nếu những cố gắng này không được thúc đẩy bởi một tinh thần khiêm tốn.

Mùa Chay với các Tổ phụ Sa mạc: Làm việc bác ái

Tôi đi theo một vài chỉ dẫn của Mẹ Syncletic để phát triển đức tính khiêm nhường: được đồng hành (để nhận lời khuyên và đặt mình vào tư thế sẵn sàng lắng nghe và dưới cái nhìn của người khác), ghi nhớ những lợi ích Chúa đã dành cho chúng ta, nhận ra chính xác điểm mạnh và điểm yếu của mình, đánh giá cao những người xung quanh, phục vụ, lắng nghe người khác, đón nhận những lời chỉ trích mà không phản ứng thái quá, ghi nhớ những thất bại và tổn thương của mình, vui mừng trước thành công của người khác, luôn giữ tâm tình biết ơn… Điều chỉnh lại con người mình, không làm lấy lệ, không ồn ào, đó là một dấu hiệu khá tốt về mặt tâm linh, đúng không?

Mùa Chay với các Tổ phụ Sa mạc: cầu nguyện

Khám phá đời sống nội tâm với các Giáo phụ sa mạc

Jean-Guilhem Xerri. Nhà phân tâm học, nhà huấn luyện, cựu nội trú các Bệnh viện Paris, có trách nhiệm trong bệnh viện và môi trường liên kết. Ông là chủ tịch hiệp hội Aux captifs la libération. Là tác giả của một số sách như Hãy về sống lại với nội tâm (Revivez de l’intérieur, nxb. Cerf, đã dịch ra tiếng Việt  trên trang Phanxicô), Chăm sóc tâm hồn bạn (Prenez soin de votre âme) và Đời sống sâu đậm (La vie profonde).

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Mùa Chay với tác giả Jean-Guilhem Xerri và các Tổ phụ Sa mạc 

Đổi mới trong quản trị của giáo hoàng

Đổi mới trong quản trị của giáo hoàng

Phỏng vấn. Gia tăng các bổ nhiệm ở vùng ngoại vi và Nam bán cầu, trở lại với các vấn đề quản trị…: nhà viết xã luận và khảo luận người Ý Massimo Franco giải thích cách mà cơ quan có trách nhiệm bầu chọn các giáo hoàng đã phát triển dưới triều Đức Phanxicô.

lavie.fr, nhà báo Marie-Lucile Kubacki phỏng vấn, 2022-12-01

Các bổ nhiệm của Đức Phanxicô ngày 8 tháng 3 năm 2020 tại Vatican tập trung vào các vùng ngoại vi và phía Nam bán cầu, châu Mỹ la-tinh và châu Á.  ©MARIA GRAZIA PICCIARELLA/ROPI-REA

Nhà viết xã luận Massimo Franco cho nhật báo Ý Corriere della Sera, là tác giả của bài tiểu luận Il Monastero (Solferino, 2022, bằng tiếng Ý) muốn ám chỉ đan viện Mẹ Giáo hội, nơi Đức Bênêđíctô XVI sống sau khi từ nhiệm.

Trong bài xã luận, ông phân tích quan hệ giữa Đức Phanxicô và Đức Bênêđíctô XVI, nhưng rộng hơn là giữa Đan viện Mẹ Giáo hội và Nhà Thánh Marta nơi Đức Phanxicô ở. Tại đây ông triển khai luận điểm theo đó quản trị phải là một trong những vấn đề chính của mật nghị tiếp theo, trước những giới hạn của Đức Bênêđíctô XVI và Đức Phanxicô.

Đức Phanxicô đã lập hồng y đoàn như thế nào và ai sẽ bầu chọn giáo hoàng tiếp theo? Chúng ta đã thấy chân dung các mục tử, các nhà truyền giáo những cũng khó để thấy các dòng ảnh hưởng.

Massimo Franco: Theo tôi, xu hướng chính trong các bổ nhiệm của ngài dường như muốn đi ra khỏi phương Tây và tập trung vào các vùng ngoại vi và miền Nam, Châu Mỹ la-tinh và Châu Á, không chỉ chọn hồng y ở các quốc gia phía nam, nơi có nhiều hữu kitô mà còn ở những nơi có rất ít tín hữu.

Công nghị sắp tới, Đức Phanxicô sẽ phong nhiều hồng y hơn để đảm bảo người kế vị

Một xu hướng khác là không bổ nhiệm các tổng giám mục ở những giáo phận lớn như Paris hoặc Milan làm hồng y. Các tân hồng y xuất thân từ những môi trường rất khác nhau và không biết nhau, nên rủi ro là có thể bị các đại cử tri lèo lái khi có mật nghị tiếp theo.

Có phải khi hướng về Nam bán cầu thì ít có khả năng bầu giáo hoàng Âu châu hơn không?

Ngược lại, theo tôi, khi muốn chuyển về phía Nam, ngài như có xu hướng hờn dỗi với phương Tây phiá Bắc như Hoa Kỳ và châu Âu, những nơi ngài tỏ ra rất phê phán, nuôi dưỡng ấn tượng về một giả định chống phương Tây, nhất là khi ngài nói Âu châu như “bà ngoại già” để chỉ trích sự vô sinh ở đây.

Vì thế, động lực Đức Phanxicô thúc đẩy cho miền Nam và các vùng ngoại vi sẽ không nhất thiết dẫn đến việc bầu chọn một giáo hoàng từ miền Nam trong mật nghị tiếp theo. Theo tôi, có vẻ như xu hướng ủng hộ châu Âu của con lắc có nhiều khả năng xảy ra hơn.

Các tân hồng y, những giám chức với nhân cách tôi rèn và một lý lịch đặc biệt trong đường lối Bergoglio

Trong quyển sách của ông, ông viết mật nghị tiếp theo sẽ diễn ra một phần trên các vấn đề quản trị: vì sao?

Vì cả mô hình quản trị của Đức Bênêđíctô XVI và của Đức Phanxicô chứng minh cho thấy là không phù hợp, và như thế phải   phát minh lại. Một trong những vấn đề sẽ là vị trí của Phủ Quốc vụ khanh, mà vai trò của Đức Phanxicô đã suy yếu đáng kể trong tổ chức mới của Giáo triều.

Trách nhiệm với cách tiếp cận này cũng thuộc về Đức Bênêđíctô XVI, bất chấp tất cả, ngài luôn giữ bên cạnh ngài hồng y ngoại trưởng Tarcisio Bertone, một nhân vật nham hiểm. Hồng y đã cư xử như một phó giáo hoàng, gây thiệt hại cho Đức Bênêđíctô XVI rất nhiều.

Tuy nhiên, cán cân Đức Phanxicô đưa ra đối với Phủ Quốc vụ khanh chắc chắn đã đi quá xa và vấn đề trả lại cho ngài một vị trí trung tâm nhất định sẽ được đặt ra.

Theo ông, các mô hình quản trị đã thất bại như thế nào?

Sự thất bại trong việc quản lý theo sau bởi Đức Bênêđíctô XVI, giao quyền cai trị cho Giáo triều, cho thấy việc ngày càng mất khả năng quản lý, các vụ tai tiếng đã đầu độc cuối triều giáo hoàng của ngài. Còn Đức Phanxicô thì ngài thiết lập một giáo triều song song, gồm người thân và bạn bè, những người mà chức năng của họ dường như dẫm lên các cấu trúc truyền thống hơn là chấp nhận và nâng đỡ.

Những lời chỉ trích lặp đi lặp lại của ông đối với Giáo triều la-mã  và Vatican (Victor Manuel Fernandez, một trong những nhà thần học người Argentina mà ông gần gũi nhất, còn đi xa đến mức cho rằng giáo hoàng không nên lúc nào cũng sống ở Rôma…), cùng với một chủ nghĩa độc đoán nào đó trong quản trị đã dấy lên căng thẳng, thất vọng và oán giận trong nội bộ.

Thất bại của mô hình này là thất bại của một thể chế mà quyền lực và sự công nhận phụ thuộc vào sự gần gũi giáo hoàng, điều không thể tưởng tượng được trong thế giới đương đại. Thật vậy, điều này để quá nhiều chỗ cho  ngẫu nhiên và thiếu minh bạch trong các nơi ra quyết định. Giống như lần trước, khi chúng ta biết, chính hồng y Angelo Becciu cho biết, giáo hoàng đã điện thoại báo cho hồng y biết, ngài có ý định phục hồi chức hồng y cho ông, chức vụ mà ông bị tước bỏ trước khi xét xử. Đây là những cách rất khó hiểu để tiến hành.

Có phải sự cùng tồn tại của Đức Bênêđíctô XVI và Đức Phanxicô đã làm nổi bật sự phân cực trong Giáo hội công giáo không?

Không tôi không nghĩ như vậy. Về cơ bản, khi Đức Phanxicô được bầu chọn, ngài hy vọng Đức Bênêđíctô XVI có thể giúp ngài vượt lên chia rẽ giữa người bảo thủ và người cấp tiến vốn đã tác động trên triều giáo hoàng của ngài, để tạo một hợp nhất mới.

Người ta thường chỉ trích triều Đức Phanxicô “sống trong bóng” của giáo hoàng danh dự, nhưng đừng quên chính Đức Phanxicô đã nhờ giáo hoàng danh dự khi ngài gởi bản thảo cuộc phỏng vấn đầu tiên của ngài với tạp chí Văn minh Công giáo!

Chừng nào Đức Phanxicô còn ở trang nhất các báo và khơi dậy nhiệt tình của đám đông bằng cử chỉ nhỏ nhất, lời tuyên bố ít nhất của ngài, những cải cách được công bố sẽ tạo mong chờ và quan tâm, thì Đan viện của giáo hoàng danh dự được xem là những người cộng tác trong các cuộc cải cách đang diễn ra mà không đáng sợ.

Kể từ thời điểm những cải cách này thành hình và những khó khăn bắt đầu cho Đức Phanxicô thì từng chữ của Đan viện Mẹ Giáo hội đưa ra mang một ý nghĩa khác, tạo căng thẳng giữa các vòng quyền lực chung quanh hai giáo hoàng. Ngày nay, Giáo hội chắc chắn bị phân cực hơn bao giờ hết, nhưng sẽ quá dễ dàng để đổ trách nhiệm cho chính sự cùng tồn tại này.

Họ có phải là nạn nhân của những người xung quanh không?

Tôi nghĩ thực sự như vậy, dù tôi không muốn xem điều này như bằng chứng ngoại phạm để miễn cho họ bất kỳ trách nhiệm nào. Trên thực tế, họ là nạn nhân của những lựa chọn mà họ đã thực hiện. Một mặt, khi từ nhiệm, Đức Bênêđíctô XVI đã viện lý do sức khỏe để biện minh cho quyết định của mình. Tuy nhiên, thực tế là ngài vẫn ở đó 10 năm sau, tạo nghi ngờ cho các lý do ngài từ nhiệm.

Mặt khác, vì Đức Phanxicô ngày càng bị đổ lỗi cho nhiều vấn đề. Tương quan của ngài về học thuyết (dù trên cơ sở này, ngài không quá khác biệt so với Đức Bênêđíctô XVI), nhấn mạnh đến  mục vụ liên quan đến học thuyết đã làm cho một số lớn người công giáo bối rối. Phương thức quản trị của ngài như đã nêu trên,  đang ngày càng cho thấy những giới hạn của nó.

Và rồi cách tiếp cận với phương Tây này, họ vốn cảm thấy bị coi thường đã nuôi dưỡng oán giận và duy trì các chia rẽ. Tất cả những điều này đã thổi bùng như bong bóng.

Kể từ khi có cuộc tranh cãi khi quyển sách Từ sâu thẳm trái tim chúng ta, của hồng y Sarah với sự đóng góp của giáo hoàng danh dự thì sự im lặng dường như ngự trị ở Đan viện. Đây có phải là hồi cuối của những căng thẳng khơi lên do sự sống chung chưa từng có của hai người mặc áo trắng trong các bức tường của Vatican không?

Tôi nghĩ sự im lặng này trước hết tùy thuộc vào một thực tại thể lý. Trong những tháng gần đây, Đức Bênêđíctô XVI đã không còn nói dễ dàng. Ngoài ra ngài đòi hỏi không làm như vậy nữa, để không nuôi ấn tượng về sự khác biệt quan điểm giữa ngài và đương kim giáo hoàng, như trong bối cảnh căng thẳng của cuộc chiến ở Ukraine, căng thẳng giữa Đức Phanxicô và thế giới chính thống giáo.

Thực tế là lời nói của Đức Bênêđíctô XVI có tiếng vang đáng kể hơn hết vì nó rất hiếm, không giống như lời của Đức Phanxicô được lan truyền nhiều trên các phương tiện truyền thông làm mất tác động khi ngài liên tục trả lời phỏng vấn. Trò chơi soi gương này cũng là một trong những lý do làm tình trạng cùng chung sống trở nên khó khăn.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Đức Phanxicô đối diện với Giáo hội tiếp theo

Đức Phanxicô, giữa thực tế và thể hiện

Đức Phanxicô, giữa thực tế và thể hiện

mondayvatican.com, Andrea Gagliarducci, 2023-01-23

Tin tức về việc linh mục tâm lý trị liệu người Pháp Tony Anatrella bị cấm xuất hiện công khai nhưng không bị xuống cấp giáo dân, sau khi bị Vatican kết án lạm dụng đến với Đức Phanxicô khi dư âm của vụ án Rupnik chưa lắng xuống. Quyết định trong vụ án Anatrella một lần nữa chứng minh, mặc dù được giới truyền thông chú ý rất nhiều, Đức Phanxicô đã không đi chệch nhiều so với các tiền nhiệm trong các quyết định của ngài về cuộc chiến chống lạm dụng.

Ngài đã thành lập Ủy ban Giáo hoàng Bảo vệ Trẻ vị thành niên và ngài đã triệu tập một hội nghị thượng đỉnh gồm các chủ tịch Hội đồng Giám mục từ khắp nơi trên thế giới về Rôma  tháng 2 năm 2019 để thảo luận cách giải quyết vấn đề. Thêm nữa, sau cuộc họp, ngài đã thực hiện một số biện pháp để giúp giải quyết tốt hơn các vụ tai tiếng lạm dụng tình dục của giáo sĩ.

Tuy nhiên, tất cả những điều này phải được đọc trong một bối cảnh rộng hơn. Có lẽ, các quyết định của ngài phải được xem là thực hiện tự nhiên các biện pháp đã được đưa ra trong quá khứ. Dĩ nhiên có những yếu tố mới, nhưng đường hướng xét xử là như nhau. Thậm chí Đức Phanxicô còn cho phép nhiều trường hợp ngoại lệ hơn và cá nhân hơn trong các quyết định của ngài.

Quyết định không giảm linh mục Anatrella xuống cấp bậc giáo dân nhắc lại việc Đức Bênêđictô XVI đã làm với cựu linh mục Marcial Maciel, người sáng lập Binh đoàn Kitô, người đã sống hai mặt và ba mặt, là kẻ lạm dụng, thao túng hàng loạt và là người nghiện ma túy. Khi còn là bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, hồng y Ratzinger đã gặp rất nhiều khó khăn khi mở hồ sơ  Maciel. Khi là giáo hoàng, ngài đã trừng phạt nhưng vì khi đó cựu linh mục Maciel đã ở cuối đời nên ngài không muốn hạ linh mục Maciel xuống tình trạng giáo dân, mà buộc linh mục  phải sống cuộc sống đền tội riêng tư.

Trong cuộc họp của Ủy ban Công ước chống Tra tấn năm 2014, Vatican đã tiết lộ Đức Bênêđictô XVI đã giảm 848 linh mục xuống cấp giáo dân, và 2.572 linh mục nhận các bản án nhẹ, trong số khoảng 3.400 trường hợp được báo cáo với Tòa Thánh từ năm 2004 đến năm 2014.

Nói tóm lại, không chỉ có một hoạt động điều tra ráo riết mà còn cả việc xét xử và trừng phạt những kẻ bị kết tội lạm dụng. Trong ‘năm khủng khiếp’ annus horribilis 2010, khi các trường hợp lạm dụng linh mục trở thành tin tức hàng ngày, Đức Bênêđictô XVI đã phản ứng bằng cách đưa Giáo hội đền tội tại Fatima, cầu xin sự tha thứ cho tội lỗi của con cái mình, và cũng bằng cách loại bỏ thời hiệu với loại tội ác này, làm cho quy định được cụ thể hơn.

Về phần mình, Đức Phanxicô đã cho biết ngài sẽ không bao giờ ân xá khi có phán quyết về tội lạm dụng. Về khung pháp lý, ngài siết chặt các hình phạt. Ngài dỡ bỏ bí mật giáo hoàng (dù việc hợp pháp hóa có vẻ hơi mơ hồ), ngài tiếp tục gặp các  nạn nhân bị lạm dụng, công việc đã được Đức Bênêđictô XVI bắt đầu.

Không phải ngẫu nhiên mà nhiều lần Đức Phanxicô nhắc đến Đức Bênêđictô XVI như người cho ngài động lực và khởi xướng việc chống lại các lạm dụng trong hàng giáo sĩ.

Tuy nhiên, nhận thức của các phương tiện truyền thông là Đức Phanxicô đại diện cho một thay đổi cơ bản trong cuộc chiến chống lạm dụng. Một số quyết định đưa ra một nhận thức cụ thể như việc thành lập Ủy ban Giáo hoàng Bảo vệ Trẻ vị thành niên. Cần lưu ý cuộc chiến chống lạm dụng được đề cập trong một khóa học đặc biệt Học viện Giáo hội, nơi đào tạo các nhà ngoại giao Vatican và các sứ thần tương lai.

Phải nói về vấn đề lạm dụng, có một triều giáo hoàng của truyền thông và một triều giáo hoàng thật. Các phương tiện truyền thông đại chúng mô tả ngài cam kết với một đường lối cứng rắn không khoan nhượng, không có ngoại lệ. Nhưng trên thực tế, Đức Phanxicô đã đưa tổng giám mục Gustavo Zanchetta về làm việc ở Vatican với một nhiệm vụ đặc biệt. Sau đó tổng giám mục Zanchetta về Argentina và bị buộc tội lạm dụng. Một lần khác, Đức Phanxicô đã đưa tổng giám mục Wesolowski, sứ thần bị buộc tội lạm dụng về Vatican, nơi không thể yêu cầu dẫn độ, nơi sứ thần qua đời nhưng không bị đối diện với phán quyết của tòa án Vatican.

Đức Phanxicô cũng mở lại vụ án cựu linh mục Mario Inzoli dẫn đến một bản án có tội khác. Ở Argentina, ngài bị chú ý trong vụ xử lý linh mục lạm dụng Grassi.

Thực tế là Đức Phanxicô trong hội nghị thượng đỉnh các chủ tịch Hội đồng Giám mục năm 2019 và trong những dịp khác, ngài luôn muốn hạn chế việc lạm dụng hàng giáo sĩ như một hiện tượng cụ thể, nêu bật cách một hệ thống tấn công Giáo hội.

Vì sao Đức Phanxicô có tín nhiệm như thế trong việc giải quyết cuộc chiến chống lạm dụng? Làm thế nào để ngài đáp lại mong chờ?

Có lẽ ngài đã làm những việc mà không bất kỳ tổ chức thế tục nào cũng sẽ làm. Đương đầu với vụ bê bối lạm dụng ở Chi-lê, ngài đã phản ứng gần như phớt lờ hiện tượng, sau đó ngài triệu tập Hội đồng Giám mục Chi-lê tại Rôma và yêu cầu mỗi người phải từ chức.

Đức Bênêđictô XVI đã xử lý một trường hợp tương tự ở Ai-len nhưng theo cách hoàn toàn ngược lại: ngài viết một thư cho người công giáo Ai-len, cầu xin tha thứ, hy vọng xã hội sẽ thay đổi và nhận trách nhiệm, nhưng không loại ai. Thay vào đó, ngài duy trì chuỗi trách nhiệm chỉ huy bằng cách giao nhiệm vụ quyết định cho các giám mục, dù họ đã vốn không còn thẩm quyền trong tình trạng đó.

Đó là hai cách tiếp cận khác nhau thậm chí không loại trừ nhau, Đức Phanxicô đã xem cuộc chiến chống lạm dụng và sự minh bạch trong Giáo hội là điểm mạnh của ngài. Vì thế khi xảy ra vụ tổng giám mục giáo phận Paris bị hiến tế trên “bàn thờ đạo đức giả” (Pope Francis Dixit) và một người khác ở Cologne được mời rút lui vì lý do “lỗi giao tiếp”. Cả hai đều có những dè dặt về các báo cáo lạm dụng mà các hội đồng giám mục của họ đã ủy thác cho các cơ quan bên ngoài làm.

Và một lần nữa xảy ra với hồng y Barbarin, bị xét xử và trắng án vì ngài không bao giờ che đậy các hành vi lạm dụng và hồng y Pell, bị buộc tội lạm dụng ở Úc, thậm chí còn bị tù trước  khi được tha bổng, và Tòa thánh đã không gởi công hàm chính thức phản đối.

Triều giáo hoàng của truyền thông nhấn mạnh các quyết định trừng phạt của Đức Phanxicô nhưng lại che giấu các quyết định gây tranh cãi nhất, phải được đặt cân đối trong cuộc chiến chống lạm dụng của ngài.

Sau những chuyện này, chúng ta tự hỏi liệu tất cả cường điệu này của các phương tiện truyền thông đại chúng này có thể mang lại hậu quả tốt cho Giáo hội hay không. Cuối cùng, ngoài những hình phạt cần thiết và công bằng với những kẻ phạm tội nghiêm khắc, cũng cần phải giải thích không phải thể chế thối nát mà chính là con người.

Điều này dường như không xảy ra trong câu chuyện của Đức Phanxicô, ngài cũng đưa ra các quyết định phù hợp với những quyết định mà người tiền nhiệm đã đưa ra. Chưa hết, một vết nứt dường như đã mở ra trong Giáo hội, bất chấp những dấu hiệu của sự liên tục hoặc gián đoạn.

Vì thế, trường hợp linh mục Anatrella có thể là trường hợp quan trọng của Đức Phanxicô. Ngài đã tạo ra khác biệt, có thể, nhưng ngài đã làm điều này quá trễ. Quá trễ.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Lên án linh mục Tony Anatrella: “Giữa nhẹ nhõm và cay đắng”

Trói buộc và tháo cởi

Trói buộc và tháo cởi

Ronald Rolheiser, 2023-03-20

Dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy. Những lời này của Chúa Giêsu không chỉ áp dụng cho những ai được phong chức thánh và ban bí tích hòa giải, mà còn cho bất kỳ ai ở trong thân thể Chúa Kitô. Tất cả chúng ta đều có năng lực trói buộc và tháo cởi.

Năng lực này là gì? Chúng ta trói buộc và tháo cởi cho nhau trên đời này theo cách hướng đến thiên đàng như thế nào?

Một phần của chuyện này khá dễ giải thích. Tôi xin đưa ra một ví dụ: Nếu bạn là một phần trong Thân thể Chúa Kitô và bạn tha thứ cho ai đó thì Chúa Kitô tha thứ cho người đó và người đó được giải phóng khỏi tội. Như thế, nếu bạn, như một phần của Thân thể Chúa Kitô, tha thứ cho ai đó và vẫn liên kết với người đó, thì người đó được liên kết với Thân thể Chúa Kitô và qua bạn, người đó được chạm đến vạt áo Chúa Kitô, dù cho người đó có thể hiện rõ ràng như vậy hay không. Và đó là một trong những tặng vật vô giá được ban cho chúng ta trong sự nhập thể.

Nhưng còn ngược lại thì sao? Cứ cho là tôi từ chối tha thứ cho ai đó đã làm tổn thương tôi, cứ cho là tôi ôm mối thù và không chịu quên đi việc sai trái mà người đó làm với tôi, vậy là tôi trói buộc người đó vào tội lỗi sao? Thiên Chúa cũng từ chối tha thứ và quên đi, vì tôi từ chối tha thứ và quên đi sao? Thân thể Chúa Kitô hoạt động như thế nào về phần “trói buộc” trong năng lực mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta?

Đây là một câu hỏi khó, dù cho một vài điểm phân biệt sơ bộ có thể soi rọi vấn đề này thêm đôi chút.

Đầu tiên, lôgic của ân sủng, vốn cũng là lôgic của tình yêu – chỉ hoạt động một chiều. Trong ân sủng, cũng như trong tình yêu, chúng ta có thể được trao tặng nhiều hơn những gì chúng ta xứng đáng, nhưng ngược lại thì không. Phép tính về ân sủng không xứng đáng chỉ hoạt động một chiều. Tình yêu có thể cho bạn nhiều hơn những gì bạn xứng đáng, nhưng tình yêu không thể trừng phạt bạn nhiều hơn những gì bạn đáng nhận. Thiên Chúa cho chúng ta năng lực giải thoát cho nhau, nhưng không phải tương đương với năng lực trói buộc nhau.

Thứ hai, như tác giả C.S. Lewis nói, trong đời này, địa ngục có thể uy hiếp thiên đàng, nhưng trong đời sau thì không. Do đó, dù chúng ta có thể trói buộc nhau về mặt tâm lý và tình cảm ở đời này, nhưng Thiên Chúa không phê chuẩn những hành động này.

Khi trói buộc nhau ở đời này bằng cách từ chối tha thứ cho nhau, thì sự từ chối tha thứ đó không ràng buộc Thiên Chúa phải hành động như thế. Đơn giản là khi tôi ôm mối hận với ai đó đã xử tệ với tôi, liên tục làm cho người đó biết, họ đã làm sai, là tôi đang trói buộc người đó với tội của họ, nhưng Thiên Chúa không tán thành việc đó. Thiên đàng sẽ không đi theo sự uy hiếp về mặt tình cảm của tôi.

Nhưng những sự phân biệt này chỉ đem lại một nền tảng để hiểu vấn đề này. Vậy trói buộc một người nghĩa là gì?

Năng lực trói buộc và tháo cởi của người tín hữu kitô là năng lực trói buộc và tháo cởi trong lương tâm, trong chân lý, trong sự tốt lành và trong yêu thương. Khi tôi từ chối tha thứ cho người khác, khi tôi ôm mối hận, là tôi không hành động như Thân thể Chúa Kitô hay tác nhân của ân sủng, mà như vòng xoáy trong móc xích tội lỗi và bất lực mà Chúa Kitô cố gắng phá bỏ. Khi hành động như thế thì chính tôi mới cần được tháo cởi khỏi tội lỗi, vì tôi đang hành động đối nghịch với ân sủng. Việc tôi không tha thứ có lẽ trói buộc người kia về mặt tình cảm, giữ chặt người đó với tội của mình, nhưng nó cũng là phản đề với năng lực mà Chúa Kitô đã ban cho chúng ta.

Theo Kinh Thánh, chúng ta trói buộc nhau, khi trong tình yêu, chúng ta từ chối thỏa hiệp về sự thật và khi chúng ta từ chối cho người kia sự tự do giả tạo để đưa ra những lựa chọn sai lầm. Ví dụ như, cha mẹ trói buộc con cái, khi vì tình yêu mà để con cái lờ đi các giáo huấn của Chúa Kitô về hôn nhân và tình dục. Chúng ta trói buộc bạn khi từ chối tán thành người đó gian lận trong kinh doanh để kiếm thêm tiền. Một người bạn trói buộc chúng ta khi từ chối ủng hộ những thỏa hiệp đạo đức của ta.

Trong vở kịch Người của mọi thời (A Man for All Seasons) của Robert Bolt, vua Henry VIII đã nài xin thánh Thomas More chúc phúc cho cuộc hôn nhân của ông với bà Anne Boleyn. Henry đã viện đến tình bạn giữa hai người, viện đến tình người và cố ép Thomas khi nói rằng, việc ngài từ chối tán thành chính là hành động nhỏ nhen và kiêu ngạo. Nhưng Thomas vẫn từ chối tán thành. Ngài đã trói buộc Henry vào lương tâm và Henry biết mình bị trói buộc. Cuối cùng, ông đã giết Thánh Thomas vì từ chối thỏa hiệp và không chịu chấp thuận tháo cởi cho ông.

Từ khi Thiên Chúa mặc lấy xác phạm cụ thể, ân sủng đã có một chiều kích con người hữu hình. Thiên đàng đang quan sát thế gian, và đang nhận lấy những gì tốt đẹp nhất mà chúng ta làm ở đây, nhưng không bị trói buộc bởi những gì xấu xa mà chúng ta làm ở đây.

J.B. Thái Hòa dịch

Bài đọc thêm: Phải lòng yêu

Các nữ tu Dòng Kín Cộng hòa Séc biến trang trại thành tu viện

Các nữ tu Dòng Kín Cộng hòa Séc biến trang trại thành tu viện

Ở Drasty, vùng ngoại ô Praha, cộng đoàn các nữ tu Cát Minh bắt tay xây một tu viện mới. Với sự giúp đỡ của các thiện nguyện viên, các nữ tu đã khôi phục một vùng đất như bãi rác thành công trường. Hôm nay các nữ tu làm tiếp công việc thu xếp bày biện bên trong căn nhà, họ luôn tin tưởng vào Đấng Quan Phòng.

vaticannews.va, Sơ Marie, Dòng Cát Minh, 2023-03-21

Cộng đoàn Cát Minh Thánh Giuse ở Praha thuộc Cộng hòa Séc được nữ tu Maria Eletta Giêsu, người gốc Terni thành lập vào thế kỷ 17, sơ cũng là người sáng lập các tu viện ở Vienna, Graz và Praha.

Năm 2005, các nữ tu tại đây quyết định tìm một nơi ở thích hợp hơn cho đặc sủng của họ. Sơ Marie cho biết, các sơ chỉ có một khu vườn rất nhỏ trong tu viện gần lâu đài Praha, tòa nhà ban đầu không thích hợp cho các nữ tu dòng kín vì tiếng động ngày càng ồn ào trong khu vực này.

Vì thế năm 2018, các sơ đã mua một trang trại cũ ở Drasty trong một ngôi làng gần Praha và đầu năm 2020, các sơ dọn về đây, giao tu viện cũ của họ ở Praha cho các tu sĩ Cát Minh khổ nhiệm OCD. Sơ Marie nói: “Vì thế chúng tôi bắt tay xây một trung tâm tâm linh mới ở Drasty, một phần là tu viện của chúng tôi, một phần sẽ mở cửa cho công chúng.”

Với các thiện nguyện viên trên trụ sở mới của tu viện.

Tất cả bắt đầu ở Drasty

Sơ Marie cho biết, trang trại này của Giáo hội đã bị tịch thu dưới thời cộng sản, và được trả lại 25 năm sau cuộc “Cách mạng nhung”. Trang trại ở trong tình trạng hư hại nặng, nhiều người nghĩ khó có thể phục hồi lại. Sơ nói: “Cứ như thử có người muốn biến trạng trại này thành bãi rác lớn, trên đó thảm thực vật thoải mái mọc lên.”

Sau khi được phép chuẩn của giáo hoàng về quy chế kín trong suốt thời gian dự án bắt đầu từ năm 2018, sơ Marie giải thích: “Vì để tiện lợi cho kinh tế, chúng tôi bắt đầu đến Drasty để làm các công việc đầu tiên. Lúc đầu, chúng tôi chỉ có một mình, nhưng sau đó, Thánh Giuse, Đấng chúng tôi nương tựa ngày đêm bắt đầu gởi đến cho chúng tôi rất nhiều người có thiện chí giúp đỡ, họ có tấm lòng thật quảng đại.” 

Những năm làm việc cực nhọc

Sau nhiều năm sống trong môi trường rất khép kín, sơ Marie cho biết, các nữ tu đã lăn xả làm việc ngoài công trường, họ cho thấy một khả năng làm việc phi thường! Nhìn lại, “chúng tôi nhận ra chúng tôi đã được Chúa làm vững mạnh một cách kỳ diệu”. Trong những tháng đầu tiên, hoạt động chính của các nữ tu là gom rác thải và chất vào thùng chứa. Sau đó, “chúng tôi loại cỏ dại và sâu bệnh: máy cắt cỏ và cưa máy làm việc không ngừng. Trong thời kỳ này, một số nữ tu học lái máy kéo và máy xúc”.

Sau bốn mươi ngày dọn dẹp và chuẩn bị, các nữ tu đã có thể dọn về đây với sự giúp đỡ của Chúa và những người có tấm lòng rộng lượng. Sơ Marie nói: “Đây là những ngày chúng tôi cố gắng hết sức, rất mệt mỏi, nhưng chúng tôi đoàn kết và đã làm cho chúng tôi thêm vững mạnh.”

Các nữ tu ở móng căn nhà mới.

Biến đổi nơi chốn

Sơ kể tiếp, trang trại tiếp tục biến đổi trước mắt chúng tôi. Sau khi có sự tiếp tay của một công ty xây dựng, trang trại “hoang nát” trở thành “nhà văn hóa”. Sơ cho biết, tên của trang trại bây giờ là “Nhà Đi Viếng”, có nghĩa là sẽ chào đón khách trong tương lai: căn nhà sẽ có chỗ ở cho các cá nhân, gia đình và nhóm, để nghỉ ngơi cũng như cho các buổi tĩnh tâm, buổi họp của các nhóm tâm linh khác nhau. Hiện tại, các nữ tu chúng tôi sẽ sống ở đó, ít nhất cho đến khi các cấu trúc cần thiết của tu viện được hoàn thành. Sau một thời gian dài tìm nhà thầu chính, việc xây dựng tu viện bắt đầu vào mùa thu năm 2021. Tòa nhà sẽ có một nhà nguyện dâng kính Thánh Têrêxa và công chúng có thể đến đây cầu nguyện.

Cuộc sống ở Drasty

Drasty đã trở thành “căn nhà của chúng tôi, nơi chúng tôi có thể sống một cách tự nhiên hơn, tiếp xúc với thiên nhiên và trong mối quan hệ mật thiết mới với Đấng Tạo Hóa, Đấng thực sự giúp đỡ và bảo vệ chúng tôi gần như hữu hình”. Sơ Marie cho biết: “Khi tu viện hoàn thành, môi trường sẽ thuận lợi hơn cho việc cầu nguyện, để chúng tôi có thể sống trọn vẹn với Chúa dù chúng tôi và nhiều người khác đã cảm nhận được sự hiện diện của Ngài một cách mạnh mẽ. Mọi người ở mọi tầng lớp xã hội đã đến với chúng tôi, dùng không gian nhỏ bé của chúng tôi lúc này, họ thường cho chúng tôi biết, họ cảm thấy bình yên và có niềm vui khi ở đây”. Các nữ tu cộng đoàn “Thánh Giuse” ở Praha hy vọng một ngày nào đó, Drasty toát ra sức sống trong tất cả bầu khí xung quanh.

Các nữ tu cầm cưa máy ở nơi sẽ xây dựng khu vườn

Và các em bé sung sướng ngồi trên xe kéo của các sơ.

Marta An Nguyễn dịch

Đức Phanxicô làm phép chuông “Tiếng nói của những em bé chưa sinh”

Đức Phanxicô làm phép chuông “Tiếng nói của những em bé chưa sinh”

“Tất cả sự sống là thiêng liêng và bất khả xâm phạm”

fr.zenit.org, Marina Druzhinina, 2023-03-22

Trước buổi tiếp kiến chung hàng tuần ngày thứ tư 22 tháng 3-2023, Đức Phanxicô đã làm phép chuông “Tiếng nói của những em bé chưa sinh” do sáng kiến của tổ chức Ba Lan “Vâng với Sự sống”, họ sẽ gởi chuông này đến Zambia.

Phát biểu với giáo dân hành hương Ba Lan vào cuối buổi tiếp kiến chung tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Phanxicô lên tiếng: “Hội ‘Vâng với Sự sống’ gởi đến Zambia chuông ‘Tiếng nói của của những em bé chưa sinh’ do tôi làm phép. Ước mong âm thanh của tiếng chuông mang thông điệp tất cả sự sống là thiêng liêng và bất khả xâm phạm.”

Buổi làm phép chuông ngoài phái đoàn của Tổ chức Vâng với Sự sống còn có sự tham dự của tổng giám mục Alick Banda, giáo phận Lusaka, linh mục Ba Lan Wojciech Lapczyński đã làm việc ở Zambia từ hơn 30 năm nay. Chuông sẽ được đưa đến nhà thờ chính tòa Chúa Giêsu Hài đồng ở Lusaka và nhiều nơi khác ở Zambia.

Ông Bogdan Romaniuk, phó chủ tịch hội Vâng với Sự sống được diễn ra gần Ngày Thánh thiện của Sự sống được cử hành ở Ba Lan ngày 25 tháng 3. Ông cho biết Đức Gioan-Phaolô II là người thành lập ngày này, ngài trân trọng sự sống và quan tâm đến việc bảo vệ sự sống.

Chiếc chuông cho Zambia được làm giống như những chiếc chuông khác trong xưởng đúc của ông Jan Felczyński ở Przemyśl. Mẫu dành cho châu Phi có một biểu tượng độc đáo là nhẫn giám mục của Zambia và Ba Lan được nối với nhau bằng một chiếc nhẫn, kỷ niệm cuộc gặp gỡ của các giáo sĩ và dòng chữ “Dấu hiệu của mối liên kết thiêng liêng giữa Giáo hội công giáo của Zambia và Ba Lan ngày 17 tháng 5 năm 1970.”

Chuông tương tự đã có ở Ba Lan, Ukraine và Ecuador. Các quốc gia như Pháp, Mexico và Nicaragua cũng bày tỏ sự quan tâm đến những chiếc chuông này.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài mới nhất