Home Blog Page 989

Đức Hồng y Parolin: Một thảo luận mở về bậc sống độc thân của các linh mục nhưng “không có sự thay đổi quyết liệt”

Đức Hồng y Parolin: Một thảo luận mở về bậc sống độc thân của các linh mục nhưng “không có sự thay đổi quyết liệt”

Đức Hồng Y Pietro Parolin, Phũ Quốc vụ khanh Tòa Thánh (© Jacques Berset)

cath.ch, 2018-10-02

Trong các lời tuyên bố trên hệ thống truyền thông Ý America Oggi ngày 2 tháng 10, Đức Hồng y Pietro Parolin cho biết, có thể đặt vấn đề về bậc sống độc thân của các linh mục, tuy nhiên không mong đợi sẽ có một sự thay đổi quyết liệt.

Đức Hồng y Parolin tuyên bố, giáo huấn không phải là một “khối bất biến” mà là một “thực thể sống, tăng trưởng và phát triển.” Điều này không có nghĩa là giáo huấn thay đổi nhưng được làm “phong phú”. Hồng y nhắc lại, việc giảng dạy về bậc sống độc thân của Giáo hội có từ “truyền thống tông đồ” và đã không được áp dụng trong một số Giáo hội Công giáo phương Đông.

Trong cuộc phỏng vấn, Hồng y Quốc vụ khanh cho biết mình đã bị thuyết phục về sự cần thiết phải “đặt câu hỏi” để kiểm chứng liệu bậc sống độc thân của các linh mục “có tồn tại trong tất cả các tiềm năng của nó và có được đánh giá cao và có giá trị không.” Tuy nhiên ngài nhẹ giọng ngay, chúng ta không nên mong đợi một “sự thay đổi quyết liệt” về vấn đề này, mà là “dần dần nhưng một cách sâu đậm hơn” vì lợi ích cho tất cả và cho việc loan báo Tin Mừng.

“Đặt câu hỏi thì quan trọng là trả lời câu hỏi đó”

Nếu các câu hỏi ngày nay phải được giải quyết trong ánh sáng của “di sản quý giá” của lịch sử Giáo hội, thì theo hồng y Parolin, các câu trả lời phải cho phép dân Chúa “phát triển một cách hài hòa.” Ngài lưu ý, những câu hỏi không thể có câu trả lời “ngay lập tức”được.  Và theo ngài, đôi khi đặt câu hỏi thì quan trọng hơn là trả lời cho câu hỏi đó.

Từ năm 2013, Đức Hồng y Parolin đã xác nhận, rằng bậc sống độc thân của các linh mục“không phải là một giáo điều”, nhưng là một “truyền thống giáo hội” và do đó có thể thảo luận được. Câu hỏi này có thể được nghiên cứu trong thượng hội đồng tháng 10 năm 2019 về vùng Amazzonia, một vùng đất mênh mông thiếu linh mục rầm trọng. Các nghị phụ thượng hội đồng có thể nhân cơ hội này để nghiên cứu vấn đề phong chức cho các ông đã lập gia đình (viri probati).

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Daniel Prévost: “Giáo hoàng là người duy nhất đảm bảo cho hòa bình”

Daniel Prévost: “Giáo hoàng là người duy nhất đảm bảo cho hòa bình
Nghệ sĩ truyền hình, phim ảnh, tác giả Daniel Prévost, 78 tuổi trả lời các câu hỏi của bào Người Hành hương. 
pelerin.com, Corinne Renou-Nativel, 2017-09-24
Một lý do để ông thức dậy mỗi sáng? Tiếp tục con đường sáng tạo của tôi. Tìm tòi các tin tức mới của thế giới, cố gắng sửa các vấn đề của nó với các phương tiện nhỏ bé của tôi.
Cái gì làm cho ông tốt hơn? Những người chào tôi ngoài đường hay những người nói “hãy chăm sóc cho bạn.” Tôi tự nhủ mình vẫn còn lý do để sống.
Cái gì làm cho ông dễ giận? Những người chống ước muốn tốt đẹp của tôi.
Cái gì làm cho ông sợ? Người thân của tôi, những người tôi yêu qua đời.
Một hành vi yêu thương? Ôm đứa cháu 2 tuổi của tôi, bồng nó trên tay. Không những là hành vi tràn đầy yêu thương nhưng còn là hy vọng – hy vọng mà đứa bé trai này mang trong lòng.
Cái gì ông thích thay đổi nơi ông? Ở tuổi của tôi, dù tôi phạm sai lầm, tôi cũng không muốn thay đổi gì. Khán giả, những người thâni đã quen với tôi, và thương tôi với con người thật của tôi – tôi nói mà không cảm thấy mình tự hào hay kiêu ngạo.
Cái gì ở trên đầu giường của ông? Hai quyển sách: Một ngàn phụ nữ da trắng (Mille femmes blanches) của tác giả người Mỹ Jim Fergus, và Tôi chọn sự sống (J’ai choisi la vie) của Marie Alvery và Hélène Gabert.
Cuốn phim ông yêu thích? Những ngọn suối nhỏ (Les petits ruisseaux, 2009) của nhà đạo diễn Pascal Rabaté, tôi đóng phim này.
Âm nhạc làm cho ông rung động? Nhạc Tây Ban Nha. Đặc biệt các bài hát của Paco Ibañez và tiếng đàn ghi-ta của Andrés Segovia, Narciso Yepes, Alexandre Lagoya và vợ của ông là bà Ida Presti.
Câu châm ngôn của ông? Tiếp tục, tiếp tục, tiếp tục. Và đừng bao giờ nhìn đằng sau.
Vật yêu thích của ông? Các cây viết. Nếu tôi không có, tôi cảm thấy mình trống rỗng và ngày của tôi cũng trống.
Anh hùng hàng ngày của ông? Một người thân mà tôi đặt hy vọng của tôi nơi họ. Nhưng vì báo Người Hành hương không phải là báo Gala nên tôi không nói thêm.
Cái gì còn lại ở tuổi thơ của ông? Tất cả, bởi vì tôi vẫn còn là một đứa bé với bước đi chao đảo của tôi trên đường đời.
Nếu ông có đôi đũa thần, ông sẽ thực hiện giấc mơ nào? Làm thế giới tốt hơn. Nhưng tôi sợ điều này không nảy sinh từ đôi đũa thần.
Ông có hẹn với Đức Phanxicô năm phút, ông muốn nói gì với ngài? Hòa bình, vì ngài đại diện cho hòa bình. Theo tôi, ngài là người duy nhất bảo đảm cho hòa bình.
Theo ông, Chúa Giêsu là… Một ngôn sứ đã cho cái tối đa nhất của mình.
Ông gặp Chúa, ông thích Ngài nói gì với ông? “Con đã phải làm tốt hơn.” Chúng ta tất cả ở đây để cải thiện.
“Cầu nguyện” là… Tha thứ.
Marta An Nguyễn dịch
Xin đọc: Jean Piat: “Tôi thích Chúa nói với tôi: ‘Con trung thực’”

Lạm dụng tình dục: Hồng y Versaldi muốn “thẩm định sâu kỹ” các chủng sinh

Lạm dụng tình dục: Hồng y Versaldi muốn “thẩm định sâu kỹ”  các chủng sinh

cath.ch, 2018-10-02

Trong ấn bản của nhật báo Osservatore Romano ra ngày 2-3 tháng 10, 2018 Hồng y Giuseppe Versaldi, Bộ trưởng bộ Giáo dục công giáo cho biết, tiến trình tuyển chọn các linh mục tương lai phải thích ứng với việc “thẩm định sâu kỹ” các hành vi có tính nguy hiểm cao.

Hồng y Versaldi cho biết, rất nhiều quy tắc được áp đặt cho một số yếu tố trong việc tuyển chọn ứng sinh vào chức thánh, nhất là kiểm tra sức khỏe thể lý và tâm lý. Ngài lập luận, trong bối cảnh hiện tại, việc loại trừ các ứng sinh có triệu chứng bệnh lý là chưa đủ. 

Nhìn các dấu hiệu báo động

Đứng trước các vụ tai tiếng lạm dụng tình dục, hồng y Versaldi giải thích: “Cần phải cập nhật tiến trình đào tạo để phân định một cách thích hợp cho các ứng sinh”. Phải phân biệt các ứng sinh phù hợp với chức thánh qua trung gian của việc “thẩm định sâu kỹ” các hành vi có tính nguy hiểm.

Để làm được điều này, hồng y Versaldi cho biết, các nhà đào tạo trong chủng viện phải có khả năng “nhìn thấy các dấu hiệu báo động”, chứ không chỉ nhìn thấy triệu chứng bệnh lý cuối cùng nơi chủng sinh. Ngài lấy làm tiếc, việc đào tạo chủng sinh ngày nay “chưa đủ”, việc đào tạo này cần phải cập nhật. Điều này chắc chắn không nhằm giảm bớt việc nhất thiết phải tấn công các vụ lạm dụng, nhưng còn để đề phòng và làm cho hành động của Giáo hội để chống lại các vụ ấu dâm được “đáng tin cậy hơn.” Và việc này cũng cần sự hợp tác của các cơ quan dân sự. 

Đề xuất về mặt tâm lý

Hồng y Versaldi nhắc lại, từ năm 2008, Bộ giáo dục công giáo đã đề nghị đến việc nhờ khoa tâm lý trong việc đào tạo các ứng sinh vào chức thắng. Ngài lấy làm tiếc, nếu đề nghị này được áp dụng thì nhiều sai lầm và tai tiếng sẽ có thể được tránh khỏi. Bộ Giáo dục công giáo đã mất trách nhiệm với các chủng viện, nhường cho Bộ Giáo sĩ qua tự sắc Việc đào tạo các thừa tác viên (Ministrorum institutio) của Đức Bênêđictô XVI ngày 16 tháng 1 năm 2013.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: Hồng y Marc Ouellet, cần có nhiều phụ nữ hơn trong việc đào tạo các linh mục

Một định mệnh

Một định mệnh

  

Trích sách “Chính trị và Xã hội“, Dominique Wolton và Đức Phanxicô, Nxb. L’Observatoira, 2017. Chương 8

Tháng tám 2016. Gặp lại trong cùng một ngày hai lần… thời gian như ngừng trôi. Tất cả đều có thể, nhưng khoảng cách luôn ở đó. Làm thế nào để giáo hoàng không bị đè bẹp bởi rất nhiều trách vụ, sinh hoạt, đó là không nói đến các báo cáo nội bộ liên tục, liên hệ đến một thể chế vừa rất nhân bản, vừa vĩnh cửu? Tôi ráng để nói trực tiếp với chính ngài, ít nhất là một lần. Nhưng sự ngại ngùng và tôn trọng đời sống riêng thật quá đáng công để phải kềm lại trong thời buổi con người ta mê diễn tả và mê nhìn trộm. Thế nào là một định mệnh rất gần với Âu châu và cùng một lúcđậm nét lịch sử Argentina, một trong các biểu tượng kỳ diệu của “Tân Thế Giới”, cuối cùng lại khác nhau như thế? Ở đây không một dàn cảnh, đơn giản là phản hồi của một vài sự kiện và một vài quan hệ. Làm sao có sự sống chung giữa câu chuyện bình thường, dù cho được đánh dấu sâu đậm bởi sự nhập cư, và cuộc gặp gỡ với Chúa? Có thể nói gì trong một đối thoại bị giới hạn bởi thời gian với một nhà trí thức Paris? Sự im lặng, thường xuyên xuất hiện trong các buổi nói chuyện của chúng tôi có đủ không? Từ lâu, ngài đã xem chính trị, loại chính trị vĩ đại xứng tầm với Phúc Âm và Lịch sử như ngài thường hay nói chính trị với chữ hoa đứng đầu, còn tôi thì cho rằng, gần như ngài “lên thuyền” trên con tàu chính trị vĩ đại này. Với phần phẫn nộ của ngài. Và cùng một lúc, tất cả những điều này có thể hiểu theo nghĩa rộng của đức tin, nói lên cho thấy nó thuộc về một lôgic đối thoại khác lôgic đối thoại như chúng ta thường có. Không quên nói đến sự đa dạng của bối cảnh trong đó chúng tôi trao đổi, qua nhiều độc giả ở các châu lục khác nhau… 

Tháng 10 và tháng 12 năm 2016. Tháng 10 ở Rôma là tháng êm dịu, mọi sự trở nên yên tỉnh hơn. Tháng 12, khí hậu nhắc tôi nhớ đến bầu khí chuyến đi đầu tiên hồi tháng 2-2016. Người La Mã ở đây yên lặng trong thành phố của họ. Mọi thứ đều yên ắng hơn ở Paris. Mọi thứ dậm chân tại chỗ, kinh nghiệm này, cuộc gặp với Đức Thánh Cha mà chúng ta hình dung ngài luôn nhân ái, có tinh thần cởi mở, có một quyết tâm vô biên và không phải không thật sự phẫn nộ khi đứng trước thế giới này. Đúng, ngài hạnh phúc, nhưng ngài không dễ bị lừa, ngài sống trong đức tin, một đức tin ngài không nói ra trong cuộc trao đổi của chúng tôi, và tôi thật sự không đủ khả năng để đề cập. Hai lần gặp cuối cùng để kết thúc cuộc đối thoại, trả lời một số điểm, không phải để kết luận nhưng tìm những điểm còn bỏ dở. Chúng tôi sẽ gặp lại nhau vào tháng 1 và 2 năm 2017 để thảo luận về bản thảo. 

Vatican luôn như vậy, bao la và rất nhỏ, đứng trước thời gian và Lịch sử, yên lặng và gần như thinh lặng so với Quảng trường Thánh Phêrô bên cạnh luôn ồn ào. Những người đàn ông ở đây khi nào cũng đi trong khoảng không gian nhỏ bé, âm thầm, họ không nhiều. Họ băng qua sân, đi vào đi ra các tòa nhà, gần như không nói gì với nhau… Còn tôi thì chưa hình dung rõ, các cuộc gặp này sẽ như thế nào, xác thực, đúng đắn, trung thực, tự nhiên, tôn kính. Một đối thoại nhân bản, bị ngưng nhiều tháng trong năm. Có phải sự mong manh và cao cả của Con người rồi cuối cùng cũng là điều cốt tủy của Giáo hội không? Và cuối cùng là của hầu hết các tôn giáo? Và cuối cùng cũng là của tất cả hệ thống phổ quát của thế tục không? 

Tháng 1, tháng 2 – 2017. Mùa đông trở về. Trời se se lạnh. Rôma gió và ẩm. Cây cối và đất đá có một giao lưu khác, giao lưu với ánh sáng huyền ảo. Có ít người trước Quảng trường Thánh Phêrô. Mưa trên thềm nhà thờ làm thay đổi bầu khí, như du khách và khách hành hương với áo mưa, khác áo ngày thường. Tôi sốt ruột mong gặp giáo hoàng để biết các nhận xét của ngài về bản thảo. Ngài cám ơn tôi phải đi thêm một lần nữa để nói chuyện thêm. Ngài đến với bản thảo dưới cánh tay, như một đồng nghiệp, một giáo sư. Chúng tôi ngồi chung quanh cái bàn thấp, không thoải mái mấy và chúng tôi bỏ nhiều thì giờ để xem tất cả các trang, để đưa ra ý kiến về các trang viết của chúng tôi. Chúng tôi đồng ý với hầu hết các điểm ngài đưa ra. Ngài không kiểm duyệt gì, đơn giản chỉ làm sao để được sát ý nhất những gì chúng tôi đã trao đổi. Chúng tôi cười nhiều quanh một số câu. Bỏ một vài đoạn trong đó nhiều người có thể bị nhận ra. Ngài hài lòng và thanh thản. Và tôi cũng vậy! Tất cả từ buổi gặp gỡ đầu cho đến hôm nay đã diễn ra trong thiện cảm, thỏa thuận, một ân sủng đặc biệt. Tôi không có chữ để nói và tôi cũng không muốn đi tìm thêm. Tuy nhiên công việc cũng nhiều trong hơn hai năm, trung thực, nhân bản và tự do. Một cuộc gặp gỡ thật sự đặc biệt. Chúng tôi nói đến chuyện xuất bản nhiều thứ tiếng, tựa đề, lịch trình. Ngài nói với tôi: “Ông là tác giả duy nhất vì ông làm mọi chuyện…” Hài hước, luôn hài hước. Ngài khen tôi đã có thể hiểu được các suy nghĩ của ngài, nắm được tính cách của ngài và thành công trong các cuộc gặp gỡ này. Ngài hạnh phúc và tôi thì quá xúc động, cùng một lúc về cuộc gặp gỡ, về bầu khí và về kết quả. Một quyển sách đơn giản, dễ đọc, giáo hoàng thoải mái nói về mối quan hệ của mình với Lịch sử, chính trị, xã hội, con người. Tôi đã cảm thấy luyến tiếc khi đi bộ trên Quảng trường Thánh Phêrô. Đêm xuống, chỉ còn một vài người hiếm hoi đi bộ. Sự im lặng này đưa tôi về với im lặng của tôi. Thời gian vẫn trôi qua. 

Dominique Wolton: Đâu là sự kiện cá nhân hay tập thể đánh dấu nhất trong đời của cha?

Đức Phanxicô: Sự kiện cá nhân là một chuyện, sự kiện tập thể là một chuyện khác.

Dominique Wolton: Vâng. Sự kiện cá nhân và trong thế giới. 

Đức Phanxicô: Có một chuyện khi tôi còn nhỏ đã làm cho tôi đau khổ rất nhiều. Đó là hận thù và chiến tranh. Hận thù người khác. Khi tôi ý thức được về sự hận thù của người này đối với người kia, tôi rất đau khổ. Trên bình diện thế giới, thì đó là hận thù và chiến tranh. Nhưng niềm vui mà tôi cảm nhận được ngày Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt… tôi kể cho ông nghe chưa?

Dominique Wolton: Dạ thưa rồi.

Đức Phanxicô: Ông biết đó, mẹ tôi và bà hàng xóm hay có thói quen bắt ghế lên nói chuyện qua bức tường… Ngày hôm đó, tôi còn nhớ như ngày hôm qua, bà hàng xóm gọi mẹ tôi, khi đó tôi đang ở trong sân: “Chiến tranh chấm dứt rồi, chiến tranh chấm dứt rồi!” Và tôi cảm nhận một niềm vui, một niềm vui thật sự… Tôi sinh năm 1936 và chiến tranh chấm dứt năm 1945, khi đó tôi không biết đó là sự kiện quan trọng nhất, nhưng đó là một kỷ niệm tôi không bao giờ quên. Khi có hận thù là tôi đau khổ. Kể cả hận thù chính mình, vì mình là kẻ có tội, nhiều lần tôi cũng cảm thấy mình hận thù người khác. 

Dominique Wolton: Đối với các linh mục bị giết chết hay các tín hữu Đông phương, hay với linh mục Hamel ở Pháp vào mùa hè năm 2016?

Đức Phanxicô: Đau đớn.

Dominique Wolton: Điều gì làm cha xúc động nhất trong cuộc sống? 

Đức Phanxicô: Các cử chỉ trìu mến, sự thông hiểu, tha thứ luôn làm cho tôi cảm thấy khỏe… Nhưng không phải chỉ trong phạm vi tôn giáo. Khắp nơi. Khi còn nhỏ, khi tôi  thấy mọi người gây nhau, tôi đau khổ. Ngược lại, sự dịu dàng… Sự dịu dàng là một cái gì mang lại bình an cho tôi rất nhiều.

Dominique Wolton: Điều gì làm cho cha nổi giận nhất?

Đức Phanxicô: Bất công. những người ích kỷ. Và cả chính tôi, khi tôi vướng vào trong tình trạng này.

Và bất công, luôn luôn. Khi tôi bất công với ai, tôi phải bỏ thì giờ ra cầu nguyện rất nhiều để tôi tin mình được Chúa tha thứ, rồi sau đó tôi xin người kia tha thứ và làm một cái gì để chuộc lỗi bất công này. Nhưng có những bất công mà chúng ta không thể nào sửa chữa được trong cuộc đời. Và những chuyện này thì thật khủng khiếp.

Dominique Wolton: Khuyết điểm lớn nhất của cha?

Đức Phanxicô: Tôi không biết phải nói như thế nào, nhưng… là một chút khác với những gì người khác nghĩ về tôi. Tôi có khuynh hướng thích chuyện dễ dàng và lười biếng. Người ta nghĩ tôi ngược lại.

Dominique Wolton: Và đức tính? Đức tính chủ yếu của cha? 

Đức Phanxicô: Đức tính… đơn giản là tôi thích nghe người khác. Vì tôi thấy mỗi đời sống đều khác nhau. Và mọi người có con đường của mình. Lắng nghe. Không phải nói lung tung, nói để phán xét nhưng để mở ra với các lối sống hay các cách thành công khác nhau… Cũng phải có kiên nhẫn để lắng nghe vì các người lớn tuổi thường lặp đi lặp lại cùng một chuyện. Kiên nhẫn là chuyện tự nhiên của tôi. 

Dominique Wolton: Nhưng cha nói khiếm khuyết của cha là lười biếng?

Đức Phanxicô: Một khuynh hướng tự nhiên.

Dominique Wolton: Khi nào cha thấy mình lười biếng trong đời? 

Đức Phanxicô: Tôi không biết, nhưng…

 Dominique Wolton: Theo tôi thì không bao giờ (cười). 

Đức Phanxicô: … từ khi còn trẻ con, chắc chắn, từ khi còn rất nhỏ: tôi học tối thiểu nhất có thể để đi thi hay làm bài kiểm tra ở trường…

Dominique Wolton: Dạ đúng, như tất cả mọi trẻ em. Nhưng còn bây giờ? Đâu là khiếm khuyết của cha bây giờ?

Đức Phanxicô: Nhưng bây giờ thì có quá nhiều!

Dominique Wolton: Dạ, tôi biết, nhưng đó là để xưng với cha giải tội. Nhưng chỉ một khiếm khuyết thôi.

Đức Phanxicô: Nhưng khuynh hướng đó là một phần trong tính cách của tôi, và tôi phải chiến đấu để chống lại nó.

Dominique Wolton: Nhưng tính đó là chung của người Châu Mỹ La Tinh…

Đức Phanxicô: Đúng, có thể như vậy. Tôi không bao giờ nghĩ như vậy, nhưng có thể lắm. Nhưng tôi không thể nào nói, họ móc mắt tôi! 

Dominique Wolton: Chúng tôi người Âu châu luôn nhanh nhẹn và hay lo âu bồn chồn. Tôi biết một ít Châu Mỹ La Tinh, điều luôn làm cho tôi có ấn tượng là niềm vui của người dân ở đó. Ngay cả ở Argentina, họ có một phong cách sống thanh thản. Ở Âu châu không có sự thanh thản này. Hai cuộc thế chiến nằm ở phần sâu thẳm, rồi năm mươi năm chạm trán Đông-Tây. Một người Âu châu là một người bồn chồn lo lắng. Còn cha, người Latinô của cha luôn giữ trạng thái “vô tư”, dù dĩ nhiên người dân biết thế nào là bạo lực chiến tranh, nhất là nội chiến nhưng họ không nếm qua cú sốc khủng khiếp của hai cuộc xung đột thế giới. Cha đã mang niềm vui “vô tư” này vào triều giáo hoàng của mình mà cha không biết. Đức Gioan-Phaolô II thì nghiêm, Đức Bênêđictô XVI cũng vậy, nhưng người latinô của cha, cha “nhẹ” hơn và “không lo lắng” hơn. Mặt khác điều này lại thấy rõ, một số người công giáo theo chủ nghĩa truyền thống thì lại không thích… Cha cười dễ dàng, cha không ở trong hệ biến hóa tâm lý Âu châu. Tôi nghĩ cả triệu người đều thấy sự khác biệt này.

Đức Phanxicô: Tôi không nghĩ chuyện này chỉ duy nhất tôi có hay từ các dân tộc Châu Mỹ La Tinh. Nó cũng liên hệ đến các Giáo hội trẻ hơn. Các Giáo hội trẻ có một phong thái tự do hơn. Chẳng hạn ở Phi châu, nơi có sự hội nhập văn hóa về phụng vụ, chẳng hạn họ nhảy múa trong thánh lễ và họ không nghĩ là thánh lễ sẽ ngắn hơn ba giờ! Các Giáo hội trẻ là như vậy. Ở Âu châu, các Giáo hội xưa hơn. Kitô giáo ở đây có từ 2000 năm. Tôi không nói kitô giáo già, đúng, có già nhưng già theo nghĩa tốt. Tôi có một ví dụ để ông hiểu điều tôi muốn nói. Rượu ngon lâu năm thì thành rượu ngon hơn. Nhưng rượu dở để lâu năm thì thành giấm. Âu châu là rượu ngon. Rượu này thành aneja, như người ta gọi trong tiếng Tây Ban Nha là rượu hạng nhất. Nhưng có thể vì vậy mà nó lấy đi một ít hồn nhiên và tươi mát. 

Dominique Wolton: Tôi thích khi cha nói với các tân giám mục ngày 16 tháng 9 năm 2016: “Thế giới mệt mỏi vì những người nói dối bị bùa mê thuốc chú, xin cho phép cha nói, các linh mục, giám mục sống theo mốt.” Và cha cũng nói đến chủ thuyết “mù tình cảm”. Cha có những công thức thật lạ lùng. Có thể sau khi nói thì cha có ít bạn hơn và nhiều kẻ thù hơn, nhưng các công thức của cha thì thật đáng kể. Từ đâu mà cha có tài năng diễn tả một cách rõ ràng, đơn giản để mọi người hiểu cha với những chữ rất đúng này? Và khi nào cũng vậy? Hay từ khi bắt đầu cha có tuổi? 

Đức Phanxicô: Tôi luôn nói như vậy. Tôi không biết tại sao… nó không nằm trong các chuyện tôi học… 

Dominique Wolton: Từ khi nào cha đã là như vậy sao? Ngay cả khi còn trẻ?

Đức Phanxicô: Đó là lối sống của tôi… Đó là gia đình. Chúng tôi ở trong một gia đình lớn và các ngày chúa nhật chúng tôi có bữa ăn chung với các ông bà nội ngoại, chúng tôi ba mươi sáu, bốn chục người và chúng tôi nói rất nhiều! Có thể đến từ đó, tôi không biết.

Dominique Wolton: Điểm lợi là bất cứ đâu trên thế giới, mọi người đều hiểu cha. Ngắn gọn, rõ ràng. Ngay cả Đức Gioan-Phaolô II cũng rắc rối hơn.

Đức Phanxicô: Đó là một triết gia, một giáo sư đại học. Nhưng ngài cũng có một cái gì rất hay, ngài là cha tuyên úy của sinh viên, ngài có sự đơn giản này.

Dominique Wolton: Nhưng để có được một sự đơn giản như vậy, có nhất thiết phải có nhiều đau khổ cá nhân không? 

Đức Phanxicô: Có, tôi đau rất nhiều. Năm 20-21 tuổi, tôi xém chết. Bác sĩ mổ tôi từ đây đến đây, lấy một phần lá phổi. Lúc đó tôi đau khủng khiếp. Và rồi có những đau “bình thường” như mọi người. Không có gì là khác thường. 

Dominique Wolton: Bình thường, trên khía cạnh lịch sử, các giáo hoàng không nói nhiều, họ nói một cách chính thức. Cha, cha nói rất nhiều. Cha rất truyền thông hóa, rất được giáo dân yêu mến. Câu hỏi của tôi là: có một bất trắc nào cách biệt giữa những gì cha nói riêng tư và những lời chính thức không? Hay cha cố ý làm như vậy để tạo một cách truyền thông khác, trực tiếp hơn, vượt ra ngoài khuôn khổ của thể chế không?

Đức Phanxicô: Tôi nghĩ cẩn thận là cần thiết. Không phải loại cẩn thận “lạnh”, nhưng cẩn thận giúp mình hiểu mình có thể nói cái gì và mình có thể đi đến đâu. Các phản ứng thì khi nào cũng có, tôi cũng có những sai lầm. Tôi cũng đã lầm hai hoặc ba lần trong cách nói của mình. 

Dominique Wolton: Từ khi cha là giáo hoàng? 

Đức Phanxicô: Đúng, đúng, từ khi là giáo hoàng. Hai hoặc ba lần, tôi đã có những sai lầm. 

Dominique Wolton: Trên máy bay thật nguy hiểm. Các ký giả ở đó, ngay trước mặt. Họ tìm tất cả những gì bị cấm. Họ thích vậy. Nhưng đồng thời cha cũng rất can đảm khi trả lời họ. Chắc chắn là phải có một giới hạn vì sau đó ảnh hưởng đến uy tín của cha. Các ký giả, họ bắt đầu bằng vồ mồi, sau đó họ vứt. Vì thế, đối với giáo hoàng cũng như đối với tổng thống Cộng hòa, ai cũng có thể bị nguy hiểm. Họ yêu cha vì cha rất thẳng, nhưng sau đó thì họ nói “thôi đủ rồi”. Vấn đề là: khi nào?

Đức Phanxicô: Một vài chuyện tôi không thể nói ra. Vì tôi biết như thế sẽ thiếu cẩn thận hay thiếu giáo dục. Hoặc thiếu kín đáo mà tôi phải giữ. Nhưng những gì tôi có thể nói thì tôi nói. Và một số lời gây tai tiếng, và đúng như vậy. 

Dominique Wolton: Cha có nghĩ đây là phong cách trực tiếp và nhân bản, cha chỉ làm dễ dàng thêm cho các hồ sơ phải không? 

Đức Phanxicô: Tôi nghĩ đây là một phong cách mục vu. Tôi không tìm cách để nói như một giáo sư nhưng như một mục tử.

Dominique Wolton: Câu trả lời hay. Khi người ta nghe cha nói, người ta thấy cha, người ta nhận thấy cha có tự do rất lớn, một sự phản kháng thật sự: cha đang giận. Tôi, tôi thấy cha là người đang giận. Mà đang giận thì không đúng theo chuẩn. Làm sao cha vừa có được tự do này, vừa có được đầu óc phê phán, với tất cả chuyện gò bó của các thể chế mà cha đã trải qua. Làm sao cha có thể dung hòa các nghịch lý này? 

Đức Phanxicô: Nhưng cũng có nhiều lúc tôi không dung hòa được.

Dominique Wolton: Cha có hạnh phúc?

Đức Phanxicô: Có, tôi hạnh phúc. Tôi hạnh phúc. Không phải hạnh phúc vì là giáo hoàng, nhưng Chúa đã cho tôi là giáo hoàng, tôi cầu nguyện để không làm điều bậy bạ… Mà tôi cũng có làm!

Dominique Wolton (cười): Cha cẩn thận, đừng làm quá nhiều bậy bạ! Chuyện lớn nhất làm cho cha hạnh phúc khi cha là giáo hoàng là chuyện gì?

Đức Phanxicô: Là được gặp nhiều người. 

Dominique Wolton: Lúc nào cũng vậy!

Đức Phanxicô: Khi tôi ở ngoài quảng trường.

Dominique Wolton: Nói cách khác khi cha ra khỏi “tù” (cười). Cha là một trong rất hiếm nhân vật có một trách nhiệm mang tính biểu tượng quá quan trọng. Khi giáo hoàng nói một cái gì, đó là cho toàn thế giới. Có khi nào cha cảm thấy lỗi lầm khi đứng trước vai trò biểu tượng to lớn của cha không?

Đức Phanxicô: Tôi không bao giờ cảm thấy mình lo lắng, nhưng khi tôi ở trên máy bay với các ký giả, tôi có cảm tưởng như vào hang cọp. Và thế là tôi bắt đầu cầu nguyện, tôi cố gắng để được chính xác. Có rất nhiều áp lực và cũng có một vài cú trượt.

Dominique Wolton: Kệ, cũng không nặng lắm. 

Đức Phanxicô: Nhưng lo lắng thì không.

Dominique Wolton: Các sự kiện trong đời sống của cha thì nhiều, người ta có thể đoán các mâu thuẫn với các thể chế, các “dòng”. Khi cha được gởi đi Đức để làm luận án hoặc phải ở mấy năm ở Cordoba …

Đức Phanxicô: Tôi không biết tôi đã kể chưa, nhưng khi còn là sinh viên, một linh mục lớn tuổi Dòng Tên đã khuyên tôi: “Con nghe đây, nếu con muốn đi tới đàng trước, con suy nghĩ thật rõ ràng và nói thật tối tăm”. Nhưng tôi, tôi cố gắng nói một cách rõ ràng.

Dominique Wolto: Như thế cha phải gặp nhiều khó khăn… 

Đức Phanxicô: Đúng rồi! Nhưng tôi ghét đạo đức giả. Nếu tôi không thể nào nói chuyện gì thì tôi không nói. Tôi không làm chuyện đạo đức giả. Đạo đức giả là chuyện làm tôi phản kháng. 

Dominique Wolton: Từ lâu?

Đức Phanxicô: Đó là trong bản chất của tôi. Và đó là chữ tôi dùng nhiều nhất để chửi nhiều nhất khi tôi còn trẻ: “Đạo đức giả!” “Đạo đức giả” là cách nói tế nhị, nhưng chữ “đạo đức giả” có nhiều đồng nghĩa đều nói cùng một chuyện. Khi người ta trẻ, người ta không nói kiểu kinh điển. Người ta dùng những chữ đồng nghĩa mà tôi không thể nào nhắc lại ở đây (cười).

Dominique Wolton: Chiều 13 tháng 3 năm 2013, chiều cha được bầu chọn, khi lần đầu tiên xuất hiện ở bao lơn Quảng trường Thánh Phêrô, cha nói: “Xin chào anh chị em, chào buổi chiều!” Thật đơn giản! Và không phải câu chào truyền thống. 

Đức Phanxicô: Diễn tiến ngày hôm đó hoàn toàn tự nhiên. Bởi vì tôi không nghĩ đến. Buổi trưa, tôi còn không nghĩ đến khả thể này, rồi bỗng nhiên… pfft! Tất cả đến một cách thật bình thản, một bình thản tôi vẫn còn giữ đến bây giờ. Tôi không nghĩ mình sẽ nói gì. Tôi thấy đông người trước mặt… tôi hơi sợ. “Chào buổi chiều”, đó là lời nói khi người ta chào một cách lịch sự.

Dominique Wolton: Đúng, nhưng hoàn toàn bất thường. Vì đó là bình đẳng, bình đẳng giữa cha và giáo dân. 

Đức Phanxicô: Đúng, nhưng “chào buổi chiều” là lời chào bình thường. Tôi không thấy mình sẽ nói gì khác hơn lúc đó.

Dominique Wolton: Vì sao Thánh Mát-thêu lại quan trọng nhiều như thế trong đời của cha?

Đức Phanxicô: Vì tôi nghe tiếng gọi của tôi, ơn gọi của tôi vào một ngày 21 tháng 9, ngày lễ Thánh Mát-thêu. Đó là một kinh nghiệm sâu đậm mà tôi đã kể nhiều lần. Và rồi Thánh Mát-thêu, bài giảng của Thánh Bède Bậc Đáng Kính. Khi tôi ở Rôma, tôi trọ ở nhà Phaolô-VI, đường Scrofa. Vì tôi ở không xa nhà thờ Thánh Lui-Người Pháp nơi có bức tranh Thánh Mát-thêu Trở lại của danh họa Caravage.

Dominique Wolton: Cha nói với tôi: “Phải đọc Phúc Âm với tâm hồn cởi mở, không thành kiến, không định kiến”. Cha có thể nói rõ hơn?

Đức Phanxicô: Điều này có nghĩa Phúc Âm là một sức mạnh, đó là Lời Chúa. Và trong Lời Chúa, trong Phúc Âm có Chúa. Và đó là Công đồng Vatican II nói. Chính Chúa gọi mình. Nếu tôi đọc Phúc Âm với định kiến hay thành kiến thì tôi không vào với Phúc Âm, tôi tự bảo vệ mình chống lại lời này. Đây không phải đọc như đọc văn chương. Tôi có thể đọc Phúc Âm như đọc văn chương, tôi có thể đọc Phúc Âm một cách khoa học, có nghĩa là phân tích “chữ này trong tiếng Hy Lạp muốn nói điều này, điều kia”. Nhưng tôi có thể đọc Phúc Âm như một tín hữu kitô với tâm hồn cởi mở và không định kiến.

Nhưng tôi cũng muốn nói với ông, tôi muốn thêm hai chuyện. 

Chuyện thứ nhất: Ông hỏi tôi: “Chúa ở đâu ở Auschwitz?”, và tôi đã nói với ông, tôi không thấy Chúa, tôi chỉ thấy công việc của con người không có Chúa. Đó là điều tôi nói hôm đó. Lúc đó tôi chỉ thấy có vậy: đó là điều con người có thể làm mà không có Chúa. Từ đó tôi suy nghĩ, có một chuyện mà tôi không thấy lúc đó, nhưng sau khi suy nghĩ, tôi có thể nói, dù câu trả lời không phải là câu tự phát: đó là Chúa ở nơi các kitô bị giết chết, bị đánh đập. Chúa luôn thể hiện trong thịt da. Đó, là chuyện đầu tiên, nhưng là suy nghĩ về sau. 

Chuyện khác, tôi nghĩ là tôi đã nói, nhưng tôi không chắc. Làm thế nào Chúa truyền thông? Lạ kỳ, vì Chúa là bậc thầy truyền thông. Thiên Chúa đã hạ mình xuống để truyền thông. Ngài truyền thông bằng cách vạch một con đường với dân của Ngài. Với dân Israel, với dân nô lệ ở Ai Cập. Nhưng luôn hạ mình. Thiên Chúa hạ mình trong Chúa Kitô. Đó là điều các nhà thần học gọi là “hạ cố” (synkatabasis) như các Tổ phụ đầu tiên đã nói. Nhưng thật lạ lùng. Thiên Chúa truyền thông bằng cách hạ mình. Và vì thế mỗi truyền thông của con người đều phải hạ mình để được là một truyền thông đích thực, vì con người là hình ảnh của Chúa. Đặt mình ở tầm mức của người khác. Hạ mình không phải vì người khác thấp hơn tôi, nhưng vì khiêm tốn, vì mong muốn được như thế…

Nên – tôi nghĩ tôi đã nói rồi -, cha mẹ khi họ muốn nói chuyện với con cái, họ bắt chước giọng trẻ con, họ không nói đúng, họ nói ngôn ngữ trẻ con – “bi bô bi ba”. Họ hạ mình xuống. Tôi nghĩ như thế, tôi đã nói, nhưng nếu tôi chưa nói, thì đây là chuyện quan trọng. Đó là nguyên tắc: nếu tôi không đi ra khỏi chính mình để ‘hạ mình’ đến với người khác, thì không thể có truyền thông được! Truyền thông, để nói một cách cầu kỳ hơn, đó là hành vi khiêm tốn. Người ta không thể truyền thông nếu không khiêm tốn. Sẽ rất thú vị khi phân tích các bài diễn văn của các nhà độc tài vĩ đại để tìm dấu vết của khiêm tốn. Ngôn ngữ của các nhà độc tài này thì… tôi không biết nói như thế nào trong tiếng Pháp hay tiếng Ý. Nhưng trong tiếng Tây Ban Nha chúng tôi nói: “Tôi, tôi, tôi, với tôi và cho tôi” (Yo, me, mi, conmigo y para mi). Trong các bài diễn văn của họ, các nhà độc tài vĩ đại này truyền thông với xác quyết họ nghĩ họ là thần thánh.

Thật là lý thú để nhìn ngôn ngữ của tự đủ, của tự thần thánh hóa. Ngược lại, ngôn ngữ khiêm tốn cùng tháp tùng với người khác, luôn là ngôn ngữ hạ mình xuống.

Dominique Wolton: Đúng, chữ hạ mình luôn là chữ nói lên thứ trật, các tương quan từ cao xuống thấp. Cha, cha dùng trong một chiều kích nhân bản hơn. Hạ mình, là đến với người khác. Với lòng khiêm tốn. Đó là một khái niệm hiếm hoi. Ngược lại trong cái nhìn dân chủ, người ta nói đến bình đẳng và tôi không biết đến đâu thì bình đẳng gồm cả hạ mình.

Đức Phanxicô: Tôi nghĩ, để bình đẳng, mình phải đặt mình ở mức độ với người khác. Và trên nguyên tắc, tôi phải hạ mình ở ngang mức độ người khác, dù người khác ở bậc cao hơn tôi. Nhưng đó luôn là hành vi “đi vào nhà người khác”. Chính tôi phải vào đó. Tôi phải làm bước trước. Như lời mở đầu, tôi phải nói với người khác, đến với cách nhìn sự việc của tôi, lối suy nghĩ của tôi. 

Dominique Wolton: Bình đẳng thật sự chính là khả năng có thể “hạ mình” để đến với người khác. Và, người ta có thể nói, có một bình đẳng hình thức và một bình đẳng thật sự.

Đức Phanxicô: Đúng, một cách hình thức, mọi người đều bình đẳng. Nhưng trong đời sống hàng ngày… Đó là cách hành động hướng về phục vụ. Đó là hành động theo tinh thần kitô giáo. Truyền thông kitô giáo là phục vụ. Chúa Giêsu đã nói trong Tin Mừng, Ta không đến để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ.

Dominique Wolton: Ngày nay, ở thế giới toàn cầu hóa, với ý thức hệ “dân chủ”, ý tưởng hạ mình để đến với người khác không tồn tại. Người ta cho rằng bình đẳng giải quyết được tất cả vấn đề. Nhưng không đúng. Còn cha, khi cha nói “truyền thông là hạ mình”, cha đưa đến một chiều kích chuẩn tắc khác, một chiều kích không tồn tại hiện nay trong văn hóa dân chủ. Quả thật cha đã vượt lên bình đẳng, cha cho rằng bình đẳng là chưa đủ. Nếu người ta muốn thực sự muốn nói chuyện với người khác thì phải đi tìm nơi người đó ở và trong phần lớn trường hợp thì phải hạ mình. Khi nói, “tôi hạ mình”, cha thật sự đi đến với người khác. Những gì cha nói, đó là truyền thông, đó là một chuyển động, “hướng về”, và không được sợ mình phải hạ mình.

Đức Phanxicô: Chính hai chuyện này mà tôi muốn nhấn mạnh.

Dominique Wolton: Còn tôi, tôi quên một câu hỏi. Nó tầm thường nhưng lại quan trọng. Đâu là vai trò của các phụ nữ trong đời cha?

Đức Phanxicô: Cá nhân tôi, tôi cám ơn Chúa đã gởi các phụ nữ đích thực đến trong đời tôi. Hai bà nội, ngoại rất khác nhau, nhưng cả hai đích thực là phụ nữ. Họ là các bà mẹ, họ làm việc, họ can đảm, họ hy sinh hết thì giờ cho các cháu… Nhưng luôn với chiều kích phụ nữ… Tôi còn nhớ rõ. Tôi hay nói chuyện với bà nội Rose, khi mẹ tôi đi sinh, mỗi buổi sáng bà đem tôi về nhà bà. Nhưng tôi còn bà ngoại Maria. Tôi còn nhớ ngày nhạc sĩ Prokofiev qua đời. Tôi đang ở với bà và với cả ông ngoại nữa, nhờ ơn Chúa, tôi có cả bốn ông bà nội ngoại rất lâu trong đời. Người đầu tiên qua đời khi tôi 16 tuổi. Một ơn phước. Và nhạc sĩ Prokofiev qua đời, và tôi rất mê nhạc. Trong năm, chúng tôi thường ở ba, bốn ngày trong nhà của ông bà nội, ngoại với người này người kia, với các em tôi… Khi nghỉ hè thì ba đứa chúng tôi đến nhà ông bà nội, hai đứa đến nhà ông bà ngoại và cứ thế luân phiên. Như thế cha mẹ tôi được yên. Họ có hai tháng không có trẻ con, họ chỉ gặp chúng tôi vào ngày chúa nhật hoặc ở sân vận động khi chúng tôi cùng đi chung với nhau. Cái ngày mà Prokofiev chết, khi đó tôi 16 tuổi. Tôi không nhớ rõ chính xác ngày. Tôi bắt đầu nói về âm nhạc, lúc đó tôi 15, 16 tuổi. Tôi mơ tôi sẽ là nhạc trưởng… tất cả những chuyện trẻ con mới lớn mơ. Bà ngoại kiên nhẫn nghe tôi, bà nói: “Nhưng muốn làm nhạc trưởng thì phải học, muốn học thì phải cố gắng, mình không có kết quả một cách dễ dàng đâu”. Một cách rất tự nhiên, bà dạy cho tôi thế nào là việc làm, là vai trò của làm việc, của cố gắng.

Tôi thật có phước có được hai bà nội ngoại như thế. Rồi tôi còn mẹ tôi. Mẹ tôi… Tôi thấy mẹ rất đau khi sinh lần cuối – mẹ sinh năm lần -, lần cuối mẹ bị nhiễm trùng, trong vòng một năm mẹ không thể đi được. Tôi thấy mẹ đau. Và tôi thấy mẹ làm đủ mọi cách để không phí phạm gì. Cha tôi có một công việc làm tốt, ông làm kế toán, nhưng lương của ông vừa đủ sống đến cuối tháng. Và tôi thấy mẹ, cách mẹ đương đầu với các vấn đề, hết vấn đề này đến vấn đề khác… Và còn một hình ảnh này rất đẹp: mỗi ngày thứ bảy, gia đình bên mẹ tôi rất thích opera, họ nghe đài phát thanh quốc gia Argentina phát chương trình opera lúc 2 giờ chiều. Mẹ tôi biết rất nhiều opera vì thân phụ mẹ tôi là thợ mộc, ông vừa làm vừa hát opera. Và mẹ tôi cho chúng tôi nghe bốn vở oepra lớn nhất…

Dominique Wolton: Các opera Ý?

Đức Phanxicô: Đúng, oepra Ý, cũng có một vài opera Pháp nữa. Tôi nhớ có một lần mẹ tôi nói cho tôi biết về Mignon và cả Manon. Mẹ kể câu chuyện opera, khi đến những đoạn hay, mẹ nói với chúng tôi: “Nghe đoạn này con, rất hay”. Tất cả là nghệ thuật. Đó là một phụ nữ, một người mẹ. Rồi tôi có các em gái… Rất quan trọng cho một người đàn ông có được các em gái. Rồi còn các cô bạn tuổi vị thành niên, những “cô gái hứa hôn nhỏ bé”… Được luôn tiếp xúc với các phụ nữ làm cho đời sống của tôi được phong phú. Tôi cũng học được, dù khi đã lớn, rằng phụ nữ nhìn sự việc một cách khác hơn các ông. Bởi vì đứng trước một quyết định cần phải cân nhắc, đứng trước một vấn đề, quan trọng là phải nghe cả hai phía. 

Dominique Wolton: Làm thế nào để tăng thêm chỗ cho phụ nữ trong Giáo hội, để làm phong phú thêm đối thoại giữa đàn ông, đàn bà?

Đức Phanxicô: Vấn đề này rất quan trọng. Với việc cải cách Giáo triều, sẽ có nhiều phụ nữ nắm các chức vụ có quyết định, chứ không phải chỉ là cố vấn. Bởi vì chúng ta không cần một linh mục để điều khiển ngành giáo dục… Ở Giáo triều đã có một phó giám đốc ở Văn phòng báo chí Tòa Thánh… 

Dominique Wolton: Tôi biết cha muốn nói ai, nhưng vẫn còn chưa đồng đều. Đúng là đàn ông, đàn bà nhìn thực tế không cùng một cách. Trên quan điểm cá nhân, cha có gặp phụ nữ nào tác động đến cha, sau các phụ nữ ở tuổi thơ ấu và vị thành niên không?

 Đức Phanxicô: Có một phụ nữ dạy cho tôi suy nghĩ về thực tế chính trị. Bà là người cộng sản.

Dominique Wolton: Bà còn sống không?

Đức Phanxicô: Không… Trong thời chế độ độc tài, bà bị “pfftt…”, bị giết. Bà bị bắt cùng một nhóm với hai nữ tu người Pháp, họ ở chung với nhau. Bà là hóa học gia, trưởng ban nơi tôi làm việc ở phòng thí nghiệm brô-ma. Bà là người cộng sản Paraguay, thuộc đảng có tên Febrerista ở đó. Tôi còn nhớ bà cho tôi đọc án tử hình của những người Rosenberg! Bà cho tôi biết những gì đàng sau bản án này. Bà cho tôi sách, tất cả đều là sách cộng sản, nhưng bà dạy cho tôi cách suy nghĩ chính trị. Tôi học ở bà rất nhiều. 

Dominique Wolton: Vụ Rosenberg thật là khủng khiếp. 

Đức Phanxicô: Họ thật sự có tội không? Tôi còn nhớ bà kể cho tôi nghe: “Anh biết, khi người ta cho phép tử tội nói lời từ giã trước khi lên ghế điện, họ cầm tay nhau, họ ôm ghì nhau với cặp còng không?” Vô nhân đạo. Như thế bà làm cho tôi hiểu cái lôgic vô nhân đạo của loại chính trị này. Tôi nợ người phụ nữ này rất nhiều. Đến mức, khi vụ bách hại bắt đầu, bà nói tôi tới nhà bà – khi đó tôi đã là linh mục nhưng chưa làm giám tỉnh. Bà điện thoại cho tôi để nói: “Jorge, mẹ chồng tôi bệnh nặng (bà giữ đạo công giáo sốt sắng). Vì sao cha không đến xức dầu cho bà?” Bà là người cộng sản. “Được, tôi sẽ đến”. Tôi biết mẹ chồng của bà. “Cha đến với xe pick-up hay xe vận tải nhẹ, như thế vào trong khu phố của tôi sẽ dễ hơn”. Tôi hiểu bà muốn tôi dọn một cái gì đó. Và đúng vậy. Chúng tôi mang sách của bà đi, bà sợ cảnh sát đến nhà và thấy sách cộng sản. Bà sợ bị bắt. Tôi gặp bà thường xuyên và tôi thấy bà rất tôn trọng chọn lựa xã hội của tôi. Tôi nợ người phụ nữ này rất nhiều, vì đó là người dạy tôi suy nghĩ. Tôi gặp lại các con của bà… 

Dominique Wolton: Tên riêng của bà? 

Đức Phanxicô: Esther Balestrino De Careaga. 

Dominique Wolton: Esther là một tên trong Cựu Ước. 

Đức Phanxicô: Đúng, bà có ba người con. Một cô sống ở Thụy Điển, hai cô khác sống ở Argentina nhưng họ đến Asunción, Paraguay để gặp tôi khi tôi đến đó. Họ nhắc lại cho tôi, mẹ họ đã thương tôi như thế nào. Người phụ nữ này thật sự đã dạy cho tôi thế nào là suy nghĩ.

Dominique Wolton: Bây giờ, với trách nhiệm của cha, cha có có được các quan hệ bằng hữu với phụ nữ không? 

Đức Phanxicô: Không, thật sự là bằng hữu, bạn bè, tôi sẽ nói không, nhưng có các quan hệ tốt thì có. Hai cô bạn khác đã chết khi tôi còn ở Buenos Aires, họ là những người có nhân cách, họ đã chết. Nhưng đúng, có những phụ nữ mà với họ tôi có quan hệ tốt, tôi thảo luận với họ… 

Dominique Wolton: Cha có nghĩ cha sẽ thành công trong việc cải cách để cho phụ nữ có thêm chỗ trong Giáo hội không?

Đức Phanxicô: Có, có, tôi nghĩ là có. Bởi vì chẳng có nạn ghét phụ nữ nhiều như thế đâu. Đó không phải là vấn đề, có nhiều vấn đề khác.

Dominique Wolton: Đúng hơn là vấn đề khác biệt, thiếu thói quen không? Và cả rụt rè nữa? Rụt rè của đàn ông đối với phụ nữ? Nhất là khi họ là linh mục? Đến một lúc… không cứ là ghét phụ nữ, nhưng trở thành không trao đổi được. 

Đức Phanxicô: Đúng. Khi họ thấy đến mức độ nào phụ nữ có thể làm tốt hơn, thì khi đó không có vấn đề. Đó không phải là chuyện sẽ tạo ra vấn đề, sẽ là một chuyện khác…

Dominique Wolton: Vậy thì chuyện gì sẽ là vấn đề? 

Đức Phanxicô: Vấn đề quyền lực. Chúng tôi sẽ làm việc trên vấn đề này. Nhưng tôi nghĩ, bây giờ, ở đây, trong số những người có thiện tâm, thì không có vấn đề. Nhưng sẽ là khó.

Dominique Wolton: Cải cách Giáo triều khó đấy. Cha nghĩ cha sẽ thành công không?

Đức Phanxicô: Có chứ… tôi đã nghe một hồng y lớn tuổi nói: “Bạn đừng nản chí, vì con đường cải cách Giáo triều rất khó. Và Giáo triều thì không thể cải cách được, nó phải bị loại bỏ thôi!” (cười). Dĩ nhiên đó là câu nói đùa!

Dominique Wolton: Nhưng đó cũng là một hình ảnh. Đôi khi, phải tận căn. Nhưng khó.

Đức Phanxicô: Nhưng hồng y nói như thế để cười. Không thể có như thế được, Giáo triều rất cần thiết. Và có rất nhiều người đáng trọng, rất nhiều! Có một vài người là thánh, những người của Chúa! Ông biết, người ta thường nói, một cái cây đổ xuống gây tiếng động hơn là một cánh rừng đang mọc.

Dominique Wolton: Rất hay. Có một ngày nọ, tôi thấy hồng y Tauran. 

Đức Phanxicô: Hồng y giáo phận Bordeaux, nước Pháp. 

Dominique Wolton: Đúng. Ngài nhanh nhẹn, thông minh.

Đức Phanxicô: Tôi xem ngài như một người bạn. 

Dominique Wolton: Ngài cũng rất mến cha. Hồng y Tauran ở tâm điểm của truyền thông chính trị của Giáo hội từ nửa thế kỷ nay. 

Đức Phanxicô: Ngài, ngài biết tìm các con đường. Đó là người của truyền thông. Ngài biết truyền thông. Ngài đối thoại với tất cả mọi người. Tôi thấy ngài thảo luận với các phật tử, người hồi giáo, với tất cả mọi người. Ngài nói. Khi ngài không đồng ý, ngài nói ra. Và ngài biết minh triết của đối thoại. 

Dominique Wolton: Tôi đồng ý.

Chúng ta trở lại vấn đề đối thoại liên tôn. Cha muốn nói thêm một cái gì về sự cứng nhắc, tôi nghĩ vậy… 

Đức Phanxicô: Đàng sau mỗi nghiêm nhặt, là không có khả năng truyền thông. Và tôi luôn thấy… Lấy ví dụ các linh mục cứng nhắc, họ sợ trao đổi, lấy ví dụ các chính trị gia nghiêm nhặt… Đó là một hình thức chính thống. Khi tôi gặp một người nghiêm nhặt, nhất là khi họ trẻ, tôi nghĩ ngay, người này bệnh. Nguy hiểm là họ đi tìm an toàn. Về chuyện này, tôi kể cho ông nghe một giai thoại. Năm 1972, khi tôi là linh mục phụ trách nhà tập, tôi tháp tùng một hoặc hai năm các ứng viên muốn tìm hiểu Dòng Tên. Họ học ở đại học, ngày thứ bảy, chúa nhật họ đến với chúng tôi. Ở nhà tập, họ chơi thể thao, thảo luận với người hướng dẫn thiêng liêng, nhưng họ không có quan hệ trực tiếp với tôi, họ cũng không nhìn tôi, tôi không phải là người quan trọng. Họ qua các buổi phỏng vấn, họ làm các thử nghiệm khá gay như thử nghiệm Rorschach với một nhóm, trong đó có một bác sĩ tâm thần, ông là người công giáo, sốt sắng, ông cũng đã học ở đó, tôi tháp tùng các thanh niên trẻ này làm thử nghiệm. Tôi còn nhớ một anh trong số họ, anh hơi cứng nhắc, nhưng anh có khả năng trí tuệ rất cao, tôi thấy anh rất giỏi. Cũng có những người khác ít xuất sắc hơn, tôi tự hỏi không biết họ có đậu không. Tôi nghĩ họ sẽ bị từ chối vì họ có những khó khăn, nhưng cuối cùng họ lại được nhận vị họ có khả năng lớn lên, khả năng thành công. Còn thử nghiệm của sinh viên đầu tiên, ban giám khảo trả lời không ngay lập tức. “Nhưng tại sao, anh ấy rất thông minh, nhiều đức tính. – Anh có một vấn đề, người ta giải thích cho tôi, anh hơi trịnh trọng, hơi giả tạo về một vài chuyện, hơi cứng nhắc. – Và vì sao anh như vậy? Vì anh không tự tin”.

Người ta thấy những người này có một cái gì vô thức, họ “bệnh về mặt tâm lý”. Họ không biết chuyện này, họ cảm nhận. Vì thế họ đi tìm những cấu trúc mạnh giúp họ chống đỡ với cuộc đời. Họ vào quân đội, vào cảnh sát, vào Giáo hội. Họ làm tốt công việc của mình, nhưng một khi trong vô thức, họ cảm thấy an toàn thì khi đó bệnh phát ra. Và lúc đó các vấn đề phát sinh. Và tôi hỏi “Nhưng thưa bác sĩ, làm sao giải thích chuyện này? Tôi không hiểu rõ”. Và bà trả lời cho tôi: “Cha không bao giờ tự hỏi vì sao có những cảnh sát đi tra tấn? Các thanh niên trẻ này khi họ đến, họ là những con người dũng cảm, người tốt nhưng họ bệnh. Và khi họ thấy họ tự tin ở chính mình, thì khi đó bệnh của họ phát ra”.

Tôi, tôi sợ những người cứng nhắc. Tôi thích một người trẻ mất trật tự, với những vấn đề bình thường, họ bực tức… vì tất cả những mâu thuẫn này giúp họ lớn lên. Chúng ta đã nói về các khác biệt giữa người Argentina và người Pháp… Người Argentina rất gắn bó với khoa phân tâm, đúng vậy. Ở Buenos Aires có một khu phố rất lịch sự, khu phố có tên là Làng Freud. Đó là khu phố của tất cả các nhà phân tâm học.

Dominique Wolton: Nhưng như thế là cả một tai ương. Không nên bao giờ đặt nhiều nhà phân tâm ở chung với nhau, vì sau đó, họ trở nên kiêu căng. Dù sao khoa phân tâm là một trong các cách mạng trí tuệ và văn hóa lớn nhất của thế kỷ 20! 

Đức Phanxicô: Nhưng không phải tất cả họ đều giống nhau. Có một vài người như vậy. Nhưng tôi biết họ rất nhân bản, rất cởi mở với nhân văn và đối thoại với các người ở các ngành khác, với y khoa… 

Dominique Wolton: Đúng, dĩ nhiên! Khi họ là bác sĩ, họ thường là những người giỏi nhất vì họ biết nghệ thuật săn sóc là như thế nào. Tôi biết điều này từ rất lâu, qua môi trường thân cận nhất của tôi. Nhưng khi đó là những người trí thức, thì ngược lại…

Đức Phanxicô: Nhưng khi họ trao đổi với khoa học… tôi biết một bà, bà rất có năng khiếu, một phụ nữ có nhân cách, trên dưới năm mươi. Bà làm việc ở Buenos Aires, một năm ba đi dạy ở nước ngoài ba lần, một tuần ở Tây Ban Nha, một tuần ở Đức. Rất hay, vì bà tìm được một cách để làm phong phú thêm cho nghệ thuật phân tâm với trị liệu vi lượng đồng cân và nhiều khoa ngành khác.

Nhưng với những người mà tôi biết, họ đã giúp tôi rất nhiều, trong một giai đoạn của cuộc sống khi tôi cần tham vấn. Tôi có tham vấn với một bà phân tâm người do thái. Trong vòng sáu tháng, tôi đến văn phòng bà mỗi tuần một lần để làm sáng tỏ một vài chuyện. Bà rất giỏi, rất chuyên nghiệp như một bác sĩ và nhà phân tâm, nhưng bà luôn giữ quan điểm của bà. Một ngày nọ, khi bà sắp chết, bà gọi tôi. Không phải để nhận các bí tích vì bà là người do thái nhưng để có một cuộc nói chuyện thiêng liêng. Một người rất tốt. Trong vòng sáu tháng, bà đã giúp đỡ tôi rất nhiều, lúc đó tôi 42 tuổi. 

Dominique Wolton: Chúng ta tất cả đều cần một đối thoại kiểu này, với một bác sĩ tâm thần hay với một nhà phân tâm, để có một khoảng cách khi mình đau khổ. Nếu nghề này được thực hành tốt thì cũng giống như làm linh mục. Sự so sánh với linh mục là có đó, mặt khác một bác sĩ tâm thần giỏi thường là người ôm vào mình nỗi đau của người khác. Bác sĩ tâm thần chữa lành người khác, họ đau với cái đau của người khác, chính xác giống những gì linh mục làm. Gần gũi về mặt tâm hệ… 

Đức Phanxicô: Tháp tùng là một tiến trình khó khăn. 

Dominique Wolton: Cha có nhớ Argentina không?

Đức Phanxicô: Không, không. Đó là chuyện lạ kỳ. Tôi đến đây với chiếc va-li nhỏ, với vé máy bay khứ hồi, bởi vì theo tôi, tôi không có một cơ may nào, và tôi cũng chẳng nghĩ đến, có ba hoặc bốn tên “nổi bật”… theo những người đánh cược (bookmaker) ở Luân Đôn thì tôi đứng hạng 42 hay 46. Họ nói chẳng qua tôi chỉ là người đệm, người làm tăng hoặc làm giảm cho người chính (kingmaker), người “làm phiếu cho người khác”. 

Dominique Wolton: A, cha nói tiếng anh? (Ah, you speak English?) 

Đức Phanxicô: Chút chút… Những người đánh cược nói ông Bergoglio này mang một cái nhìn khác của Châu Mỹ La Tinh đến, để chọn một giáo hoàng tương lai, để nói “người này thì tốt hơn người kia…” Khi sự việc thay đổi giờ này qua giờ khác, tôi cảm thấy trong lòng rất bình an. Bình an này tôi vẫn giữ được cho đến giờ này. Bình an này, tôi nghĩ là ơn của Chúa. Tôi nghĩ chính vì vậy mà tôi không nhớ Argentina.

 Dominique Wolton: Vì sao khi nào cha cũng xin mọi người cầu nguyện cho cha? 

Đức Phanxicô: Vì tôi cần… Tôi cần lời cầu nguyện. Vì tôi cảm thấy mình được nâng đỡ bởi lời cầu nguyện của giáo dân. Thật sự như vậy.

Marta An Nguyễn dịch

Trích sách “Chính trị và Xã hội“, Dominique Wolton và Đức Phanxicô, Nxb. L’Observatoira, 2017. Chương 8

 

 

 

 

Xin đọc: “Không dễ, không dễ…” 

Hòa bình và chiến tranh   

Âu châu và văn hóa đa dạng 

Văn hóa và truyền thông

Sự khác biệt, niềm vui và thời gian

“Lòng thương xót là chuyến đi từ quả tim đến bàn tay” 

“Truyền thống là chuyển động” 

 

Thượng hội đồng giới trẻ tháng 10-2018 qua các con số

Thượng hội đồng giới trẻ tháng 10-2018 qua các con số

Thượng hội đồng giới trẻ tháng 10-2018 qua các con số

cath.ch, Raphael Zbinden, 2018-10-10

Ngày 1 tháng 10, 2018, hồng y Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng hội đồng các giám mục đã trình bày diễn tiến của thượng hội đồng về “giới trẻ, đức tin và phân định ơn gọi”. Nhân dịp này ngài đưa ra các con số theo nhịp làm việc của các nghị phụ.

25 ngày. Thượng hội đồng sẽ khai mạc ngày 3 tháng 10, Đức Phanxicô sẽ dâng thánh lễ khai mạc ở quảng trường Thánh Phêrô. Ngày bế mạc là ngày 28 tháng 10, nhưng lần này, Đức Phanxicô sẽ dâng thánh lễ ở Đền thờ Thánh Phêrô. Thượng hội đồng mở đầu với kinh Chúa Thánh Thần Veni, Creator Spiritus. Buổi bế mạc là kinh tạ ơn Te Deum. Trong 25 ngày này, thượng hội đồng giới trẻ sẽ làm việc mỗi ngày, trừ ngày chúa nhật. Diễn tiến thượng hội đồng sẽ được trình bày qua 19 buổi chỉ dẫn và 4 buổi họp báo. 

267 nghị phụ. Trong số này có 181 được các hội đồng giám mục sở tại đề cử, khoảng bốn mươi nghị phụ do Đức Phanxicô đề cử. Các nghị phụ khác là thành viên chuyên ngành luật và ngành liên hệ. Có 10 nghị phụ không phải là giám mục, hoặc là linh mục, hoặc là tu sĩ. Đây là điểm mới của thượng hội đồng kỳ này, dù trong kỳ thượng hội đồng năm 2015 cũng đã có một tu sĩ không phải là linh mục tham dự. Như tên chỉ định, tất cả các nghị phụ là phái nam.

49 dự thính. Tất cả những người này – nam và nữ – từ khắp nơi trên thế giới về, đa số là những người đã hoạt động với giới trẻ. 36 trong số họ  từ 18 đến 29 tuổi. Một trong các tiêu chuẩn để chọn là họ dấn thân làm việc trong các cơ quan, ngay cả ngoài Giáo hội.

23 chuyên gia. Họ cùng làm việc với hai thư ký đặc biệt của thượng hội đồng giới trẻ.

14 ‘nhóm nhỏ’ (circolo minori). Đây là các nhóm phân chia theo ngôn ngữ, qua đó các nghị phụ và các dự thính viên sẽ cùng làm việc theo Tài liệu Làm việc (Instrumentum laboris) được đưa ra vào tháng 6 vừa qua. Các nhóm này sẽ bầu các modi – sửa đổi – theo tài liệu này. Tuy nhiên quyền bầu chính thức dành riêng cho các nghị phụ. Có 6 ngôn ngữ khác nhau: Pháp, Anh, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Đức. Mỗi nhóm nhỏ có ít nhất là một người trẻ.

3 ‘đơn vị làm việc’. Chương trình làm việc theo ba phần của Tài liệu Làm việc: nhận biết, chú thích và chọn lựa. Giai đoạn đầu sẽ kết thúc ngày 9 tháng 10, giai đoạn hai vào ngày 15 tháng 10 và giai đoạn cuối vào ngày 22 tháng 10. Mỗi giai đoạn sẽ có các buổi họp chung, các sửa đổi và các bản báo cáo của các nhóm nhỏ được gom lại và tổng hợp tạm thời trong một bản văn tạm thời. 

178 phiếu. Một bản báo cáo tạm thời của tài liệu cuối cùng sẽ được trình bày vào ngày 24 tháng 10 trước khi bầu bản cuối cùng ngày 27 tháng 10. Để được chấp nhận, bản này phải được sự chấp nhận của hai phần ba nghị phụ. Một khi bầu xong, tài liệu cuối cùng được đưa lên giáo hoàng để ngài quyết định công bố hay không công bố. Ngài cũng có thể đưa vào Giáo huấn bình thường.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: Thượng hội đồng giới trẻ với 5 vấn đề được đặt ra

Ca sĩ Charles Aznavour và Đức Mẹ

Ca sĩ Charles Aznavour và Đức Mẹ

Ca sĩ Charles Aznavour vừa qua đời trong đêm chúa nhật rạng ság thứ hai 1 tháng 10, 2018, thọ 94 tuổi. Ông là người Armenia, ông hát sáu thứ tiếng nhưng chính là tiếng Pháp. Tưởng niệm ca sĩ Azvanour, báo Aleteia đăng lại bài Charles Aznavour và Đức Mẹ.

fr.aleteia.org, Constance Ory, 2017-12-14

Ca sĩ Charles Aznavour, 93 tuổi có buổi hòa nhạc cảm động ngày thứ tư 13 tháng 12, 2017 ở nhà hát Bercy trước 20 000 khán giả và Đức Mẹ đã được mời đến dự.

Thứ tư 12 tháng 12, 2017. Trời lạnh và mưa. 20h15, 20 000 khán giả tóc ướt, vẫy tay và ngồi chờ ca sĩ nhà thơ bước ra sân khấu. Nhà thơ, ca sĩ ‘khổng lồ’ của các bài hát tiếng Paris đã viết cả ngàn bài hát, được ba thế hệ cùng thuộc bài hát của ông. Nhà thơ năm 1963 viết bài hát “Retiens la nuit” mà ca sĩ Johnny Halliday hát 96 lần ở nhà hát Bercy.

Chiều hôm đó, Aznavour hát một mình ở Bercy. Nhưng ông còn sợ gì khi đã hát ở Madison Square Garden, New York? Và lần cuoi ông hát ở nhà hát Bercy là khi sinh nhật 70 tuổi của Johnny, 15 tháng 6, 2013. IHọ đã song ca bài hát “Về đời anh” (Sur ma vie).

“Về đời anh

Anh thề một ngày

Yêu em cho đến ngày cuối cùng của anh

Và luôn nói câu

Chúng ta kết hợp trước mặt Chúa và trước mặt mọi người”

Johnny Halliday và Charles Aznavour

Bây giờ chúng ta không còn thấy họ hát chung và cuộc đời này, họ thề yêu nhiều hơn, yêu tốt hơn, nhưng chính Charles Aznavour đã làm cho đời rung động. Charles Aznavour 93 tuổi, ông có đôi mắt trong sáng, thẳng thắn, tất cả ngập trong âm nhạc và kỷ niệm. Các bài hát của ông ca ngợi sự dịu dàng, kêu gọi lòng bác ái, giữ một khoảng cách với những chuyện gian xảo, ti tiện và luôn với nụ cười trên đôi mắt.

Đôi tay ông run run, ông không che giấu, ngược lại là đằng khác, ông giải thích tối nay ông không uống thuốc để tay bớt run vì thuốc làm cho giọng ông sẽ không tốt. Ông có sự khiêm tốn của những người không cần phải chứng minh gì. Và sự khiêm tốn này thể hiện qua các chuyện khác, qua sự thanh lịch, thanh đạm, trong sự nghiêm túc khi xưng hô với các nhạc sĩ của ông. Ông không khi nào tìm cách làm đỏm dáng, tìm cách tránh tuổi già, đôi khi không cố ý, ông như đứa con nít. Một điệu nhảy, một câu nói bật ra, một ánh mắt sáng là thành con nít!

Giọng của ông vang lên làm cho đôi khi tôi khó tin đây là giọng từ thân thể yếu đuối kia vang lên. Và tôi hiểu. Căn phòng trở nên xanh lơ. Charles Aznavour có vẻ như nhỏ hơn, mong manh hơn trong căn phòng to lớn này, trong ánh đèn màu xanh nhạt mà ông hằng thích và ông bắt đầu hát, thả hồn cho điệu hát, nhẹ nhàng thanh thản hơn, nét mặt ông càng buông thả, giọng hát càng mạnh. Ông hát, ông hát và ông cất lên bài hát Ave Maria với một sức mạnh không thể tưởng tượng, cả nhà hát Bercy im lặng. Bercy im lặng trước con người này, một mình trong ánh sáng màu xanh lơ nhạt, cầu bàu xin Đức Mẹ an ủi những người đang khóc, những người đau khổ, Mẹ đã biết thế nào là đau khổ, đã tế nhị, can đảm ôm trọn nỗi đau, dâng trọn con mình để cái chết của con cứu chuộc mọi người.

Ave Maria ở nhà hát Bercy

https://twitter.com/BertrandDicale/status/941039900371177472/photo/1

Sức mạnh tỏa ra nơi những người khiêm nhường. Ánh sáng xuyên qua đường nứt. Và thật đẹp. Tiếng Amen vang lên trong căn phòng rộng mênh mông, xuyên qua ánh sáng đi từ sân khấu, băng qua trên hàng ngàn cái đầu khán giả như một tia hy vọng. Và phần còn lại chỉ là văn chương chữ nghĩa…

Ave Maria

Ave Maria

Những ai đau khổ xin đến cùng Mẹ

Mẹ, người đã đau khổ rất nhiều

Người đã hiểu đau khổ của họ

Và chia sẻ đau khổ với họ

Chia sẻ với họ

Mẹ nâng đỡ

Ave Maria

Ave Maria

Những ai đang khóc là con của Mẹ

Mẹ đã hiến con một mình

Để tẩy rửa cho loài người

Khỏi các vết nhơ

Mẹ Maria thanh tẩy

Ave Maria

Ave Maria

Những ai nghi ngờ trong bóng đêm

Maria

Xin chiếu sáng con đường cho họ

Xin cầm tay họ

Ave Maria

Ave Maria, Ave Maria

Amen

Charles Azvanour – Ave Maria

 Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc: Chuyến đi cuối cùng của ca sĩ Charles Aznavour

Charles Aznavour và con gái Katia Azvanour trong bài hát Je Voyage

Khi Scorsese trả lời cho vụ tai tiếng của cuốn phim “Cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô”

Khi Scorsese trả lời cho vụ tai tiếng của cuốn phim “Cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô”

parismatch.com, Clément Mathieu, 2018-09-30

Martin Scorsese, trong lần cổ động cho cuốn phim “Cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô” ở Toronto, Canada ngày 10 tháng 8, 1988. Andrew Stawicki / Toronto Star / Getty Images

Cách đây 30 năm, cuốn phim “Cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô”  đã gây tranh cãi dữ dội, kéo theo các cuộc phản kháng, thậm chí còn dẫn đến các vụ  tấn công. Đạo diễn

Martin Scorsese giải thích với báo Paris Match.

Khi cuốn phim “Cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô” của đạo diễn Martin Scorsese chiếu lần đầu tiên ở Pháp ngày 28 tháng 9, 1988 thì nó đã nổi tiếng dữ dội rồi. Cuốn phim do diễn viên Willem Dafoe đóng vai chính, mô tả con Thiên Chúa sống như một người đàn ông bình thường và có quan hệ tình dục với Maria-Mađalêna. Cũng như ở Mỹ, cuốn phim tạo làn sóng phản đối nơi người công giáo, họ cho rằng cuốn phim phạm thượng, nhất là cảnh cuối cùng.

Các băng-rôn, biểu tình, cầu nguyện trước các rạp chiếu. Nhiều tuần sau, các vụ chống đối vẫn còn ráo riết với các vụ tấn công bằng bom cháy ở nhiều rạp chiếu bóng trên nước Pháp. Vụ tấn công nặng nhất là ở quảng trường Thánh Mi-ca-e ở Paris.

Đêm 22 rạng 23 tháng 10, 1988, một nhóm người công giáo chủ trương giữ nguyên vẹn đặt chất nổ ở một phòng chiếu bên cạnh (ít được canh phòng hơn) phòng chiếu phim “Cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô”. Vụ tấn công làm 14 người bị thương trong đó có 4 người bị thương nặng. Năm người, trong đó có một vài người thân cận với nhà thờ  Thánh Nicolas-du-Chardonnet bị lên án năm 1990.

Sự hình thành, sản xuất và phân phối phim đã làm cho nhà đạo diễn Martin Scorsese phải chịu đựng rất nhiều khó khăn, tôn giáo là trọng tâm các phim của ông. 

Đây là bài phỏng vấn của nhà đạo diễn Martin Scorsese với báo Paris Match trong thời tranh luận năm 1988 … Bài phỏng vấn của nữ ký giả Katherine Pancol trong số báo 2052 Paris Match ngày 23 tháng 9, 1988 

Martin Scorsese: “Câu chuyện này, đó là cách tôi cầu nguyện, là hành vi đức tin của tôi”

Đạo diễn Martin Scorsese có vẻ nhỏ bé dưới cây đèn chùm khổng lồ ở phòng khách trong dãy phòng khách sạn ông thuê ở Danieli. Mặc chiếc quần jean thẳng nếp với dây nịt mạ vàng rất to, ông nhảy từ chỗ này qua chỗ kia trong phòng, bật dậy từ chiếc ghế vải hoa thấp, nhăn mặt vì đây không phải chiếc ghế tân thời, tịch thu gói thuốc lá của tôi vì ông dị ứng với thuốc lá. Dị ứng với tất cả các vụ biểu tình trên thế giới chống cuốn phim “Cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô” sẽ chiếu ở Pháp ngày 28 tháng 9, 1988. Bất cứ đâu, New York, Los Angeles, Paris, Rôma, Luân đôn, hàng giáo sĩ đều tức tối và lên án cuốn phim phạm thượng. Ngay cả ở Venise, tại quảng trường thánh Mác-cô, chỉ cách khách sạn của ông một trăm mét, các người chủ trương giữ nguyên vẹn, các “lefebvre” biểu tình với băng-rôn “Cuốn phim của Scorsese là ghê tởm” , “Không được nhạo báng Chúa” và họ quỳ gối đọc Kinh Lạy Cha bằng tiếng la-tinh trước sự ngạc nhiên của các con chim bồ câu và du khách. Một người đàn ông đi qua hô “Hoan hô Scorsese”. Các người biểu tình càng hô to: “Chúa Kitô đã chết trên thập giá vì tội chúng ta. Chúng ta cùng cầu nguyện cho thế giới tội lỗi ngày nay”. Họ là những người trẻ và kham khổ. Chắc chắn đạo diễn Scorsese sẽ chờ một cuộc tranh luận dữ dội, nhưng không ngờ lại có vụ tai tiếng lại bùng nổ lớn đến như vậy. Trước hết là buồn, nhưng bây giờ ông “kinh hoàng” trước phản ứng của hàng trăm người mà ông cho là họ chưa xem phim.

Biểu tình trước phòng chiếu phim “Cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô” ở New York ngày 13 tháng 8, 1988. © Barbara Alper/Getty Images

– Tôi không hiểu! Họ phải xem phim trước rồi sau đó hẳn thảo luận. Nhưng họ chưa xem phim đã lên án!

Ông bứt rứt trên chiếc ghế đệm thấp, hai mắt đen bừng cơn giận.

– Tôi phạm thượng vì tôi nói Chúa vừa là người vừa là Thiên Chúa! Nhưng nếu Chúa Kitô chỉ là Chúa, thì sẽ dễ cho Ngài để cự lại cám dỗ và chết trên thập giá! Như thế Ngài biết bản chất và đau khổ của con người không? Khi đưa ra Chúa Giêsu cũng là một người, Ngài yêu cuộc sống và Ngài từ bỏ cuộc sống để chết trên thập giá, tôi dẫn chứng khi Ngài chết trên thập giá, chúng ta cùng đau khổ với Ngài! Người ta không thấy đó là bình thường sao!

Ông lắc đầu và nói thêm:

– Giáo hội trở nên một nghiệp đoàn khổng lồ bảo vệ quyền lợi của mình. Vì thế Giáo hội buộc phải lên án cuốn phim. Vì tổ chức của họ, an toàn của họ bị đặt vấn đề. Họ sợ tất cả những gì có thể đặt lại vấn đề.họ chỉ chấp nhận cái nhìn phơn phớt nhẹ nhàng, tô màu như các phim làm trước thời các đạo diễn Rossellini hay Pasolini, nhưng một Giêsu nghi ngờ, một Giêsu là người thì họ không chấp nhận. Tôi không làm phim theo giáo điều, tôi đưa ra cái nhìn của tôi về Chúa Giêsu. Tôi không khởi đi từ quyển Thánh Kinh nhưng khởi đi từ quyển sách của một lương dân! Cuốn phim này là cách tôi cầu nguyện. Là hành vi đức tin của tôi!

Hai tay của ông khoác trên không. Ông đung đưa trước sau, vẻ tức tối.

– Tôi không thích Giáo hội ngày nay. Tôi không thích giáo điều quảng cáo nhiều hơn là nói về tình yêu. Tôi, tôi thích quan hệ trực tiếp với Chúa.

Sau khi đọc kịch bản, diễn viên Stallone tuyên bố: “Giêsu này xoàng quá”.

– Nhưng điều này có làm cho ông bực mình khi thấy có nhiều người trẻ trong số các người đi biểu tình không? 

– Những người trẻ ngày nay, họ không còn một hy vọng nào. Họ có các vấn đề rượu, ma túy, bạo lực. Vì thế, để muốn thoát ra, họ bám vào tôn giáo. Hoặc như vậy, hoặc tự tử. Và nếu mình đặt lại vấn đề Giêsu của họ, họ sợ. Sợ phải hoài nghi, sợ phải quay về các thói quen cũ của mình… 

Biểu tình trước phòng chiếu “Cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô”  ở Paris ngày 28 tháng 9, 1988. © William STEVENS/Gamma-Rapho via Getty Images

– Còn ông, khi ông còn trẻ?

– Tôi có hai đam mê: Chúa và phim ảnh. Tôi học ở trường các nữ tu. Tôi cũng đã vào tiểu chủng viện. Tôi muốn làm linh mục. Nhưng từ thời đó, tôi đã phản ứng lại. Tôi muốn có đức tin của một đứa bé nhưng tôi không muốn ngây ngô như đứa bé. Tôi đặt một lô các câu hỏi. Chẳng hạn, tôi sốc với số phận dành cho Giuđa. Đó là tông đồ duy nhất xuống địa ngục! Như thế là không đúng!

– Và bây giờ ông tin ở Chúa?

– Tôi ám ảnh bởi ý tưởng về Chúa, nhưng tôi không giữ đạo, tôi không đi lễ. Tôi có cây thánh giá để ở đầu giường. Tôi không hề xem tôn giáo là nhẹ. Ngược lại là khác. Tôi mãi mãi bị đè bêp bởi mặc cảm tội lỗi. Chẳng hạn khi Thánh Phaolô nói: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”…

Ông rùng mình.

– Câu này đi theo tôi. Thánh Phaolô rất láu lỉnh. Đó là một tay buôn ngoại hạng. Chính Thánh Phaolô là người dàn xếp mọi sự cho Giáo hội, người đã đưa ra khái niệm mặc cảm này, đã tra tấn và buộc xích người công giáo…

– Ông có cầu nguyện không?

– Có, tôi cầu nguyện để Chúa chỉ cho tôi con đường. Con đường của cuộc đời tôi. Chẳng hạn chú ý đến những người chung quanh tôi. Yêu họ hơn… tôi bị ám ảnh bởi ý tưởng đau khổ và cứu rỗi. Đó cũng là chủ đề các phim của tôi… Rốt cùng, tôi thấy Chúa Giêsu là một nhân vật tuyệt vời. Ngài mang đến cho thế giới một sứ điệp phi thường, sứ điệp tình yêu: “Anh em hãy thương yêu nhau. Thương người như mình vậy.”

– Ông sẽ nói gì với Chúa Giêsu bây giờ nếu ông gặp Ngài?

–  Trước hết tôi sẽ xin Ngài xem phim của tôi…

Ông bật cười và thư giãn. Ông nằm trên ghề dài rồi co lại.

– Không, nghiêm túc là không như vậy… Tôi sẽ hỏi Ngài sứ điệp tình yêu bây giờ trở nên như thế nào? Đó là câu hỏi lớn. Và đó cũng là giới hạn lời giảng dạy của Ngài. Ngày nay nếu mình yêu kẻ thù và đưa má kia cho họ tát thì mình sẽ chết! Chỉ cần đi dạo ngoài đường ở thành phố New York là biết! Chúng ta sống trong một thế giới bị cai trị bởi bạo lực và súng ống… 

Biểu tình trước phòng chiếu “Cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô”  ở Nantes ngày 24 tháng 9, 1988. © Alain LE BOT/Gamma-Rapho via Getty Images

– Nhưng tại sao ông làm phim này?

– Trước hết vì tôi bị ám ảnh bởi quyển sách của Kazantzakis. Không phải chỉ có một mình tôi. Trước tôi có Sidney Lumet, Elia Kazan và Ingmar Bergman cũng đã mua bản quyền sách này. Tiếp đó là tôi không thích hai cuốn phim trước đó của tôi: “Mùi của tiền bạc” và “Sau những giờ”. TTôi không muốn chúng là phim của tôi. Phim ảnh là cuộc sống của tôi, và tôi không muốn xem nhẹ nó. Làm một cuốn phim, là một dấn thân cá nhân. Mỗi lần đều như vậy. Tôi muốn khám phá những gì thiết thân đối với tôi. Tôi không tìm cách thu hút đám đông nhiều nhất có thể. Tôi làm phim trước hết là cho một mình tôi. Quần chúng, là tôi.

– Và với cuốn phim này, ông hoàn toàn “khám phá” được Giêsu?

– Ồ không! Tôi không trả lời được tất cả các câu hỏi mà tôi tự đặt cho mình về Chúa Giêsu. Tôi chưa xong gì hết và bây giờ tôi còn bị ám ảnh nhiều hơn là trước khi bắt đầu làm phim này!

Tôi nghĩ phim này sẽ giúp nói một cái gì khác hơn là tôn giáo 

– Không phải Robert De Niro đóng vai Chúa Giêsu sao?

– Không. Không bao giờ có dự tính để Bob đóng vai này. Đó là do lỗi của tùy viên báo chí đã để lọt tên ông mà không biết. Trước hết, Bob không thích chủ đề này. Dù chúng tôi rất hợp nhau nhưng cũng có lúc phải xa nhau để cả hai cùng lớn lên. Nhưng cũng tốt… Sau khi tên của De Niro được loan ra, tôi đi Paris gặp ông và tôi nói đó là vì lầm. Tôi hoàn toàn không nghĩ gì về ông khi dựng vai Giêsu. Chúng tôi cùng thảo luận và cuối cùng ông nói với tôi: “Nếu anh có vấn đề, nếu anh không tìm ra ai khác, anh gọi tôi, tôi sẽ đóng cho anh.” Sau đó, kịch bản được luân lưu ở Hollywood và một lầm lẫn thứ nhì, kich bản rơi vào tay Sylvester Stallone!

Bật cười trên ghế. Scorsese tiếp tục bắt chước giọng Ý của Sylvester.

– Khi Sylvester đọc kịch bản, ông gọi cho đại diện của ông và nói: “Nhân vật Giêsu này quá xoàng. Kịch bản này bị thối, không có chuyện tôi đóng phim này”. Vậy là tốt vì tôi thích nhờ Victor Mature hơn là Sylvester! Và rồi tôi gặp Willem Dafoe, tôi thấy Dafoe là một diễn viên lớn. Một Giêsu phi thường!

Ông cười, vẻ nghĩ ngợi, ông cột lại giây giày.

– Khi tôi quay phim xong, tôi nghĩ Giáo hội sẽ hỗ trợ tôi… Rằng tầm nhìn về Giêsu của tôi sẽ làm cho Giêsu gần với người dân, rằng tôi làm tươi sáng nhân vật Chúa Kitô. Tôi nghĩ cuốn phim sẽ giúp nói lên cả ngàn chuyện khác hơn, những chuyện không dính gì với tôn giáo. Các vấn đề mà tất cả chúng ta đều gặp trong cuộc sống… 

Biểu tình trước phòng chiếu “Cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô” ở Paris ngày 28 tháng 9, 1988. © Patrick Robert/Sygma/CORBIS/Sygma via Getty Images

Ông có lý. Cuốn phim không những chỉ nói về đời sống của Chúa Kitô mà còn nói đến quyền lực, tiền bạc, dục tính. Về sự hèn nhát, về phản bội. Giữa chọn lựa sống tốt và hoàn thiện. Giữa ung dung thoải mái hay tự vượt lên.

– Tôi nghĩ tôi sẽ khơi dậy các thảo luận say sưa như Chúa Giêsu đã có các cuộc thảo luận với các tông đồ của Ngài… Thay vì vậy cuốn phim lại bị tai tiếng… Tai tiếng chỉ vào một chuyện, một cảnh của phim, cảnh của giấc mơ phạm thánh khi Giêsu thông dâm với Maria-Mađalêna.

Tai tiếng làm xóa đi các tiến trình có tinh thần rất kitô trong phim của nhà đạo diễn Scorsese. Bây giờ, vì cứ bị đóng đinh và bị “Pater Noster”, Martin Scorsese buồn và giận. Ông đến Âu châu để nói chuyện với những người đã xem phim. Và họ chưa xem phim đã lên án ông, cũng như ở Mỹ, ông đụng phải bức tường không khoan nhượng. Ông nói: “Ở Mỹ tôi hiểu, đó là tiếng hót của con thiên nga dưới chế độ Reagan. Nhưng còn ở đây?”

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc: Dựng “Im Lặng”

Đi tĩnh tâm thinh lặng một tuần để đóng vai các nhà truyền giáo Dòng Tên

Linh mục Dòng Tên James Martin khóc khi xem phim «Im lặng»

Chuyến đi cuối cùng của ca sĩ Charles Aznavour

Chuyến đi cuối cùng của ca sĩ Charles Aznavour

Chuyến đi cuối cùng của ca sĩ Charles Aznavour, người khổng lồ của nhạc Pháp và đại diện cho tiếng nói của người Armenia

vaticannews.va, Cyprien Viet, Vatican, 2018-10-01

Ông là một trong những huyền thoại sống cuối cùng của nhạc Pháp và cũng có thể là một trong các nghệ sĩ Pháp được biết nhiều nhất trên thế giới.

Charles Aznavour qua đời đêm vừa qua ở tuổi 94, sau chuyến lưu diễn gần đây ở Nhật.

Sinh tại Pháp ngày 22 tháng 5, 1924, cha mẹ là người Armenia, Charles Aznavour có một sự nghiệp ca nhạc phong phú lạ thường, trải dài hơn bảy mươi năm, trình diễn trên 80 nước, hát 1400 bài hát trong sáu ngôn ngữ. Ông cũng có một sự nghiệp thành công trong lãnh vực phim ảnh và kịch nghệ, bắt đầu trên sàn diễn từ những năm 1930.

Từ năm 1988, sau trận động đất tàn phá thành phố Gyumri, nước Armenia, khi đó phần đất này còn thuộc lãnh thổ của Liên bang Xô viết, Charles Aznavour bắt đầu để ý đến nước gốc của gia đình dù bản thân ông chưa bao giờ sống ở đó. Charles Aznavour cũng chưa bao giờ mong đóng một vai trò chính trị trực tiếp cho Armenia, nhưng ông trở nên biểu tượng cho tình hữu nghị Pháp-Aemenia. Ông muốn người Armenia ở Pháp tham dự tích cực hơn trong việc tái thiết quê cha đất tổ. Danh tiếng của ông vượt hẳn ra ngoài thế giới nghệ thuật, năm 2008 sau khi có quốc tịch Armenia, ông được cử làm đại sứ Armenia ở Thụy Sĩ, và đại diện Armenia ở Liên Hiệp Quốc, mở đầu sự nghiệp ngoại giao ở tuổi… 84!

Qua mạng xã hội, ông theo dõi các sự kiện mùa xuân vừa qua đưa đến việc thay đổi chế độ. Một cuộc triển lãm song song giữa các sự kiện tháng Năm 68 ở Pháp và tháng Năm 2018 ở Armenia vừa khánh thành ở Trung tâm mang tên ông ở thủ đô Armenia. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã mời ông tham dự cuộc họp thượng đỉnh các nước nói tiếng Pháp (Francophonie) sẽ tổ chức vào tuần sau ở Erevan, đại diện cho sự kiện quốc tế lớn nhất được tổ chức ở đất nước này sau ngày độc lập. Một buổi vinh danh ông sẽ có thể có trong buổi họp thượng đỉnh này, dưới một hình thức nào thì đang được cứu xét. 

Một nghệ sĩ xin các Giáo hoàng can thiệp cho Armenia

Charles Aznavour, thuộc giáo phái tông đồ Armenia thường đề cập đến các chủ đề thiêng liêng trong các bài hát của mình.

Ngày 26 tháng 9 năm 2001, ông đã hát trước Đức Gioan-Phaolô II nhân chuyến đi của ngài đến Armenia để kỷ niệm mười năm đất nước độc lập. Ông cũng đã hát bài Ave Maria trước Đức Gioan-Phaolô II và trước Thượng phụ công giáo Giáo phái tông đồ arm Karékine I trong buổi lễ tưởng niệm vụ diệt chủng người Armenia ở Tzitzernakaberd, gần thành phố Erevan.

Trước hôm đó, Charles Aznavour đã được Đức Gioan-Phaolô II và Đức Thphụ tiếp ở Etchmiadzine trong buổi gặp chung với quần chúng, ông cũng dự buổi lễ đại kết ở nhà thờ chính tòa mới Thánh-Grégoire ở Erevan.

Một vài năm sau, trong dịp kỷ niệm một trăn năm vụ diệt chủng người Armenia, Charles Aznavour đã ca ngợi các lời tuyên bố của Đức Phanxicô trong buổi lễ được tổ chức ở Đền thờ Thánh Phêrô ngày 12 tháng 4, 2015, trong dịp này ngài công khai nói chữ “diệt chủng” trong một bài diễn văn chính thức. Tuyên bố trong cuộc phỏng vấn với báo Pháp Parisien, ông cho biết: “Tôi chờ ngài nói lời này”. Ông tỏ lòng mến mộ Đức Phanxicô với những lời sau: “Đó là một hành vi rất mạnh. Nhưng cũng là một nhân vật rất mạnh! Ngài đang thúc bách mọi sự. Ngài thúc bách cả Vatican và… mafia ! Thật vững chải! Tôi mến mộ những người vững mạnh khi họ làm việc trong chiều hướng tốt.”

Ông được biết nhiều ở nước Argentina và Đức Phanxicô là người thích nghe nhạc, theo một vài hãng tin, ông ấp ủ tổ chức một buổi hòa nhạc cho Armenia ở Vatican. Như thế dự tính này sẽ không được hoàn thành. Charles Aznavour đã qua đời trước khi hoàn tất rất nhiều dự tính của mình, trước ngày ông trăm tuổi, ngày mà ông vẫn còn hy vọng lên sân khấu.

Lời vinh danh của hồng y Ravasi

Một ít lâu sau khi nghe tin ông qua đời, hồng y Gianfranco Ravasi, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng Văn hóa đã viết câu tweet bằng tiếng Pháp trích từ bài hát Về đời anh của ông: “Gần các cây đàn ống ca hát, trước ảnh Chúa cầu nguyện, lòng hạnh phúc, anh chờ em… nhưng các cây đàn ống đã Ta lịm.” Một dấu hiệu cho sự xúc động toàn cầu khi nghe tin người nghệ sĩ qua đời, người nghệ sĩ cũng đã làm cho Vatican  xúc động.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: Ca sĩ Charles Aznavour và Đức Mẹ

“Allô, Giulia? Con rất can đảm, con biết không?”

“Allô, Giulia? Con rất can đảm, con biết không?”

Giulia

Trích sách “Các cuộc gọi của Đức Phanxicô”, Rosario Carello, nxb. Fidélité

Các móng tay sơn màu xanh lơ nhẹ, nhưng chỉ một bàn tay thôi và đó là chi tiết dịu dàng nhất của tấm hình này. Nhưng chuyện ấn tượng nhất là Giulia ôm Giáo hoàng thật chặt. Đó là tấm hình nào? Đó là tấm hình nổi tiếng nhất của Đức Phanxicô với một cô bé. Và nếu bạn muốn biết tấm hình này thì đó là tấm hình trên quyển sách trước đây của tôi “80 lời hay ý đẽp của Đức Phanxicô” (I racconti di Papa Francesco). Câu chuyện của bức hình rất dễ thương. Tôi xin kể hầu quý vị. 

Một vòng ôm rất lâu.

Cô bé tên là Giulia, cô 14 tuổi và ngày 15 tháng 5 – 2013, cô cùng mẹ là bà Caterina đến quảng trường Thánh Phêrô. Trời nóng và có rất đông người. Buổi tiếp kiến chung vừa xong, Đức Phanxicô sắp lên xe giáo hoàng.

“Mẹ, Đức Giáo hoàng đi hả? Ngài không trở lại nữa sao?”, Giulia kêu lên, em sốt ruột, Giulia muốn nhìn ngài thật gần.

Sau đó chiếc xe quay một vòng, đi chậm lại và chuyện không thể tưởng tượng, chiếc xe dừng trước mặt hai mẹ con. Và Đức Phanxicô kìa. Ngài nhìn Giulia, ngài cúi xuống, ngài muốn ôm nhẹ Giulia và bỗng nhiên, em nhào lên bám vào cổ ngài, em không buông nữa. Đức Giáo hoàng muốn ngẩng dậy nhưng em không buông ra. Em vẫn bám chặt lấy ngài và Đức Phanxicô bị ôm chặt, bất động trong tình dịu dàng.

Bí mật

Vòng ôm không lời này mang một bí mật.

Khi em 13 tháng, bác sĩ cho biết Giulia bị ung thư máu. Còn nhỏ, em vào bệnh viện liên tục, thử nghiệm, năm kỳ hóa trị, ghép tủy (lúc em chưa tròn 2 tuổi) và hồi sinh. Trên bàn đầu giường bệnh viện của em đầy đồ chơi; đó là dấu hiệu thời gian trôi qua, một loại đồng hồ không phải chỉ giờ, chỉ phút mà chỉ tháng. Điều đau khổ nhất là mẹ Caterina của em như sống trong địa ngục.

“Thưa bà, tình trạng của em Giulia rất nặng, tôi không nghĩ em có hy vọng”.

Nhưng làm thế nào để bà mẹ mang sự bình thản đến cho con gái mình khi sống trong tình trạng khủng khiếp này, đây là bí ẩn mà chỉ có sức mạnh của bà mẹ mới giải thích được.

Chuyến đi của Giulia

Trong thời gian này, các bác sĩ thay đổi ý kiến: chuyến đi của Giulia để thoát ra khỏi tình trạng bệnh bắt đầu. Bà Caterina nói với tôi gần 5 năm sau ngày gặp gỡ này: “Tôi tin con gái tôi là người được phép lạ, không có một giải thích nào khác hơn là Giulia được lành nhờ phép lạ của Chúa”.

Còn buổi sáng tháng 5 khi em bám vào cổ Đức Phanxicô mà không nói một lời, đó là tất cả những gì em tin tưởng ở ngài.

Biểu tượng của sự dịu dàng

Bức hình của vòng ôm này lan khắp thế giới, bức hình trở thành biểu tượng của sự dịu dàng của Đức Phanxicô, dĩ nhiên ngài chưa biết gì về tình trạng bệnh của Giulia, cũng như em đã thắng được căn bệnh.

Hai năm sau, em viết thư cho ngài. 

Giáo hoàng Phanxicô thân mến, con tên là Giulia, con yêu cha rất nhiều; chính con là cô bé ôm cha thật chặt và không muốn buông cha ra. Con xin kể cha nghe câu chuyện của con.

Bức thư vừa đến Nhà Thánh Marta khoảng 6 giờ chiều thì điện thoại cầm tay của bà Caterina reo. Bà thấy trên màn điện thoại chữ “riêng”, bà ngần ngại không muốn trả lời. Cuối cùng thì bà trả lời.

“Allô?”

“Allô, Caterina? Cha là Giáo hoàng Phanxicô, cha vừa nhận thư của Giulia”.

Tôi không nói được chữ nào. Ngài nói Giulia là một cô gái rất can đảm và ngài lặp lại nhiều lần: “Cầu nguyện cho cha, cầu nguyện cho cha”.

Giáo hoàng và cô gái nhỏ

“Cha nói chuyện với Giulia được không?” Ngài muốn nói chuyện thẳng với người viết thư! Điện thoại nghe rất rõ. Giulia nghe và em trai Simone thâu cuộc nói chuyện bằng một điện thoại khác.

Giulia chào Đức Phanxicô: “Con xin chào Đức Phanxicô thân mến!”

“Chào Giulia, như cha nói với mẹ con, con là cô bé rất can đảm và con đừng quên cha nhé, cha xin con cầu nguyện cho cha!”

Giulia trả lời bằng câu “Con thương cha rất nhiều!”

Người mẹ nào có thể mơ con mình được an ủi nhiều như thế không? Sau tất cả những đau khổ này, con gái của mình bây giờ cười, nói chuyện và đùa với Đức Giáo hoàng.

“Trọng kính Đức Thánh Cha, chúng con mong được gặp cha. Có thể được không ạ?” Lời cầu xin bộc ra khỏi miệng, giống như thử một người nào khác xin chứ không phải bà.

“Được chứ, con đến xem lễ buổi sáng ở Nhà nguyện Thánh Marta. Cha cho con địa chỉ rồi con viết thư thẳng tới đó. Con có bút ghi đó không?” Đó là địa chỉ của một cộng sự viên của ngài, và Caterina kể cho tôi, ngài đánh vần chậm chạp từng chữ. 

Buổi gặp

Ngày 11 tháng 5 năm 2015 là ngày đi lễ, lại cũng tháng 5 như lần đầu tiên gặp ngài ở quảng trường Thánh Phêrô.

“Giulia mang tất cả các bức em vẽ khi nằm bệnh viện và bức hình hai năm trước. Đức Phanxicô rất thích. Ngài rất dịu dàng, rất hiền lành, rất nhân bản, chúng tôi cám ơn ngài và Giulia xem ngài như bạn. Chẳng hạn có một hôm chúng tôi đến quảng trường Thánh Phêrô và Giulia hỏi tôi: “Đức Phanxicô không đến sao?”

“Có chứ, có chứ, mình sẽ gọi ngài và mình sẽ đi uống cà-phê với nhau”, tôi vừa cười vừa trả lời. Với Giulia, có vẻ như chuyện gặp Đức Giáo hoàng là chuyện tự nhiên”.

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc:  Các cuộc gọi của Đức Phanxicô

“Allô? Cha xin các con khoan về hưu”

“Allô, Antonio? Cha biết là con rất can đảm. Vững lên con.”

“Allô? Cha sẽ cầu nguyện cho dì của con”

Dù nhỏ, trẻ con đã biết tìm Chúa

Dù nhỏ, trẻ con đã biết tìm Chúa

famillechretienne.fr, Noémie Bertin, 2018-09-07

Nói chuyện về Chúa cho trẻ em lớp mẫu giáo? Không phải quá sớm, ngược lại là đằng khác! Chứng ngôn của các bà mẹ, các cô thầy dạy giáo lý, các linh mục… đều cho thấy điều này. 

Cha mẹ, những người chứng đầu tiên

“Chứng ngôn sống của cha mẹ là yếu tố nền tảng và không thay thế được trong việc dạy dỗ cầu nguyện: chỉ khi cầu nguyện với con cái mà người cha, người mẹ mới vào sâu được trong tâm hồn của con cái mình.” Thông điệp về các bổn phận của gia đình  (Familiaris consortio) của Đức Gioan-Phaolô II.

Trao truyền đức tin, một sứ mạng tuyệt vời của cha mẹ nảy sinh từ trong nôi. Bà Monique Berger viết ở một trong các quyển sách mới nhất của bà: “Những năm đầu đời có một tầm quan trọng đặc biệt. Đó là tuổi ân sủng, trẻ con đặc biệt thấm nhập những gì là thiêng liêng, thần thánh, những gì vô hình. Trẻ con là chứng nhân cho sức sống thiêng liêng lạ lùng.” Bà Berger là mẹ gia đình, là nhà giáo theo phương thức mô phạm Montessori, theo bà: “Nếu lý lẽ của trẻ con chưa được khơi dậy thì Đấng Sáng tạo đã cho trẻ con cách hiểu biết theo ‘trực giác’, giúp trẻ con đi thẳng vào trọng tâm các sự thật của đức tin. Chiêm niệm “một cách tự nhiên”, trẻ con đặt chân vào lãnh vực Vô Hình, ‘nắm được’ thần thánh một cách thoải mái lạ lùng.”

Các trạng thái tâm hồn thuận lợi nơi Chúa có thể tìm một chỗ trong đời sống hàng ngày của trẻ con. Thậm chí chân phước Linh mục Marie-Eugène (1894-1967) còn nói đây là “tuổi vàng” của tuổi thơ ấu. Trong một cuộc họp báo năm 1991, cha khẳng định: “Trẻ con đã được rửa tội, chúng đã có các đức tính đối thần. Còn hơn thế nữa, chúng có ơn Thần Khí. Tác động thần thánh trên cơ chế siêu nhiên của chúng đã rất cao và khả năng có một hiệu năng rất cao.” Chân phước Marie-Eugène Dòng Camêlô, sáng lập Dòng Đức Bà Sự Sống xin các cha mẹ đừng quá ôm đồm vào cvv so sánh để nói về Chúa, ngài cho rằng: “Sự thật thần thánh này được trao ban qua Phúc Âm, vì sao lại bao phủ chúng bằng các biểu tượng để làm giảm sự thật này? Sự thật như thế nào cứ trao cho trẻ con như thế ấy. Trao cho chúng như thử sự thật này nảy sinh từ trái tim của Chúa và từ môi miệng của Chúa. Nó trực tiếp nhắm để nuôi dưỡng đức tin cho trẻ con.” 

Thiên Chúa ngầm làm việc trong tâm hồn trẻ con

Thì giờ dùng vào việc cầu nguyện có tầm quan trọng chính yếu. Khi trẻ con thấy cha mẹ cầu nguyện thì chúng cũng học để làm như vậy. Khi còn rất nhỏ, trẻ con đã được bồng trên tay để cầu nguyện, chúng sẽ thấy trong giây phút cầu nguyện, có một cái gì bí ẩn đã quen thuộc. Giáo lý công giáo nhắc lại: “Gia đình là tất cả cho con cái, qua lời, qua gương, cha mẹ là các nhân vật chính đầu tiên của đức tin.”

Bà Madeleine Russocka, mẹ gia đình, cộng tác viên của báo Trao Truyền và tác giả nhiều tập sách giáo lý cho biết: “Khuôn mẫu của cha mẹ là nền tảng: trẻ con bắt chước. Thấy cha mình là một người rất cao lớn, lại quỳ gối xuống, đối với trẻ con là một dấu chỉ rất mạnh. Thiên Chúa ngầm làm việc trong tâm hồn. Lời cầu nguyện đặt trẻ con dưới tác động của Thần Khí và tuyên xưng với Chúa. Chúng ta, cha mẹ, chúng ta đặt chúng dưới ánh mắt của Chúa, mang chúng trong lời cầu nguyện của mình. Rồi chúng ta để chúng tham dự trọn vẹn vào giờ kinh của gia đình. Có thể làm các cử chỉ nhỏ như làm dấu, chúc lành, hôn nhẹ lên ảnh tượng trước khi có lời cầu nguyện ngắn. Bà Russocka tin chắc: “Dần dần sau đó trẻ con có thể học Kinh Kính Mừng, Kinh Lạy Cha. Dù chúng chưa hoàn toàn hiểu hết, nhưng những chữ thiêng liêng này có thể mang lại kết quả. Nếu chúng lắng nghe chúng ta thì đó là một dấu hiệu tốt, sự quan tâm của chúng đã được đánh thức. Nếu trẻ con muốn chơi thì nên tìm một dịp khác.”

Bà Sybille, mẹ của ba đứa con trai để ý đến sự nảy sinh đời sống thiêng liêng của các con: “Không phải dễ ở tuổi này, vừa đừng làm cho nó thành nặng nề quá, nhưng cũng đừng để đức tin chỉ hời hợt phía bên ngoài. Tôi chỉ nói về đức tin cho các con khi có dịp: khi đi lễ, khi dự lễ rửa tội, khi chúng làm chuyện khùng điên, hay trong Mùa Chay, Mùa Vọng. Tôi thấy cần thiết là làm sao để chúng hướng nội, để ơn Chúa ở trong chúng mọi ngày trong đời sống của chúng.”

Nói cho chúng nghe về các thánh bổn mạng, các thiên thần, các tổ phụ!

Bà Marie có đứa con gái 4 tuổi, bà dùng nhiều sách để khơi dậy huyền nhiệm Chúa: “Buổi chiều chúng tôi thường cầu nguyện chung và tôi đọc cho con nghe các chuyện về Chúa Giêsu và Cựu Ước. Tôi không ngần ngại lặp đi lặp lại các sự việc, chẳng hạn đọc lui đọc tới một chuyện. Khi đi lễ, tôi thường giải thích cho con nghe tiến trình thánh lễ.”

Còn với linh mục Philippe de Maistre, cha xứ họ đạo Thánh Anrê, quận 8 Paris, cha làm tuyên úy ở trường học trong nhiều năm, thì tuổi mẫu giáo là tuổi thích hợp nhất để đọc các câu chuyện trong Cựu Ước: “Các chuyện nói về lời chúc lành của các tổ phụ, các xung đột giữa anh em, một vũ trụ nói lên những gì mà trẻ con đã biết. Vào tuổi đó, ý thức về đạo của chúng gắn chặt với tình thương, với đời sống gia đình của chúng. Điều tiên quyết là cho chúng thấy sự liên tục giữa tình yêu của cha, của mẹ với tình yêu của Chúa.” Linh mục khuyên cha mẹ nên nói về các thánh bổn mạng, các thiên thần và các tổ phụ cho con cái mình nghe, để trẻ con thấy chúng có chỗ “trong gia đình Giáo hội, trong gia đình của Chúa Cha”.

Vào tuổi này, trẻ con hiểu gì về các huyền nhiệm của đức tin? Bà Monique Berger viết: “Chúng không có một khó khăn nào để ‘tổng hợp’ những gì vượt quá sự thấu hiểu của chúng. Chúng chấp nhận những gì cha mẹ nói, nói rất đơn giản, một khẳng định rõ, chính xác là đủ cho chúng. ‘Chúa thấy con’, ‘Chúa yêu con’: những lời này là nguồn vui, là lời trấn an đối với trẻ con. Trẻ con luôn cảm thấy mình ở dưới ánh nhìn của Chúa và được Chúa yêu thương, chúng dễ dàng hiểu ra như vậy.”

Qua giờ chầu, chúng khám phá thế nào là im lặng

Qua lời của chúng ta, qua giờ chầu thinh lặng, trẻ con dù còn rất nhỏ sẽ thấy huyền nhiệm sự hiện diện của Chúa. Một bà mẹ kể, khi trong tuần, bà vào nhà thờ với các con, chỉ để nói “chào Chúa Giêsu.” Thời gian ngắn ngũi trước nhà tạm này rất quý. Nữ tu Beata, người giúp Dòng Truyền giáo Thánh Thể cho biết: “Trẻ con cần thấy Chúa Giêsu để tạo một quan hệ cá nhân mật thiết với Ngài, để biết chúng có một Người Cha.” Nữ tu rất chú trọng đến giờ chầu: “Qua giờ chầu, chúng khám phá thế nào là lắng nghe, là thinh lặng. Chúng học để yêu và để biết Chúa Giêsu.” 

Dạy giáo lý theo phương pháp Montessori

Giáo lý theo tổ chức Mục tử Nhân lành có mặt ở nhiều thành phố trên nước Pháp: Paris, Rennes, Nantes, Tours, Grenoble, Lyon, Lille… Được cảm hứng từ nghệ thuật mô phạm của bà Maria Montessori và được bà Sofia Cavalletti, thần học gia Ý phát triển, khoa sư phạm này giúp cho trẻ em làm, học theo nhịp của các em về kinh nghiệm tình yêu của Chúa qua Thánh Kinh và qua phụng vụ. Mỗi tuần, theo từng lứa tuổi (từ 3 đến 6, từ 6 đến 9, từ 9 đến 12) các em sẽ nghe Lời Chúa và ứng dụng để đón nhận Lời Chúa một cách thực tiễn hơn.

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc: Geneviève Laurencin: “Luôn có một nền tảng thiêng liêng nơi trẻ con”

Bài mới nhất