Home Blog Page 988

Lúc nào cũng muốn điện thoại

Lúc nào cũng muốn điện thoại

Trích sách “Các cuộc gọi của Đức Phanxicô”, Rosario Carello, nxb. Fidélité 

 

Khen nghệ sĩ Benigni

Ngoài các cuộc gọi mà tôi đã kể, Đức Phanxicô còn nhiều cuộc gọi khác nữa. Như cuộc gọi cho nghệ sĩ Roberto Benigni, cuộc gọi chưa bao giờ được chính thức công nhận, nhưng cũng không ai phủ nhận. Theo hãng thông tấn ANSA, ngay lập tức sau phần đầu của chương trình I dieci comandamenti phát trên đài truyền hình Ý RAI I, Đức Phanxicô đã gọi để khen chương trình rất hay, cũng có thể Đức Phanxicô nói với nhà đạo diễn người Toscan Benigni là ngài đã phá lệ không xem truyền hình của mình.

Trong một cuộc phỏng vấn với nhật báo Argentina La Voz del Pueblo, Đức Phanxicô tuyên bố: “Kể từ năm 1990, đêm 15 tháng 7 năm đó, tôi đã hứa với Đức Mẹ Núi Camêlô là tôi sẽ không xem truyền hình nữa. Tôi tự nhủ: ‘Cái này không phải của mình’. Và từ đó tôi không xem một chương trình nào, kể cả chương trình đá banh của đội San Lorenzo là đội tôi rất thích, nhưng hàng tuần có một anh cận vệ Thụy Sĩ cho tôi biết kết quả và bảng sắp hạng của các đội”.

Cám ơn Napolitano

Ngày 24 tháng 4 – 2013, một trùng hợp lạ lùng của các ngày.

Đức Phanxicô mới được bầu chọn hơn một tháng nhưng cũng là ngày lễ của ngài và của Tổng thống Cộng hòa Ý Giorgio Napolitano thời đó, ông gởi cho Vatican một điện chúc mừng.

Nhưng ngày 24 tháng 4 cũng là ngày nước Ý bị cơn khủng hoảng chính trị chưa từng thấy. Được bầu từ 60 ngày qua nhưng nước Ý vẫn chưa thành lập được nội các, cũng chưa thống nhất để bầu Thủ tướng. Các nhân vật như Franco Marini và Romano Prodi được đề nghị, nhưng liền bị loại ra trong vòng vài giờ, Chủ tịch hội đồng Tham vấn đương nhiệm Pier Luigi Bersani thất bại trong việc thăm dò của mình. Sau đó ngày 20 tháng 4, bốn ngày trước bức điện tín của Đức Phanxicô, ông Napolitano chấp nhận một nhiệm kỳ thứ nhì, một sự kiện chưa từng có trong lịch sử nước Ý, Hiến pháp không cấm cũng không dự trù có trường hợp này. Đức Bergoglio ngưỡng mộ lòng can đảm của ông Napolitano, bằng sự ở lại của mình, ông đã phá vỡ các bế tắc của quy chế. Ngoài gởi điện thư, Đức Phanxicô còn gọi điện thoại.

“Allô, xin chào Tổng thống? Tôi gọi để cám ơn ông về tấm gương can đảm của ông. Ông là tấm gương của tôi. Qua hành vi của ông, ông đã làm sống lên nguyên tắc nền tảng của sự cùng tồn tại: đơn vị hiệp nhất thì lớn hơn là xung đột. Tôi rất cảm động về quyết định của ông”. Bản văn cuộc gọi đã được Văn phòng báo chí Tòa Thánh đăng.

Cầu nguyện với giáo hoàng Gioan XXIII

Năm 2013, Đức Phanxicô đã gọi cho Giám mục cựu thư ký của giáo hoàng Gioan XXIII, Loris Capovilla và xin giám mục: “Xin cha cầu nguyện với giáo hoàng Gioan XXIII để tôi trở nên người tốt hơn”. “Tốt hơn” đó là chữ Đức Phanxicô dùng. Ngày 22 tháng 2 năm 2014, Đức Phanxicô đã phong Giám mục Capovilla lên chức Hồng y lúc đã 98 tuổi. Giám mục qua đời ngày 26 tháng 5 – 2016, thọ 100 tuổi.

Gia đình Paolo và Iole

“Giáo hoàng Phanxicô thân mến, chúng con tình nguyện vác thánh giá trong lần đi đàng thánh giá sắp tới và nếu không thể được thì chúng con xin tham dự vào một dịp khác, để chúng con có thể cùng làm chứng với Cha nét đẹp của tình gia đình”. Paolo Budaci và vợ là Iole ở Catanzaro viết cho Đức Phanxicô một bức thư rất hay, họ nói cảm nghĩ của họ về gia đình kitô và họ xin làm chứng cho nét đẹp này. Hai tháng sau, tháng 1 năm 2016, vào ngày Thứ Hai Tuần Thánh, họ nhận điện thoại.

“Allô? Tôi là nữ tu Maria Pia của văn phòng phụng vụ Tòa Thánh. Đức Phanxicô đã nhận thư của ông bà và ngài rất thích, ngài cám ơn ông bà và rất vui được có ông bà bên cạnh trong lần đi đàng thánh giá sắp tới”.

Paolo khó tin: “Thật sao? Ngài đọc thư chúng tôi?”

“Có, có! – xơ Pia xác nhận. Ngài cũng rất thích tấm hình gia đình ông, ông có một gia đình thật đẹp. chính vì vậy mà Đức Phanxicô chọn, và nếu thuận tiện cho ông, ông sẽ vác thập giá ở chặng thứ tư, trong lần đi đàng thánh giá ở điện Colisê, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh”.

Ngày hôm sau chuông điện thoại reo lại, lần này là Tổng Giám mục Vincenzo Bortolone, địa phận Catanzaro-Squillace gọi: “Ông bà thật dũng cảm”. Bốn ngày sau, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ông Paolo, bà Iole và hai cô con gái tuổi vị thành niên Chiara và Francesca đến Rôma.

Ông Paolo nhớ lại: “Trong tai tôi, tôi nghe tiếng gió, tôi ngữi mùi hương điện Colisê, hòn đá này đã có hai ngàn năm sự sống của các tín hữu kitô đã bị chết”.

Năm 1998, khi vừa mới lập gia đình, ông Paolo và bà Iole là cặp duy nhất người Ý tham dự buổi tiếp kiến với Đức Gioan-Phaolô II cùng các cặp khác trên thế giới.

Nỗi đau của Anna

Anna Bogari là bà mẹ ở Zignago, vùng Spezia, bà mất người con trai của mình ngày 31 tháng 7 – 2013: Andréa, 27 tuổi, chết trong một vụ lặn sâu. Vài tháng sau bà quyết định đến Rôma để cầu nguyện ở Đền thờ Thánh Phêrô, vì bà muốn tìm an ủi. Đó là ngày tiếp kiến chung, bà thấy xe giáo hoàng đi qua, bà đưa cho các nhân viên của ngài bức thư và hình con trai của mình. Một nhân viên hiến binh Vatican đề nghị bà viết thêm số điện thoại, ông nói thỉnh thoảng ngài có điện thoại. Bà viết vào.

Đức Phanxicô viết cho bà một bức thư, bà Anna trả lời lại và khi ngài nhận thư trả lời, ngài quyết định gọi cho bà.

“Allô?”, ngài bắt đầu câu chuyện.

“Tôi đến đây!”, bà trả lời và cúp điện thoại. Bà tưởng là bạn đồng nghiệp của mình gọi. Đức Phanxicô gọi lại. Lần này ngài cẩn thận giới thiệu trước.

“Xin chào, cha là Giáo hoàng Phanxicô”. 

Đôi chân trên ghế Nhà Thánh Marta

“Ignacio đâu rồi?”

Đức Phanxicô vào căn phòng khách nhỏ ở Nhà Thánh Marta vài phút sau khi gia đình Stella, Vincenzo và con của họ đến. Ngài biết hết. Ngài biết họ đến từ tỉnh Trani, họ đã bỏ công ăn việc làm, nhà cửa để đi theo con đến Rôma chữa trị: con họ bị một căn bệnh hiếm phải nằm bệnh viện 2 năm. Bây giờ em 8 tuổi và khá hơn. Vì vậy khi họ mới vào, ngài muốn biết tin tức của cháu.

“Ignacio đứng sau cột. Ignacio trốn và Đức Phanxicô giả bộ đi tìm, quay bên trái bên phải làm bộ tìm để bắt cho được. Ngài lập đi lập lại: “Nhưng Ignacio đâu rồi?”, chúng tôi có thể nói con chúng tôi bắt Đức Phanxicô chơi trốn tìm.

Stella cười. Sau nhiều năm căng thẳng đưa con đi chữa trị, rồi phải hóa trị, bây giờ khi thấy con mình chơi trốn tìm với Đức Giáo hoàng ngày 30 tháng 3 – 2016, thì đây đúng là món quà đẹp và bất ngờ nhất của gia đình.

“Chúng tôi gặp được Đức Giáo hoàng là nhờ cơ quan Unitalsi ở Rôma, gia đình biết ơn cơ quan này suốt đời, vì khi chúng tôi đến Rôma, chúng tôi không có chỗ nương tựa, cơ quan đón nhận chúng tôi và cho chúng tôi nhà ở suốt hai năm”.

“Rất nhiều người nói với tôi: ‘Chắc bà xúc động lắm’, nhưng không, tôi thật bình thản trước mặt Đức Phanxicô. Ngài lắng nghe chúng tôi. Tôi nói với ngài, trong khi con tôi đau, tôi như mất đức tin, tôi không thấy bàn tay che chở của Chúa đâu hết và tôi còn giận Chúa. Ngài giải thích, giận Chúa cũng là một lời cầu nguyện, từ lúc đó tôi mới bắt đầu cầu nguyện lại. Rồi Ignacio leo lên ghế ngồi, chồng tôi và tôi nói cháu xuống, nhưng Đức Phanxicô nói kệ nó, ngài muốn thấy nó nhảy lên nhảy xuống như nó đang làm, không sao đâu. Ngài còn nói với nó: “Nhảy lên ghế đi con, Ignacio, con không phải cổi giày, cứ nhảy lên từ từ”.

Chúng tôi ở với ngài từ 9 giờ đến 9h30, chúng tôi chụp hình với ngài bằng điện thoại cầm tay, ngài tặng cho chúng tôi quyển sách ngài viết cho trẻ em, rồi ngài chào chúng tôi vì đã đến giờ ngài phải ra buổi tiếp kiến chung. Khi chúng tôi ra khỏi Nhà Thánh Marta thì ngài đã ở trên xe giáo hoàng, Ngài chờ chúng tôi đi và ngài chào chúng tôi thêm một lần nữa”.

Luôn dịu dàng. Luôn luôn.

Tiếng nói của Đức Phanxicô

Đây là chứng từ của một người sau khi nghe điện thoại của Đức Phanxicô mô tả chính xác những gì họ cảm nhận: “Ngài nói với bạn với một giọng nồng ấm và thân tình, và bạn cảm thấy thoải mái ngay lập tức. Phải hiểu là sự ngạc nhiên đến sững sờ của người nghe, khi họ biết đầu giây bên kia là Đức Giáo hoàng, họ nhận ra, bằng mọi cách, ngài làm cho cuộc nói chuyện được tự nhiên, nhã nhặn và thân tình. Chung chung là ngài nói về một vấn đề chính xác chứ không nói chuyện bên lề, càng nói chuyện thì bạn càng cảm thấy gần với ngài, càng thấy ngài tập trung vào vấn đề. Tóm tắt lại, nếu ngài không phải là Giáo hoàng, nhưng nói chuyện điện thoại với Phanxicô là một trải nghiệm duy nhất và không có gì sánh được”, Chứng từ này được trang mạng ilsismografo.it do ông Luis Badilla điều khiển ghi lại. 

Sau trận động đất

Trận động đất lúc 3h36, ngày 24 tháng 8 – 2016 đã hủy các làng Amatrice, Accumoli, Arquata và nhiều làng khác ở miền Trung nước Ý, trận động đất mạnh đến mức ở Vatican cũng nghe rung chuyển. Như nhiều người Ý khác, đêm hôm đó Đức Phanxicô cũng thức giấc vì trận động đất này. Một nửa giờ sau ngài đã biết thông tin về trung tâm địa chấn và thêm vài phút sau ngài biết các thiệt hại và số nạn nhân phỏng chừng. Sáng hôm đó, khi nghe những lời của một thị trưởng trong các làng bị thiệt hại tuyên bố trên đài RAI I: “Làng Amatrice không còn nữa”, ngài đã quá xúc động. Lời tuyên bố này đã làm ngài chấn động.

Lễ sáng hôm đó là lễ cầu nguyện cho tất cả mọi người: những người bị thương, những người không còn nhà cửa, các nạn nhân và ngài quyết định, lần đầu tiên trong lịch sử, thay thế bài giáo lý hàng tuần trong buổi tiếp kiến chung sẽ diễn ra vài giờ sau đó, bằng lần chuỗi cầu nguyện cho các nạn nhân, cùng với tất cả các tín hữu có mặt ở quảng trường Thánh Phêrô sáng hôm đó.

Vào 7 giờ sáng, khi các hình ảnh đầu tiên được phát ra trên đài truyền hình, Đức Phanxicô điện thoại cho Giám mục Domenico Pompili, địa phận Rieti, giám mục vừa đi hành hương ở Lộ Đức về.

“Allô?”

“Allô, đây là Giáo hoàng Phanxicô”.

Giám mục Pompili nói với tôi: “Tôi cảm thấy ngay ngài rất rúng động vì thảm họa xảy ra cho chúng tôi. Ngài xin tôi ở gần người dân và khuyên tôi đừng sợ. Ngài đặc biệt lo lắng cho các trẻ em bỗng trở nên mồ côi, những người còn sống sót duy nhất trong thảm họa đã làm cho cha mẹ các em chết”.

Sau đó Giám mục Pompili chuyển lời hỏi thăm của Đức Giáo hoàng cho dân chúng trong vùng, những lời thăm hỏi gần gũi và khuyến khích của ngài.

Tuy nhiên, một cuộc gọi mang thêm sức mạnh và hy vọng. Nhiều ngày sau đó, Đức Phanxicô tiếp tục gọi để hỏi thăm tin tức, để chia sẻ đau khổ, để tỏ lòng thương xót. Với lời hứa qua điện thoại và được tuyên bố trong buổi Kinh Truyền Tin ngày 28 tháng 8: “Kính Giám mục Pompili, khi đi được, tôi sẽ đến thăm giám mục để củng cố đức tin và để ôm giám mục trong tình thân của người cha và người anh em”.

Và đó là tóm tắt cho sự âu yếm của Đức Phanxicô, của thái độ chưa từng có của một Giáo hoàng: sứ điệp điện thoại hàng ngày từ Nhà Thánh Marta đến toàn thế giới.

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc:  Các cuộc gọi của Đức Phanxicô

“Allô, Giulia? Con rất can đảm, con biết không?”“Allô, Antonio? Cha biết là con rất can đảm. Vững lên con.”

“Allô? Cha sẽ cầu nguyện cho dì của con”

Trợ sinh nhờ y khoa, mang thai mướn, giai đoạn cuối đời… Đức Giám mục Aupetit huy động người công giáo

Trợ sinh nhờ y khoa, mang thai mướn, giai đoạn cuối đời… Đức Giám mục Aupetit huy động người công giáo

leparisien.fr, Christine Mateus và Vincent Mongaillard, 2018-09-29

Vài ngày sau khi có các đề xuất của Hội đồng Cố vấn Luân lý Quốc gia (CCNE), nhất là về vấn đề trợ sinh nhờ y khoa hoặc vấn đề về giai đoạn cuối đời, Đức Giám mục Aupetit nhắc lại quan điểm của Giáo hội. LP/Jean-Baptiste Quentin

Đây là lần đầu tiên, một trong các chức sắc cao cấp nhất của Giáo hội Pháp, Đức Giám mục Aupetit, giáo ph Paris lên tiếng sau các thông báo của Hội đồng Cố vấn Luân lý Quốc gia. Trợ sinh nhờ y khoa (PMA), mang thai mướn (GPA), giai đoạn cuối đời và tất cả các vấn đề khác. Kể cả vấn đề ấu dâm.

Đây là tiếng nói của Giáo hội được nghe và có ảnh hưởng nhất hiện nay. Đức Giám mục Michel Aupetit, 67 tuổi, Tổng Giám mục iáo phận Paris từ tháng 1, 2018 tiếp chúng tôi ở căn nhà của cha trong vòng một giờ, để đề cập đến các vấn đề thời sự đang làm các tín hữu của cha run rẩy: trợ sinh nhờ y khoa, mang thai mướn, các nghiên cứu trên phôi thai, trợ tử, phá thai… Chính nhờ chuyên ngành y khoa của giám mục trong các hồ sơ này, và để mạnh mẽ bảo vệ đường hướng bảo thủ của người công giáo mà Giáo hoàng Phanxicô đã chọn ngài làm giám mục giáo phận Paris.

Vì cách đây 23 năm, trước khi thụ phong linh mục, người con trai của nhân viên đường sắt này chưa bao giờ đặt chân đến nhà thờ hành nghề bác sĩ tổng quát. Từ những năm làm việc trong một phòng mạch ở ngoại ô mà sinh viên tốt nghiệp môn đạo đức sinh học còn giữ được ý nghĩa của tiếp xúc. Với cách tiếp xúc dễ dàng, cha trả lời với giọng truyền cảm, tự nhiên, không sáo ngữ để truyền đạt sứ điệp luôn rất bảo thủ.

Trợ sinhnhờ y khoa và mang thai mướn: “Người ta dùng phôi thai người làm vật thí nghiệm”

“Có thể nào nghĩ rằng một đứa bé không cần cha không?” giám mục hỏi về việc trợ sinh nhờ y khoa. LP/Jean-Baptiste Quentin

Làm thế nào cha đón nhận thông báo của Hội đồng Cố vấn Luân lý Quốc gia ngày thứ ba vừa qua về việc mở rộng trợ sinh nhờ y khoa cho phụ nữ độc thân và cho các cặp phụ nữ?

Tôi nhận tin mà không ngạc nhiên. Từ lâu tôi đã nghĩ Hội đồng Cố vấn Luân lý Quốc gia không còn như trước. Tôi biết Giáo sư Bernard. Vào thời đó, giáo sư có một ủy ban các nhà Hiền triết có thể nói lên ý kiến của mình một cách độc lập. Tôi chân thành thú nhận tôi không còn cảm thấy như vậy bây giờ. Hồi đó kết quả cũng khá được mong chờ, nhưng có một chút lo ngại. Người ta tự hỏi vì sao lại đưa vào Quốc hội (États-Généraux) vì nó không có một ảnh hưởng nào trên quyết định cuối cùng. 

Cha nghĩ cộng đồng công giáo không được nghe trong các cuộc thảo luận này?

Vấn đề không phải ở đó. Vấn đề là Giáo hội công giáo bị đe dọa. Giáo hội công giáo là một thực thể làm khơi dậy ý thức. Câu hỏi thực sự là: phẩm giá của con người là gì? Nó vượt lên quan niệm của công giáo về nhân bản. Chúng ta nghĩ một xã hội phải xây dựng trên tình huynh đệ, trên việc tìm kiếm lợi ích chung. Vậy mà chúng ta không tìm thấy một lập luận nào ở mức độ này. Chúng ta chỉ có cảm tưởng có những kiểu “đúng, chúng ta sẽ”, “không, chúng ta sẽ không thể”, nhưng không có một lập luận thật sự. 

Theo cha, đâu là các chủ đề chính bị chạm đến nhân phẩm nhiều nhất?

Có ít nhất là hai. Trước hết đó là vấn đề trợ sinh nhờ y khoa. Có thể nào nghĩ rằng một đứa bé không cần cha không? Bởi vì chính đây mới là vấn đề. Dĩ nhiên cũng có thể có những em bé được lớn lên mà không có cha, do tai nạn hay do các em bị bỏ, nhưng đây là nhà nước đưa ra sắc lệnh một đứa bé không cần cha. 

Còn ý thứ hai?

Đó là vấn đề phôi thai. Việc nghiên cứu càng ngày càng mở ra nhiều. Ngày nay, chúng ta không có gì trong tài liệu luật pháp. Không có cả tình trạng pháp lý nào cho phôi thai. Sự trống không này cho phép làm các thử nghiệm và biến phôi thai thành vật thí nghiệm. Rồi càng ngày người ta càng dùng ít súc vật làm vt thí nghiệm, họ sẽ dùng phôi thai người. Vậy ấu trùng của con bọ vàng óng ánh sẽ được bảo vệ hơn phôi thai người sao? Điều này lại đặt ra vấn đề vượt ngoài biên giới của tôn giáo.

Cha cũng là bác sĩ, là người đam mê nghiên cứu. Như thế làm cho cha sợ…

Tôi hoàn toàn chủ trương nghiên cứu, nhưng có những nghiên cứu hợp pháp, có những nghiên cứu không hợp pháp. Như quý vị biết, các bác sĩ đức quốc xã cũng nghĩ họ phải làm nghiên cứu. Vì thế họ họ biện minh cho lý do của họ! Nghiên cứu không biện minh tất cả. Nghiên cứu có một mục đích và nếu mục đích thường là tốt, nhưng phương tiện dùng không phải lúc nào cũng tốt. Ví dụ chẩn đoán trước khi sinh là điều tốt, nhưng khi người ta dùng chẩn đoán này để loại em bé vì em bé đang mang một tì tật nào đó, thì đó là vấn đề luân lý.

Cha có kêu gọi người công giáo huy động chống việc mở rộng trợ sinh nhờ y khoa không?

Tôi kêu gọi người công giáo huy động bằng mộtlời, rồi.

Và nó không mang lại kết quả…

Một lời, nếu lời này là đúng, thì nó sẽ vượt qua lịch sử và cuối cùng sẽ chiến thắng. Luôn luôn là như vậy. Nó sẽ làm con đường đi từ ý thức qua ý thức. 

Không kêu gọi biểu tình?

Việc biểu tình ngoài đường là của người công dân, không phải là việc của các giám mục. Không phải do chúng tôi tổ chức và chúng tôi cũng sẽ không làm việc này. 

Và sẽ tham dự ?

Nếu tôi tham dự là ở cương vị công dân, không bao giờ ở cương vị giám mục. Là công dân, tôi được tự do. Phải phân biệt giữa lời nói của một công dân và của một giám mục.

Cha có nghĩ sẽ có một kiểu Biểu tình cho Tất cả lần thứ nhì không?

Tôi không chắc người dân đang huy động để làm như họ đã làm vào thời điểm Hôn nhân cho Tất cả. Vào thời điểm đó, nhất là khi họ huy động để chống trợ sinh nhờ y khoa vì họ biết hôn nhân sẽ dẫn đến vấn đề sinh sản, do đó dẫn đến quan hệ dòng dõi. Và đó là những gì có thể xảy ra. Họ sẽ tái huy động trong khi họ biết lần trước đã không được tích sự gì về mặt pháp lý? Tôi không biết. Dù sao tôi nghĩ  các cuộc biểu tình với hàng trăm ngàn người xuống đường và không phải chỉ toàn người công giáo, cũng sẽ đánh thức lương tâm. Các cuộc biểu tình này cho thấy không có sự đồng thuận.

Cha có được chính phủ bảo đảm rằng việc mở rộng trợ sinh nhờ y khoa sẽ không kéo theo việc dỡ bỏ luật cấm mang thai cho người khác không?

Tôi không tin chút nào. Trước hết vì khi có biểu tình Hôn nhân cho Tất cả, chính quyền đã khẳng định với chúng ta sẽ không có trợ sinh nhờ y khoa. Nhân danh gì ngày nay người ta s từ chối mang thai mướn?

Tuần sau người điều khiển chương trình Marc-Olivier Fogiel sẽ ra quyển sách kể hạnh phúc của ông khi được làm cha hai bé gái nhờ dịch vụ mang thai mướn. Cha không tin hạnh phúc này và việc các em bé này có thể có hạnh phúc?

Bây giờ các em còn nhỏ, nhưng đến tuổi vị thành niên… Lúc đó con người đi tìm mình đến từ đâu. Hiểm nguy của một sự mất thăng bằng lúc đó rất quan trọng. Tất nhiên tôi không mong có gì tổn hại đến gia đình này, nhưng tôi chỉ đơn giản nói: chúng ta có đo lường được trẻ con sẽ sống trong tình trạng này như thế nào không? Làm sao chúng sẽ chấp nhận mình là đối tượng của một sự buôn bán như vậy? Không biết sự việc sinh ra trong các điều kiện này có làm cho họ được xoa dịu không? 

Trở tử: “Một luật sẽ nói những gì chúng ta có thể làm và không thể làm, sẽ cực kỳ phức tạp”

Theo Đức Giám mục Aupetit, mở cánh cửa để giúp đỡ tích cực cho việc trợ tử thì “không được nghiêm túc cho lắm”. LP/Jean-Baptiste Quentin

Về giai đoạn cuối đời, ý kiến của Hội đồng Cố vấn Luân lý Quốc gia (CCNE) thì không nên đụng đến luật hiện nay nhưng họ cũng nêu lên các trường hợp đặc biệt đòi hỏi phải suy nghĩ để thay đổi luật ở bên lề. Theo cha, đây là một bước tiến đến việc giúp đỡ tích cực để trợ tử?

Đúng, thực sự có các nguy cơ thực tế dù đây là sự “mở ra” hoặc kiến nghị của những người ủng hộ cho việc này trong phong trào Lên đường, chẳng hạn như nghị viên Touraine là người ủng hộ trợ tử. Với tôi, nó có vẻ không thật nghiêm túc.

Theo cha, không nên đụng đến luật hiện nay về giai đoạn cuối đời…

Ít nhất luật này cũng xứng đáng tồn tại và cho phép có một hình thức uyển chuyển. Để có một bộ luật nói rằng chúng ta có thể làm hoặc không thể làm là một chuyện cực ky øphức tạp trong giai đoạn cuối đời. Quan trọng là người đó có thể sống những giây phút này một cách sâu đậm đặc biệt. Nếu chúng ta bỏ những giây phút mật thiết giữa người thân sắp ra đi và người ở lại thì có một cái gì như đã bị lấy mất. Cần thiết phải khái quát hóa các săn sóc chờ chết và cho phép người thân tham dự vào, với một sự dịu dàng cụ thể. Điều không tể chịu được là nhìn người thân đau khổ mà không thể làm gì. 

Phá thai: “Bác sĩ quyết định, đó là điều chính” 

Khi còn làm bác sĩ, giám mục Michel Aupetit “ý thức” và từ chối không phá thai. LP/Jean-Baptiste Quentin

Gần đây chủ tịch bác sĩ phụ khoa đoàn cho rằng phá thai là giết người đã gây tranh cãi dữ dội đến tận chính quyền. Cha có ủng hộ bác sĩ đó không?

Tôi ủng hộ bác sĩ đó trong lời của ông. Một bác sĩ có còn nói lên một cách tự do không? Câu trả lời là có. Tự do lương tâm là quyền căn bản nhất của mọi xã hội. Một xã hội tiêu diệt tự do, xã hội đó là xã hội độc tài. Phản đối theo lương tâm nằm trong quyền y khoa và quyền này bất khả xâm phạm. Quyền này phải được bảo vệ tuyệt đối, tôi có thể nói các bác sĩ sẽ phản ứng gay gắt nếu chúng ta đụng đến quyền này.

Các thượng nghĩ sĩ của Đảng Xã hội dưới trướng của bà Laurence Rossignol, cựu bộ trưởng Gia đình, ngày thứ sáu đã đưa ra một đề nghị vào luật để hủy bỏ điều khoản lương tâm này…

Thật khủng khiếp. Điều này có nghĩa chúng ta bước vào một hình thức độc tài và nói: “Quý vị không có quyền suy nghĩ, lương tâm của quý vị phải im”.

Cha có dùng quyền này khi hành nghề bác sĩ không, khi có các yêu cầu phá thai?

Đương nhiên là có, tôi giải thích với bệnh nhân: “Tôi, với lương tâm, tôi không thể”. Người bác sĩ được tự do, đó là điều chính. Cái đó gọi là tương quan bác sĩ-bệnh nhân. Nếu không, đây chỉ là một dịch vụ.

Ấu dâm: “Vì sao không có một ủy ban điều tra của quốc hội”

Giám mục Aupetit cho rằng, bậc sống độc thân của linh mục không liên quan đến vấn đề ấu dâm trong Giáo hội, đây là đặt “vấn đề sai”. LP/Jean-Baptiste Quentin

Trong các cuộc thảo luận đạo đức sinh hóa, một cách có hệ thống, Giáo hội đặt lợi ích của trẻ con lên trên hết. Nhưng làmthế nào để Giáo hội có thể có uy tín khi các em bé này đôi khi lại là miếng mồi cho các linh mục ấu dâm?

Điều bắt buộc tuyệt đối là Giáo hội phải nhất quán. Chúng ta phải có một cuộc trở lại tận căn, nếu không chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào có được lời có uy tín. Phải cám ơn các nạn nhân mà chúng ta đã không biết lắng nghe họ, phải cám ơn giới truyền thông đã nêu lên tất cả các việc này. Đó là chuyện tốt. Khi có mụt mưng mủ, phải rạch để lấy mủ. Chúng tôi đã có các quyết định, chúng tôi đã có các khuyến cáo, chúng tôi được các luật gia tư vấn… Chúng tôi không thể nào tự mình giải quyết các vấn đề này, chúng tôi phải làm việc với luật dân sự và phải lắng nghe nạn nhân nhiều hơn, tháp tùng họ để họ được tái xây dựng lại.

Cha có ủng hộ việc thành lập một ủy ban điều tra của quốc hội để để làm sáng tỏ tất cả các tội ác của Giáo hội?

Tại sao không, tất nhiên rồi! Năm 2016 Hội đồng giám mục Pháp đã thành lập một ủy ban quốc gia chuyên môn độc lập. Nhưng điều này chưa đủ, chúng ta phải làm thêm một điều gì khác.

Theo cha, đây có phải là vi phạm đến thế tục?

Tôi không nghĩ như vậy. Đây thật sự là vấn đề của công lý. Nếu xã hội cho rằng quan trọng là phải làm sáng tỏ và nếu tình trạng cho thấy cần phải có sự can thiệp bên ngoài Giáo hội để đi đến cùng sự việc, thì tôi không thấy đây là vi phạm đến thế tục. Theo tôi, thế tục không phải vậy, thế tục là khả năng, cho mỗi người, có thể tự do giữ tôn giáo của mình.

Theo cha, trong lãnh vực chống nạn ấu dâm, Đức Phanxicô đã làm đủ chưa?

Ngài cố gắng làm nhiều nhất có thể với các phương tiện ngài có trong tay. Ngài phải theo dõi khắp nơi, đó là vấn đề. Dù là giáo hoàng, ngài có lời quyền uy nhưng ngài không có quyền lực. Giáo hội không phải là quân đội, tất cả mọi người không canh chừng mình.

Đứng trước các vụ tai tiếng của các linh mục ấu dâm, Giáo hội công giáo Đức vừa kêu gọi suy nghĩ về bậc sống độc thân. Có nên cho phép hàng giáo sĩ lập gia đình không?

Tôi nghĩ đây là đặt vấn đề sai. Cá nhân tôi, tôi nghĩ ấu dâm không hẳn liên hệ đến bậc sống độc thân. Đó là một cấu trúc não trạng và một số người có khuynh hướng ấu dâm sẽ núp trong Giáo hội và trong bậc sống độc thân. Nhưng đại đa số những người ấu dâm là người cha gia đình và lập gia đình. Nghĩ rằng cho các linh mục lập gia đình sẽ không còn vấn đề, đó chỉ là một ảo tưởng mơ màng. 

Di dân: “Nếu có những người bị mất mát, dĩ nhiên mình phải đón nhận họ”

 Giám mục Aupetit giải thích, chúng ta có thể “giúp suy nghĩ”  cho những người muốn đóng cửa với người di dân. LP/Jean-Baptiste Quentin

Liệu nước Pháp có đón nhận chiếc tàu Aquarius, chiếc tàu nân đạo cứu người di dân trên biển và người điều hành không muốn cặp bến Marseille, nước Pháp?

Nếu có những người bị mấtmát, dĩ nhiên chúng ta phải đón nhận họ! Chúng ta không thể bỏ rơi những người gặp nạn. Họ ở đó, chúng ta phải săn sóc và đó là Phúc Âm. Nhưng sau đó, chắc chắn phải suy nghĩ về mặt chính trị, và vấn đề này không nhất thiết thuộc về chúng ta. Tại sao người dân ở các nước có một tiềm năng phi thường lại buộc phải ra đi để đến với chúng ta?

Một số lớn người công giáo muốn đóng cửa với người di dân, cha có bị sốc không?

Trước khi bị sốc, chúng ta phải nói chuyện với họ. Qua chứng từ, qua gặp gỡ, chúng ta giúp họ suy nghĩ lại. Tôi không nghĩ đây là vấn đề từ chối người khách lạ. Đúng hơn đây là vấn đề của một cảm giác bất an về văn hóa. Đất nước chúng ta cảm thấy bị đặt vấn đề vì một nền văn hóa đến từ nơi khác và không được hội nhập. Nếu chúng ta nói việc tiếp nhận người di dân là đúng, thì trong chừng mực có thể của mình, chúng ta mang đến cho họ các điều kiện sống xứng đáng và đó là điều trong Phúc Âm, điều này sẽ vạch con đường cho chính nó.

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc: Michel Aupetit, tân giám mục-bác sĩ địa phận Paris

Phỏng vấn Giám mục Michel Aupetit, giám mục địa phận Nanterre, nước Pháp  

Với thượng hội đồng về người trẻ, Đức Phanxicô muốn tiếp tục đi theo con đường của Vatican II

Với thượng hội đồng về người trẻ, Đức Phanxicô muốn tiếp tục đi theo con đường của Vatican II

lavie.fr, Marie-Lucile Kubacki, Rôma, 2018-10-03

Trong suốt ngày khai mạc thượng hội đồng 3 tháng 10 – 2018, Đức Phanxicô đã nhiều lần nhắc lại Công đồng và các Nghị phụ công đồng.

Chân phước giáo hoàng Phaolô VI sẽ được phong thánh vào ngày chúa nhật 14 tháng 10 sắp tới, ngày 3 tháng 10, Đức Phanxicô khai mạc thượng hội đồng về người trẻ với nhiều lời nhắc đến Công đồng Vatican II.

Trong bài giảng lễ khai mạc thượng hội đồng ở quảng trường Thánh Phêrô, với sự hiện diện của các nghị phụ, các dự thính viên và đám đông, Đức Phanxicô nhắc lại với các nghị phụ, họ là những người đầu tiên được Đức Phaolô-VI kêu gọi, ngài nói: “Anh em nghị phụ thân mến, rất nhiều người trong chúng ta khi trẻ hoặc khi mới bước vào con đường tu thì Công đồng Vatican II đang kết thúc. Khi đó sứ điệp cuối cùng của các Nghị phụ công đồng đã hướng về người trẻ. Bây giờ đến lượt chúng ta, như lời của nhà thơ F. Hưlderlin, ‘con người giữ những gì mình hứa khi mình còn là đứa bé’, chúng ta hướng về các người trẻ.” Một cách để khuyến khích các nghị phụ đi theo bước chân của các Nghị phụ Công đồng, và tiếp đó là ngài đọc một đoạn dài sứ điệp của Đức Phaolô-VI gởi các người trẻ vào cuối Công đồng Vatican II.

Sau đó vào buổi chiều, trong buổi họp khai mạc ở phòng Phaolô VI, ngài lại nhấn mạnh đến tình nghĩa phụ giữa thượng hội đồng và Công đồng khi ngài trích Hiến chế Mục vụ Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes), và bài diễn văn của ngài mang tiếng vang của bài diễn văn Đức Gioan XXIII đọc khi khai mạc Công đồng Vatican II. Trong đó Đức Gioan XXIII kêu gọi phải để ý đến “sự bất hòa giữa các ngôn sứ của những chuyện bất hạnh, luôn loan báo những điều tệ hại, như thử hồi cuối của mọi sự đã gần kề”, Đức Phanxicô xin các nghị phụ đừng bị lôi cuốn bởi “các hy vọng hảo”, cũng như “không bị các ngôn sứ của những chuyện bất hạnh cám dỗ”, nhưng giữ “ánh mắt gắn chặt vào điều thiện, thường không gây tiếng ồn, không là chủ đề bàn tán trên mạng và cũng không phải là tít lớn của các báo”. Ngài nêu rõ, các chỉ trích trung thực và trong sáng giúp đỡ cho các tin đồn. Một ám chỉ muốn nói đến vụ cựu sứ thần Viganò, giám mục gần đây đã chống Đức Phanxicô trên nhiều trang mạng, và nói rộng hơn là với mạng truyền thông chuyên tấn công giáo hoàng một cách có hệ thống.

Ngài nói, một Giáo hội không lắng nghe là một Giáo hội “đóng cửa với điều mới mẻ, với các điều ngạc nhiên của Chúa và sẽ không đáng tin được.”

Ngài khẳng định, khi chuẩn bị cho thượng hội đồng đã cho thấy Giáo hội thiếu lắng nghe người trẻ, và thượng hội đồng là “cơ hội, nhiệm vụ và bổn phận” phải là “dấu chỉ của Giáo hội thật sự lắng nghe, để cho những người mình gặp chất vấn, mà không phải lúc nào cũng có câu trả lời sẵn cho họ”. Ngài nhấn mạnh, một Giáo hội không lắng nghe là một Giáo hội “đóng cửa với điều mới mẻ, với các điều ngạc nhiên của Chúa và sẽ không đáng tin được”, đặc biệt với các người trẻ, chắc chắn họ sẽ bỏ đi xa hơn là đến gần. Như trong lần thượng hội đồng về gia đình, ngài xin các nghị phụ cởi mở và thẳng thắn nói lên.

Vì thế, giáo hoàng không muốn có một thượng hội đồng để chẳng có gì như ngài nói trong phần kết luận. Nhưng thế nào là một thượng hội đồng thành công? Một thượng hội đồng đề nghị các dò tìm đúng, chứ không phải đưa ra một bản văn mà không ai đọc, đó là câu trả lời của ngài dưới hình thức khích lệ. Ngài nói: “Vì thế chúng ta cùng cam kết để tìm cách “lui tới với tương lai”, làm sao để thượng hội đồng không phải chỉ kết thúc bằng một bài tài liệu – mà thường chỉ được một số nhỏ người đọc nhưng một số lớn người chỉ trích -,  nhưng phải có các đề nghị mục vụ cụ thể để thực hiện chính nhiệm vụ của Thượng hội đồng, có nghĩa là gieo giấc mơ, khơi dậy các sứ ngôn và tầm nhìn, làm nở hoa hy vọng, thúc đẩy sự tin tưởng, băng bó vết thương, nối kết các quan hệ, hy vọng, học hỏi lẫn nhau và tạo một trí tưởng tượng sáng tạo, rọi sáng tinh thần, sưởi ấm tâm hồn, mang lại sức mạnh cho đôi bàn tay và tạo cảm hứng cho người trẻ – cho tất cả các người trẻ, không loại trừ một ai – tầm nhìn cho một tương lai lắp đầy niềm vui Tin Mừng.”

Chúng ta cùng cam kết để tìm cách “lui tới với tương lai”, và để từ thượng hội đồng này, chúng ta có các đề nghị mục vụ cụ thể. Phanxicô 

Trước đó, một giám mục, trong một trao đổi riêng với các nghị phụ, các nghị phụ hơi thất vọng với tài liệu làm việc, đã nhắc lại trong thời công đồng Vatican II, tài liệu làm việc cũng đã bị gạt qua với những lời can thiệp rất mạnh. Với thượng hội đồng giới trẻ, theo bước chân của Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô-VI và các Nghị phụ Công đồng, Đức Phanxicô, người khó khăn để hướng dẫn cải cách của mình, hy vọng làm sống lại ngọn lửa Công đồng. Và tại sao không, viết chương tiếp theo dưới sự hướng dẫn của Thần Khí, Đấng luôn… trẻ.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: Thượng hội đồng giới trẻ với 5 vấn đề được đặt ra

Thượng hội đồng ngày thứ nhì 4 tháng 10-2018, Đức Phanxicô gặp giám mục Trung quốc Gioan Baotixita Dương Hiểu Đình và Giuse Quách Kim Tài

Hình ảnh buổi họp thượng hội đồng ngày 4 tháng 10-2018

Đức Phanxicô xúc động khi chào mừng các giám mục Trung Hoa có mặt ở Quảng trường Thánh Phêrô


Đức Phanxicô xúc động khi chào mừng các giám mục Trung Hoa có mặt ở Quảng trường Thánh Phêrô

Thánh lễ khai mạc Thượng hội đồng ngày 3 tháng 10 tại Quảng trường Thánh Phêrô @ Vatican News

fr.zenit.org, Anita Bourdin, 2018-10-03

Mở đầu bài giảng thánh lễ khai mạc thượng hội đồng giới trẻ ngày 3 tháng 10 tại quảng trường Thánh Phêrô, giọng ngứt quãng vì xúc động, Đức Phanxicô chào mừng hai giám mục Trung Hoa có mặt cùng với các giám mục khác trên toàn thế giới và đại diện các tín ngưỡng kitô.

Đức Phanxicô xúc động

Đức Phanxicô đã phải ngừng vì xúc động khi ngài nói bằng tiếng Ý: “Hôm nay, lần đầu tiên hai anh em giám mục ở Trung Hoa lục địa có mặt với chúng ta ở đây. Chúng tôi xin bày tỏ lòng nhiệt thành chào đón: sự hiệp thông của Giám mục đoàn toàn thế giới với Người kế vị Thánh Phêrô càng rõ nét hơn nhờ sự hiện diện của hai giám mục”. Giáo dân đã nồng nhiệt vỗ tay chào mừng.

Lời cầu nguyện giáo dân đầu tiên được đọc bằng tiếng Trung Hoa. Tất cả cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo thế giới: “Lạy Cha, xin Cha ban Thần Khí của công chính và sự thật trên các nhà cầm quyền: để họ hướng dẫn các dân tộc hướng về hòa bình đích thực và để họ bảo vệ sự sống cho tất cả mọi người”.

Hai giám mục Trung Hoa là giám mục Giuse Quách Kim Tài , 60 tuổi, giáo phận Thừa Đức, Hà Bắc đã từng học ở Lyon, nước Pháp do đó nói tiếng Pháp và Giám mục Gioan Baotixita Dương Hiểu Đình, 54 tuổi giáo phận Diên An, Thiểm Tây, ngài đã học ở Rôma và nói tiếng Ý. Năm 1999 ngài có bằng tiến sĩ của Đại học giáo Hoàng Urbanô.

Đây là lần đầu tiên kể từ ngày thành lập thượng hội đồng năm 1965 đã có sự hiện diện của các giám mục Trung Hoa. Chúng ta hiểu con đường đối thoại đã dài như thế nào, khi trong lần thượng hội đồng năm 1998 về Âu châu, các ghế của hai giám mục Trung Hoa được Đức Gioan-Phaolô II mời đã bị bỏ trống. Đó là các giám mục của Giáo hội được gọi là Giáo hội “chui”: Giám mục Mátthia Đoàn Ấm Minh và Giám mục Giuse Xu Zhixuan, cựu giám mục giáo phận Wanxian. Các ghế trống vừa nói lên sự thiếu tự do tôn giáo và nhất là nói lên sự hiện diện thiêng liêng của họ và cánh cửa luôn mở.

Đức Bênêđictô XVI đã đi một bước lớn khi mời bốn giám mục Trung Hoa về dự thượng hội đồng Thánh Thể năm 2005: hai giám mục của Giáo hội “chui” và hai giám mục của Giáo hội yêu nước. Một dấu hiệu phân chia hai cộng đoàn. Tuy nhiên lời mời này không được trả lời. Không cộng đoàn nào được phép đi. Tuy vậy các lời mời được lặp đi lặp lại này chắc chắn đã chuẩn bị cho con đường: 20 năm sau lời mời của Đức Gioan-Phaolô II, 13 năm sai lời mời của Đức Bênêđictô XVI, bây giờ lời mời của Đức Phanxicô đã được chấp nhận.

Vừa thỏa hiệp với giáo hoàng vừa được chính quyền công nhận

Hai giám mục đến Rôma tham dự thượng hội đồng và tham dự thánh lễ khai mạc do Đức Phanxicô cử hành: đây là lần đầu tiên. Đây cũng là thách thức mục vụ cho các bạn trẻ Trung quốc.

Hai giám mục Trung quốc thuộc về hàng giáo sĩ đã có đăng ký với chính quyền trong Hội Công giáo Yêu nước mà bản thỏa hiệp tạm thời vừa được ký vào ngày 22 tháng 9, 2018 để cổ động cho sự hợp nhất với các cộng đoàn công giáo Trung quốc, nhất là hội nhập bảy giám mục hiệp thông với Giáo hoàng thừa kế ngôi Thánh Phêrô (một giám mục đã qua đời) và để cho giáo hoàng quyền bổ nhiệm các giám mục.

Giám mục Giuse Quách Kim Tài được phong giám mục ngày 20 tháng 11, 2010 mà không có sự đồng ý của giáo hoàng. Ngài là một trong các giám mục được hội nhập và bây giờ ngài là giám mục vừa thông hiệp với giáo hoàng và vừa được chính quyền Trung quốc công nhận.
Giám mục Gioan Baotixita Dương Hiểu Đình được phong giám mục ngày 15 tháng 7, 2010 với sự đồng ý của giáo hoàng: ngài là giám mục phụ tá. Theo hãng tin AsiaNews, ngài là linh mục đầu tiên được chịu chức sau khi các chủng viện được mở cửa vào năm 1980 khi chủ tịch Đặng Tiểu Bình lên nắm chính quyền. Ngài là giám mục vừa thông hiệp với giáo hoàng và vừa được chính quyền Trung quốc công nhận.

Sự tham dự vào thượng hội đồng của hai giám mục đã được hồng y Lorenzo Baldisseri, tổng thư ký thượng hội đồng thông báo trong cuộc họp báp ngày 1 tháng 10-2018: “Hai giám mục được Đức Phanxicô mời, đó là kết quả của bản Thỏa hiệp ngày 22 tháng 9 và lời mời này đã được chấp nhận, vì thế các giám mục sẽ đến Rôma.”
Không đơn giản hóa

Hồng y Baldisseri lưu ý “tình hình rất phức tạp” – cơ bản là không đơn giản một lời mời -, và hai giám mục đã lên đường đi Rôma nhưng chưa cho biết họ sẽ ở đâu. Chiều hôm qua, thứ ba 2 tháng 10 lúc 17pm, Vatican xác nhận họ đã đến Rôma.

Ở Trung quốc, trong số các giám mục tại chức (theo nguồn tin của Giáo hội Á châu năm 2016 có 110 giám mục và 99 đang tại chức) đa số ở độ tuổi ngoài sáu mươi, họ vừa được cả chính quyền Trung quốc và Tòa Thánh công nhận: các hàng rào biên giới đã không còn. Thêm nữa trong số các giám mục “chính thức” bây giờ có các giám mục “chui.”

Trung quốc có khoảng 10 triệu giáo dân công giáo, thỏa hiệp ký ngày 22 tháng 9 nhằm đưa hai cộng đoàn xích lại gần nhau, cộng đoàn chui và cộng đoàn được nhà nước công nhận.

Ngày 25 tháng 9, trong chuyến bay từ Estoni về Rôma, ngày hôm sau ngày bức thư của cựu sứ thần Viganò đưa ra, Đức Phanxicô nói với các ký giả, ngài thấy đây là dấu hiệu ngài phải đi về hướng kết hiệp như trong thư ngài gởi cho các giám mục “chui” và các giám mục được chính quyền Trung Hoa chấp nhận.
Một dấu hiệu khác của tình trạng phức tạp mà hồng y Baldisseri nêu ra: theo chính quyền thì Giáo hội công giáo ở Trung quốc có 97 giáo phận năm 2016, còn theo Giáo hội Trung quốc thì có 138 giáo phận.

Cuối cùng, nguồn tin của Giáo hội Á châu nhắc lại, năm 2016 trong số các giám mục Trung Hoa buộc “phải rút lui” có giám mục “chui” Giacôbê Tô Triết Dân 96 tuổi gị giam giữ từ năm 1997. Giám mục Tađêô Mã Đạt Khâm, giám mục phụ tá “chính thức” của Thượng Hải bị quản thúc tại gia từ tháng 7 năm 2012, chính quyền ngăn chận không cho ngài quản trị giáo phận từ khi ngài tuyên bố rút chân ra khỏi Hội Công giáo Yêu nước.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: Thượng hội đồng giới trẻ tháng 10-2018 qua các con số

Hình ảnh các Giám mục Giuse Quách Kim Tài và Gioan Baotixita Dương Hiểu Đình trong thánh lễ khai mạc thượng hội đồng ngày thứ tư 3 tháng 10 tại quảng trường Thánh Phêrô.

Một nữ tu Trung quốc trong số các dự thính viên của thượng hội đồng

Một nữ tu Trung quốc trong số các dự thính viên của thượng hội đồng

cath.ch, 2018-10-03

Ngày 3 tháng 10, 2018, hãng tin công giáo tiếng Ý Asia News cho biết, nữ tu Teresina Cheng, một nữ tu trẻ Trung quốc có mặt trong số 36 người trẻ tham dự thượng hội đồng.

Nữ tu Cheng cho biết: “Đức tin nơi các bạn trẻ Trung quốc là một cái gì còn trừu tượng. Thường là các bạn trẻ nhận đức tin từ cha mẹ, nhưng quan hệ của các bạn trẻ với Chúa chưa được ‘đào sâu’ đủ. Xơ cho biết, chính nhờ thường xuyên đi lễ mà xơ quyết định vào dòng các nữ tu Mẹ Thiên Chúa ở Hà Bắc năm 2004.

Hai giám mục Trung quốc tham dự thượng hội đồng

Nữ tu Cheng hiện đang theo học thần học ở Học Viện Truyền giáo Mẹ Giáo hội ở Castel Gandolfo, gần Rôma. Xơ là đại diện đầu tiên của Trung quốc tham dự thượng hội đồng cùng với hai giám mục Trung Hoa là giám mục Giuse Quách Kim Tài, giáo phận Thừa Đức, Hà Bắc và giám mục Gioan Baotixita Dương Hiểu Đình, giáo phận Diên An, Thiểm Tây, cả hai là đại diện chính thức của Hội đồng giám mục Trung quốc. Đây là lần đầu tiên Bắc Kinh cho phép các giám mục tham dự thượng hội đồng giám mục.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: Đức Phanxicô xúc động khi chào mừng các giám mục Trung Hoa có mặt ở Quảng trường Thánh Phêrô

Các giám mục Trung quốc trong thánh lễ khai mạc thượng hội đồng tại quảng trường Thánh Phêrô sáng thứ tư 3 tháng 10-2018

Đức Phanxicô chào mừng các khách hành hương Việt Nam và Trung quốc

Đức Phanxicô chào mừng các khách hành hương Việt Nam và Trung quốc
cath.ch, 2018-10-13
Văn phòng Tòa Thánh cho biết, trước thánh lễ khai mạc thượng hội đồng Giới trẻ, Đức tin và Phân định ơn gọi ở quảng trường Thánh Phêrô, Đức Phanxicô đã tiếp cá nhân các tín hữu hành hương người Việt và Trung quốc ở Đền thờ Thánh Phêrô.
Cuộc gặp này ở bên trong Đền thờ Thánh Phêrô, trước nhà nguyện Pietà. Có vào khoảng ba mươi tín hữu có mặt nhân chuyến hành hương do Dòng Thánh Gioan Baotixita tổ chức kỷ niệm 90 năm sứ mạng phục vụ người dân Trung quốc.
Trong thánh lễ khai mạc thượng hội đồng, Đức Phanxicô đã xúc động khi chào mừng các giám mục Trung quốc lần đầu tiên về Rôma tham dự thượng hội đồng. Trong bài giảng của mình, Đức Phanxicô nhấn mạnh, “Sự hiệp thông của giám mục đoàn hoàn vũ với giáo hoàng được thấy rõ hơn nhờ sự hiện diện của các giám mục Trung quốc”.
Trung quốc và Việt Nam ở trong số các Quốc gia rất hiếm không duy trì quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh. Từ năm 2011, Vatican có một đại diện không thường trú ở Việt Nam. Trong khi với Trung quốc thì mãi đến ngày 22 tháng 9 mới có một bản thỏa hiệp tạm thời với Rôma về việc phong các giám mục.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Xin đọc: Đức Phanxicô xúc động khi chào mừng các giám mục Trung Hoa có mặt ở Quảng trường Thánh Phêrô
Hình ảnh đoàn hành hương Việt Nam và Trung quốc trong buổi gặp Đức Phanxicô tại Đền thờ Thánh Phêrô sáng thứ tư 3 tháng 10-2018

Tiểu sử của Đức Phanxicô

Tiểu sử của Đức Phanxicô 

Trích sách “Chính trị và Xã hội“, Dominique Wolton và Đức Phanxicô, Nxb. L’Observatoira, 2017.

Giáo hoàng châu Mỹ đầu tiên là tu sĩ Dòng Tên Argentina Jorge Mario Bergoglio, 76 tuổi, Tổng Giám mục Buenos Aires. Đây là hình ảnh hàng đầu trên toàn Châu Mỹ La Tinh nhưng ngài là mục tử giản dị rất được giáo dân yêu quý, trong suốt mười lăm năm làm giám mục, ngài đi xe buýt, đi xe điện ngầm ngược xuôi giáo phận để thăm giáo dân của mình. Nhiều lần ngài nói, “Giáo dân của tôi nghèo và tôi là một người trong số họ” để giải thích vì sao ngài ở một căn hộ nhỏ và tự nấu ăn. Ngài luôn khuyên các linh mục của mình có lòng thương xót, dũng cảm làm việc tông đồ và mở rộng cửa cho tất cả mọi người. Ngài giải thích nhiều lần, chuyện tệ hại nhất xảy ra cho Giáo hội, đó là điều mà “linh mục Lubac gọi là thói thời thượng thiêng liêng”, có nghĩa là “đặt mình vào trọng tâm”. Và khi ngài nói đến công chính xã hội thì ngài mời gọi mọi người xem lại sách giáo lý, xem lại Mười Điều Răn và Tám mối Phước thật. Đường hướng của ngài thì đơn giản: nếu chúng ta theo Chúa Kitô thì chúng ta không “chà đạp nhân phẩm con người, vì đó là một tội trọng”.

Dù ngài kín đáo – tiểu sử chính thức của ngài chỉ có vài hàng, ít nhất là cho đến khi ngài được đề cử làm giám mục giáo phận Buenos Aires, nhưng ngài là điểm tham chiếu vì ngài có lập trường mạnh mẽ trong giai đoạn khủng hoảng tài chánh lớn đã tác động lên đất nước Argentina năm 2001.

Ngài sinh ở thủ đô Argentina ngày 17 tháng 12 năm 1936, con của gia đình di dân Ý vùng Piémont: ông Mario, cha của ngài làm kế toán trong ngành đường sắt, bà Regina Sivori, mẹ của ngài ở nhà chăm sóc gia đình và nuôi dạy năm người con.

Tốt nghiệp kỹ sư hóa học, nhưng ngài chọn con đường đi tu, ngài vào chủng viện Villa Devoto của địa phận. Ngày 11 tháng 3 năm 1956, ngài vào học viện Dòng Tên. Ngày 11 tháng 5 năm 1958, ngài học văn chương ở Chi-lê và năm 1961 ngài về lại Argentina, có bằng cao học triết ở Học viện Thánh Giuse ở San Miguel. Từ năm 1964 đến 1965, ngài là giáo sư văn chương và tâm lý ở trường Đức Mẹ Vô Nhiễm Santa Fé, năm 1966 ngài dạy ở trường Cứu Thế ở Buenos Aires cũng hai môn đó. Từ năm 1967 đến năm 1970, ngài học thần học và có bằng cao đẳng ở trường Thánh Giuse.

Ngày 13 tháng 12 năm 1969, ngài được Tổng Giám mục Ramón José Castellano phong linh mục. Từ năm 1970 và 1971, ngài tiếp tục được đào tạo ở Alcalá de Henares, Tây Ban Nha, ngày 22 tháng 4 năm 1973 ngài khấn trọn. Về lại Argentina, ngài phụ trách tập viện ở trường Thánh Giuse ở San Miguel, giáo sư phân khoa thần học, cố vấn cho Giám tỉnh Dòng Tên.

Ngày 31 tháng 7 năm 1973, ngài được bổ nhiệm làm Giám tỉnh Dòng Tên ở Argentina, và giữ chức vụ này sáu năm. Sau đó ngài trở lại làm việc ở trường đại học và từ năm 1980 đến 1986 và một lần nữa ngài làm Hiệu trưởng Trường Đại học San José, đồng thời là cha xứ ở San Miguel. Vào tháng 3 năm 1986 ngài qua Đức để hoàn thành luận án tiến sĩ, sau đó các bề trên phái ngài đến Trường Đại học Salvador ở Buenos Aires, rồi kế tiếp là Nhà thờ Dòng Tên ở thành phố Cordoba, làm cha linh hướng và cha giải tội ở đó.

Chính hồng y Antonio Quarracino, tổng giám mục Buenos Aires, là người muốn Bergoglio trở thành cộng sự thân tín của mình. Vì vậy, vào ngày 20 tháng 5 năm 1992, Đức Gioan-Phaolô II bổ nhiệm ngài là giám mục phụ tá Auca và vùng phụ cận Buenos Aires. Vào ngày 27 tháng 6 ngài được hồng y Quarracino phong chức giám mục ở Nhà thờ lớn. Ngài chọn câu Được thương xót và được chọn, miserando atque eligendo làm khẩu hiệu của mình, và trên huy hiệu của ngài có ghi chữ IHS, biểu tượng của Dòng Tên.

Trong cương vị giám mục, ngài trả lời phỏng vấn lần đầu tiên trên báo Estrellita de Belém, một tờ báo nhỏ của giáo xứ. Sau đó, ngài được bổ nhiệm ngay làm giám mục đại diện ở vùng Flores và ngày 21 tháng 12 năm 1993, ngài được giao nhiệm vụ Giám mục Phụ tá Giáo phận.

Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi ngày 3 tháng 6 năm 1997, ngài được nâng lên phẩm giám mục phó, có quyền kế vị Tổng Giám mục giáo phận Buenos Aires. Chưa đầy chín tháng sau, khi hồng y Quarracino qua đời, ngài trở thành người kế nhiệm vào ngày 28 tháng 2 năm 1998, tổng giám mục của Argentina, đồng thời là Đấng Bản Quyền cho người Công Giáo Đông Phương ở Argentina vì họ chưa có bản tòa riêng của mình.

Ba năm sau, tại Công nghị Hồng Y ngày 21 tháng 2 năm 2001, Đức Gioan-Phaolô II phong tước hồng y cho ngài, và ban cho ngài danh hiệu San Roberto Bellarmino. Ngài xin tín hữu đừng qua Roma dự lễ phong chức hồng y của mình mà nên dùng tiền mua vé máy bay để cho người nghèo.

Ngài làm Viện trưởng Viện Đại học Công giáo Argentina, ngài viết các cuốn sách Chiêm nghiệm cho các tu sĩ (Méditations para religiosos, 1982), Chiêm nghiệm về đời sống Tông đồ (Reflexiones sobre la vida apostólica,1992), và Chiêm nghiệm về Hy vọng (Reflexiones de esperanza, 1992).

Tháng 10 năm 2001, ngài được bổ nhiệm Phụ tá Tổng Phúc trình viên tại Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới lần thứ X về thừa tác vụ giám mục. Một trách nhiệm được giao phó cho ngài vào giờ chót để thay thế hồng y Edward Michael Egan, tổng giám mục New York, không thể rời Mỹ được vì có vụ khủng bố ngày 11-9.

Ở Hội nghị này, ngài đặc biệt nhấn mạnh đến “sứ mệnh tiên tri của giám mục”, căn tính của giám mục được xem như “tiên tri công lý”, bổn phận của giám mục là “không ngừng rao giảng” Học thuyết Xã hội của Giáo Hội, cũng như có “một phán đoán xác thực về đức tin và luân lý”.

Đồng thời, hồng y Bergoglio càng được yêu mến hơn trên toàn châu Mỹ La-tinh. Dù vậy, ngài chưa bao giờ lơi lỏng nếp sống đạm bạc và nghiêm cẩn của mình, mà một số người cho là “khổ hạnh.” Với tinh thần khó nghèo này, ngài từ chối được cử làm Chủ tịch Hội đồng Giám mục Argentina năm 2002, nhưng ngài vẫn được bầu ba năm sau đó và vào năm 2008 lại tiếp tục thêm một nhiệm kỳ ba năm nữa. Đồng thời, tháng 4 năm 2005, ngài dự mật nghị bầu giáo hoàng, mật nghị đã bầu Đức Bênêđictô XVI.

Trong thời làm Tổng giám mục Buenos Aires – giáo phận với hơn 3 triệu dân – ngài ấp ủ dự định truyền giáo dựa trên hiệp thông và rao giảng Tin Mừng. Ngài có bốn mục đích chính: các cộng đoàn cởi mở và có tình huynh đệ; sự tham dự tích cực của giáo dân; rao giảng Tin Mừng cho tất cả người dân trong thành phố; giúp đỡ người nghèo và người bệnh. Ngài hướng đến việc rao giảng lại Tin Mừng cho thành phố Buenos Aires, “để ý đến những người sinh sống tại đây, đến cấu trúc xã hội và lịch sử ở đây.” Ngài yêu cầu các linh mục và giáo dân cộng tác với nhau. Tháng 9 năm 2009, ngài khởi xướng chiến dịch đoàn kết nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày Độc lập của đất nước Argentina: Hai trăm công việc từ thiện sẽ được thực hiện từ đây đến năm 2016. Và trên quy mô toàn lục địa châu Mỹ La Tinh, ngài trông đợi rất nhiều vào tác động của thông điệp từ Hội nghị Aparecida năm 2007, như mô tả trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng của Châu Mỹ la Tinh (Evangelii Nuntiandi de l’Amérique latine).

Trước giai đoạn trống tòa, ngài là thành viên trong các cơ quan ở giáo triều Rôma như Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Bộ Giám mục, Bộ lo về Đời sống Tận Hiến và các Hiệp hội Đời sống Tông đồ, Hội đồng Giáo hoàng về gia đình, Ủy ban Giáo hoàng về Châu Mỹ La Tinh.

Marta An Nguyễn dịch

Trích sách “Chính trị và Xã hội“, Dominique Wolton và Đức Phanxicô, Nxb. L’Observatoira, 2017.

 

 

 

 

Xin đọc: “Không dễ, không dễ…” 

Hòa bình và chiến tranh  

Tôn giáo và chính trị

Âu châu và văn hóa đa dạng

Văn hóa và truyền thông

Sự khác biệt, niềm vui và thời gian

“Lòng thương xót là chuyến đi từ quả tim đến bàn tay”

“Truyền thống là chuyển động” 

Một định mệnh

Một vài câu của Đức Phanxicô

Một vài câu của Đức Phanxicô

Một vài câu của Đức Phanxicô

 

Trích sách “Chính trị và Xã hội”, Dominique Wolton và Đức Phanxicô, Nxb. L’Observatoira, 2017

Trong các buổi trao đổi của chúng tôi, Đức Phanxicô đã có những câu ngắn gọn, trực tiếp và đôi khi khá khiêu khích, ngài đã nói những câu thật ngạc nhiên. Một vài câu có trong quyển sách, một vài câu không có. Tôi xin trích đăng một vài câu:

“Chìa khóa duy nhất để mở cánh cửa giao tiếp: chìa khóa khiêm tốn”.

“Bốn căn bệnh của báo chí: bóp méo thông tin, vu khống, thóa mạ, bôi bẩn”.

“Các chữ yêu thích của ngài: Vui vẻ, dịu dàng, gần gũi, sững sờ, kinh ngạc”.

“Giao tiếp là hạ mình như Chúa Kitô đã hạ mình với con người”.

“Truyền thống là giáo thuyết trên đường đi. Là chuyển động”.

“Thế tục hóa mang trong mình một sự phủ nhận tính siêu việt”

“Các khác biệt luôn giúp chúng ta lớn lên”.

“Chúa ở đâu ở lò hơi ngạt Auschwitz? Tôi không thấy Chúa, tôi chỉ thấy việc làm của con người không có Chúa”.

“Chúa giao tiếp khi hạ mình”.

“Sợi dây ‘tải dữ liệu’ tốt nhất là sợi dây của quả tim”.

“Chúa không thích những con đường đi nửa chừng, các cánh cửa nửa mở nửa hé, đời sống trên hai bến xe”.

“Đừng nhầm lẫn hạnh phúc với chiếc ghế sofa”.

“Câu trả lời của chúng ta cho thế giới đang chiến tranh có tên: tình huynh đệ”.

“Xin các bạn trẻ đừng về hưu quá sớm”.

“Các người tị nạn là anh em của chúng ta, người tín hữu kitô không loại trừ một ai”.

“Chủ nghĩa khủng bố không phải là một tôn giáo. Nhưng biết bao người trẻ, người Âu châu chúng ta không có lý tưởng?”

“Thế giới mệt mỏi với những người nói dối quyến dụ. Và tôi có thể nói, “các linh mục theo thời” hay “các giám mục theo thời”.

“Rao giảng, làm cho sứ vụ chúng ta thành bức tranh của tính hiện đại”.

“Cẩn thận với nạn “ ‘mù xúc cảm’ ”.

“Làm gì với các bạn trẻ? Đi theo họ và hướng dẫn họ”.

“Chính trị, có thể đó là một trong các hành vi bác ái cao cả nhất. Bởi vì làm chính trị là gánh quần chúng”.

“Đây là một luật: nếu tôi không ra khỏi chính mình để đến với người khác mà không hạ mình, thì giao tiếp sẽ khó thành!”

“Giao tiếp trong tinh thần kitô là phục vụ và người kitô hữu hành động như vậy. Chúa Giêsu đã nói trong Phúc Âm, Ta không đến để được phục vụ, nhưng Ta đến để phục vụ”.

“Kinh Thánh nhắc cho chúng ta nhớ, Chúa nghe tiếng kêu của dân Ngài và tôi muốn kết hiệp tiếng nói của tôi với tiếng nói của anh chị em: đất đai, mái nhà, việc làm cho tất cả. tôi đã nói và tôi lập lại: đó là các quyền thiêng liêng”.

“Xây cầu chứ không xây tường vì tường sẽ sập”.

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc: “Không dễ, không dễ…” 

Hòa bình và chiến tranh  

Âu châu và văn hóa đa dạng

Văn hóa và truyền thông

Sự khác biệt, niềm vui và thời gian

“Lòng thương xót là chuyến đi từ quả tim đến bàn tay”

“Truyền thống là chuyển động”  

Một định mệnh

Các tín hữu kitô tị nạn

Các tín hữu kitô tị nạn

Hình: Một trại tị nạn ở Erbil

Trích sách “Các cuộc gọi của Đức Phanxicô”, Rosario Carello, nxb. Fidélité

“Allô? Anh chị em giống như Chúa Giêsu”

Vừa vào nhà thờ, các quân khủng bố Hồi giáo ISIS bắt đầu bắn. Đó là lúc thánh lễ vừa bắt đầu cử hành, chúng tôi không hiểu chuyện gì xảy ra. Ngay lập tức, họ bắn vào anh Oday và con trai 3 tuổi của anh, anh Oday là anh của tôi, anh ngồi bên cạnh tôi. Adam hét lên “Thôi! Thôi!”. Em mới 3 tuổi, em không lớn con và tôi nghe em tiếp tục hét lên “Thôi! Thôi!”, tôi không thể đứng dậy để bồng em vì quân khủng bố đang đứng gần đầu tôi và em Adam thì cứ tiếp tục hét. Sau đó cảnh sát tới, khi đó khoảng 11 giờ, sau khi chúng tôi bị bắt làm con tin 5 giờ, tôi không còn nghe tiếng hét của Adam.

Khi đó anh Oday của tôi bị thương ở tay, một trong các tên khủng bố nói với tên kia: “Bắn thêm vào người đàn ông nằm dưới đất này”. Và tên khủng bố đó bắn thêm.

Sự hấp hối của các tín hữu kitô ở Trung Đông

Sau đây là câu chuyện của người phụ nữ đã mất anh và cháu mình, bà kể cho đài truyền hình công giáo NourSat ở Liban, bà cho biết lúc đó bà nghe tiếng cầu cứu của anh và cháu mình mà không thể nào giúp được, cho đến khi bà không còn nghe tiếng của họ nữa.

Đó là ngày 31 tháng 10 năm 2010. Cháu bé Adam, cha và dì của em đi lễ như mọi chúa nhật khác ở nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở trung tâm thành phố Bagdad, Irak.

Vào thời đó người ta chưa biết nhiều về nhóm Hồi giáo ISIS, nhưng họ đã hoạt động ở đó. Sau đây là câu chuyện của một trong các nạn nhân đầu tiên của ISIS:

“Một ngày nọ, có rất nhiều người đến, họ mặc đồ đen, họ ghi chữ “n” trên nhà chúng tôi, “n” có nghĩa là người Nadarét, người gần với Giêsu Nadarét, tóm lại là tín hữu kitô. Vài ngày sau đó, họ bắt chúng tôi phải từ bỏ Chúa Giêsu Kitô. Tôi thấy nhiều người lớn, người già, trẻ em bị giết nhưng họ không cải qua đạo hồi giáo. Chúng tôi may mắn trốn thoát được. Từ xa, chúng tôi thấy họ đốt nhà thờ, đốt nhà của chúng tôi. Chúng tôi chạy trốn với chỉ hành lý duy nhất là bộ áo quần mặc trên người. Chúng tôi cõng con mình trên lưng, đi ngày này qua ngày khác dưới sức nóng thiêu đốt của mặt trời sa mạc. Chúng tôi đến được Erbil, vùng biên giới gần nhất với Kurdistan ở nước Irak. Người dân ở đây đón tiếp chúng tôi, họ mang thức ăn, nước uống và áo quần đến cho chúng tôi. Trong vùng Erbil có các trại tị nạn của Ankawa, nơi có hàng ngàn người sống ở đây”.

Làm sao các tín hữu kitô này có thể sống trong trại tị nạn, đó là nội dung bức thư của linh mục công giáo người Irak Behnam Benoka viết cho Đức Phanxicô trong một bức thư thống thiết:

Trọng kính Đức Thánh Cha, 

Điều kiện sống của các con chiên của cha thì thật bi thảm, họ chết, họ đói, trẻ con hãi sợ, chúng không còn đứng vững trên đôi chân, còn con, con sợ mất những em bé nhỏ nhất, những em bé nhỏ nhất của cha, những em bé sơ sinh, những em bé yếu dần và không sống sót nổi, con luôn sợ có thêm người chết. Chúng con, các linh mục, các tu sĩ nam nữ, chúng con có ít người và chúng con sợ không đáp ứng được các đòi hỏi về mặt tinh thần cũng như thể xác của các con chiên của con, cũng như của cha. Con viết thư cho cha trong hai hàng nước mắt, bởi vì chúng con ở đây, trong thung lũng đen tối, giữa những bầy chó sói hung dữ. 

Xin cha gởi cho chúng con phép lành của cha để chúng con có sức lực đi tới đàng trước.

Với tất cả tình thương của chúng con.

Đức Phanxicô trả lời

Đức Phanxicô nhận thư này trên chuyến bay từ Nam Hàn về Rôma ngày 18 tháng 8-2014. Một ký giả nhận thư qua máy điện thoại cầm tay, lập tức ông dịch lại và chuyển đến Đức Phanxicô. Ngày hôm sau, vừa về Rôma, ngài gọi cho linh mục L Behnam liền.

“Allô?”

“Allô, cha Behnam? Cha là Giáo hoàng Phanxicô, cha cám ơn con về tất cả những gì con đã làm các kitô hữu ở trại tị nạn”.

Bốn tháng sau, hôm trước ngày lễ Giáng Sinh, qua hệ thống liên lạc do đài truyền hình TV 2000 nối kết, Đức Phanxicô nói chuyện với người dân ở trại. Đó là những người mà cuộc sống bị chận lại.  Họ không còn gì, không nhà cửa, không tiền bạc, không công ăn việc làm. Trong sự im lặng hoàn toàn của các cường quốc, nhóm Hồi giáo ISIS đã dùng vũ lực để làm cho họ không còn gì, bây giờ họ bị chất đống ở Ankawa, sống một cuộc sống không tương lai. Nhờ sự trợ giúp của Giáo hội, họ có được thức ăn, có được mái nhà che để ngủ, nhưng họ sống không có một bảo đảm nào cho tương lai. Tâm hồn họ như bị giết chết. Đức Phanxicô nói chuyện với họ:

“Xin chào buổi chiều, cha xin chào tất cả chúng con nhân ngày canh thức Giáng Sinh. Cha xin chào tất cả chúng con đang chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh và cha cùng kết hợp với chúng con trong thánh lễ này. Cha xin ôm tất cả các con vào lòng và gởi lời chúc mừng Noel đến các con. Các con giống như Chúa Giêsu trong đêm Giáng Sinh của Ngài: Ngài cũng không có chỗ ở, cũng bị đuổi và cũng phải trốn qua Ai Cập để được thoát. Chiều nay, các con cũng giống như Chúa Giêsu, cha ở bên cạnh các con và xin chúc lành cho các con. Các con hãy nghĩ, trong hoàn cảnh này, mình cũng giống như Chúa Giêsu, và điều này làm cho cha còn cầu nguyện nhiều hơn nữa cho các con. Các con thân mến, cha ở bên cạnh các con chiều nay và cha xin Chúa Giêsu yêu thương các con, xin Mẹ Maria cho tất cả chúng ta tình yêu của Mẹ. Cha ở rất gần với các con. Chiều nay, Chúa Giêsu đến, Ngài đến như một em bé đơn sơ, dịu dàng. Những em bé đơn sơ trần trụi, những em bé đã chết giữa các con. Chúng ta hãy nghĩ đến các em: Hài đồng Giêsu đến giữa chúng ta, đó là tình yêu và sự dịu dàng của Thiên Chúa. Xin Chúa cho chúng ta ơn để lãnh nhận Ngài trong tình yêu. Và cha nghĩ đến các người lớn tuổi, các ông bà đã sống trọn đời mình, và bây giờ đau khổ với thánh giá này. Ước mong những người lớn tuổi cho chúng ta tất cả minh triết của cuộc sống. Đêm nay, cha mang các em bé, các người lớn tuổi trong tâm hồn cha. Và bây giờ, với tất cả các con, đặc biệt với các trẻ em và người lớn tuổi, từ đáy lòng cha, cha xin ban phép lành cho tất cả chúng con”.

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc: Các cuộc gọi của Đức Phanxicô

Lán của Reggio Emilia

Các tín hữu kitô tị nạn

Marco Pannella: “Tình thương biểu lộ như thế này thì làm cho tôi rất xúc động”

Nathalie Becquart: “Các người trẻ có thể tăng tốc độ cải cách như Đức Phanxicô mong muốn”

Nathalie Becquart: “Các người trẻ có thể tăng tốc độ cải cách như Đức Phanxicô mong muốn”

lavie.fr, Marie-Lucile Kubacki, Rôma, 2018-10-02

Bài phỏng vấn nữ tu Dòng Xaviê Nathalie Becquart, cựu giám đốc Phân vụ quốc gia để phúc âm hóa giới trẻ và ơn gọi của Hội đồng giám mục Pháp. Nữ tu tham dự trong tư cách dự thính viên của Thượng hội đồng Giới trẻ. Trong thời gian diễn tiến Thượng hội đồng, cùng với các nữ tu khác, một nữ tu Nam Hàn, Mỹ, Kenya và Ý, nữ tu Becquart viết trong trang blog Tiếng nói Nữ tu (Sisters’ Voice) để “tiếng nói của các nữ tu” được nghe.

Làm thế nào nói đến thượng hội đồng trong bối cảnh của cơn khủng hoảng hiện nay? Đâu là các điểm cần lưu ý?

Đây là những gì các bạn trẻ đã viết rất mạnh trong bản tài liệu cuối cùng của tiền thượng hội đồng: “Một Giáo hội khả tín là một Giáo hội không sợ để cho người khác thấy mình mong manh. Giáo hội có thể nhanh chóng và chân thành nhận các lỗi lầm  của quá khứ, hiện tại và chấp nhận mình gồm những người ở trong tình trạng sai lầm hay không thấu hiểu. Trong số các lỗi lầm phải thừa nhận, chúng ta có thể đưa ra các vụ lạm dụng tình dục và các cách quản trị kinh tế không đúng. Giáo hội sẽ phải củng cố quan điểm không khoan nhượng đối với các vụ lạm dụng tình dục trong thể chế. Khi khiêm tốn công nhận tính chất con người của mình, chắc chắn Giáo hội sẽ thấy sứ điệp sẽ khả tín hơn, đến được với các bạn trẻ trên thế giới nhiều hơn. Nếu Giáo hội hành động như thế, thì Giáo hội sẽ khác với các thể chế và các tổ chức quyền uy khác mà đa số người trẻ không tin tưởng.”

Một vài ngày sau khi công bố tài liệu này, và khi đệ trình lên Đức Phanxicô trong ngày Lễ Lá năm nay, ngài đã nhận thấy các sai lầm của mình trong việc lượng định và nhận định tình trạng lạm dụng ở Chi-lê và ngài đã viết cho các giám mục Chi-lê.

Một cách nào đó, cơn khủng hoảng hiện tại thúc bách nhanh hơn trong việc ý thức, đã đến lúc khẩn cấp và cần thiết phải có ý thức về việc cải cách Giáo hội như Đức Phanxicô mong muốn ngay từ đầu triều giáo hoàng của ngài. Mặt khác, chắc chắn ngài đã thấy nơi người trẻ, qua việc đòi hỏi sự thật, tính xác thực, nhất quán của họ, những yếu tố có thể là động lực, là bộ máy gia tốc cho cuộc cải cách này. Để đến được nhiều hơn với người trẻ và để tháp tùng họ, Giáo hội phải nhúc nhích và thượng hội đồng phải góp phần vào trong công việc này.

Theo cùng một cách mà Giáo hội tìm cách lắng nghe người trẻ, Giáo hội còn phải nghe tiếng nói của các nạn nhân các vụ lạm dụng, cùng đi với họ, lắng nghe tiếng khóc và các đau khổ của họ… 

Nhưng Giáo hội có thật sự cho các phương tiện để lắng nghe người trẻ không?

Qua việc chuẩn bị thượng hội đồng, Giáo hội đặt nặng hơn việc lắng nghe người trẻ. Đức Phanxicô đã đòi hỏi họ: “Các con phải làm cho tiếng hét của các con được lắng nghe”, và các bạn trẻ đã nói, đã diễn tả mạnh mẽ ở hiện trường, ở các tòa giám mục và ở các cuộc họp của tiền thượng hội đồng… Như tôi đã chia sẻ vào cuối buổi họp: “Một Giáo hội thượng hội đồng là giáo hội của lắng nghe, theo cùng một cách mà Giáo hội tìm cách lắng nghe người trẻ, Giáo hội còn phải nghe tiếng nói của các nạn nhân các vụ lạm dụng, cùng đi với họ, lắng nghe tiếng khóc và các đau khổ của họ. Theo tôi, điểm lưu ý chính của thượng hội đồng là lắng nghe. Lắng nghe người trẻ, lắng nghe những người đau khổ nhất…. và lắng nghe Thần Khí. Phải nghe các lời kêu gọi của Thần Khí trong thế giới này.

Một cách nào đó, trong bối cảnh khủng hoảng hiện tại, thượng hội đồng phải giúp chúng ta tìm ra con đường cho khuôn mặt của Giáo hội Tin Mừng, mà qua đó, các bạn trẻ được cảm hứng nhiều hơn, rõ ràng hơn. Tôi trích lời các bạn trẻ: “Một Giáo hội đích thực, dễ gần, đơn giản, sáng tạo. Một Giáo hội dám lấy hiểm nguy, không sợ đề cập đến các vấn nạn, các thực tế và dám cho người trẻ toàn chỗ của họ. Một Giáo hội thượng hội đồng là một giáo hội mọi người đi chung với nhau, tín hữu và mục tử, giáo dân, linh mục tu sĩ thánh hiến, nam nữ, người trẻ cũng như người lớn tuổi, cùng lắng nghe và cùng đón nhận nhau.”

Trong các suy tư hiện nay, rất nhiều người đều nói, quan trọng là phải để cho phụ nữ ở các địa vị lấy quyết định: đâu là các con đường dò tìm để làm tăng giá trị các ơn gọi phụ nữ (nữ tu, giáo dân) trong Giáo hội?

Đây cũng là vấn đề mà tôi dựa trên những gì các bạn trẻ nói ở tiền thượng hội đồng, khi câu hỏi này được đặt ra vì thế hệ này lớn lên trong một thế giới nam nữ hỗn hợp: “Giáo hội có thể đóng một vai trò thiết yếu để đảm bảo người trẻ không bị gạt ra bên lề nhưng được đón nhận. Giáo hội cũng có thể đóng vai trò này để cổ động cho phẩm cách phụ nữ vừa trong Giáo hội, cũng như ở ngoài xã hội nói chung. Ngày nay, vấn đề phụ nữ chưa có một chỗ tương đương với nam giới vẫn còn là một vấn đề của xã hội. Và trong Giáo hội cũng vậy. Tuy vẫn có các ví dụ đáng kể của các phụ nữ thánh hiến và trách nhiệm của họ trong các cộng đoàn tu. Tuy nhiên đối với các phụ nữ trẻ, điều này không phải lúc nào cũng được thấy rõ. Vấn đề chủ chốt trong suy tư của các nhóm chúng tôi là trong môi trường nào, người phụ nữ có thể triển nở trong Giáo hội và ngoài xã hội. Giáo hội có thể đề cập và thảo luận các vấn đề này với một tinh thần cởi mở qua các ý tưởng và kinh nghiệm sống. Các người trẻ cũng còn nói: “Các bạn trẻ cũng có cảm tưởng phụ nữ không có một vai trò rõ ràng trong Giáo hội. Nếu các bạn trẻ còn cảm thấy khó khăn để có cảm nhận được thuộc về và có vai trò lãnh đạo trong Giáo hội, thì vấn đề còn rắc rối hơn với các phụ nữ trẻ. Sẽ hữu ích nếu Giáo hội làm rõ vai trò của phụ nữ và giúp các bạn trẻ hiểu hơn vai trò này.”

Các bạn trẻ không thể xây dựng và lớn lên mà không có “các hình ảnh gương mẫu”, không có các “mô hình để lấy đó làm bản sắc”… Chính vì vậy, quan trọng là trên đường đi của mình, các bạn trẻ nữ công giáo có thể gặp các gương mặt phụ nữ dấn thân trong Giáo hội để họ có ước muốn mình cũng làm được như vậy. Càng ngày càng có nhiều phụ nữ có vị trí cao ở trường học, giảng dạy ở cấp cao dù con đường này còn phải tiếp tục đi trong nhiều nước. Việc phát triển công việc cho phụ nữ, việc họ có được các vị trí quan trọng, có trách nhiệm trong xã hội là một trong các tiến triển mạnh nhất của thế kỷ này… Sự tiến triển mới trong tương quan nam-nữ này trong xã hội cũng có tác động lên Giáo hội. Vì thế các chuyện cũng nhúc nhích trong Giáo hội, dù trong nhiều lãnh vực, vai trò phụ nữ chưa được thấy rõ.

Và cơn khủng hoảng ơn gọi nữ tu hiện nay còn quan trọng hơn là ơn gọi nam tu sĩ!  

Đúng vậy, trong nhiều nước ở phương Tây, ơn gọi nữ giảm nhiều hơn là ơn gọi nam tu sĩ… Chắc chắn chúng ta cũng có thể giải thích chuyện này do sự khó khăn lớn nhất của các phụ nữ trẻ có học, trong một vài hình thức, họ xem nữ tu như người “phục vụ” các linh mục, đôi khi các vai trò này bị xem là vai trò thấp kém. Một trong các thách thức lớn ngày nay là đào tạo, vì đào tạo không phải lúc nào cũng được nâng cao trong đời sống tu hành. Một công việc mà các dòng tu phải đương đầu để hiểu các người trẻ ngày nay và để tái hội nhập lại đặc sủng của họ…

Không những công việc này cần thiết cho các nhà dòng nhưng cũng là cần thiết cho toàn Giáo hội. Việc đào tạo phải được tiếp diễn trong tiến trình giải tu sĩ hóa để tiến tới trong tương quan nam-nữ, tìm con đường để tiếp nhận và đảm đương cho sự khác biệt này nhưng vẫn nói lên một cách cụ thể sự bình đẳng phẩm cách giữa nam nữ qua các quá trình quyết định có tính cách ngang nhau hơn. Điều này đòi hỏi phải tìm các phương tiện để cùng hiểu nhau, cùng làm phong phú cho nhau, cùng cộng tác trong tinh thần đối tác chân thực, tinh thần đồng trách nhiệm, giúp gặp nhau trong nhẹ nhàng để cùng nhau giải quyết các thách thức của sứ mạng. Chắc chắn đó là công trường quan trọng mà thế giới ngày nay kêu gọi chúng ta…

Nếu Giáo hội không nhúc nhích thì càng ngày Giáo hội càng khó đến được với phụ nữ – cũng như với nam giới – của thời buổi này, một thời buổi tiến triển trong một thế giới ngang hàng nhau hơn. 

Như thế theo xơ, vấn đề ngang nhau giữa nam-nữ trong Giáo hội phải đề cập đến trong bối cảnh sứ mạng phải không?

Chắc chắn, phải đề cập đến trong bối cảnh sứ mạng chứ không phải trong bối cảnh điều hành nội bộ…  Nếu Giáo hội không nhúc nhích thì càng ngày Giáo hội càng khó đến được với phụ nữ – cũng như với nam giới – của thời buổi này, một thời buổi tiến triển trong một thế giới ngang hàng nhau hơn. Một cách cụ thể, điều này có thể thực hiện qua nhiều việc giúp cho tiếng nói của phụ nữ, của đàn ông được nghe nhiều hơn, được xem trọng và được “thấy rõ” trong một sứ mạng năng động để phục vụ cho việc loan báo Tin Mừng. Chẳng hạn trong các giáo phận Pháp, chúng ta đã thấy càng ngày càng có nhiều phụ nữ trong các hội đồng cố vấn, các phụ nữ lo việc tài chánh cho giáo phận, làm ở tòa án giáo phận, đại diện cho giáo phận và bây giờ phụ nữ là nhà đào tạo trong chủng viện. Vì sao chúng ta không hình dung có một ngày nào đó, phụ nữ sẽ giữ chức vụ kiểu “tổng đại diện” bên cạnh các giám mục và vẫn duy trì linh mục tổng đại diện? Như thế sẽ có một cái nhìn đúp, trong sự hợp tác để phục vụ sứ vụ của giám mục và Giáo hội địa phương mà giám mục là chủ chăn.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: Thượng hội đồng giới trẻ tháng 10-2018 qua các con số

Thượng hội đồng giới trẻ với 5 vấn đề được đặt ra

Bài mới nhất