Home Blog Page 417

“Nếu không có Công đồng Vatican II, vụ nổ bung chúng ta chứng kiến ngày nay sẽ diễn ra sớm hơn và còn tệ hơn”

“Nếu không có Công đồng Vatican II, vụ nổ bung chúng ta chứng kiến ngày nay sẽ diễn ra sớm hơn và còn tệ hơn”

la-croix.com, Jean-Louis Schlegel, triết gia, nhà xã hội học về tôn giáo, 2022-10-11

Nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập Công đồng Vatican II, triết gia Jean-Louis Schlegel trở lại với “những lời hứa không được giữ” và một số chỉ trích mà ông phải chịu. Ông bác bỏ giả thuyết về một công đồng có thể làm trầm trọng thêm tình hình Công giáo; theo ông, “không có quá nhiều ở Công đồng Vatican II, nhưng có quá ít”.

Ngày 17 tháng 10 năm 1963, Đức Phaolô VI đã tiếp gần như không theo nghi thức các quan sát viên không công giáo ở Công đồng. Bên phải ngài là hồng y Bea, chủ tịch Ủy ban Hiệp nhất kitô giáo. Theo yêu cầu của ngài và cùng với ngài, mọi người đọc Kinh Lạy Cha theo ngôn ngữ riêng của mình. LUIGI FELICI / AP

Ngày chúa nhật 14 tháng 10 năm 1962, hai ngày sau khi Công đồng Vatican II khai mạc, một bài báo đầy nhiệt huyết của nhà hàn lâm Pháp François Mauriac được đăng trên tờ La Croix, có tựa đề “Gia tốc ơn sủng”. Đối với ông, điều đã khai mạc, trên hết là công đồng “đại kết” lần thứ XXI, công đồng của các Giáo hội kitô giáo bị chia rẽ và “buổi bình minh của sự hòa giải của họ”, khi ông chứng kiến “những người anh em đến Đền thờ Thánh Phêrô với tư cách quan sát viên”. Chắc chắn, không ngạc nhiên khi Mauriac vội nói rõ ông thấy sự hợp nhất này chỉ khi về lại Đền thờ Thánh Phêrô khi nhiều người đã tách ra. Nhưng trước hết chúng ta hãy nhớ, đây là niềm vui của ông khi thấy sự ra đời của một hy vọng lớn lao “đang trên đường thành tựu”.

Những lời hứa không được giữ của công đồng

Sáu mươi năm sau, chúng ta đang ở đâu? Trong khi một thiểu số người công giáo hò hét ngay từ khi công đồng mà họ cho là “tin lành hóa” của Giáo hội – và tiếp tục làm như vậy khi có dịp -, chúng ta buộc phải ghi nhận cuộc họp của “những con chiên của tất cả những người chăn cừu” đã không diễn ra: dù đã có những tiến bộ thần học, sự hòa giải đầy đủ và hoàn chỉnh vẫn chưa được ghi nhận ở “cấp trên”, trong khi ở “cấp dưới” nhiều người công giáo, tin lành, chính thống giáo lặng lẽ thực hành, kể cả trong sự liên đới hiệp thông. Nếu ông Mauriac kêu gọi kiên nhẫn khi đối diện với “sự trì trệ ơn sủng” thì phải nói rằng: nhiều người công giáo, dù đồng ý với công đồng hay không đều có xu hướng nghĩ rằng đó là Giáo hội công giáo, trước hết họ quan tâm đến sự đi trở về của những người trong ràng, chịu trách nhiệm không thể chấp nhận được về việc không hòa giải.

Thêm nữa vì đó không phải là sự “giảm tốc độ” duy nhất hậu công đồng: sự thất bại tương đối của những hy vọng đại kết giống như một ẩn dụ cho những tê liệt khác, những lời hứa tan vỡ khác của Công đồng Vatican II. Không phải là Giáo hội vẫn tồn tại hoặc đã trở thành tiền công đồng: bất kể những sai sót, thiếu sót hoặc mơ hồ mới xuất hiện từ năm 1965, Giáo hội vẫn tồn tại và đồng nhất nhờ tầm quan trọng của Sách Thánh và Lời Chúa, Giáo hội được hiểu là “dân Chúa”; vì mối quan hệ của Giáo hội với các tôn giáo khác, bằng cách làm sâu đậm thêm một lần nữa những liên kết của Giáo hội với do thái giáo và quá khứ của hai đạo; cũng nhờ đối thoại huynh đệ với các kitô hữu khác, tự do tôn giáo được khẳng định, gặp gỡ thân thiện với thế giới hiện đại, và dĩ nhiên là phụng vụ, mặc dù có những hình thức trái ngược hiện nay, mục tiêu trọng tâm vẫn là sự tham gia tích cực và đầy đủ của mọi người.”(Hiến chế về Phụng vụ, § 14).

Những căng thẳng cũ và gần đây nảy sinh trong việc giải thích các chủ đề trung tâm này của Công đồng Vatican II đã không xóa bỏ bước ngoặt: sự rạn nứt lịch sử mà nó thể hiện.

Công đồng Vatican II còn lại gì?

Rượu mới và bình cũ

Vậy cảm giác khó chịu đến từ đâu? Điều gì đã bị thiếu trong việc nhận ra nó? Tôi xin tóm tắt điều này qua cách diễn đạt Phúc âm nổi tiếng: rượu mới của công đồng bị đổ vào các bình cũ. Tính mới lạ của công đồng trong các thể chế lớn và các tự sắc lớn đã không được chuyển thành các cải cách của thể chế và chưa được chuyển thành luật của Giáo hội. Dù ngược lại, ở nhiều lãnh vực, chúng ta đã chứng kiến “sự phục hồi” – từ đáng tiếc hồng y Ratzinger đã nói năm 1984 khi ngài còn là bộ trưởng Bộ Tín Lý.

Có nên ngạc nhiên  khi “những phản hồi của thượng hội đồng gần đây (kết quả từ việc tham khảo ý kiến của các tín hữu) gợi lên mạnh mẽ, đôi khi gần như theo lời của Công đồng Vatican II, ở đây có quá nhiều quyền lực, ở đó không có quyền lực,  một cách cụ thể là có sự bất bình đẳng giữa những người đã được rửa tội, sự khác biệt quá mức giữa các linh mục (được tái tập trung) và giáo dân, buộc linh mục sống độc thân và bị loại trừ, ngày càng gây sốc, của phụ nữ ở trong bất kỳ chức năng hoặc quyết định tôn giáo nào quan trọng, khi họ đang có mặt khắp nơi để phục vụ Giáo hội? Ở đây không phải là vấn đề về những tuyên bố của thế gian, nhưng là về các tín hữu được đánh dấu bởi một thế giới thế tục, nơi Giáo hội vắng bóng, đau khổ bởi sự biến mất nhanh chóng trên một vùng lãnh thổ rộng lớn, cũng bị tai tiếng bởi các vụ ấu dâm va lạm dụng tình dục của các linh mục, những người sáng lập các cộng đoàn mới. Sự  tách biệt của giai cấp giáo sĩ, người nắm giữ độc quyền hành động và lời phụng vụ cũng như quyền lực trong các cộng đồng, đã trở nên không thể chịu đựng được đối với họ.

Sự u minh tăng lên

Chúng ta sẽ trả lời đây chỉ là một tiếng chuông gióng lên. Có tất cả những người không nói lên, và cũng có những người, đặc biệt là người trẻ tuổi, không chia sẻ những đòi hỏi này của những “thây ma công đồng” nhưng họ đòi hỏi một lệnh từ tên cao, thiêng liêng, những thánh lễ “truyền thống”, giờ chầu, những linh mục “tách ra” mà độc thân, sẽ là “một trong những bằng chứng về sự tồn tại của Chúa”! Quan điểm của những người công giáo bảo thủ trẻ tuổi này chắc chắn là thiểu số, ngoại trừ họ tham gia vào một bộ phận đáng kể của các giáo sĩ trẻ và những tín hữu vẫn còn giữ đạo, và sẵn sàng xem mình là tương lai của Giáo hội. Vì thế họ ngầm đặt ra câu hỏi về tương lai của Công đồng Vatican II, về sự thiếu hiểu biết ngày càng tăng về Công đồng và cuối cùng là việc lưu truyền ký ức của Công đồng.

Rõ ràng là sự truyền tải này đã bị la ó, thậm chí hỗn loạn. Một mặt, cái được gọi là “cuộc khủng hoảng hậu công đồng” với sự thái quá nào đó trong việc tranh giành quyền lực và sự ra đi của nhiều linh mục, tu sĩ và nữ tu, đã gây ra một phản ứng “thiêng liêng” mạnh mẽ như phản ứng của Canh tân Đặc sủng và các cộng đoàn mới, nhanh chóng được các giáo hoàng Phaolô VI và Gioan-Phaolô II chấp thuận.

Theo một hội nghị chuyên đề được tổ chức gần đây ở Đại học Louvain, những phong trào này xuất hiện như một món quà từ trên Trời xuống cứu Giáo hội… Thật khó để hình dung sự dấn thân của họ ngay từ đầu, trong những Ngày Thế Giới Trẻ đã không kéo theo các thế hệ “Gioan-Phaolô II và Bênêđictô XVI”, những người tỏ ra dè dặt trước những đối thủ của hai vị giáo hoàng này, trước khi “thế hệ số không” (sinh sau năm 2000) kết thúc bằng cách phớt lờ đi tất cả những gì công đồng đã làm trong những năm 1960.

Vụ nổ bung sớm hơn và tệ hơn

Nhưng những lý do bên ngoài cho sự bỏ quên này cũng có ý nghĩa quyết định. Trước hết, nếu năm 1962, nhà hàn lâm Mauriac gợi lên “sự gia tốc ân sủng” thì chúng ta cũng có thể nhớ lại sự gia tốc to lớn của những thay đổi xã hội trong hậu bán thế kỷ 20, sau tháng 5 năm 68, Công đồng Vatican II, được đưa vào tầm nhìn của một sự thay đổi hạnh phúc của thế giới, đã không thấy xảy ra. Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tiêu dùng, tầm quan trọng của thành tích cá nhân, sự trở lại của tôn giáo bất chấp chính trị, sự khẳng định thế tục, nhưng cũng như cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài từ những năm 1970, đều xa lạ với công đồng, các nghị phụ công đồng ít thấy khía cạnh hư vô của những phát triển này .

Giáo hội: một vụ nổ bung không thể tránh khỏi?

Trong những điều kiện này, những người chống đối Công đồng Vatican II tin rằng họ có thể khẳng định sự sụp đổ của đạo công giáo ở Pháp và ở châu Âu sẽ ít hơn nhiều nếu không có công đồng. Đây là một giả thuyết không thể tin được, và của người không dấn thân gì. Theo tôi, vì những lý do hiển nhiên, vụ nổ bung mà chúng ta đang chứng kiến ngày nay sẽ diễn ra sớm hơn nhiều, và tệ hơn, và xác quyết của tôi là ở Công đồng Vatican II không có gì là quá nhiều, mà quá ít.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: “Công đồng Vatican II xóa sổ các nhà thờ”: sáu thành kiến sai lầm về công đồng

“Công đồng Vatican II xóa sổ các nhà thờ”: sáu thành kiến sai lầm về công đồng

“Công đồng Vatican II xóa sổ các nhà thờ”: sáu thành kiến sai lầm về công đồng
Một loạt các thành kiến, truyền tải mà không có độ lùi cũng như không có cái nhìn khách quan về các quyết định của các nghị phụ công đồng. Nhà thờ hoang vắng? Phụng vụ lỏng lẻo? Chủ nghĩa tương đối với tôn giáo? Tuần phục theo hiện đại? Nó không đơn giản như vậy…
lavie.fr, Sixtine Chartier, 2022-10-06
Ngày 11 tháng 10 năm 1962, lễ khai mạc Công đồng Vatican II tại Đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma.  KEYSTONE-PHÁP
Một sự kiện lớn, Công đồng Vatican II nhanh chóng trở thành điểm tham chiếu để phân tích những biến đổi trong đạo công giáo đương đại. Tác dụng thực sự của công đồng là gì? Giữa các văn bản công đồng và sự tiếp nhận chúng trên địa bàn, báo La Vie cố gắng tách cái thật ra khỏi cái giả – thoát khỏi truyền thuyết, dù đen hay lóng lánh, để khôi phục lại sự thật lịch sử, 60 năm sau ngày khai mạc, vào thời đó được gọi là “công đồng của kỷ nguyên không gian”.
1. Các nhà thờ trống vắng
Ý tưởng đã có từ rất lâu trong tâm trí mọi người. Thum thủm với đa số người công giáo, điều này được những người theo chủ nghĩa truyền thống dựng lên: Công đồng đã dọn sạch các nhà thờ. Những người ủng hộ thuyết này, từ lâu họ đã từ chối toàn bộ, không buồn bỏ thì giờ để phân tích.
Năm 2018, sử gia Guillaume Cuchet đặt vấn đề bằng cách đặt  câu hỏi. Trong quyển sách Làm thế nào tất cả chúng ta không còn là thế giới kitô nữa. Giải phẫu về một sự sụp đổ (Comment notre monde a cessé d’être chrétien. Anatomie d’un effondrement, nxb. Seuil), ông dựa trên các cuộc điều tra thống kê của nhà giáo luật và nhà xã hội học Fernand Boulard (trong giai đoạn 1945-1965) rằng một “sự sụp đổ” tôn giáo (trên hết được minh họa là sự sụp đổ tàn bạo trong việc giữ đạo) đã xảy ra vào giữa những năm 1960, “ủng hộ Công đồng Vatican II”. Ngay trước tháng 5 năm 1968 và thông điệp Sự sống Con người Humanæ vitæ, lên án việc sử dụng thuốc tránh thai, đã khuếch đại thêm làn sóng này.
Khi Đức Gioan-Phaolô I bảo vệ viên thuốc ngừa thai…
Nếu không phải là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng thì Công đồng kích hoạt – một khác biệt tinh tế mượn khái niệm của các kinh tế gia. Sử gia Guillaume Cuchet giải thích với báo La Vie: “Công đồng được cho là phải hiện đại hóa Giáo hội để phù hợp với “thế giới hiện đại” và phục hưng Giáo hội về mặt mục vụ. Điều tối thiểu có thể nói là công đồng đã không ảnh hưởng đến lợi ích của hoạt động về số lượng.” Theo sử gia, phân tích định tính thường khó nắm bắt, luôn là giả định.
“Sự trớ trêu lịch sử” này đã được nhận thức khá sớm, kể cả ở Vatican, như câu nói của Đức Phaolô VI năm 1972, được tác giả Andrea Riccardi trích dẫn trong quyển sách Giáo hội cháy. Khủng hoảng và tương lai của kitô giáo (L’Église brûle. Crise et avenir du christianisme, nxb. Cerf): “Người ta nghĩ rằng sau Công đồng sẽ có một ngày nắng đẹp trong lịch sử Giáo hội. Nhưng thay vào đó là một ngày đầy mây, bão tố, bóng tối, tìm kiếm và bất định.”
Sự trùng hợp đáng tiếc hay hệ quả trực tiếp của Công đồng Vatican II? Khó để nói. Sử gia Guillaume Cuchet cho biết: “Các cuộc tranh cãi diễn ra tốt đẹp trong Giáo hội để cố gắng hiểu những gì làm trục trặc. Chúng ta có nên hiện đại hóa không? Có phải chúng ta đã làm sai? quá nhiều? Hay chưa làm đủ? Nói một cách nhanh chóng, cuộc khủng hoảng xuất phát từ sự trùng hợp (không thể lường trước được) giữa một cuộc cải cách tôn giáo sâu đậm (Công đồng và các phương pháp áp dụng của Pháp) và một đột biến xã hội không kém quan trọng (vấn đề di cư ở nông thôn, xã hội tiêu thụ, truyền hình, những thay đổi trong điều kiện sống của phụ nữ, trình độ học vấn nâng cao, v.v.), bắt đầu tạo ra tất cả các hiệu ứng văn hóa của nó cùng một lúc – sự kiện tháng 5 năm 68 đến đúng  lúc).”
Trên những điểm chính, nhà sử học nghiêng về “lối thoát khỏi việc giữ đạo bắt buộc, bị cho phạm tội trọng dưới thời công giáo cổ đại, như một sự kiện lớn đã nới lỏng toàn bộ hệ thống cùng một lúc” và do đó là việc giữ đạo bị sụp đổ, chứ không phải vì bất an của giáo dân trước cải cách phụng vụ, chắc chắn là có rủi ro cao, nhưng “đúng hơn là nên hoan nghênh”.
Bà Agnès Desmazières, sử gia làm việc tại Trung tâm Sèvres về kỷ luật của giáo sĩ trong thế kỷ 20, tin rằng chúng ta cũng phải đo lường bước ngoặt mà Thế chiến thứ hai đã tác động lên xã hội. Bà phân tích: “Đặc biệt ở Pháp, cuộc Kháng chiến đã tập hợp những người tin và những người không tin trong một số môi trường trí thức nào đó, và nó đặt vấn đề lương tâm. Những thay đổi xã hội quan trọng này cũng ảnh hưởng đến các linh mục và tu sĩ, tạo sự rời bỏ hàng ngũ của họ, điều này đã làm cho nhà chức trách giáo hội báo động ngay cả trước Công đồng Vatican II.” Hạt giống của một sự thay đổi xã hội sâu sắc sẽ tạo hiệu ứng ngay sau Công đồng.
2. Mọi thứ đều được phép trong phụng vụ
Cải cách phụng vụ là một trong những dấu hiệu ngoạn mục nhất của những thay đổi hoạt động do Công đồng Vatican II tạo ra trong Giáo hội công giáo, đến mức đôi khi nó được xem là alpha và omega của Công đồng. Và thường được tóm tắt trong hai khái niệm rõ rệt nhất: việc từ bỏ tiếng la-tinh để chuyển sang ngôn ngữ địa phương, và sự lật ngược tình thế của linh mục.
Trên thực tế, hai yếu tố này là phần nổi của tảng băng chìm, của một cải cách muốn tạo thêm chỗ cho “giáo dân”. Từ khóa của nó? “Sự tham gia tích cực” của giáo dân để họ “không dự mầu nhiệm đức tin này như người khán giả câm lặng, người đứng bên ngoài”.
Nếu chúng ta theo sát kỹ các thư của Công đồng, thì Hiến chế về Phụng vụ Thánh – văn bản đầu tiên do các Nghị phụ Công đồng ban hành năm 1963 – trên thực tế được cân nhắc nhiều hơn về những gì chúng ta hình dung về sự sáng tạo đã được thể hiện ở một số giáo xứ Pháp. Bà Agnès Desmazières cho biết: “Trên thực tế, văn bản này là một thỏa hiệp, duy trì ngôn ngữ la-tinh, nhưng cuộc cải cách, đã được bắt đầu ở Công đồng Vatican II, khuyến khích chúng tôi đi xa hơn trong việc dùng ngôn ngữ địa phương.”
Đức Phanxicô cảnh báo chống lại việc đi lui trong phụng vụ
Sẽ là sai lầm nếu tưởng tượng rằng nguyên tắc này đã được áp dụng trong phương thức của cuộc cách mạng Copernicus; một số thay đổi đã diễn ra trước đây. Linh mục David Gilbert của cộng đồng Thánh Máctinô và là giáo sư sử học tại Học viện Công giáo Paris cho biết: “Cải cách phụng vụ đã được đưa ra vào những năm 1950. Ở một số giáo xứ, thánh lễ đã được cử hành bằng tiếng Pháp, linh mục hướng về phía giáo dân. Điều này có thể giải thích vì sao đây là một trong những văn bản đầu tiên được bình chọn: ý tưởng của các nghị phụ đã khá rõ ràng.”
Tuy nhiên, khoảng thời gian chờ đợi giữa các quyết định của Công đồng, nhanh chóng được dịch ra dưới dạng các tập sách nhỏ tạm thời (từ năm 1964), và việc xuất bản chính thức sách lễ mới ở dạng chính thức (năm 1974) là hỗn loạn. Nhà sử học Florian Michel, chuyên gia về vấn đề này cho biết: “Đó là một cuộc chạy đua với thời gian để tránh quá nhiều sáng tạo hoặc áp dụng một cách vô trật tự với cải cách”. Vô ích: các tập sách không chính thức các lời nguyện Thánh Thể lưu hành và quảng bá “sự sáng tạo” nổi tiếng này mà một số người lên án là “quá đáng”. Tuy nhiên, rất khó để đo lường mức độ thực sự của một chuyển động.
3. Kỷ nguyên của thuyết tương đối tôn giáo
Việc công nhận nguyên tắc tự do tôn giáo qua Tuyên Ngôn Về Tự Do Tôn Giáo Dignitatis humanæ, ở cuối Công đồng, là một trong những phát triển giáo lý rộng lớn được Công đồng Vatican II cho phép. Việc canh tân liên tục, được các nghị phụ trình bày như một phát triển học thuyết của các giáo hoàng gần đây nhất: “Trong các vấn đề tôn giáo, không ai (bị) buộc phải làm trái với lương tâm của mình, cũng như, trong giới hạn vừa phải, không được ngăn cản hành động theo lương tâm của mình.”
Điều này bây giờ có ý nghĩa, nhưng sự phá vỡ là rất quan trọng: nó dường như đặt người tin và người không tin ngang hàng nhau, và trong tâm trí của người xưa thì đó là giữa sự thật và sai lầm. Người công giáo theo trào lưu chính thống dưới ngọn cờ của Marcel Lefebvre kêu lên: “Đó là thuyết tương đối!” Trên thực tế, chủ yếu là số phận của các Giáo hội bị đàn áp dưới chế độ Cộng sản – “Giáo hội im lặng” đã làm cho các nghị phụ công đồng, đặc biệt là Đức Phaolô VI bận tâm.
Mặt khác, với Hiến chế mục vụ về Hội Thánh Gaudium et Spes (văn bản về Giáo hội trong thế giới ngày nay), văn bản dành một mối quan hệ mới với con người, trong cuộc đối thoại với thế giới. Trong bối cảnh suy đồi văn hóa kitô giáo bắt đầu, Giáo hội hành động dựa trên việc khám phá ra phẩm giá của người không tin, người không còn buộc họ phải chọn không tin, nhưng là người nhận một giáo dục kitô giáo.”
Theo nghĩa này, sẽ sai nếu nói rằng Công đồng Vatican II từ bỏ ý tưởng truyền giáo. Ngược lại, các cuộc thảo luận ở Rôma và trên báo chí cho thấy mối quan tâm về một “Giáo hội truyền giáo” hướng về tất cả mọi người mà không phân biệt mức độ tín ngưỡng của họ – ít nhất đó là ý định.
Trên thực tế, việc cấy ghép với thế giới đã thực sự không xảy ra. Sử gia Guillaume Cuchet gợi ý: “Tự do tôn giáo đã tồn tại ở Pháp từ thế kỷ 19. Việc Công đồng ít nhiều tập hợp lại quan niệm mà những người “hiện đại” có về nó là một sự kiện trong học thuyết, nhưng không trong thực tế. Mọi thứ xảy ra như thể, để tạo ra một tác động tương xứng với tầm quan trọng lý thuyết của nó, văn bản đã được áp dụng ở nơi nó không được mong đợi, không phải bổ sung phần bên ngoài trong quan hệ với Nhà nước, nhưng phần bên trong, trong mối quan hệ của người tín hữu với bổn phận tôn giáo học thuyết đức tin của mình. Chúng ta đột nhiên cảm thấy ít nhiều mình được phép lọc loại, được “lắp ráp” một tôn giáo cho cá nhân mình…”
4. Sự từ bỏ cho những mục đích cuối cùng
Công đồng có làm cho “địa ngục thành trống rỗng” không? Sử gia Guillaume Cruchet nêu lên: “Công đồng Vatican II hầu như không nói về địa ngục, một cách chung chung, cũng như các cùng đích cuối cùng (cái chết, sự phán xét cụ thể, địa ngục, thiên đàng). Sự im lặng này, đến từ xa, tự áp đặt lên Công đồng. Năm 1966, các giám mục Pháp ghi nhận điều này trong thư trả lời cho hồng y Alfredo Ottaviani (thư ký của Văn phòng Tòa thánh trước đây) về những “sai sót” lan rộng trong Giáo hội kể từ Công đồng. Đó là một sự cắt đứt lớn trong nội dung được giảng dạy và đời sống đức tin, nhưng lời rao giảng về những mục đích cuối cùng này có lẽ đã phai mờ vì nó đã bị hủy hoại nghiêm trọng từ bên trong trước khi bị giáng lên ngọn đòn cuối cùng”.
Bà Agnès Desmazières nói: “Công đồng Vatican II chuyển Giáo hội từ khía cạnh cứu rỗi cá nhân sang chiều kích tập thể hơn. Tóm lại, ơn cứu độ không chỉ được xây dựng bằng cách đi dự Thánh lễ, nhưng bằng làm việc bác ái.”
5. Giáo hội hiện đại hóa
Trong một bài phát biểu làm mọi người ngạc nhiên ngày 25 tháng 1 năm 1959, Đức Gioan XXIII cho rằng, hơn cả “hiện đại hóa”, đó là khái niệm “cập nhật hóa” (aggiornamento), ngài dùng để xác định mục tiêu của Công đồng. Sử gia Guillaume Cuchet đề nghị: “Ngài có lợi thế để tránh nói về ‘cải cách’, điều này gợi nhớ đến Luther hay ‘hiện đại hóa’ nghe có vẻ quá thế tục. Chúng tôi cũng thấy các thuật ngữ ‘phát triển’ và ‘nguồn lực’ được dùng rất nhiều, trong bối cảnh liên tục với nguồn gốc, thân thiết với đạo công giáo.”
Nhưng tóm tắt, khi Công đồng thành một môi trường mênh mông hòa giải của Giáo hội với hiện đại sẽ là một bức tranh biếm họa. Sử gia Guillaume Cuchet gia giảm: “Trên thực tế, vào thế kỷ 19, Giáo hội đã đi qua thời gian của mình, đi từ những thỏa hiệp với hiện đại mà trong bất kỳ trường hợp nào, Giáo hội cũng không có ơn gọi ban phước một cách có hệ thống, cũng như không làm cho phần còn lại chán ngấy. Cần phải nghiên cứu vấn đề theo từng hồ sơ một”.
Ông giải thích: “Ở thế kỷ 19, Giáo hội chúc lành cho tiến bộ kỹ thuật nói chung, nhưng Giáo hội phải vất vả để phù hợp với nguyên tắc tự do lương tâm, nhưng không nhất thiết phải phù với thực tế của nó.” Tuy nhiên ông công nhận “Công đồng Vatican II thích ứng vào thời điểm, hiếm có trong lịch sử Giáo hội, khi công đồng cố gắng suy nghĩ một cách toàn cầu về sự hiện đại hóa của mình, và công đồng đã làm như vậy trong tinh thần cởi mở trái ngược với thái độ trước đây của Giáo hội.”
6. Chỗ đứng của giáo dân được định giá lại
Công đồng Vatican II dành hai bản văn chính cho giáo dân, có nghĩa là không dành cho linh mục hoặc nói rộng ra là các tu sĩ: Sắc lệnh Tông đồ giáo dân Apostolicam actuositatem, khuyến khích tạo các hội đồng mục vụ trong giáo xứ và giáo phận và Hiến chế mục vụ về Hội Thánh Gaudium et Spes. Sau này là một trong những bản văn tiêu biểu nhất của “tinh thần Công đồng” nổi tiếng, khởi đầu một mối quan hệ mới giữa Giáo hội và thế giới.
Đức Giám mục Erwin Kräutler: “Thượng hội đồng phải quyết định phong chức phó tế cho phụ nữ” 
Bà Agnès Desmazières cho biết: “Đó là văn bản mà giáo dân tham gia nhiều nhất, vì nó phải diễn đạt ngôn ngữ của thế giới. Một điểm lớn đầu tiên trong lịch sử các công đồng.” Mặt khác là việc thành lập phó tế vĩnh viễn cho nam giới, đã có những tác động tương phản. Nhà sử học lưu ý: “Dù chức phó tế chủ yếu dành cho các quốc gia truyền giáo cần các linh mục, nhưng lại ít được dùng trong các trường hợp này và được đánh giá quá cao ở châu Âu, với xu hướng ưu tiên hóa các ông đã lập gia đình”.
Còn về vai trò của phụ nữ, bà Agnès Desmazières ghi nhận: “Các nữ giáo dân được bổ nhiệm làm thành viên dự thính ở Công đồng đã có vai trò đáng kể trong việc soạn thảo các văn bản. Sự đóng góp của họ không may bị giảm sau thượng hội đồng giám mục năm 1971, vì dành quyền lực cho các nữ tu.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Bài đọc thêm: Công đồng Vatican II còn lại gì?
Giáo hội: một vụ nổ bung không thể tránh khỏi?

Giáo hội: một vụ nổ bung không thể tránh khỏi?

Giáo hội: một vụ nổ bung không thể tránh khỏi?
resnovae.fr, Don Pio Pace, 2022-10-01
Tiến tới một vụ nổ bung?: Đó là tựa đề (trong đó dấu chấm hỏi hoàn toàn mang tính hình thức) của quyển sách “Tiến tới một vụ nổ bung? Các trao đổi về hiện tại và tương lai của đạo công giáo” (Vers l’implosion? Entretiens sur le présent et l’avenir du catholicisme) giữa bà Danièle Hervieu-Léger, nhà xã hội học về tôn giáo, giám đốc nghiên cứu tại Trường Cao đẳng Nghiên cứu Xã hội (EHESS), và ông Jean-Louis Schlegel, nhà xã hội học tôn giáo, cựu giám đốc tạp chí Esprit.
Hai nhân vật đối thoại đã nói lên chẩn đoán được bà Danièle Hervieu-Léger đặt ra trong một thời gian dài, theo đó, sẽ có một sự “loại trừ văn hóa” công giáo: mối liên hệ giữa văn hóa công giáo và văn hóa chung sẽ không còn nữa. Lỗi của sự lỗi thời của công giáo: Giáo hội của Công đồng Vatican II sau khi mở các kẻ hở để đạo công giáo đến gần hơn với thế giới đương đại, và vì sợ hãi trước sự táo bạo của mình, đã dừng lại trên đường đi. Bà Danièle Hervieu-Léger và nhà xã hội học Jean-Louis Schlegel, những người bi quan, tin rằng những cải cách mà họ cho là cần thiết (tu sĩ lập gia đình, phụ nữ trong chức thánh, trong số các chuyện khác), đã không xảy ra và dù sao thì cũng quá trễ. Họ nói đạo công giáo sẽ không sống còn, một cuộc khủng hoảng nội bộ đã cho thấy ba trụ cột của đạo công giáo đã sụp đổ: độc quyền của sự thật, vùng lãnh thổ của các giáo xứ và vị trí trọng tâm của linh mục như một nhân vật thiêng liêng.
Theo họ, sự đứt gãy giữa hai đạo công giáo – mà bà Danièle Hervieu-Léger gọi là “dòng ly giáo” – là giữa hai nhóm giáo dân công giáo khác biệt, nhưng đang chuyển động. Lẽ ra thực tế là “đa dạng, rất nhiều, tan vỡ”. Đạo công giáo sẽ trải qua hiện tượng “đa phân hóa” nhưng không nằm trong lô-gích sống tản mác như người Do thái, Armenia, Liban, v.v., thành lập các cộng đồng nhỏ ở các vùng đất nước ngoài. Ở đây, các cộng đồng công giáo nhỏ bé đã trở thành các cộng đồng nhỏ tản mác tại chỗ, trên vùng đất có thể nói trở nên xa lạ dưới chân họ. Với nhiều căng thẳng nội tâm, họ sẽ tự quản lý mà qua đó, có thể là “cơ hội” – nhưng ở đây các dự đoán của các tác giả trở nên mơ hồ – trong chừng mực vì những cộng đồng “tản mác” này sẽ phải phát minh lại một truyền thống “cực kỳ sáng tạo”. Các nhà chức trách giám mục hài lòng với việc trở thành những người bảo đảm cho “mối dây hiệp thông”, có thể khá lỏng lẻo. Nói cách dễ hiểu, nếu chúng ta hiểu chính xác, vì động lực của Công đồng Vatican II, dù được Đức Phanxicô thúc đẩy (như chúng ta biết, ngài bị “Giáo triều” cản trở…) về mặt thể chế đã không thể đi đến cùng, và sẽ đi đến cùng nhờ sự sụp đổ đột ngột do những áp lực bên ngoài cũng như bên trong của đạo công giáo.
Ngoại trừ… Ngoại trừ cả hai chú ý rất nhiều đến sự lờ mờ “giữ gìn”, có thể nói như Yann Raison du Cleuziou trong quyển sách Ai là người công giáo ngày nay (Qui sont les cathos aujourd’hui, nxb. Desclée de Brouwer, 2014) ở một mức độ nào đó chống lại sự thế tục hóa bên trong của đạo công giáo. Họ đồng ý rằng sự tồn tại của “gia đình giữ đạo” buộc các nhà xã hội học thế hệ của họ phải điều chỉnh lại các phân tích của mình. Nhưng theo họ khía cạnh dễ thấy nhất của sự phản kháng việc giữ gìn này (và điều làm bực tức nhất cho những người bảo vệ sự tấn công của Traditionis custodes, Cử hành thánh lễ theo phụng vụ tiền Công đồng), như đó là “truyền thống hóa” liên tục việc tuyển chọn linh mục – giáo sĩ thuộc loại truyền thống hay Cộng đồng Thánh-Máctinô sẽ đại diện từ 20 đến 40% tu sĩ Pháp vào năm 2050 – hầu như không thay đổi bất cứ điều gì, bởi vì điều này đại diện cho một bẩm sinh  giáo sĩ rất nhỏ. Rất nhỏ, chúng tôi biết, nhưng một cách tương đối, vì đạo công giáo tự nó đã trở nên tê liệt trong xã hội, như các tác giả nhấn mạnh.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Bài đọc thêm: Công đồng Vatican II còn lại gì?
“Công đồng Vatican II xóa sổ các nhà thờ”: sáu thành kiến sai lầm về công đồng

Công đồng Vatican II còn lại gì?

Công đồng Vatican II còn lại gì?

lavie.fr, Marie-Lucile Kubacki và Pierre Jova, 2022-10-06

Sáu mươi năm sau, chúng ta còn nói gì về Công đồng Vatican không? Cuộc tranh luận nào còn sót lại về công trình khổng lồ của Giáo hội kéo dài ba năm, do Đức Gioan XXIII khởi xướng và được Đức Phaolô VI kết thúc? Báo La Vie đã tổ chức cuộc gặp giữa hai giáo dân công giáo thuộc các thế hệ khác nhau.

Bài phỏng vấn của bà Marie-Lucile Kubacki và ông Pierre Jova

Nhà xã hội học Jean-Louis Schlegel và bà Thérèse du Sartel trước các nhà báo chúng tôi. Hình Lucille Pelletin, báo La Vie

Nhà xã hội học Schlegel 19 tuổi khi Công đồng kết thúc năm 1965; bà Thérèse du Sartel ra đời 30 năm sau khi Công đồng Vatican II bắt đầu. Cả hai đều là giáo dân công giáo dấn thân trong lãnh vực xã hội. Jean-Louis Schlegel, cựu tu sĩ Dòng Tên, cựu giám đốc tạp chí Esprit, triết gia, biên tập viên, nhà xã hội học về tôn giáo, đã tranh luận “trực tiếp” khi ông mới vào Dòng Tên để được đào tạo.

Giữa nông cạn và chiều sâu, làm thế nào để đến với giáo dân ngày nay?

Bà Thérèse du Sartel cũng là triết gia, giáo sư trung học và là người đồng sáng lập quán cà phê Le Dorothy ở Paris (thế kỷ 20) do tín hữu kitô điều hành, Bà là con của Công đồng Vatican II, sinh ra trong Giáo hội hậu Công đồng. Hai người trả lời phỏng vấn báo La Vie về tình trạng hiện nay của Công đồng, không phải với tư cách đại diện tuyệt đối cho thế hệ của họ, nhưng với tư cách là chứng nhân.

Công đồng Vatican II là gì với ông?

Jean-Louis Schlegel: Hai từ đến với tôi một cách tự nhiên: giải phóng và xung đột. Tôi đậu tú tài năm 1964. Tôi 19 tuổi khi Công đồng kết thúc. Chúng tôi rất phấn khích mỗi lần có tài liệu mới công bố, không phải vì Giáo hội đang vào thời hiện đại nhưng vì nó làm cho mọi người quan tâm trở lại. Mỗi ngày, các báo trên thế giới đăng những gì đang xảy ra tại Rôma. Chúng tôi cảm thấy tự hào là người công giáo, tự hào một thể chế già 2000 năm đã có thể ngồi lại để xem xét các nguyên tắc cơ bản của nó. Nhưng, rất nhanh chóng, xung đột về cách giải thích đã nảy sinh.

Xung đột chính trong những năm 1965-66 là tranh giành quyền lực. Những người công giáo thiếu kiên nhẫn nhất bắt đầu lên tiếng và điều này được cảm nhận như một thách thức đối với thẩm quyền của Giáo hội, của các giám mục và của giáo hoàng, bầu khí trở nên đối đầu. Yếu tố khác là sự ra đi của các linh mục giáo phận, các tu sĩ nam nữ, nhưng cũng có các chủng sinh và nam nữ tu sĩ trẻ đang được đào tạo. Sự ra đi ồ ạt. Bản thân tôi khi vào Dòng Tên năm 1965, tôi trực tiếp cảm nhận điều này. Cuộc khủng hoảng trở nên trầm trọng hơn sau năm 1968, và tôi nhớ lúc đó có nhiều người trong chúng tôi đã tự hỏi vì sao họ ở lại.

“Các linh mục thường không vững, chúng ta cầu nguyện cho họ”

Gần ba phần tư thế hệ của tôi ra đi trong cay đắng – một số vì lý do tôn giáo, đôi khi vì chính trị, một số bực tức vì sao Giáo hội không cải cách đủ nhanh. Việc công bố thông điệp Sự sống Con người, Humanæ vitæ tháng 7 năm 1968 đã làm dấy lên sự khó chịu nơi nhiều người, họ vẫn còn háo hức trước sự kiện tháng Năm 68 – tôi liên hệ đến việc viên thuốc ngừa thai đã được bán từ tháng 12 năm 1967. Nhìn lại, tôi nghĩ, đây là dấu hiệu cho thấy lời hứa của Công đồng về vị trí của phụ nữ và giáo dân nói chung sẽ không được tuân giữ.

Therese du Sartel: Kinh nghiệm của tôi về Công đồng rõ ràng rất khác biệt! Công đồng Vatican II vẫn là một sự kiện không có trong đời sống đức tin của tôi trong một thời gian rất dài. Tôi chỉ đơn giản nghĩ chúng tôi đi từ thánh lễ bằng tiếng la-tinh sang tiếng bản ngữ. Tôi sinh ra trong gia đình công giáo, nhưng chúng tôi không nói nhiều về Công đồng. Tôi bắt đầu xem xét chủ đề này khi tôi quan tâm đến lịch sử Giáo hội trong thế kỷ 19 và 20.

Therese du Sartel. Lucille Pellerin, La Vie

Một ngày nọ, tôi tình cờ đọc bài diễn văn khai mạc Công đồng của Đức Gioan XXIII năm 1962, “Gaudetaries ecclesia”, và tôi xúc động bởi sức mạnh những nhận xét của ngài về các nhà tiên tri xấu. Tôi muốn trích dẫn ở đây vì ngài là thiên tài: “Chúng ta có vẻ cần phải bày tỏ sự bất đồng hoàn toàn của mình với những nhà tiên tri về sự diệt vong này, những người luôn thông báo về những thảm họa, như thể thế giới đã gần đến ngày tận thế. Trong diễn biến hiện tại, khi xã hội loài người dường như đang ở bước ngoặt, tốt hơn hết là nên nhận ra những thiết kế bí ẩn trong sự quan phòng của Chúa, qua sự kế tục của thời gian và lao động của con người, hầu hết thời gian chống lại mọi khó khăn, đạt được mục đích của họ và sắp xếp mọi thứ một cách khôn ngoan vì lợi ích của Giáo hội, ngay cả trong những sự kiện bất lợi.”

Sáu mươi năm sau, đối diện với sự tấn công của nhiều cuộc khủng hoảng, sự lạc quan này, niềm tin tưởng vào con người trước những thách thức của thời hiện đại trông có vẻ lỗi thời không?

Jean-Louis Schlegel: Vào thời điểm đó, Công đồng bị cáo buộc là đã quá lạc quan về xã hội và thế giới trong quá trình trở thành. Nhưng phải nhớ có những lý do để Công đồng làm như vậy! Ở châu Âu và Pháp sau chiến tranh, đã đến lúc phải tái thiết. Chữ “xây dựng” luôn hiện diện đến mức mà ý tưởng có một số thực tế đã được xây dựng có thể bị phá hủy đã bị lãng quên. Cần nhớ rằng vào năm 1960, tăng trưởng hàng năm là 8%! Đó là thời điểm của cuộc chinh phục không gian. Chúng tôi có ý tưởng, chúng tôi có thể biến đổi thế giới này trở nên tốt đẹp.

Nếu chúng ta có thể trách cứ người công giáo thời công đồng  – một nhóm rất đông không chỉ giới hạn ở người công giáo cánh tả – thì đó là vì chúng ta đã không nhìn thấy bước ngoặt vĩ đại của những năm 1970: sự thành lập chủ nghĩa cá nhân hàng loạt, nâng cao giá trị sự tự nhận thức, thành công và hạnh phúc, chiến thắng của chủ nghĩa tiêu dùng, đồng thời với cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng sâu sắc (cú sốc đầu đầu tiên xảy ra từ năm 1974). Chúng ta tập trung cái nhìn vào cuộc chiến chống lại sự bất bình đẳng, chúng ta tin tưởng rất nhiều, công nghệ sẽ giúp chúng ta xây dựng thế giới này tốt đẹp hơn mà chúng tôi không nhìn thấy mặt kia của đồng tiền.

Một dạng chủ nghĩa hư vô (sẽ phải được định nghĩa chính xác hơn) dần dần thiết lập sau năm 1970, với sự chiến thắng của “com’”, truyền thông tổng quát, chủ nghĩa tự do không bị kiềm chế và sự phát triển thế giới ảo. Xã hội của những năm 1950 và 1960, mà Công đồng mời chúng ta tham gia đối thoại, sau hai thế kỷ lên án, đã biến đổi với tốc độ chóng mặt.

Điều này có thể giải thích những khó khăn trong việc tiếp nhận Công đồng không?

Jean-Louis Schlegel. Có, vì Giáo hội công giáo bị sự tăng tốc của xã hội và thế giới thâu tóm. Vào những năm 1950, cha tôi, một nông dân khiêm tốn miền đông nước Pháp, vẫn còn cày ruộng bằng xe bò kéo. Mười năm sau, máy kéo đến cùng với tivi, tủ lạnh, dân chủ hóa giáo dục, các “chướng khí của tuổi trẻ” và các phong trào xã hội dù có sự phát triển!

Công đồng Vatican II đã định hình tầm nhìn thần học của Đức Phanxicô như thế nào

Cuối cùng, những năm 1970-1990 được đánh dấu bằng chủ nghĩa tiêu dùng hàng loạt, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa chủ quan, “sự chấm dứt các ý thức hệ” (chủ nghĩa Mác), “xã hội với các quyền” và… cuộc khủng hoảng kinh tế, với một xã hội và một thế giới hai tốc độ. Công đồng không bao giờ thành công trong việc “hạ cánh” vì sự thay đổi nhanh chóng trong nhiều lĩnh vực này.

Thérèse du Sartel. Tôi đồng ý với Jean-Louis về nhận định này… Nhưng để trả lời câu hỏi của quý vị về sự lạc quan của Công đồng, tôi nghĩ rằng chúng ta phải gia giảm: Công đồng không tiến bộ, theo nghĩa Công đồng nghĩ rằng tương lai nhất thiết phải tốt hơn! Theo tôi, không có gì sánh được với sự lạc quan của thời Khai sáng, khi người ta cho rằng con người sẽ trở nên tốt hơn nhờ khoa học và công nghệ.

Theo tôi, sự lạc quan của Công đồng dường như có tính cách siêu hình hơn, được củng cố bởi ý tưởng rằng thế giới là tốt đẹp, rằng nó được tạo ra bởi một Thiên Chúa yêu thương chúng ta và Chúa quan phòng đang hoạt động. Vì vậy, tôi nghĩ việc tổ chức Công đồng như một động lực để chúng ta mở rộng tầm mắt với những điều tốt đẹp đang tồn tại.

Quý vị có nghĩ thế hệ trẻ đã ý thức họ ở tình trạng thiểu số, điều này có thể giải thích sự cần thiết phải tập hợp lại giữa những người công giáo để có năng lượng, hay có thái độ “vận động hành lang” trong cuộc tranh luận công khai, để được lắng nghe, nơi thế hệ Công đồng vẫn còn nghĩ với phản xạ số đông không?

Jean-Louis Schlegel. Tôi không nghĩ như vậy. Người công giáo ở thế hệ của tôi có thể hoài cổ, nhưng họ hiểu Giáo hội đã trở thành thiểu số, và đó là lý do vì sao, đặc biệt họ lo ngại Giáo hội công giáo tự tạo cho mình một hình ảnh tốt đẹp, một hình ảnh hiện đại, khôn ngoan, điều độ, công lý và tự do. Họ thường lúng túng trước việc Giáo hội đưa ra những lập trường mà họ cho là phản động đối với một số đối tượng nào đó và im lặng đối với những đối tượng khác. Cuối cùng, có một thất vọng nơi người công giáo của thế hệ công đồng ở trọng tâm cánh tả hoặc ở cánh tả, những người có cảm giác rằng người công giáo luôn nghiêng về cánh hữu và không đủ khả năng chống lại sự bất bình đẳng.

Thérèse du Sartel. Chắc chắn có một khác biệt giữa thế hệ đa số có văn hóa và thế hệ mới. Tôi chỉ biết tình trạng thiểu số được nhấn mạnh. Tôi chưa bao giờ tự nói Giáo hội sẽ tốt và ở Pháp người công giáo có tầm quan trọng về mặt văn hóa. Tôi được nuôi dưỡng trong ý tưởng, sống đức tin của mình là điều tuyệt vời, nhưng không ai xung quanh tôi có được điều này và điều duy nhất tôi có thể làm là làm chứng. Tôi cảm thấy rất tích cực về điều này, vì nó cho phép chúng ta có một lời tiên tri, mà cá nhân tôi rất vui: chúng ta không có gì để áp đặt ai, chỉ có tin tốt mang lại, được thể hiện qua cách sống. Chúng ta không còn có thể đưa ra các bài học, chỉ có thể thu hút bằng đời sống thực tế.

Khác biệt lớn khác giữa thời hậu Công đồng và thời mà thế hệ của tôi đang sống, đó là sự xuống dốc rất nặng của các phong trào. Trước đó, khi 16 tuổi chúng ta vào Thanh sinh công, nó giúp chúng ta xây dựng đời sống đức tin theo mỗi giai đoạn. Canh tân đặc sủng mang hình thức phát triển liên thế hệ này, đề xuất một đời sống kitô cho bậc sống của người giáo dân. Bây giờ vẫn còn hướng đạo nhưng sau 23 năm, điều gì sẽ xảy ra với các phong trào hướng đạo? Lãnh vực nào họ sẽ dấn thân, nhất là trong lãnh vực chính trị? Canh tân đặc sủng không mang tính chính trị nhiều so với Thanh sinh công và đức tin được sống theo cách khá cá nhân.

Điều này kết hợp với một phong trào chung trong Giáo hội, được đánh dấu bằng sự thổi phồng đạo đức gia đình. Giáo hội nói những điều rất hay về chủ đề này, nhưng chúng ta không hiểu khi Giáo hội chỉ nói về điều này, tạo cảm giác để thể hiện mình, trước hết người công giáo phải bảo vệ các vấn đề đạo đức. Nhưng tôi xem đây là dấu hiệu của một sự thế tục hóa bị hiểu lầm, khi người ta có ấn tượng có một nền tảng trung lập, kinh tế và quản lý, nơi hiệu quả quản lý mọi thứ, và bạn phải đấu tranh với nền tảng gia đình. Điều cấp bách là giáo dân công giáo cần phải tái đầu tư toàn diện vào lãnh vực chính trị nói chung!

Chính xác, vì chúng ta đang nói về sự phân tán sức lực, nên Công đồng mời gọi chúng ta đối thoại nhiều hơn với thế giới. Ít nhất chúng ta cũng có khả năng nói chuyện với nhau không?

Jean-Louis Schlegel. Có một khó khăn thực sự trong việc tranh luận ngày nay, trong Giáo hội và phần còn lại của xã hội, bị cuốn vào lô-gích cảm tính của việc thờ ngẫu tượng hoặc phẫn nộ, với rất ít không gian để suy tư và sự đào tạo trí tuệ ngày càng thiếu hụt. Chúng ta sống trong một chế độ đa nguyên phi thường, được phản ánh ở cấp độ tôn giáo bằng sự phân tán các niềm tin. Sau Công đồng, Giáo hội nhấn mạnh vào ý tưởng “hiệp thông” nhưng rõ ràng chúng ta thấy nó “vỡ tung” đến mức nào, để nhắc đến tựa đề tác phẩm của linh mục Dòng Tên Michel de Certeau, Kitô giáo bùng nổ (Christianisme éclaté, nxb. Seuil) xuất bản năm 1973.

Chủ nghĩa giáo quyền là gì?

Tuy nhiên, chủ nghĩa đa nguyên, như chúng ta thấy trên tầm vóc xã hội, làm nổi bật sự cân bằng quyền lực, khó có thể tồn tại ngay cả khi nó làm phong phú thêm các mối quan hệ.  Thêm vào đó, còn có chủ nghĩa giáo quyền trong Giáo hội công giáo: có một chia rẽ lớn giữa hàng giáo sĩ và giáo dân, bị các “nghị phụ công đồng” cho đây là quyền lực thái quá và bất hợp pháp.

Thérèse du Sartel. Nhất là sự cô lập của các linh mục! Nếu chúng ta muốn thoát khỏi chủ nghĩa giáo quyền, chúng ta phải cùng nhau tiến lên. Điều góp phần vào việc giáo sĩ hóa, đó là  hình ảnh linh mục một mình trong nhà xứ, không ai dám tới nói chuyện. Cuộc sống huynh đệ đã hoán cải. Nhưng theo tôi, gốc rễ của chủ nghĩa giáo quyền cần được tìm kiếm ở khía cạnh phân tán, hoa trái của chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa cá nhân, vốn làm tổn hại đến nhiệm thể Chúa Kitô, phụng vụ, Giáo hội, vì nó đã làm cho các linh mục trở nên đơn độc và “xa nhau” một cách giả tạo. Sống tình huynh đệ thật không dễ dàng. Cha ông chúng ta đã có những phong trào, những hỗ trợ, những nơi sinh hoạt chung. Bây giờ, những nơi này ít hơn và thánh lễ là một bước quá cao cho nhiều người trẻ!

Quý vị có ấn tượng giới trẻ công giáo bảo thủ hơn trước không? Hay, giống như những người con của Đức Piô XII đã làm vào tháng 5 năm 68 và Công đồng Vatican II, những người bảo thủ ngày nay sẽ là những nhà cải cách của ngày mai?

Thérèse du Sartel. Tế nhị! (Cười.)

Jean-Louis Schlegel. Mọi người đều phát triển bằng cách tiếp xúc với thực tế của thế giới, và “người công giáo đồng nhất” mà chúng ta nói đến rất nhiều gần đây sẽ không phải là ngoại lệ… Ví dụ, cũng như chúng ta, họ sẽ và đang phải đương đầu với khó khăn chung trong việc truyền tải.

Jean-Louis Schlegel, Hình Lucille Pellerin, La Vie

Thérèse du Sartel. Đặc điểm của thời đại chúng ta là tiêu chuẩn hóa văn hóa: con người bị cắt đứt gốc rễ. Thế hệ của tôi là thế hệ cần những điểm quy chiếu trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Chúng ta tìm cách bám vào những thứ nào đó, một cố gắng vì bản chất của hiện đại là tái tạo lại bản sắc. Ngay từ thời Cách mạng Pháp, một mặt, các tác phẩm lãng mạn đã dựng lại một quá khứ được thần thoại hóa, dựa trên nền tảng kitô giáo thời Trung cổ, mặt khác, những người tiến bộ hứa hẹn cho chúng ta một tương lai tươi sáng. Như Marx đã nói, chính thực tiễn quyết định chúng ta. Nhưng, hiện tại, chúng ta tất cả đều có chung một thói quen: chúng ta lên Internet, đi siêu thị, đến trung tâm mua sắm, chúng ta mặc áo quần may sẵn giá rẻ.

Tất cả chúng ta đều muốn khác biệt về văn hóa, nhưng điều này sai. Nhìn chung, tất cả chúng ta đều là những cá nhân tiêu dùng đi mua bản sắc bằng cách xây dựng một phong cách riêng. Vấn đề là nếu chúng ta thực sự có khác biệt, chúng ta phải sống khác đi, vì văn hóa trưng bày chưa bao giờ là một khác biệt! Ở mọi thời, có những thời trang với nền tảng là các vấn đề được xã hội công nhận. Thanh niên công giáo có bảo thủ và “truyền thống” hơn không?

Tôi nghĩ họ cũng như nhiều người khác, họ rơi vào cái bẫy của một lối sống nào đó, nơi, để phân biệt mình người khác, bạn phải thể hiện nhãn “công giáo” từ quần áo đến hình xăm… Và còn có nỗi sợ về một thế giới mất phương hướng. Chúng ta sẽ trải qua sự tụt dốc, điều mà cá nhân tôi rất vui,  vì tôi thấy trong đó khả năng khám phá lại ý nghĩa của Phúc âm qua sự nghèo khó của Phúc âm. Nhưng, trong các gia đình ở Âu châu, đó là căng thẳng. Vì vậy, lô-gích là khi mọi người bám vào căn tính.

Trong nghĩa này, quý vị nghĩ gì về cảm nhận được chia sẻ của một phần giới trẻ trong “cuộc chiến văn hóa” sẽ được tiến hành?

Thérèse du Sartel. Tôi chán với cuộc chiến văn hóa, vì tôi thấy nó không thú vị lắm, theo nghĩa nó vẫn còn trên bề mặt của mọi thứ. Điều quan trọng là sống theo Phúc âm, thành lập các cộng đoàn tích cực nơi chúng ta trải nghiệm tình huynh đệ, cầu nguyện và với Chúa Giêsu. Điều này chắc chắn sẽ thúc đẩy việc gặp gỡ người khác nhau và để mình bị chất vấn. Hiện tượng cơ bản, là khi bản sắc bị đe dọa, nhiều người, chứ không riêng gì người công giáo sẽ thêm vào đó. Có nhiều người “truyền thống” hơn không? Tôi không biết. Và nếu chỉ là lớp văn hóa đánh bóng thì nó sẽ không tồn tại lâu. Những câu hỏi cơ bản là: làm thế nào để chúng ta truyền đi một đức tin nhiệt thành, và ngày nay, theo Chúa Giêsu Kitô có nghĩa là gì?

Jean-Louis Schlegel. Những câu hỏi của bà tương tự như những câu hỏi mà chúng tôi đã tự hỏi trong các nhóm của chúng tôi vào những năm 1990. Chúng tôi tự hỏi: đâu là sự khác biệt của kitô giáo? Và cuối cùng chúng tôi tự nhủ: tất nhiên, đó là đức tin vào Chúa Kitô, đó là người công giáo đi lễ. Đúng, nhưng còn gì nữa? Đây không phải là điều làm chứng từ của họ thành độc đáo, bất ngờ, nghịch lý, trong mắt người khác, anh ở đâu giữa những người không tin. Điều chắc chắn là, trong một xu hướng căn tính nào đó, người ta chú trọng nhiều hơn đến các điểm đánh dấu: người công giáo nên như thế này, chứ không phải thế kia!

Thế hệ hiện nay không trải qua nhu cầu truyền giáo cháy bỏng hơn sao?

Jean-Louis Schlegel. Trong thế hệ của tôi, sự chỉ trích Giáo hội đã trở nên khá toàn cầu trên nhiều chủ đề, đặc biệt về quá khứ truyền giáo của Giáo hội. Chính chữ “truyền giáo” đã trở nên tiêu cực, và tôi phải công nhận, tôi không thích nó lắm, mặc dù nó đã được nhiều giáo hoàng phục hồi, đến tận thời Đức Phanxicô.

Chúng ta thấy cái gì ở đó? Chúng tôi có ấn tượng một số người vẫn còn hình ảnh nhà truyền giáo vung cây thánh giá của thế kỷ 16 trong đầu… Mô hình truyền bá Phúc âm, rất có tính cách truyền giáo của tin lành có thể là mô hình tương lai không? Khi chúng ta nhìn thấy tương lai chính trị ở một số nước họ có mặt, chúng ta bị nghi ngờ nghiêm trọng… điều đó không có nghĩa là họ vô hiệu, đặc biệt khi họ chống lại các chính sách chuyên chế.

Thérèse du Sartel. Ngày nay, các thanh niên công giáo trẻ đang phải đối diện với tình trạng khẩn cấp. Chỉ cần đến các nhà thờ sáng chúa nhật là hiểu. Chỉ có 2% người đi lễ ở Pháp. Trong 15 năm nữa, ai sẽ ở lại? Tình trạng thiểu số này buộc chúng ta phải tự đặt câu hỏi: tại sao chúng ta ở đây? Điều này không giảm đi vấn đề chỉ trích truyền giáo, nó vẫn thích đáng.

Gần đây, chúng tôi tổ chức một cuộc tranh luận ở trung tâm Dorothy về “Phi thực dân hóa kitô giáo”. Một linh mục người Togo đã cho chúng tôi cái nhìn tổng thể về mối liên hệ giữa các nhà truyền giáo và Nhà nước vào thế kỷ 19 trong bối cảnh thuộc địa hóa. Thế hệ chúng ta có nhiệm vụ thực sự phải biết những thực tại này và lịch sử của Giáo Hội. Tuy nhiên, tình trạng thiểu số của chúng ta làm chúng ta trở thành người bảo vệ để những điều này không xảy ra nữa.

Dĩ nhiên, có những người đến đó cách trực diện. Bản thân tôi đã rao giảng Phúc âm ngoài đường phố và cách tiếp cận này rất thú vị, theo nghĩa là nó không hề thoải mái: các cuộc gặp buộc chúng tôi phải làm việc! Thuật ngữ nói với tôi, khi chúng ta nói về thế hệ mới, là “rõ ràng”. Khi bạn bước chân vào trung tâm Dorothy, có một bức tượng nhỏ và chỉ có thế. Có người quan tâm, họ đặt câu hỏi, có người không. Nhưng điều này quan trọng với chúng tôi, vì phải rõ ràng về sự thật, đức tin kitô là nguồn gốc hành động của chúng ta.

Lựa chọn Dorothy Day làm người đỡ đầu: đó là bà đã thành công trong tất cả những gì bà làm mà không sợ hãi, bà bênh vực ngư dân đình công, đấu tranh thành lập hợp tác xã để bảo vệ người lao động bị bóc lột và đấu tranh cho quyền của phụ nữ, tất cả vì bà làm nhân danh Phúc âm. Cuộc khủng hoảng mà chúng ta đang trải qua là cơ hội để Giáo hội trở thành ngôn sứ thêm một lần nữa!

Jean-Louis Schlegel. Tôi hoài nghi khi nghe cụm từ “Giáo hội ngôn sứ”… Với tôi, dường như nó vẫn là một cái gì viển vông với những người dùng nó. Không phải vì nó không là lời ngôn sứ, nhưng nó không còn là gì và cũng không lợi ích gì.

Thérèse du Sartel. Tôi nghĩ chính xác vì nó không còn là gì nên nó mới có thể là tiên tri.

Quý vị đặt điều gì đằng sau chữ tiên tri này?

Jean-Louis Schlegel. Thường thì nó được dùng để buộc tội những người thuộc thế hệ tôi muốn có một Giáo hội khác. Nhưng điều chúng ta muốn không phải là một Giáo hội khác, mà là một Giáo hội khác tốt hơn, công bằng hơn trong các thể chế của mình, làm chứng bằng gương thể chế của Chúa Kitô mà Giáo hội nói đến.

Thérèse du Sartel. Có lẽ đó là sự khác biệt giữa chúng tôi. Tôi nghĩ mọi việc phải làm, không nhất thiết chờ thể chế có sáng kiến. Từ khi còn nhỏ, tôi đã cảm thấy tổ chức Giáo hội mong manh, không có nhiều nguồn lực, và nó trông giống như một tòa nhà không có người hướng dẫn, nơi bạn phải tự mình đẩy cửa vào. Dorothy bắt đầu từ một nhóm những người trẻ muốn bắt đầu một cái gì đó.

Sau đó, chúng tôi đến gõ cửa giáo phận để xin họ nâng đỡ chúng tôi, những gì họ làm là cho chúng tôi mượn căn phòng và hỗ trợ tài chính cho chúng tôi. Kinh nghiệm của tôi là chúng ta là Giáo hội. Một Giáo hội tiên tri là một Giáo hội đề xuất một điều gì đó khác, một cách triệt để, nghĩa là một cách sống và cách tiêu thụ khác. Giáo hội mời gọi chúng tôi không phải “dấn thân vào công việc xã hội”, vài giờ một tuần, nhưng hãy đặt các Mối Phúc làm trọng tâm dấn thân của chúng ta trong thế giới.

Quý vị có tiếc thế hệ mới ít quan tâm hơn thế hệ của quý vị về vấn đề cải tổ Giáo hội không?

Jean-Louis Schlegel. Có, tôi rất tiếc vì Giáo hội không quan tâm nhiều hơn đến một Giáo hội khác. Cuộc khủng hoảng của hàng giáo phẩm là quan trọng, chỗ đứng của phụ nữ là vấn đề  thiết yếu, vấn đề quyền lực không phải là thứ yếu, nhưng chúng tôi có cảm nghĩ các chủ đề này bị để mặc nó cho các “nghị phụ công đồng lớn tuổi”, những người chuẩn bị Thượng hội đồng bằng cách chỉ nói đến chuyện này… Các thế hệ công giáo trẻ, những người vẫn còn quên quá nhiều dù họ thừa hưởng một thể chế Giáo hội có nhiều khía cạnh dễ chịu và các khía cạnh hòa nhã có từ… Công đồng Vatican II. Tôi nghĩ  một ngày nào đó, chắc chắn họ sẽ phải đối diện với những vấn đề và những thất vọng mà những người lớn tuổi của họ phải trải qua.

Thérèse du Sartel. Mối quan tâm của tôi là: trong 15 năm nữa, liệu có còn các tín hữu kitô để cùng nhau cầu nguyện không? Những câu hỏi ông nêu ra thật thú vị, nhưng quan tâm của tôi, là khi trả lời những câu hỏi này, liệu chúng ta có làm cho giáo dân muốn được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa không. Tôi nghĩ, tùy theo hoàn cảnh, chúng ta sẽ trải nghiệm một Giáo hội mà tính cách thể chế ít hiện diện hơn, vì sẽ có ít giáo dân và ít linh mục hơn, và giáo dân sẽ chủ trì đời sống cầu nguyện nhiều hơn.

Công đồng đã làm nhúc nhích các đường lối trong vấn đề đại kết và liên tôn giáo. Tuy nhiên, trong 60 năm, mọi thứ đã tiến triển: Công đồng Vatican II đã nói về người hồi giáo, bây giờ ở Pháp chúng ta biết đạo hồi; những người đối thoại tin lành của Công đồng là người Luther, ngày nay chúng ta biết những người theo phái Tin lành và những người theo phái Ngũ tuần.

Jean-Louis Schlegel. Khi còn nhỏ, cách làng tôi hai cây số là làng Luther, và chúng tôi không được đến các phòng nhảy vì sợ nảy sinh tình yêu giữa những người trẻ thuộc các cộng đồng khác nhau. Tại nhà xuất bản Seuil, với tư cách là biên tập viên tôn giáo chịu trách nhiệm về bộ sách Các điểm khôn ngoan, cuộc gặp gỡ giữa các tôn giáo, là một trong những dịp may của đời tôi. Thành thật mà nói, tôi có ấn tượng, giữa những người công giáo và tin lành, chúng ta không còn nhìn thấy vấn đề đại kết nữa. Nhiều người không còn hiểu vì sao các tín hữu kitô vẫn bị chia cắt.

Đức Phanxicô họp Hội đồng hồng y để nói về tính đồng nghị

Khi tôi đến Cévennes hoặc những nơi khác, nếu có một ngôi đền và không có nhà thờ nào trong những khu vực gần đó, tôi thường tham dự phụng vụ cải cách như một tín hữu kitô. Ngoại trừ những nhà thần học trên cao, những lời từ chối của Giáo hội công giáo đã trở nên khó hiểu. Hai năm trước, người Đức đã công bố một văn bản tuyệt vời về việc chia sẻ bàn tiệc Thánh Thể, nhưng một lần nữa họ lại thất bại ở Rôma! Đây cũng là một trong những lý do căn bản cho sự tức giận của họ…

Các hình thức đại kết khác được sống qua ảnh hưởng của nhau. Tôi rất ngạc nhiên (nhưng cũng không hoàn toàn ngạc nhiên) về số lượng các buổi chữa bệnh từ của hội truyền giáo Ngũ tuần đã làm cho người công giáo! Điều buồn cười là Công đồng đã làm cho điều này được thực hiện.

Thérèse du Sartel. Đại kết thực sự không phải là chủ đề của tôi. Người tin lành từ lâu đã thuộc nhóm thiểu số, và họ có nhiều điều để dạy chúng ta về ý nghĩa của cộng đồng. Sự hiểu biết của họ về Kinh thánh cũng thường rất ấn tượng. Tuy nhiên, người công giáo chúng ta, có lẽ chưa đi đủ xa về chủ đề này, trong khi nó là một trong những đường lối chính của Công đồng!

Còn đối thoại liên tôn giáo thì sao?

Jean-Louis Schlegel. Chúng ta vẫn bị kẹt vì hồ sơ khó khăn về bạo lực của các tôn giáo, về “các bệnh lý tôn giáo”, như Đức Bênêđíctô XVI đã nói. Nhưng điều giết người nhiều nhất ngày nay là sự hiểu lầm hoặc thiếu hiểu biết, việc làm cho lời người khác thành trống rỗng hoặc không hiểu họ. Điều này làm cho việc thảo luận không thể thực hiện được.

Thérèse du Sartel. Đối thoại giữa các tôn giáo là điều cần thiết, vì một trong những mối quan tâm của nước Pháp thế tục hóa là chúng ta không biết cách nói về tôn giáo. Hoặc chúng ta nói về một “hiện tượng” bằng cách dùng con bù nhìn để cực đoan hóa, với ý tưởng chúng ta cần một không gian công cộng trung lập và một tôn giáo riêng. Thế hệ của chúng ta sẽ không có một tôn giáo riêng! Đối với tôi, dường như hiển nhiên là phải làm thần học, bởi vì các hiện tượng tôn giáo có nguồn gốc thần học, và chúng ta sẽ không thoát khỏi nó nếu chúng ta dùng thì giờ để xem thần học như điều cấm kỵ.

Hồng y Grech: “Nếu chúng ta không tin Chúa Thánh Thần thổi sức thì thượng hội đồng sẽ thất bại”

Tranh luận về một hiện tượng tôn giáo hoặc mô tả nó tự thân không có ý nghĩa. Điều thú vị là tranh luận và tìm hiểu nhân danh cái nhìn tôn giáo nào mà con người hành động như vậy và theo cách như vậy: cái nhìn của họ về Chúa là gì? Với người hồi giáo, chúng ta dao động giữa hai chứng loạn thần kinh: “Chủ nghĩa cánh tả hồi giáo”, “chúng tôi không biết bạn là ai nhưng chúng tôi yêu bạn” và chứng sợ hồi giáo islamophobia, nỗi lo của một hồi giáo cực đoan. Hai lựa chọn này không mang lại bất kỳ cách tốt đẹp nào, vì chúng tương ứng với những căng thẳng tình cảm. Chúng ta phải đi sâu hơn.

Tôi là giáo sư triết và tôi nghĩ chúng ta phải làm thần học vì lý do chính trị! Hiểu các quan niệm thần học là cơ sở của tất cả các khái niệm chính trị mà chúng ta sử dụng, ngừng sợ hãi tôn giáo, vui mừng vì con người đã không bị chủ nghĩa duy vật giết chết. Chúng ta có một nhiệm vụ thiêng liêng, và như thế lại càng tốt, nhưng nó phải được phân tích và giải mã.

Jean-Louis Schlegel và Danièle Hervieu-Léger, Tiến tới một vụ nổ bung? Trao đổi về hiện tại và tương lai của đạo công giáo, nxb. Seuil.

 

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Giáo hội: một vụ nổ bung không thể tránh khỏi?

“Công đồng Vatican II xóa sổ các nhà thờ”: sáu thành kiến sai lầm về công đồng

Sự tấn công của hàng giám mục Đức ở Vatican

Sự tấn công của hàng giám mục Đức ở Vatican

Hồng y Reinhard Marx với các thành viên của Ủy ban Trung ương Công giáo Đức, phó chủ tịch Karin Kortmann và chủ tịch Thomas Sternberg. [Ảnh của Julia Steinbrecht, KNA]

la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, 2022-10-08

Tuần vừa qua, một cuộc tấn công kín đáo nhưng rất hiện thực đã xảy ra ở Vatican. Vài tuần trước chuyến đi ad limina của tất cả các giám mục Đức, trong những ngày gần đây, các nhà lãnh đạo công giáo Đức đã có nhiều cuộc gặp với các hồng y Giáo triều, và với chính Đức Phanxicô. Thách thức: để giảm căng thẳng, sôi nổi, giữa Giáo triều và các giám mục Đức, đang dấn thân vào con đường đồng nghị mà nhiều người ở Vatican đồng hóa với khởi đầu của một cuộc ly giáo.

Chúng tôi thấy ba giám chức cao nhất của Giáo hội công giáo Đức, giám mục Georg Bätzing, chủ tịch Hội đồng Giám mục, giám mục phó chủ tịch Franz-Josef Bode và bà Beate Gilles, tổng thư ký Tòa Giám mục Đức đi ở Quảng trường Thánh Phêrô và các khu vực xung quanh, cũng như thấy họ đi từ bộ này đến bộ kia ở Giáo triều.

Cuộc gặp của họ với hồng y Kurt Koch là cuộc gặp duy nhất dẫn đến một tuyên bố có tiếng vang, vì những lời xin lỗi trong đó. Trước đó vài ngày, hồng y Thụy Sĩ Koch đã phác thảo có một song song giữa phương pháp suy tư của con đường thượng hội đồng Giáo hội Đức và lý thuyết của một nhóm Tin lành Đức Quốc xã. Các giám mục Đức đã rất đau lòng về việc này.

“Con đường thượng hội đồng Đức”: bị mắc kẹt…

Nhưng những ngày này cũng có hai buổi gặp với giáo hoàng. Cuối buổi tiếp kiến thứ tư hàng tuần ngày 5 tháng 10, Đức Phanxicô đã gặp hồng y Rainer Maria Woelki, tổng giám mục Cologne và ngày hôm sau ngài tiếp hồng y Reinhard Marx, người đứng đầu giáo phận Munich và là điều phối viên của Hội đồng kinh tế.

Cuối cùng, ngày thứ ba, đại sứ quán Đức tại Tòa thánh đã mời bà Charlotte Kreuter-Kirchhof, phó điều phối viên của Hội đồng Kinh tế Vatican, đặc biệt bà là thành viên tích cực của con đường thượng hội đồng Đức, để giải thích cho các linh mục và nhà ngoại giao có mặt biết người công giáo của đất nước bà chắc chắn không có ý định tách khỏi Rôma.

Vì thế nhiều cuộc họp là dấu hiệu quyết tâm của Giáo hội công giáo Đức muốn thuyết phục Tòa thánh về lợi ích của cách tiếp cận của họ. Thêm nữa họ cố gắng xoa dịu những bất đồng và ấn tượng ngày càng tăng ở Rôma, rằng Vatican và Giáo hội Đức là hai đại lục đang không ngừng xa nhau.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Vấn đề của Con đường thượng hội đồng Đức

“Người áo trắng ở đó”: khi giáo hoàng ra dấu

“Người áo trắng ở đó”: khi giáo hoàng ra dấu

Đức Phanxicô cầu nguyện ở Quảng trường Thánh Phêrô ngày thứ sáu 27 tháng 3-2020

lavie.fr, Marie-Lucile Kubacki, Rôma, 2022-10-07

Tin tức Vatican dưới con mắt của phóng viên chúng tôi tại Rôma. Khi các tình huống khủng hoảng kích động nhu cầu cần ra dấu, giáo hoàng vẫn là một ngọn hải đăng, qua sự hiện diện, qua hành vi có lẽ còn hơn cả những bài phát biểu của ngài.

Hiện nay các rạp chiếu phim ở Ý đang chiếu một viên ngọc điện ảnh nhỏ mang tên Siccità (Hạn hán) của đạo diễn Paolo Virzi. Câu chuyện xảy ra ở một Rôma đối diện với làn sóng hạn hán chưa từng có, làm khô cạn sông Tiber, buộc người dân phải nghiêm ngặt hạn chế dùng nước và có một cơn dịch kỳ lạ về giấc ngủ. Bộ phim với những điểm nhấn mạnh đến sách khải huyền đáp ứng tiếng vang đặc biệt nơi người dân Ý bị đợt nóng mùa hè kéo dài vài tuần nay giáng xuống, giống như nhiều thành phố khác của lưu vực Địa Trung Hải, ai cũng như thấy có một cơn ác mộng trước mắt.

Như trong bất kỳ cuộc khủng hoảng nào, một dạng khoảnh khắc của sự thật xảy đến cho tất cả mọi người. Người nghiện mạng xã hội rất vui khi thấy lời khuyên về cuộc sống của mình được hàng ngàn người theo dõi, nhưng lại không thấy sự khó chịu của vợ con khi thấy anh thích khoa môi múa mép trực tuyến với người theo dõi mình, trong khi chính vợ con mới là người đối thoại duy nhất ở nhà. Người thất nghiệp cháy túi nổi giận khi thấy nhà báo chỉ để ý đến tình trạng của ông mà không màng đến thân phận của người di cư trẻ châu Phi. Một nhà khoa học buồn tẻ thành con cưng của giới truyền thông và được một ngôi sao điện ảnh o bế. Và, giữa những chuyện điên cuồng đủ loại này, giáo hoàng đi vào Quảng trường Thánh Phêrô.

Lời nhắc nhở về cuộc khủng hoảng sức khỏe

Cảnh người đàn ông mặc áo trắng, rất thành công về mặt thẩm mỹ, lặp lại những hình ảnh rất thực của Đức Phanxicô trong thời kỳ khủng hoảng sức khỏe. Giáo hoàng, người hành hương duy nhất trên con đường huyết mạch thương mại hoang vắng của Rôma, khấn xin Đức Trinh Nữ Maria, như ngày xưa Đức Piô XII cầu xin trong các vụ bỏ bom của Thế chiến thứ hai, và Chúa Kitô, dưới chân thánh giá nổi tiếng “nhiệm mầu” ở San Marcellino năm thế kỷ trước trên các đường phố của thủ đô để xin kết thúc bệnh dịch kinh hoàng năm 1522.

Trong cuộc khủng hoảng sức khỏe, khi các cuộc tụ tập bị cấm ở những nơi thờ phượng, giáo hoàng là nhà lãnh đạo thế giới duy nhất đã “ra dấu” bằng cơ thể của mình, cô độc nhưng đứng vững trên đường phố (trong khi cả thế giới bị cách ly), cúi xuống dưới chân Thánh Giá ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, dưới cơn mưa tầm tã, mang ký ức của các vị tiền nhiệm theo mình.

“Lá Thư”: khi quan tâm của giáo hoàng về môi trường thành bộ phim ăn khách

Với hai hệ quả. Nếu cơ thể và cử chỉ của giáo hoàng vẫn còn ra dấu, thì đó là toàn thể Giáo hội với ngài, có thể một lần nữa trở thành cột mốc và là nơi ẩn náu trong cơn bão. Nhưng còn các cơ quan trung gian thì sao? Đó là câu hỏi được nhà sử học Andrea Riccardi đặt ra trong quyển sách Giáo hội cháy, L’Église brûle do nhà xuất bản Le Cerf phát hành gần đây, đặc biệt ông nêu lên lời kêu gọi các giáo hội tại gia tái sinh, qua lời cầu nguyện của gia đình, đã quên những người ở một mình ( 44,6% dân số Rôma, 51% dân số Paris). Và  nhiều giám mục đã thấy mình không có tiếng nói trước các tiêu chuẩn sức khỏe, dù đã cố gắng thảo luận với các cơ quan công quyền.

Trong bối cảnh này, người sáng lập cộng đồng Sant’Egidio viết, giáo hoàng không chỉ đóng vai trò là “người cầu xin vĩ đại” mà ngài còn đổi mới cách diễn giải về các thảm họa, chuyển từ nội dung mà ngày xưa bị cho là do “thần thánh trừng phạt” sang thái độ biểu lộ sự gần gũi của Chúa trong thử thách. Tác giả Ricardi viết: “Chúa không gởi sự dữ đến; ngược lại Chúa gần gũi và giúp chúng ta sống với sự dữ và vượt qua sự dữ.”

Trong những lúc khắc nghiệt, đôi khi chính sách ngoại giao của Vatican gặp khó khăn khi đối diện với một hình thức bất lực trước sự leo thang chiến tranh, khi nhiều lời tuyên bố của giáo hoàng để lại cảm giác hơi bất an khi nhìn con thuyền chèo xa hoặc khi có một chút nghịch tai (vì nói, khi điều cốt yếu phải giữ bí mật, luôn là một việc làm nguy hiểm, nhưng cũng có thể lặp lại lời của hồng y ngoại trưởng Pietro Parolin, vì “tiếng nói của giáo hoàng là tiếng kêu trong sa mạc” và đó là điều nhiều người đã nghe khi ngài kêu gọi ngừng bắn vào ngày chúa nhật 2 tháng 10, sự hiện diện của người áo trắng như một mắt xích trong chuỗi liên kết không đứt đoạn, và những cử chỉ thực hiện cách âm thầm vẫn là một dấu hiệu. Trục của đồng hồ vẫn đứng vững dù các kim quay cuồng nhiệt.

Bởi vì sự hiện diện trong màu trắng, trong những thời điểm khủng hoảng hiện thực hóa lời của Chúa Giêsu, “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, bằng cách làm cho lời đó đi vào lịch sử loài người. Huống chi con người thời nay sống trong thế giới của hình ảnh.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Ngoại giao của Đức Phanxicô ở Ukraine là ngoại giao linh động

Hàng ngàn người Nga đi hành hương để chống lại sự khủng khiếp của chiến tranh

Hàng ngàn người Nga đi hành hương để chống lại sự khủng khiếp của chiến tranh

Sergiev-Posad Lavra vẫn là nơi hành hương quan trọng của người Nga | flickr Roderick Eime CC-BY-SA-2.0

cath.ch, Maurice Page, 2022-10-09

Mùa hè ở Nga cho thấy một hiện tượng đáng kể – các chuyến hành hương dài ngày đến các đền thờ gia tăng đáng kể. Hãng tin Asianews cho biết, các chuyến hành hương đã gia tăng đáng kể trong thời đại dịch, nhưng gần đây còn gia tăng vì các  vụ gây hấn chống Ukraine. Nhiều người Nga tìm an ủi nơi các biểu tượng thánh, nơi các thánh, họ tìm phép lành của các tu sĩ, các “vị thần bí” ở những đền thánh xa xuôi.

Việc không thể đi du lịch nước ngoài vào các kỳ nghỉ đã làm tăng du lịch trong nước tại các khu vực di tích lịch sử dân sự và giáo hội, và các đền thánh là nơi được nhiều người tìm đến nhất.

Trong những tháng mùa hè, có ít nhất 20 chuyến hành hương đông người của giáo dân chính thống giáo và chung quanh họ là cộng đồng giáo dân và những người tìm an ủi và ý nghĩa trong những sự kiện bi thảm đang xảy ra.

2.200 cây số từ Saint-Petersburg đến Ekatarinburg

Cuộc hành hương lớn nhất và trang trọng nhất là cuộc hành hương từ Saint Petersburg đến Yekaterinburg, được gọi là “Con đường của người Romanovs” (Romanovsky Khod), họ đi bộ 2.200 cây số trong ba tháng rưỡi theo dòng người không ngừng nghỉ giữa tháng 5 và tháng 7 tại địa điểm tử đạo của Sa hoàng Nicholas II (strastoterpets, người chịu thương khó) và các thành viên của gia đình hoàng gia. Giáo dân tập trung tại khu rừng Ural này cho đến khi tuyết rơi vào mùa thu, và chính nơi đây họ tuân theo quy tắc cô lập và hẻo lánh.

Sergiev-Posad Lavra

Kết thúc chính thức của mùa hành hương là lễ Thánh Sergius thành Radonežngày 8 tháng 10, tại Sergiev-Posad Lavra, cách Matxcova 70 cây số. Đó là “Vatican của Nga”, nơi kỷ niệm phục hưng tu viện của thế kỷ 15 với chiến thắng người Tatars và kỷ nguyên của biểu tượng vĩ đại người Nga Andrei Rublev và những giáo dân khác của Thánh Sergius.

Hành hương đích thực theo truyền thống cổ đại của Nga là sự tham gia rộng rãi nhất có thể của người dân, và ngay cả vào thời Liên Xô, người dân vẫn tụ tập bất chấp lệnh cấm chính thức, khi các cuộc hành hương bị xem là biểu tình bất hợp pháp.

Một trong những hành hương “của những người vác thánh giá, krestokhodtsy” năm nay là ở vùng Velikorektsij từ Kirov, dọc theo sông Vjatka, một nhánh lớn của sông Volga, đến nơi có biểu tượng kỳ diệu của Thánh Nicholas, được tìm thấy ở làng Velikoretskoe. Các lễ kỷ niệm trọng thể vào ngày 8 tháng 6 đã quy tụ khoảng 25.000 người, giáo dân đi hành hương cả tuần và cho đến tháng 10, họ thay nhau cầu nguyện với các thánh được người dân Nga yêu mến nhất.

Con đường cần thiết của đau khổ

Một trong những hành hương bổ ích nhất được gọi là Irinarkhovskij Khod ở vùng Jaroslavl, đó là quy tắc vàng về ý nghĩa “Con đường cần thiết của đau khổ, khi trải qua khó khăn và thử thách trong cuộc sống, vì lợi ích cho tâm hồn”. Nhiều người hành hương nói họ tham dự chương trình này vì lòng trắc ẩn với những người đau khổ vì chiến tranh, những người bị thương, những người yêu nước, những người bị động viên và gia đình của họ, những người không biết cách nào để tìm bình an tâm hồn.

Cuộc hành hương kết tụ cảm nhận tinh thần đấu tranh kitô giáo, trong đó có cuộc hành hương của đội binh thiên quốc và  sự sỉ nhục của những người sám hối: trong cả hai trường hợp, nó được xem là con đường duy nhất có thể để cứu chuộc.

Nhiều người hành hương mang “verigi”, loại ủng bằng kim loại đi đau chân của Thánh Irinarkh vào đầu thế kỷ 17, làm nhớ lại áo giáp của những người lính trong bùn. Họ cố gắng kiêng hút thuốc và uống rượu. Họ lắng nghe lời thúc đẩy của các tu sĩ thánh thiện, những người khuyên họ chỉ tin cậy vào Thiên Chúa, chứ không phải trong kế hoạch của loài người: “Chính Ngài là Đấng dẫn chúng ta đến mục tiêu đích thực của cuộc hành hương trên đường đời”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Bài đọc thêm: Chiến tranh Nga-Ukraine: điều tệ nhất sẽ đến

Tiến trình các chuyến tông du của giáo hoàng bây giờ như thế nào

Tiến trình các chuyến tông du của giáo hoàng bây giờ như thế nào

Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Ả rập ở Bahrain

lanuovabq.it, Stefano Chiappalone, 2022-10-08

Chuyến tông du của Đức Phanxicô đến Bahrain vừa được công bố, như thể lặp lại việc ngài làm gần đây ở Kazakhstan. Trọng tâm là đối thoại và chung sống, ngài đảm nhận vai trò diễn giả tại các hội nghị, như thế có nguy cơ ngài truyền đi (ngoài ý muốn) một sứ điệp có tính tương đối hơn là sứ điệp tông đồ.

Hai chuyến đi cách nhau vài tháng có cùng chủ đề chung: đối thoại. Tháng 9, Đức Phanxicô đến Kazakhstan để khai mạc “Đại hội VII những người đứng đầu các tôn giáo truyền thống và thế giới.” Ngày thứ năm 6 tháng 10, chương trình chuyến tông du Bahrain từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 11 đã được công bố, ngài đến dự “Hội thảo Bahrain dành cho đối thoại: phương Tây phương Đông cho sự chung sống của con người”. Chủ đề và sự kiện chính của hai cuộc hành trình đánh dấu một số khác biệt so với các chuyến tông du bình thường như tên gọi của chúng – các chuyến tông du có mục đích chính xác là tông đồ: dù đi đâu, giáo hoàng cũng hoàn thành sứ mệnh của mình. “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15) và  nhiệm vụ cụ thể của người kế vị thánh Phêrô là “làm cho anh em của mình nên vững mạnh” (Lc 22, 32).

Bây giờ với các chuyến bay của thời hiện đại, nhiệm vụ này còn dễ dàng hơn, ngày càng có nhiều giáo hoàng lên máy bay, bắt đầu với Đức Phaolô VI, ngài đi Đất Thánh năm 1964. Đức Phaolô VI không có nhiều thì giờ nhưng người kế vị như chúng ta biết, là người du hành không mệt mỏi, chắc chắn ngài được lợi điểm vì tuổi còn khá trẻ, ngài mới 58 khi được bầu lên ngai Thánh Phêrô. Trong những năm đầu tiên triều giáo hoàng, giáo hoàng “bay” đã làm nhiều người ngạc nhiên, có người đặt cho ngài biệt danh “Gioan-Phaolô bên ngoài các bức tường”. Dù được bầu ở tuổi đã cao nhưng Đức Bênêđíctô XVI và Đức Phanxicô cũng bay! Thêm nữa, ngoài việc đến thăm các quốc gia kitô giáo hay không kitô giáo, các ngài còn phải đến các quốc hội và trụ sở các tổ chức (Liên Hiệp Quốc hay Nghị viện Châu Âu), giáo hoàng đến đó… với tư cách là giáo hoàng! Hơi bất thường khi ngài đến một hội nghị với tư cách là diễn giả, dù ngài là diễn giả chính.

Nhưng một số chuyến tông du gần đây của Đức Phanxicô dường như có một vai trò khác, với những mục tiêu khác nhau. Như ở thành phố Assisi ngày 24 tháng 9 ngài đến sự kiện Kinh tế Phanxicô (chúng tôi không biết đó là tên của Thánh Phanxicô Assisi hay tên của Đức Phanxicô, hoặc cả hai), tập trung vào việc đọc và ký kết Hiệp ước Kinh tế dành cho giới trẻ, truyền cảm hứng từ Thông điệp Chúc tụng Chúa Laudato Si’ với những từ khóa thông thường như công ăn việc làm xứng đáng, cuộc chiến chống ô nhiễm, không có văn hóa lãng phí, v.v. Một chuyến đi bất thường với một giáo hoàng, vì chủ đề kinh tế là chủ đề chủ đạo duy nhất. Chương trình hoàn toàn không có giây phút cầu nguyện.

Các chuyến đi Kazakhstan và Bahrain rõ ràng có chủ đích của “chương trình nghị sự” Abu Dhabi. Trong cả hai trường hợp, tài liệu tham khảo là “tình huynh đệ giữa con người vì hòa bình và chung sống” được Đức Phanxicô và Viện Imam ký năm 2019. Giám mục Paul Hinder nguyên Đại diện Tông Tòa Nam Ả Rập cho biết: “Chuyến đi của Đức Phanxicô đến Bahrain là tiếp nối con đường đã bắt đầu ở Abu Dhabi.” Tuy nhiên, một tài liệu không phải là không gây tranh cãi, đặc biệt là đoạn viết về sự đa dạng của các tôn giáo, kết quả của một “thánh ý khôn ngoan”.

Trong ba ngày ở Bahrain, ba sự kiện sẽ được dành riêng cho cộng đồng công giáo nhỏ bé: thánh lễ sáng thứ bảy (5 tháng 11 không phải là thánh lễ trọng thể, giáo hoàng sẽ cử hành trong riêng tư), cuộc gặp với các bạn trẻ vào buổi chiều và một buổi cầu nguyện, gặp các giám mục, chủng sinh và các thừa tác viên ngày chúa nhật. Tối thứ sáu là buổi cầu nguyện đại kết ở nhà thờ chính tòa. Vì thế “Diễn đàn Đối thoại” sẽ là trọng tâm chuyến tông du, như chương trình cho thấy với các cuộc họp với các nhà chức trách chính trị và Viện Imam.

Trong trường hợp này, có vẻ như thiểu số công giáo sẽ đứng bên lề các sự kiện trọng tâm của đại hội và các cuộc họp khác nhau “ngoài công giáo”. Chắc chắn, sai lầm của “chuyến thăm hai lần” đến Caserta vào tháng 7 năm 2014 sẽ không lặp lại, ban đầu chuyến đi lên kế hoạch để có một cuộc gặp “riêng” với mục sư tin lành Giovanni Traettino và cộng đồng của ông, sau đó phát hiện ra ở Caserta cũng có… người công giáo! Họ không hiểu vì sao giáo hoàng đến thành phố của họ mà không thăm họ, vì vậy chỉ trong vài ngày, ngài phải đến đó hai lần, ngày thứ bảy 26 và thứ hai 28, để thăm hai tôn giáo, tôn giáo bạn của ngài và tôn giáo chính ngài là người đứng đầu.

Các chuyến đi tiếp theo của Đức Phanxicô tùy thuộc vào sức khỏe của ngài

Có một khía cạnh cuối cùng giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của những chuyến đi này (những chuyến gần đây và những chuyến đã lên kế hoạch). Bắt nguồn từ tình trạng của ngài, nhưng nhất là do đi đứng khó khăn, ngài đã dần dần “làm nhẹ”: ngài bỏ chuyến đi Congo và Nam Soudan vào tháng bảy, cả ở Đền thờ Thánh Phêrô, ngài cũng không cử hành trọn vẹn thánh lễ, ngài chỉ ngồi dự. Vì thế dù gặp khó khăn đi đứng, việc ngài duy trì các chuyến đi này cho thấy tầm ưu tiên của nó: và dù có những phức tạp và rủi ro trong các loại sự kiện này, chắc chắn là ngoài ý muốn, nhưng có một chuyện đáng kể: về cơ bản, tôn giáo này cũng tốt như tôn giáo khác.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Vì sao Đức Phanxicô muốn đến thăm Bahrain, nước quân chủ hồi giáo

Những người bạn của linh mục François de Foucauld thành lập hiệp hội chống lạm dụng trong cách đối xử

Những người bạn của linh mục François de Foucauld thành lập hiệp hội chống lạm dụng trong cách đối xử

Hình minh họa

la-croix.com, Benoỵt Fauchet, 2022-10-05

Ba tháng sau vụ linh mục François de Foucauld tự tử ở giáo phận Versailles, các bạn của linh mục đã thành lập hiệp hội mang tên Avec, Với các nạn nhân của Giáo hội công giao (Avec les victimes en l’Église catholique). Hiệp hội quan tâm vừa cách đối xử lạm dụng vừa quyền lực mà các tu sĩ và giáo dân có thể phải gánh chịu trong thể chế.

Tiếng kêu của linh mục François de Foucauld

Ngày thứ ba 4 tháng 10, nhà sản xuất phim Nicolas Jourdier thông báo trước 1.600 thành viên của nhóm Facebook “Thánh Micae Thánh Phanxicô” về việc thành lập một tổ chức mới, ba tháng sau vụ linh mục François de Foucauld, thuộc giáo phận Versailles tự tử, vài ngày trước sinh nhật 50 tuổi của cha đã tạo một làn sóng cảm xúc sâu đậm: “Chúng ta cần một chút thời gian trước ngày khai giảng năm học vô cùng bận rộn này, nhưng cuối cùng thì chúng ta họp nhau ở đây, hiệp hội đã được khai sinh ngày hôm qua.”

Ý tưởng về cấu trúc này được đưa ra trong một cuộc họp ở Paris, ngày 13 tháng 7, năm ngày sau tang lễ của linh mục François. Ông Nicolas Jourdier nhấn mạnh: “Mục tiêu thực sự của chúng tôi là hành động vì Giáo hội. Đó là cách chúng tôi làm để tìm ra ý tưởng, trong hy vọng thảm kịch này không xảy ra nữa.”

Vụ cha François de Foucauld tự tử: “Có quá nhiều linh mục bất hạnh trong Giáo hội”

Hiệp hội Với các nạn nhân của Giáo hội công giáo, do ông Nicolas Jourdier chủ trì có mục đích “lắng nghe, đồng hành, hỗ trợ và giúp đỡ bất kỳ ai là nạn nhân của việc lạm dụng quyền lực và hành vi không đúng trong Giáo hội công giáo”. Nhưng cũng để “tìm hiểu và phân tích cơ chế” của các vụ lạm dụng này, sau đó suy nghĩ về các hành động cần phải thực hiện để phòng ngừa và ngăn chặn. Linh mục François de Foucauld đã gặp khó khăn đáng kể trong chức vụ, mâu thuẫn với hệ thống phẩm trật giáo phận, bị giáo dân tố cáo quấy rối. Cấp trên của linh mục bị một số người cho là đối xử tàn bạo cũng là đối tượng bị chỉ trích.

Văn phòng của hiệp hội có bà Laleh Joncheray, chuyên gia đào tạo và kiểm tra, linh mục James Cunningham, linh mục của Oratoire được huy động về các vấn đề đau khổ tại sở làm. Một hội đồng quản trị đang được thành lập gồm bác sĩ tâm thần, tâm lý gia, chuyên gia luật (giáo luật và xã hội), chuyên gia thông tin…

“Vì lợi ích cao hơn cho Giáo hội”

Không có chuyện các nhà sáng lập thành lập Hiệp hội để thanh toán vấn đề với tổ chức giáo hội. Ông Nicolas Jourdier lặp lại với báo La Croix: “Chúng tôi muốn hành động ‘với’ và vì lợi ích lớn hơn cho Giáo hội”. Ưu tiên là lắng nghe mọi người, dù họ là linh mục, nam nữ tu sĩ hay giáo dân, chúng tôi đã nhận “nhiều lời chứng” gởi đến trang của hiệp hội Saintfrancoissaintmichel@gmail.com.

Nếu Hiệp hội vẫn còn thận trọng ở giai đoạn này (‘chúng tôi đang trong giai đoạn tìm hiểu các hiện tượng’), người có tránh nhiệm điều phối đang xem xét việc thiết lập một “trung tâm nguồn lực” để hướng dẫn các nạn nhân hoặc nhân chứng của hành vi lạm dụng “đến đúng người liên hệ”. Và trong tương lai, chúng tôi sẽ thành lập một cơ quan hòa giải, nơi trao đổi nhằm giải quyết các tình huống xung đột trong hàng ngũ giáo hội.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Khủng hoảng quyền lực trong Giáo hội: sức mạnh và bất ngờ đi đến

Lạm dụng thiêng liêng: “Lạm dụng lòng tin của nạn nhân vào Chúa để bắt họ làm nô lệ là điều quá kinh hoàng”

Lạm dụng thiêng liêng: “Lạm dụng lòng tin của nạn nhân vào Chúa để bắt họ làm nô lệ là điều quá kinh hoàng”

la-croix.com, nhà phân tâm học Marie Balmary, 2022-10-07

Một năm sau khi bản báo cáo của Ủy ban Ciase được công bố, bà Marie Balmary, nhà phân tích tâm lý, thành viên Ủy ban độc lập về nạn nhân bị giới tu sĩ nam nữ lạm dụng tình dục, giải thích việc nạn nhân khó có thể lên tiếng để “nói dữ” kẻ tấn công khi họ bị lạm dụng thiêng liêng.

Phân tích các câu hỏi của các tín hữu tại giáo phận Bondy, ngày 22 tháng 10 năm 2021 sau khi báo cáo Sauvé được công bố. Michael Bunel, La Croix.

Giai đoạn chăm sóc đầu tiên rõ ràng là tiếp nhận và lắng nghe nạn nhân. Lắng nghe… Nhưng tận sâu trong lòng, nạn nhân cảm nhận liệu họ có thực sự được lắng nghe hay không. Lắng nghe là thái độ không lừa dối. Hay nói đúng hơn, lắng nghe không phải là một thái độ đơn giản, nó là trạng thái của tâm trí, trạng thái của tiếp nhận. Giá trị tiếp nhận này phụ thuộc vào quyền tự do phát biểu của nạn nhân và mức độ trí nhớ mà họ có thể có được và nói lại cho người đang nghe mình.

Ủy ban Ciase: “Vì sao có sự cự lại trong việc nhận biết cái xấu xa trong Giáo hội?”

Việc lắng nghe của chúng ta không phải là giai đoạn nhận thức được những tổn thương dồn nén. Đó là liệu pháp tâm lý. Công việc của chúng tôi tại ủy ban, trước hết là giúp nạn nhân ý thức về những gì họ đã sống, điều mà họ không thể nói để câu chuyện của họ được người có trách nhiệm công nhận, mà kẻ tấn công họ lại chính là thành viên – và bởi cộng đồng của chính họ nếu họ vẫn còn ở trong cộng đồng.

Sự quan tâm lớn nhất của chúng tôi

Câu chuyện về cái ác phải chịu đựng đòi hỏi chúng ta phải hết lòng chú ý. Điều cần thiết là một ngày nào đó nó phải được nói lên với những từ ngữ chính xác, để phản ánh bạo lực nạn nhân đã phải chịu đựng. Thường là những từ ngữ rất khó nghe. Tuy nhiên, chúng ta phải làm sao để phải nói thẳng “một con mèo là một con mèo”, theo như cách chúng ta vẫn thường nói. Những từ ngữ chính xác của lạm dụng tình dục là những lời sống sượng, những lời nói về cơ thể, mà chúng ta khó nói giữa những người có giáo dục.

Không phải dễ cho nạn nhân, dù họ trẻ hay lớn tuổi để kể lại những gì kẻ tấn công đã làm hại họ. Các từ này không có trong vốn từ vựng của họ – việc thiếu từ vựng để nói là một phần của tổn thương: nạn nhân thiếu từ để kể câu chuyện trong các sự kiện. Vì vậy, những gì họ sống họ không thể nói ra cho người khác, cũng như cho chính họ. Những từ chính xác, nếu họ biết sẽ làm cho họ nhục nhã, cảm thấy dơ miệng họ sẽ không nói ra.

Tin các nạn nhân

Quan tâm có nghĩa là cung cấp cho nạn nhân sự lắng nghe tích cực này, lắng nghe vừa giúp họ dám nói ra, nâng đỡ để họ nói, để được người khác lắng nghe khi họ nói. Không phán xét. Điều mà hầu hết nạn nhân nói với chúng tôi là họ đã cố gắng nói. Thường thường họ nói với người thân cận, một bề trên, một linh mục. Nhưng ngay khi họ kể một ít về những gì đã xảy ra, họ cảm thấy mình không được tin tưởng.

Đó cũng là giai đoạn lắng nghe của chúng tôi, khi lời kể của những khoảnh khắc, của những người không được lắng nghe. Và với họ, nói chuyện với một người không lắng nghe còn tệ hơn là không được lắng nghe chút nào. Và mọi người đều nói, đôi khi còn tệ hơn chính sự tấn công. Đặc biệt là vì nếu chúng ta không tin họ – và tôi thêm vào động từ “tin” một khía cạnh quan tâm khác – sự tố cáo tội ác của họ sẽ chống lại họ như lời buộc tội – làm sao họ dám tố cáo một người như vậy, thường là người được ngưỡng mộ, thậm chí còn được cho là thánh?

Một phẫn nộ

Vì thế việc chăm sóc nạn nhân là phải tin họ. Đây là sự phục hồi cần thiết thứ hai: sau khi được lắng nghe, họ phải được tin.  Quan trọng hơn hết là vì, thường thường, nạn nhân dù đã thấy rõ ràng những tác động tàn phá họ trong cuộc sống, những gì họ phải chịu đựng, họ cũng có thể nghi ngờ những gì họ đã trải qua (đặc biệt là khi họ bị lạm dụng khi còn rất nhỏ).

Lạm dụng tình dục trên trẻ vị thành niên, một đại lục bị lãng quên

Sau việc được tin tưởng sẽ bước qua một giai đoạn quan tâm khác: người lắng nghe chia sẻ sự phẫn nộ với họ. Trong khi đó, cho đến bây giờ, người nghe vẫn nói với họ: “Chuyện không quá nghiêm trọng” hoặc “Bạn có thể nhìn mọi chuyện theo một cách khác”. Sự phẫn nộ của chúng ta không nói lên điều gì hơn điều này: những gì kẻ tấn công đã làm với nạn nhân làm họ bị tổn thương là sai. Dứt khoát là sai. Và tôi tin điều rất quan trọng là người nghe phải chắc chắn rằng những cử chỉ, lời nói của kẻ gây hấn là sai.

Sau đó bắt đầu một giai đoạn chăm sóc khác. Nạn nhân, bây giờ chắc chắn họ đã thực sự bị kẻ tấn công làm một cái gì đó nghiêm trọng, lần này họ tự hỏi bản thân: nhưng tại sao tôi lại không từ chối, không chạy trốn, thậm chí không phản kháng? Chúng ta có thể phản ứng gì với sự sụp đổ của lòng tự tin này?

Sự lạm dụng thiêng liêng là quá kinh hoàng

Tôi nghĩ chúng ta cần có kiến thức về tác hại của sự đồi trụy. Kẻ tấn công đã làm điều gì đó làm cho họ đi ra khỏi cương vị của họ, họ không còn là người đàn ông trước mặt một con người nữa, họ là… – nạn nhân không biết kẻ tấn công lúc đó là con người nào, nhưng nạn nhân họ biết, họ không còn là gì nữa, họ là một thứ đồ vật. Nạn nhân bị điếng người theo nghĩa đen (điếng người là bị một lực rất mạnh đột ngột tiêu diệt).

Sau đó, sẽ hữu ích khi nhận thức được các trường hợp khác, để biết được sự sững sờ trước sự đồi bại của một người có chức quyền là như thế nào. Điều hữu ích là cho nạn nhân biết, sự cự lại là không thể trong tình huống này, rằng trẻ em hoặc người dễ bị tổn thương “mất phương tiện”, như chúng ta thường nói. Thậm chí “đầu hàng cơ thể mình” cho kẻ tấn công như các trẻ em thường hay kể lại.

Tai tiếng của lạm dụng thiêng liêng

Theo tôi, việc chăm sóc các nạn nhân trong giới tu sĩ nam nữ cũng là để dần dần thích nghi với việc lắng nghe những gì mà các vụ lạm dụng thiêng liêng là nguồn gốc của những tội ác đặc biệt kinh hoàng này. Đó không phải là lạm dụng vũ lực trên cơ thể, hay thậm chí chỉ là lạm dụng cương vị thống trị, nhưng là lợi dụng lòng tin của nạn nhân vào Chúa để họ làm nô lệ cho mình.

Tìm cầu cứu ở ai

Điều này có thể gần với loạn luân nhưng đồng thời nó khác ở một điểm thiết yếu. Chẳng hạn, đối với nạn nhân loạn luân của người cha, đó chỉ là cha ruột của mình. Không phải tất cả các người cha. Nhưng trong lạm dụng thiêng liêng, trong các văn hóa đơn thần của chúng ta, đó là mối quan hệ với Chúa, nghĩa là với người giáo dân, đó là quan hệ với Chúa Cha, Đấng toàn năng tối cao, không có Đấng khác. Nếu kẻ săn mồi (nam hoặc nữ) làm cho nạn nhân tin rằng họ nắm giữ lời Chúa, họ biết ý Chúa, chương trình hoặch định của Chúa Thánh Thần trên họ, thì họ cầu cứu vào ai để xin giúp đỡ?

Trong Giáo hội, lạm dụng luôn là lạm dụng thiêng liêng

Cuối cùng, chăm sóc nạn nhân không chỉ duy nhất xem họ là nạn nhân, nhưng mở rộng lắng nghe. Họ không phải là nạn nhân, khi họ đến gặp chúng tôi, như báo cáo Ciase nhấn mạnh, tiến trình của họ đến với chúng tôi cho thấy sự thay đổi nơi họ: Họ không còn chịu đựng điều ác nữa, họ nói lên điều ác. Họ đi từ nạn nhân qua chứng nhân. Bây giờ họ chủ động khi đối diện với cái ác.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Giám mục Đức Peter Kohlgraf: “Giáo hội phải xem lại quyền lực của các giám mục”

Bài mới nhất