Home Blog Page 416

“Nếu Chúa đến thế gian hôm nay”

“Nếu Chúa đến thế gian hôm nay”

cath.ch, I. Media, 2022-10-16

Nếu Chúa Giêsu trở lại trái đất, ngài sẽ thấy “những người luôn chạy, những người không bao giờ dừng lại”, Đức Phanxicô lấy làm buồn trong giờ Kinh Truyền Tin ngày chúa nhật 16 tháng 10 tại Quảng trường Thánh Phêrô | © Vatican Media

Quảng trường Thánh Phêrô trong giờ Kinh Truyền Tin chúa nhật 16 tháng 10-2022

Nếu Chúa Giêsu trở lại trái đất hôm nay, Ngài sẽ thấy  “những người luôn chạy, những người không bao giờ dừng lại.” Trong bài suy niệm, Đức Phanxicô mời chúng ta mỗi ngày dành thì giờ cầu nguyện, gởi thông điệp yêu thương đến cho những người chúng ta yêu thương.

Suy gẫm về Tin Mừng hôm nay, Đức Phanxicô mời giáo dân hình dung Chúa đến thế gian hôm nay: “Thật không may, Ngài sẽ thấy có rất nhiều chiến tranh, cảnh đói nghèo và bất bình đẳng nhưng Ngài cũng thấy các  thành tựu kỹ thuật vĩ đại, các phương tiện hiện đại”. Nhưng, liệu Chúa có tìm thấy những người dành thì giờ và tình cảm cho Ngài, những người đặt Ngài ở vị trí hàng đầu trong cuộc sống của họ không? Ngài sẽ tìm thấy gì ở tôi, trong cuộc đời tôi, trong trái tim tôi?”

Phương thuốc để khơi lại đức tin sốt sắng

Đức Phanxicô kêu gọi người công giáo suy nghĩ về các ưu tiên của mình. Ngài cảnh báo chống lại cám dỗ tập trung vào “quá nhiều điều khẩn cấp nhưng không cần thiết, quá nhiều thực tại thứ yếu”, bỏ qua “điều quan trọng nhất”, đó là “tình yêu của chúng ta với Chúa”.

Ngài nói, phương thuốc để khơi lại đức tin sốt sắng là cầu nguyện. Nhưng điều này phải được thực hiện một cách nhất quán và thường xuyên, vì chúng ta không thể chỉ trải qua những giây phút sốt sắng, hoặc những cuộc gặp sâu đậm, rồi sau đó đi vào giấc ngủ đông.

Lời cầu nguyện ngắn

Vì thế ngài khuyên khi dành thì giờ cho Chúa mỗi ngày, chúng ta nên cầu nguyện ngắn với lời cầu nguyện  ngắn, dễ nhớ, lặp đi lặp lại trong ngày để kết hiệp với Chúa. Ngay khi thức dậy, chúng ta nói: “Lạy Chúa, con tạ ơn và con xin dâng ngày hôm nay cho Chúa.” Sau đó, trước mỗi hành động, chúng ta lặp lại: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến”; và trong ngày, chúng ta đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tin cậy nơi Chúa và con yêu thương Chúa.”

Theo Đức Phanxicô, những lời cầu nguyện ngắn này như tin nhắn chúng ta gởi đến người chúng ta yêu thương. Và câu trả lời của Chúa thường được tìm thấy trong Tin Mừng, ngài khuyên chúng ta nên luôn có  trong tầm tay.

Đức Phanxicô khuyến khích trẻ em cầu nguyện cho hòa bình

Cũng trong giờ Kinh Truyền Tin, Đức Phanxicô khuyến khích sáng kiến “Một triệu trẻ em lần chuỗi Mân Côi cầu nguyện cho hòa bình thế giới” do tổ chức Giúp đỡ các Giáo hội gặp Khó khăn phát động ngày 18 tháng 10.

Ngài nói: “Xin cám ơn tất cả trẻ em đã tham gia. Chúng ta cùng hiệp nhất với các em và phó thác vào lời cầu bàu với Đức Trinh Nữ Maria người dân Ukraine tử vì đạo và người dân các nước khác phải hứng chịu chiến tranh và mọi hình thức bạo lực và khốn khổ.”

Chiến dịch cầu nguyện Kinh Mân Côi của trẻ em được phát động vào năm 2005 tại Caracas, Venezuela. Trong năm 2022 này, hồng y Piacenza, chủ tịch quốc tế của tổ chức Giúp đỡ các Giáo hội gặp Khó khăn đặc biệt xin cầu nguyện cho các quốc gia có chiến tranh, bạo lực và đau khổ như Ukraine, Trung Đông, Nigeria, khu vực Sahelian của châu Phi và bất cứ nơi nào người dân không thể sinh sống trong tự do”.

Đức Phanxicô cũng lên tiếng trong Ngày Thế giới xóa bỏ đói nghèo cùng cực 17 tháng 10. Ngài kêu gọi mọi người cùng đóng góp để có một xã hội không ai cảm thấy bị loại trừ vì họ nghèo khổ.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Một triệu trẻ em lần hạt cầu nguyện cho hiệp nhất và hòa bình ngày 18 tháng 10 năm 2022

Ở Stuttgart, Đức, giáo dân sẽ có thể rửa tội

Ở Stuttgart, Đức, giáo dân sẽ có thể rửa tội

katholisch.de, 2011-10-13

Kể từ ngày 1 tháng 11, theo sắc lệnh của giám mục Gerhard Fürst, giáo phận Rottenburg-Stuttgart, Đức, giáo dân có thể làm phép tửa tội. Một quyết định được đưa ra sau khi được giáo dân yêu cầu, giám mục phụ tá Matthaüs Karrer giải thích, các gia đình ở giáo phận Württemberg xin được cử hành các lễ rửa tội cho các “cá nhân, nhân viên và gia đình”. Ngài xác nhận quy định này phù hợp với giáo luật và các nghị quyết được đường lối Thượng hội đồng Đức thông qua. Ngài tự hỏi làm thế nào để đối phó với ba thách thức lớn của Giáo hội Đức, một trong số ba thách thức này là thiếu linh mục trầm trọng.

Chỉ có các nhà thần học mới có thể đảm trách bí tích này, nhưng đây sẽ có thể là bước khởi đầu, vì bà đại diện các nhà thần học giáo dân làm việc trong lĩnh vực chăm sóc mục vụ đã kêu gọi họ có thể xức dầu cho bệnh nhân và làm phép bí tích hôn nhân. Bà cũng nhắm đến việc có thể cử hành bí tích Thêm sức. Việc chôn cất, không phải là bí tích nên từ nhiều năm nay đã được các nhà thần học giáo dân chăm sóc. Giáo phận Stuttgart không phải là giáo phận đầu tiên có lựa chọn cho phép giáo dân làm lễ rửa tội: năm ngoái, giáo phận Essen đã cho phép giáo dân rửa tội. Tuy thủ tục này dường như được đa số giáo dân ủng hộ, nhưng ở Đức nó không được sự nhất trí của một số nhà thần học, họ tranh cãi về tính hợp pháp của giáo dân trong việc cử hành một bí tích theo cách thức thể chế.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Hồng y Marx cảnh báo không nên nói quá nhiều về Chúa

Hồng y Marx cảnh báo không nên nói quá nhiều về Chúa

lecatho.fr, Napo, 2022-10-12

Trong một bài báo trên trang Herder Korrespondenz Spezial, Hồng y Marx cảnh báo không nên nói “quá nhiều” về Chúa. Ngài nói: “Tôi nghĩ trong quá khứ, có lẽ đôi khi chúng ta đã nói một cách quá tự nhiên về Thiên Chúa, về bản chất của Ngài, về ý định, về ý chí của Ngài và do đó chúng ta đã che khuất sự thật rằng Thiên Chúa vẫn là một ‘bí ẩn tuyệt đối’ và bất cứ một tuyên bố nào về Ngài chỉ có thể là tương tự.”

Trong bài báo, hồng y tổng giám mục Reinhard Marx giáo phận Munich và Freising viết: “Có lẽ đó là lý do tại sao cuộc khủng hoảng của Giáo hội cũng là cuộc khủng hoảng của một thể chế đã và vẫn còn tuyên bố mình biết khá lâu về Thiên Chúa và có thể truyền ý Ngài một cách có thẩm quyền cho tất cả mọi người. Dĩ nhiên nhiều người sẽ nói: nhưng đó là quá khứ! Thực sự có đúng như vậy không?”

Theo hồng y, một số “khái niệm truyền giáo” dường như vẫn thể hiện “như thể một mặt nào đó đại diện cho người đưa ra chân lý và mặt khác là người nhận mà họ chờ được chấp thuận”.

Trên thực tế, truyền giáo là “một hành trình thông thường theo bước chân của người Nadarét nhắc lại sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta và cùng đi tìm chân lý vĩ đại trên tất cả mà chúng ta luôn gọi là Thiên Chúa. Vì đây không chỉ đơn thuần là câu hỏi về tương lai Giáo hội. Đó là tương lai của lời nói về Chúa và câu hỏi để biết, liệu lời này thực sự có thể có ý nghĩa gì đối với cuộc sống của con người không”.

Hồng y Marx xác tín: “Chỉ bằng cách vượt ra ngoài diễn ngôn quá hời hợt, quá hiển nhiên và quá chắc về Chúa, đồng thời mở ra một con đường đến với kinh nghiệm về Thiên Chúa của Chúa Giêsu thì trái tim người tín hữu kitô mới được mở ra trần trụi. Rõ ràng Chúa Giêsu không muốn nói một giáo huấn về Thiên Chúa, một học thuyết nhưng Ngài muốn, qua các tấm gương, qua của dụ ngôn của Ngài về Nước Chúa để làm rõ ý nghĩa sự hiện diện Chúa giữa chúng ta, nghĩa là sự liên hệ của trời và đất.”

Cuối cùng, “chúng ta không thể nói về Thiên Chúa mà không nhìn vào con người, cá nhân cũng như toàn thể nhân loại. Một bài diễn văn về Thiên Chúa, trong đó đau khổ và tuyệt vọng, cũng như giao động hiện sinh của con người không bị rơi vào trống rỗng. Một Thiên Chúa được hiểu một cách giản lược như vậy không tồn tại – và tôi không cần một Thiên Chúa như vậy. Không thể nhìn vào Thiên Chúa nếu không nhìn vào con người và nhìn vào vết thương của thế giới.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

 “Xin vui lòng đừng hôn nhẫn Đức Thánh Cha”

 “Xin vui lòng đừng hôn nhẫn Đức Thánh Cha”

la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2022-10-15

Các nhóm đến gặp giáo hoàng được khuyên không nên hôn nhẫn Đức Phanxicô. Thứ bảy hàng tuần, đặc phái viên thường trực của báo La Croix đưa quý độc giả vào hậu trường quốc gia nhỏ nhất thế giới này.

Câu nhắn nhỏ đôi khi được phát âm trước các buổi tiếp kiến với giáo hoàng. Nó được đưa ra cùng với các đề nghị khác cho các nhóm đến gặp ngài ở một trong những hội trường uy nghiêm của dinh tông tòa. Nghi thức không thay đổi, trình tự luôn giống nhau: Giáo hoàng đến trước mặt giáo dân hành hương, một trong số họ chào ngài trước khi ngài ngỏ lời với họ. Sau đó là có thể, từng người có mặt trong phòng lần lượt đến chào người mặc áo trắng.

Vì thế trước khi buổi tiếp kiến bắt đầu sẽ có một vài đề nghị gởi đến các nhóm, tu sĩ hay giáo dân, các giám đốc công ty hay các dân biểu, thành viên các phong trào hoặc các thần học gia của Giáo hội. Và trong số các đề nghị này có câu, đôi khi gây bối rối hoặc thích thú cho du khách: “Xin vui lòng đừng hôn nhẫn Đức Thánh Cha.”

Trong thời điểm đại dịch, đề nghị này sẽ dễ hiểu. Nhưng cũng phải công nhận, kể từ khi bắt đầu đại dịch, Đức Phanxicô chưa bao giờ đề phòng nhiều cho chính mình. Ngài tiếp tục bắt tay và thường xin người đối thoại tháo khẩu trang để có thể chào họ.

Vì thế đề nghị xin đừng hôn nhẫn không phải chỉ là một đề phòng cho ngài. Đầu tiên, như ông Alessandro Gisotti giám đốc Văn phòng Báo chí năm 2019 giải thích, ngài muốn tránh “lây lan” giữa những người hôn nhẫn. Nhưng nếu ngài không đánh giá cao cử chỉ – cũng như ngài không thích quỳ gối trước ngài – là vì ngài xem các thái độ này liên quan đến sự thái quá của chủ nghĩa giáo sĩ. Một chủ nghĩa giáo quyền mà ngài không ngừng chiến đấu.

Marta An Nguyễn dịch

Vì sao các giáo hoàng chưa bao giờ nhận giải Nobel Hòa bình?

Vì sao các giáo hoàng chưa bao giờ nhận giải Nobel Hòa bình?

cruxnow.com, John L. Allen Jr., 2022-10-10

Giải Nobel Hoà Bình.

Kansas – Thêm một lần nữa, giải Nobel Nobel Hòa bình được công bố và một lần nữa một giáo hoàng không được giải.

Danh dự năm nay thuộc về các nhà vận động nhân quyền ở Nga, Belarus và Ukraine, điều mà nhiều người xem là sự lên án ngầm Tổng thống Nga Vladimir Putin và cả cuộc chiến của ông ở Ukraine cũng như xu hướng chống dân chủ của ông ở nước Nga.

Memorial, Tổ chức Tưởng niệm của Nga, Trung tâm Tự do Dân sự của Ukraine và Ales Bialiatski của Belarus sẽ chia sẻ số tiền thưởng là 10 triệu krona Thụy Điển, khoảng 900.000 USD và sẽ nhận giải thưởng trong buổi lễ vào ngày 9 tháng 12 được tổ chức tại Oslo, Na Uy.

Trong khi đã có bốn tổng thống Hoa Kỳ đã được giải (Theodore Roosevelt, Woodrow Wilson, Jimmy Carter và Barack Obama), cùng với một số thủ tướng và chính khách của các quốc gia khác, nhưng không có giáo hoàng nào được vinh danh kể từ khi giải thưởng bắt đầu vào năm 1901.

Các giáo hoàng là người thường xuyên được đề cử, vì năm nay Đức Phanxicô lại được ông Dag Inge Ulstein, Bộ trưởng Bộ Phát triển Quốc tế của Na Uy đề cử, ông trích dẫn “những nỗ lực giúp giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu cũng như công việc hướng tới hòa bình và hòa giải của ngài”.

Trước khi công bố vào ngày thứ sáu 7 tháng 10, các nhà cá cược trực tuyến đã cá Đức Phanxicô 15 – 1, tỷ lệ ít nhiều tương tự với nhà hoạt động môi trường Thụy Điển Greta Thunberg và Cơ quan Tị nạn Liên Hợp Quốc. Trong nhiều năm, đôi khi tôi được yêu cầu sẵn sàng lên truyền hình đâu đó vào ngày thông báo giải, trong trường hợp giáo hoàng nhận giải; và chẳng khi nào tôi có dịp nói.

(Đôi khi tôi đã tính chuyện làm hóa đơn cho tất cả các khoản chi phí xuất hiện mà tôi chưa bao giờ nhận, nhưng bằng cách nào đó, tôi nghi họ sẽ thanh toán hóa đơn.)

Cho đến nay, có bốn nhà lãnh đạo công giáo đã nhận được Giải thưởng Hòa bình:

Linh mục Dominique Pire, tu sĩ dòng Đa Minh người Bỉ được vinh danh năm 1958 vì công việc giúp đỡ người tị nạn châu Âu sau chiến tranh. Mẹ Têrêxa, Calcutta, nhận giải năm 1979 vì những nỗ lực để làm giảm đau khổ cho nhân loại.

Giám mục Carlos Filipe Ximenes Belo, người đã cùng chính trị gia José Ramos-Horta nhận giải năm 1996 vì sự lãnh đạo của họ để có giải pháp hòa bình và công bằng cho cuộc xung đột ở Đông Timor dẫn đến độc lập quốc gia.

Linh mục Jose Ramon Tizon Villarin, tu sĩ Dòng Tên người Philippines, là thành viên của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu đã nhận giải Nobel năm 2007.

Gần đây giám mục Belo đã phải đối diện với cáo buộc lạm dụng tình dục và hành vi sai trái, dẫn đến lệnh trừng phạt chưa được tiết lộ trước đó của Vatican vào năm 2020. Tuy nhiên, cho đến nay, không có bất kỳ đề xuất nào về việc giải Nobel của giám mục sẽ có thể bị thu hồi.

Kể từ Đức Bênêđíctô XV (1914-1922), mỗi giáo hoàng vào một lúc nào đó đều nhận một đề cử, nhưng cho đến nay chưa có giáo hoàng nào trở thành người nhận giải Nobel.

Tại sao các giáo hoàng không được giải?

Đầu tiên, giải Nobel Hòa bình được một ủy ban gồm năm thành viên do quốc hội Na Uy chọn, một quốc gia theo truyền thống tin lành, và sự quan tâm đến các giáo hoàng không đặc biệt cao.

Không phải là các nghị sĩ Na Uy bị cuốn vào các cuộc tranh luận cũ, nhưng chung chung, ở một đất nước mà bản sắc dân tộc được rèn giũa một phần thông qua việc từ chối quyền lực của giáo hoàng, việc trao một giải thưởng như vậy cho một giáo hoàng không phải là điều tự nhiên nhất nên làm.

Trong một số trường hợp, thành kiến chống giáo hoàng là rõ ràng. Khi Giám mục Gunnar Stalsett giáo phận Oslo của Giáo hội Na Uy, người ở trong ủy ban giải  Nobel Hòa bình từ năm 1985 đến năm 1990 và từ năm 1994 đến năm 2003, ông đã tuyên bố rõ ràng, ông sẽ không ủng hộ việc đề cử giáo hoàng Gioan-Phaolô II do lập trường của Giáo hội công giáo về biện pháp tránh thai.

Vào thời điểm đó, nhiều nhà quan sát nghĩ rằng nếu không có quyền phủ quyết không chính thức của Stalsett, thì Đức Gioan-Phaolô II có thể đã được vinh danh năm 1990 cùng với Mikhail Gorbachev vì vai trò của họ trong việc giải thể đế chế Liên Xô một cách hòa bình.

Một phần lô-gích của việc không trao giải cho các giáo hoàng liên quan đến thực tế là các giáo hoàng không cần tiền, cũng như không cần sự chú ý của giới truyền thông mà giải thưởng luôn tạo ra, trong khi các nhà hoạt động và tổ chức ít được biết đến hơn có thể được hưởng lợi rất nhiều từ hai việc này.

Tất nhiên, những lập luận tương tự có thể được đưa ra về việc trao giải thưởng cho các tổng thống, thủ tướng và những nhân vật nổi tiếng khác của công chúng, điều này đã không ngăn được ủy ban trước đây đã thực hiện chính xác điều đó.

 

Cuối cùng, có lẽ công bằng mà nói, có một thành kiến mơ hồ theo chủ nghĩa thế tục trong quá trình này, cho rằng tôn giáo chỉ đơn giản là không quan trọng hoặc cũng không hữu ích trong các vấn đề toàn cầu như Realpolitik (Chính trị thực dụng) hoặc xã hội dân sự. Trong suốt 121 năm giải thưởng đã được trao, tương đối ít người đoạt giải là các nhân vật tôn giáo dưới bất kỳ hình thức nào – Lutheran Ar Thụy Điển, tổng giám mục Nathan Sưderblom năm 1930, tổng giám mục Desmond Tutu của Nam Phi năm 1984 và Đức Lạt ma năm 1989 nằm trong số ít các trường hợp ngoại lệ.

Dĩ nhiên, không phải việc không được giải Nobel một cách nào đó làm giảm thẩm quyền đạo đức của giáo hoàng, hay chính các giáo hoàng cũng mong muốn được công nhận. Các giáo hoàng đã nhận được rất nhiều lời khen ngợi – năm 2013, Đức Phanxicô được tạp chí Time chọn là người của năm, ngài được giải thưởng Charlemagne vì sự thống nhất của châu Âu và thậm chí còn xuất hiện trên trang bìa của Rolling Stone.

Mặt khác, không phải Vatican không nhận thấy. Trong những năm thời Đức Gioan-Phaolô II, nhân viên các cơ quan truyền thông Vatican đôi khi được khuyên nên giảm tối thiểu việc loan tin với lý do, trên thực tế, bất kỳ người chiến thắng nào không phải là giáo hoàng đều là một sự xúc phạm.

Trong bất kỳ trường hợp nào, các quy chế của Giải thưởng Nobel Hòa bình nêu rõ, giải sẽ được trao cho những người đã “làm nhiều nhất hoặc làm công việc tốt nhất cho tình huynh đệ giữa các quốc gia, cho việc bãi bỏ hoặc cắt giảm quân đội thường trực và cho việc nắm giữ và thúc đẩy hòa bình.”

Giải Nobel Hòa bình 2022: Ai sẽ là ứng viên tranh giải năm nay?

Thật khó để tin rằng trong suốt 121 năm qua chưa một lần nào có vị giáo hoàng nào đủ tiêu chuẩn – tất nhiên, trừ khi, có một số lý do mà ủy ban chỉ đơn giản là không muốn công nhận một giáo hoàng.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Giải Nobel Vật lý 2022 của Áo: “Nhà khoa học mở ra với siêu việt”

Làm sao cầu nguyện khi chúng ta không có hứng

Làm sao cầu nguyện khi chúng ta không có hứng

Ronald Rolheiser, 2022-10-10

Nếu chỉ cầu nguyện khi có hứng, thì chúng ta không cầu nguyện nhiều.

Nhiệt tâm, thích thú và sốt mến sẽ không duy trì đời sống cầu nguyện được lâu, thiện chí và ý chí bền vững mới bền. Lòng và trí chúng ta là những con ngựa hoang phức tạp và lộn xộn, chồm lên theo hứng, và cầu nguyện không thường xuyên nằm trong dự định. Thánh Gioan Thánh Giá, nhà thần nghiệm, dạy chúng ta, sau thời gian đầu cầu nguyện sốt mến, chúng ta sẽ trải qua những năm tháng phải vật lộn, khi đó việc cầu nguyện rời rạc, buồn chán và dễ xao lãng. Vậy nên, vấn đề là làm sao chúng ta cầu nguyện lúc mệt mỏi, xao lãng, buồn chán, thiếu hứng thú, và đang lo với hàng ngàn chuyện khác. Làm sao chúng ta cầu nguyện khi trong lòng chúng ta chẳng muốn cầu nguyện? Nhất là làm sao chúng ta cầu nguyện khi cực kỳ chán cầu nguyện?

Các tu sĩ có những bí quyết đáng để chúng ta học hỏi. Bí quyết đầu tiên là nghi thức, trọng tâm nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện. Các tu sĩ cầu nguyện nhiều và thường xuyên, nhưng họ không bao giờ cố nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện dựa trên cảm xúc. Họ nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện bằng nghi thức. Các tu sĩ cầu nguyện chung bảy hay tám lần mỗi ngày, theo nghi thức. Họ quay quần trong nhà nguyện và đọc kinh phụng vụ (Kinh sáng, Kinh sách, Kinh giờ ba, Kinh giờ chín, Kinh chiều, Kinh tối, Kinh kết) hoặc cùng nhau cử hành thánh lễ. Không phải lúc nào họ cũng tham dự vì thấy thích, họ tham gia vì họ được kêu gọi, và rồi với lòng trí nhiều lúc thiếu sôt sắng, nhưng họ cầu nguyện bằng những phần sâu thẳm nhất, bằng quyết tâm và ý chí.

Trong luật thánh Bênêđictô viết cho đời sống tu sĩ có một câu thường được trích dẫn. Ngài viết, đời sống tu sĩ là theo quy tắc của tiếng chuông tu viện. Khi tiếng chuông tu viện cất lên, người tu sĩ bỏ ngang bất kỳ việc gì mình đang làm và đến bất kỳ nơi nào mà tiếng chuông đó triệu tập, không phải vì muốn mà vì đó là thời điểm, một thời điểm không phải của mình mà là của Chúa. Đó là một bí mật đầy giá trị, nhất là khi áp dụng cho việc cầu nguyện. Chúng ta cần cầu nguyện thường xuyên, không phải vì chúng ta muốn, mà vì đó là thời điểm để cầu nguyện, và khi không thể cầu nguyện với hết tâm trí, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện bằng ý chí và thể xác.

Phải, bằng thể xác! Chúng ta hay quên rằng mình không phải là thiên thần không thể xác, chỉ có tâm trí. Không, chúng ta có cả thể xác nữa. Do đó, khi lòng trí khó khăn cầu nguyện, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện bằng thể xác. Từ xưa đến nay, chúng ta đã cố làm việc này bằng cử chỉ và điệu bộ thể xác (làm dấu thánh giá, quỳ gối, đưa tay lên, chắp tay lại, quỳ một gối, nằm sấp) và chúng ta đừng bao giờ xem nhẹ hay hạ thấp tầm quan trọng của các cử chỉ. Nói đơn giản, khi không thể cầu nguyện bằng những cách khác, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện bằng thể xác. (Mà ai dám nói một cử chỉ cầu nguyện chân thành thì thấp kém hơn động tác cầu nguyện của tâm trí?) Cá nhân tôi rất thích một cử chỉ, là hành động cúi đầu chạm đất của người hồi giáo khi họ cầu nguyện. Làm như thế là làm cho cơ thể mình thưa với Chúa: “Dù cho lòng trí con có thế nào, con quy phục sự toàn năng, thánh thiện và yêu thương của Ngài”.  Dù là cầu nguyện chiêm niệm một mình, tôi vẫn thường kết lại bằng cử chỉ này.

Đôi khi, các ngòi bút thiêng liêng, các nhà phụng vụ học và giáo lý, lại phụ lòng chúng ta khi không nói rõ rằng cầu nguyện có nhiều giai đoạn – và trong đó, sự nhiệt tâm, sốt mến chỉ là một giai đoạn và là giai đoạn ban đầu. Như những tiến sĩ và nhà thần nghiệm thường dạy, cầu nguyện cũng như tình yêu, phải đi qua ba giai đoạn. Trước hết là lửa mến, rồi đến sự khô khan và chán ngán, cuối cùng là sự thanh thản, ý thức mình đang về nhà khi mà lời cầu nguyện không dựa vào hăng hái hay sốt mến mà dựa vào cam kết với giây phút hiện tại, bất chấp cảm giác như thế nào.

Dietrich Bonhoeffer, mục sư thần học gia người Đức, từng nói câu này khi chủ trì hôn lễ cho một cặp vợ chồng: Hôm nay, anh chị tràn đầy tình yêu và tin rằng tình yêu sẽ duy trì hôn nhân của mình. Không đâu. Hãy để hôn nhân (vốn có những nghi thức) duy trì tình yêu của anh chị. Chúng ta cũng có thể nói như thế về cầu nguyện. Lửa mến và nhiệt tâm sẽ không duy trì lời cầu nguyện, nhưng nghi thức thì có. Khi chúng ta khó khăn cầu nguyện với tâm trí, chúng ta vẫn luôn có thể cầu nguyện bằng ý chí và thể xác. Thể hiện bên ngoài có thể đủ cho cầu nguyện.

Trong quyển sách mới đây của mình, Chị Wendy yêu quý (Dearest Sister Wendy), tác giả Robert Ellsberg đã trích một câu của ông Michael Leach nói về kinh nghiệm của ông khi chăm sóc lâu dài cho người vợ bị Alzheimer: “Phải lòng ai đó là phần dễ nhất, học cách yêu là phần khó, và sống trong tình yêu là phần tối tối hậu”.  Việc cầu nguyện cũng như nhế.

J.B. Thái Hòa dịch

Bài đọc thêm: Đương đầu với linh hồn của mình

Những bức thư từ Kyiv: thư của linh mục Jaroslav Krawiec, Dòng Đa Minh kể từ trung tâm cuộc chiến

Những bức thư từ Kyiv: thư của linh mục Jaroslav Krawiec, Dòng Đa Minh kể từ trung tâm cuộc chiến
cath.ch, Jaroslav Krawiec, 2022-10-11
Hàng chục thành phố ở Ukraine, kể cả thủ đô Kyiv bị tên lửa  quân đội Nga bắn | © Keystone / EPA / Oleg Petrasyuk
Jaroslav Krawiec linh mục Dòng Đa Minh, người gốc Ba Lan, cha ở tu viện Mẹ Thiên Chúa ở trung tâm Kyiv. Kể từ ngày 26 tháng 2 năm 2022, cha thường xuyên gởi về báo Công giáo Thụy Sĩ các câu chuyện “ghi nhận từ Ukraine.”
Ngày thứ hai 10 tháng 10, cả nửa tá vụ nổ được nghe thấy ở Kyiv khi các khu vực Lviv, Rivne, Dnipro và Zaporijia là mục tiêu không kích của Nga. Sau các cuộc tấn công lớn của Nga vào một số thành phố của Ukraine, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guterres lên án “chiến tranh đã leo thang không thể chấp nhận được”, các cuộc không kích đã làm ít nhất 14 người chết và 97 người bị thương trên khắp đất nước.
 Anh chị em thân mến,
“Chúng tôi xin anh chị em cầu nguyện, hôm nay là ngày khủng khiếp. Nhiều tên lửa bay trên đầu chúng tôi. Vụ nổ ở Kyiv đã làm cho nhiều người chết và bị thương. Tình hình tương tự cũng xảy ra ở nhiều thành phố lớn. Tôi đã không ngủ trong hai ngày. Tôi sợ. Tôi bắt đầu cảm thấy quá sức chịu đựng.” Đó là tin nhắn tôi nhận được hôm nay lúc 8 giờ sáng Ukraine.
Tôi đang ở Ba Lan, tôi đọc tin nhắn và rất lo. Cả chục tin tức đến như ác mộng. Không phải cả chục mà hàng trăm tên lửa và pháo bắn vào đất nước. Trong đoạn ghi âm được công bố trên mạng xã hội, tổng thống Volodymyr Zelenskyy đứng trước tòa nhà hành chính ở trung tâm thủ đô Kyiv liệt kê các khu vực có nhiều thành phố bị tấn công: Kyiv, Khmelnytskyi, Lviv, Dnipro, Vinnytsia, Ivano-Frankivsk, Sumy, Kharkiv, Zhytomyr, Zaporizhzhia. Một lúc trước đó, tên lửa đã rơi gần đó. Một lời cầu nguyện cho các nơi bị tên lửa tàn phá, một lời cầu nguyện của cái chết, nỗi đau, nước mắt và sự hủy diệt.
Sự trả thù của Nga
Tôi không dự định viết thư này ngày hôm nay, cũng như hàng triệu người Ukraine, tôi không dự định bắt đầu ngày mới của tuần mới trong sợ hãi, bấp bênh, lo lắng cho cuộc sống của gia đình, con cái và những người thân yêu của họ. Các cuộc tấn công hôm nay là sự trả thù của Nga với vụ nổ làm hư cây cầu Crimée ngày thứ bảy. Một trong những tên lửa đã bắn trúng Cầu Kính, con đường dành cho người đi bộ cực kỳ hiện đại nối hai ngọn đồi ở trung tâm thủ đô Kyiv, được xây dựng theo sáng kiến của thị trưởng thành phố, Vitali Klitschko. Theo như tôi có thể nói, cuộc tấn công không làm hư hại cấu trúc tinh vi bằng thép và thủy tinh này. Một dấu hiệu rất đáng kể.
Các tu viện và nhà thờ của chúng tôi không bị tác động. Anh em chúng tôi ở Kyiv nghe tiếng nổ khi các tên lửa đánh vào trung tâm thành phố. Nhiều người trên đường đi làm hoặc đi học vội tìm nơi trú ẩn, đặc biệt là tại các ga tàu điện ngầm, và các hoạt động tàu điện bình thường đã bị tạm dừng để làm nơi trú ẩn an toàn trong các đường hầm dưới lòng đất.
Học từ xa
Một số tên lửa rơi gần nhà ga. Linh mục Misha nhìn thấy một số bay qua Fastiv. Cha điện thoại kể cho tôi nghe: “Tôi đang mua sắm ở chợ nông sản của thị trấn thì tên lửa của Nga bay trên đầu chúng tôi. Mọi người ngồi hoặc nằm trên mặt đất.” Nhưng cha cũng đi chợ xong, đem về cho nhà Dòng món salo Ukraine rất ngon, cha cười kể cho tôi nghe.
Ở Khmelnytskyi, đèn tắt trong giờ lễ. Kể từ khi tên lửa tấn công vào lưới điện quốc gia, nhiều thị trấn và làng mạc của Ukraine không có điện. Ở một số nơi còn không có nước. Ở Chortkiv, các trường mẫu giáo và trường học phải chuyển sang hình thức học từ xa cho đến cuối tuần. Những ngày sắp tới chắc chắn sẽ rất khó khăn với người dân Ukraine.
Tại Lộ Đức, chúng tôi đã mô tả chức vụ của các tu sĩ Dòng Đa Minh ở một đất nước bị chiến tranh tàn phá | © Jaroslaw Kraviec
Chứng từ ở Lộ Đức
Hôm qua, cha Lukasz, giám tỉnh Ba Lan, cha Zdzislaw Szmanda từ Geneva, cha từng sống ở Kyiv trong vài năm, và tôi từ Lộ Đức về, chúng tôi tham gia cuộc hành hương Mân Côi của Dòng Đa Minh. Các anh em Đa Minh ở Pháp mời chúng tôi, họ hỗ trợ chúng tôi từ đầu cuộc chiến. Họ xin chúng tôi kể những gì đang xảy ra ở Ukraine. Cuộc họp diễn ra ngày thứ sáu tại thính phòng to lớn của thánh địa Lộ Đức. Căn phòng chật ních. Chúng tôi kể sứ vụ của tu sĩ Đa Minh trong đất nước bị chiến tranh tàn phá, cuộc sống hàng ngày của người Ukraine, trải nghiệm tinh thần của thời kỳ này và những hậu quả xã hội và lịch sử của cuộc chiến.
Trên đường đến Lộ Đức, cha Lukasz và tôi đến thăm các nữ tu Đa Minh ở Dax. Thật vui khi được gặp các nữ tu Đa Minh  và cùng họ cầu nguyện cho Ukraine. Tôi biết đây là một trong rất nhiều tu viện trên khắp thế giới cầu nguyện cho Ukraine mỗi ngày. Chúng tôi cám ơn ơn họ, cám ơn các anh chị em Đa Minh tại Pháp vì tình đoàn kết của họ với Ukraine.
Tuần vừa qua, chúng tôi có một số sự kiện vui vẻ trong đời sống của Nhà Thánh Máctinô Porres ở Fastiv. Cha Misha và gần 100 người khác – đại diện các tôn giáo và giáo phái khác nhau – đã được ông Ruslan Tefanchuk, chủ tịch Quốc hội Ukraine vinh danh cho sự đóng góp của họ trong thời chiến. Buổi lễ diễn ra ở nhà thờ Thánh Sophia, nhà thờ lâu đời nhất ở trung tâm thành phố Kyiv. Trong khi đó tại Ba Lan, ngày thứ năm đã có buổi lễ trao giải Gioan-Phaolô II Veritatis Splendor tại thính phòng Krakow Philharmonic.
“Giải Nobel ở Krakow”
Giải Nobel Krakow được ban lãnh đạo của Cơ quan Quản lý Vô tuyến Ba Lan trao hai năm một lần cho những cố gắng đặc biệt trong lĩnh vực đối thoại giữa các nền văn hóa trong xã hội. Năm nay, ba tổ chức được trao giải, và Nhà Thánh Máctinô là một trong ba tổ chức được giải. Trong lễ kỷ niệm, ngoài các tu sĩ Dòng Đa Minh từ Krakow và Warsaw, Fastiv còn được đại diện bởi Vera và Marzena, cũng như những người bạn Krakow khác của Nhà Thánh. Tôi rất vui với sự vinh danh này, và tôi muốn chúc mừng cha Misha và tất cả những người là ở Nhà Thánh Máctinô: tất cả các tình nguyện viên, Charytatywni Freta, các cá nhân, cộng đồng và tổ chức đã hỗ trợ tài chính, vật chất và lời cầu nguyện cho Nhà Thánh. Đó là phần thưởng và sự khác biệt của bạn dành cho những người đang thiếu thốn.
Cha Misha và gần 100 người khác đã được Chủ tịch Quốc hội Ukraine, Ruslan Stefanchuk khen thưởng | DR
Gần đây, cha Alain Arnauld, người lo việc xã hội của Dòng Đa Minh đến thăm Ukraine, kể từ đầu cuộc chiến, đây là lần thứ nhì cha đến Ukraine, lần này là để thăm Fastiv, Kyiv và Khmelnytskyi. Tôi thực sự đánh giá cao những cuộc gặp với cha Alain. Ngài là người có tấm lòng cao cả, người dâng hiến trí tuệ và tình yêu thương của mình cho người anh em. Ngài đã dành nhiều thì giờ để gặp anh em và tình nguyện viên của Nhà Thánh Máctinô, viện đại học Đa Minh của Fasco.
Tuần trước, cha Misha đã gặp cha Ruslan – giám đốc chủng viện giáo phận Kyiv – và một nhóm tình nguyện viên từ Nhà Thánh Máctinô. Họ đã đến miền đông Ukraine để cứu trợ nhân đạo. Sau chặng dừng chân ngắn tại tu viện Kharkiv chúng tôi, họ đến miền nam Ukraine, đến Balakan và đến một số ngôi làng xung quanh Izium. Những nơi này gần đây đã được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Nga.
Sự tàn phá khủng khiếp
Họ cho tôi biết, các thành phố này giống như một người bị thương, bị đánh đập. Chúng ta có thể thấy được sự tàn phá nghiêm trọng ở đó: các tòa nhà bị cháy và đổ nát, cây cối thâm tím, đất đai bị xe tăng cày xới và đau khổ nhất là người dân với vết thương thể xác và tinh thần, nước mắt và nỗi đau. Rõ ràng, nhu cầu là rất lớn. Người dân của vùng lãnh thổ này đã bị chiếm đóng trong gần sáu tháng, họ rất cần bất cứ thứ gì có thể giúp họ chịu được cơn giá lạnh mùa đông.
Cha cho biết thêm: “Chúng tôi bắt đầu làm gối và mền để có thứ gì đó mang đến cho họ lần sau. Cho đến nay, chúng tôi đã chuyển được hơn bảy tấn thực phẩm, thuốc men, lò sưởi củi và bình khí đốt tự nhiên mà dân làng có thể dùng để nấu nướng.
Một lần nữa, bây giờ tất cả chúng tôi đều nhận ra cuộc chiến kinh hoàng này chưa kết thúc, nó tiếp tục cướp đi sinh mạng, sức khỏe và hy vọng của hàng triệu người dân Ukraine. Về Kyiv và Fastiv, chúng tôi lo sợ một mối đe dọa từ phương Bắc, cuộc xâm lược có thể xảy ra của quân đội Nga và Belarus. Tôi chia sẻ ý kiến của đa số người dân Ukraine, tôi tin chắc về sức mạnh và hiệu quả của quân đội đã bảo vệ và đã dũng cảm bảo vệ đất nước chúng tôi trong những tháng qua. Để công việc của họ được hoàn thành càng sớm càng tốt.
Tôi xin các bạn tiếp tục cầu nguyện cho Ukraine và cho chúng tôi.
Tôi xin quý vị tiếp tục giúp đỡ chúng tôi dưới mọi hình thức. Sự giúp đỡ luôn là cần thiết.
Với lời chào và lời cầu nguyện của tôi,
Jarosław Krawiec OP,
Kyiv, ngày 10 tháng 10
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Bài đọc thêm: Những bức thư từ Kyiv: Linh mục Jaroslav Krawiec dòng Đa Minh kể về cuộc chiến Ukraine #20
Những bức thư từ Kyiv: linh mục dòng Đa Minh kể về cuộc chiến ở Ukraine

Vatican II: Vì sao Đức Phanxicô xem trọng việc kỷ niệm 60 năm Công đồng

Vatican II: Vì sao Đức Phanxicô xem trọng việc kỷ niệm 60 năm Công đồng
la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, 2022-10-11
Qua việc chủ trì thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô ngày thứ ba 11 tháng 10 nhân kỷ niệm 60 năm khai mạc Công đồng Vatican II, Đức Phanxicô cho thấy ngài gắn bó đặc biệt với Công đồng Vatican II, được phản ánh trong những tháng gần đây qua hai khía cạnh: phụng vụ và tính đồng nghị.
Ở Rôma, thông báo về sự kiện này đã làm cho một số người ngạc nhiên. Ngày thứ ba 11 tháng 10, ngài cử hành thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô sáu mươi năm sau ngày Đức Gioan XXIII khai mạc để “cập nhật” Giáo hội sau hai mươi thế kỷ. Buổi lễ có sự hiện diện của 35 hồng y, 55 giám mục và 450 linh mục… trong đó có 5 người đã trực tiếp tham gia vào công đồng.
https://www.instagram.com/reel/CjlgdyWDT8C/?utm_source=ig_web_copy_link
Công đồng Vatican II còn lại gì?
Trong chín năm qua, Đức Phanxicô đặt mình vào cương vị là người thừa kế Công đồng Vatican II, chẳng hạn ngài thường xuyên trích dẫn bốn bản tông huấn của ngài. Ông Massimo Faggioli, giáo sư nghiên cứu tôn giáo tại Đại học Villanova, Hoa Kỳ, phân tích: “Cho đến mùa hè năm 2021, một cách gián tiếp ngài thường nói qua các chuyến tông du hoặc qua các bản văn lớn trong triều giáo hoàng của ngài. Ngài là người châu Mỹ la-tinh khá điển hình: công đồng là một sự kiện quan trọng với ngài, và trên tất cả, ngài nói đến một hậu công đồng, một tư tưởng Bergoglian trên công đồng.
Điểm ngoặc
Việc xuất bản tự sắc Traditionis custodes, một tự sắc giới hạn rõ rệt việc cử hành thánh lễ theo nghi thức trước Công đồng, sẽ tạo một bước ngoặt dưới mắt ngài. Ông Massimo Faggioli nói tiếp: “Vào thời điểm đó, ngài hiểu tình hình là nghiêm trọng, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, ngài xác nhận nguy cơ gây ra sự ly giáo trong phụng vu.”
Trên thực tế, từ nhiều tháng nay, ngài đã xem phụng vụ là một trong những hòn đá tảng của Công đồng Vatican II, hoặc ít nhất ngài xem việc phản đối cải cách phụng vụ là một cách bác bỏ toàn thể công đồng. Trong tông thư Desiderio desideravi, Thầy những khát khao công bố tháng sáu vừa qua, ngài lên tiếng: “Tôi không hiểu làm thế nào người ta có thể nói họ công nhận tính hợp lệ của Công đồng – dù tôi ngạc nhiên khi một người công giáo có thể tuyên bố mình không cho là như vậy – và không chấp nhận cuộc cải cách phụng vụ phát sinh từ Hiến chế Phục vụ thánh Sacrosanctum concilium.
“Công đồng Vatican II xóa sổ các nhà thờ”: sáu thành kiến sai lầm về công đồng
Một nguồn tin cao cấp của Vatican tóm tắt: “Phụng vụ đã trở thành một công cụ tranh chấp của công đồng. Cải cách phụng vụ là một phần của công đồng, bạn không thể tách rời hai điều này. Từ chối cái này là từ chối cái kia.”
 Tính đồng nghị
Nhưng ngoài các vấn đề liên quan đến phụng vụ, giáo hoàng đặt hành động của ngài vào sự kế tục của công đồng, đặc biệt là trong việc triệu tập các thượng hội đồng: các thượng hội đồng giám mục với một chủ đề cụ thể – như gia đình, người trẻ hoặc Amazon -, hoặc một cách tiếp cận rộng hơn như cách tiếp cận gần đây đã được thực hiện với Thượng hội đồng về tương lai của Giáo hội.
Đức Phanxicô không muốn phụng vụ trở thành “chiến trường”
Chính xác là trong một năm nữa, giai đoạn cuối cùng của “Thượng hội đồng về tính đồng nghị” này sẽ mở ra, khi kết thúc quá trình kéo dài hai năm nhằm vận động tất cả giáo dân công giáo. Giáo sư Massimo Faggioli giải thích: “Công đồng Vatican II đã mở ra những thời điểm thảo luận, tranh luận, giữa người công giáo, điều mà trước đây không thể tưởng tượng được. Công đồng chính xác tạo khả năng thảo luận bên ngoài công đồng, cho phép tất cả mọi người tham gia, chứ không chỉ dành riêng cho giám mục.”
Gần đến ngày kỷ niệm ngày khai mạc Công đồng Vatican II, các nhà tổ chức thượng hội đồng đã không thể không tuyên bố về di sản của nó. Trong một tuyên bố ngày 10 tháng 10: “Mục đích của thượng hội đồng đã là và vẫn là mục đích kéo dài, phong cách của Công đồng Vatican II trong đời sống và sứ mệnh của Giáo hội.”
Gần đây, trong lời nói đầu của một quyển sách xuất bản ở Ý, Đức Phanxicô nhấn mạnh: “Công đồng đáng kể Vatican II, được Thánh Gioan XXIII hết lòng mong muốn và được Thánh Phaolô VI kết thúc thành công, là một sự kiện ân sủng cho Giáo hội và cho thế giới”. Ngài mô tả “đây là sự kiện mà hoa trái vẫn chưa cạn kiệt. Công đồng đại kết cuối cùng vẫn chưa được hiểu đầy đủ, được sống và được áp dụng. Chúng ta đang trên đường đi.”
Ba năm làm việc
Công đồng đại kết Vatican II được Đức Gioan XXIII khai mạc ngày 11 tháng 10 năm 1962, diễn ra trong bốn phiên họp. Và Đức Phaolô VI đã tuyên bố thông điệp cuối cùng ngày 8 tháng 12 năm 1965.
Công đồng thông qua bốn hiến chương, ba tuyên bố và chín sắc lệnh.
Trong số các văn bản này, bốn hiến chương Lumen gentium,
Hiến chế Tín lý về Hội thánh, Dei Verbum,  Hiến Chế Mặc Khải, Sacrosantum concilium Hiến chế Phụng Vụ Thánh, Gaudium et spes Tóm Lược Hiến Chế Mục Vụ, lần lượt đề cập đến các chủ đề về Giáo hội, mạc khải thần linh, phụng vụ và Giáo hội trong thế giới thời đại chúng ta.
Các sắc lệnh liên quan đến các chủ đề khác nhau như việc chăm sóc mục vụ của các giám mục, chức vụ và việc đào tạo các linh mục, đời sống tu trì hoặc đại kết.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: 60 năm Công đồng Vatican II Giáo hội tiếp tục cập nhật như thế nào

“Nếu không có Công đồng Vatican II, vụ nổ bung chúng ta chứng kiến ngày nay sẽ diễn ra sớm hơn và còn tệ hơn”

Công đồng Vatican III? Câu chuyện của một con rắn biển

Công đồng Vatican III? Câu chuyện của một con rắn biển

Thường được đề cập đến và được khởi động lại, ý tưởng về Công đồng Vatican III thực sự là một đề xuất ra đời vào cuối những năm 1970, nó có đà phát triển vào cuối những năm 1990 và phục hưng dưới triều Đức Phanxicô.

lavie.fr, Marie-Lucile Kubacki, Rôma, 2022-10-06

Hồng y Carlo Maria Martini (1927-2012) hy vọng một công đồng mới sớm nhất là vào năm 1977.  T. BONAVENTURA / CONTRASTO-REA

Hiếm có một năm nào trôi qua mà không có một công bố trong hy vọng hay mong muốn có Công đồng Vatican III. Mỗi lần như vậy, với hy vọng hay sợ hãi về một cập nhật mới, có thể thúc đẩy trực giác của Công đồng Vatican II đi xa hơn hoặc làm nổi bật những điểm mù của Công đồng. Vào đầu triều Đức Phanxicô, chính nhà thần học giải phóng người Brazil Leonardo Boff đã kêu gọi giáo hoàng trên các cột báo Brazil.

Đức Giám mục Wintzer ủng hộ việc phong chức linh mục cho các ông đã lập gia đình

Thượng Hội đồng về gia đình, đặt vấn đề giải trung tâm theo cái nhìn của những văn hóa khác biệt trong quan niệm về hôn nhân, có thể được xem là khởi đầu của Công đồng Vatican III. Gần đây hơn, đó là cách con đường đồng nghị của Giáo hội Đức mở ra. Thường được đưa ra như một ý tưởng mới lạ, Vatican III thực sự là một con rắn biển già 45 năm.

 Giáo hội hướng đến việc phong chức cho các ông đã lập gia đình

 Nguồn gốc rất đa dạng

Tình phụ tử là khái niệm của hồng y Carlo Maria Martini, tu sĩ Dòng Tên, học giả Kinh Thánh lỗi lạc và là tổng giám mục Giáo phận Milan từ năm 1979 đến năm 2002, được Đức Gioan-Phaolô II phong hồng y và từ lâu được xem là giáo hoàng của những người cải cách. Năm 1999, trong một thượng hội đồng giám mục ở châu Âu, hồng y Martini đã lặp lại câu của mục sư Martin Luther King năm 1963 – “Tôi có một giấc mơ” (một cách nói cũng thường được Đức Phanxicô dùng) – để nói lên ước mơ của ngài, tất cả các giám mục gặp lại nhau và lặp lại “kinh nghiệm về sự hiệp thông và tính hợp tác mà những người tiền nhiệm của họ (đã có) ở Công đồng Vatican II”.

Tuy không nói rõ ràng về Công đồng Vatican III nhưng hồng y Martini hy vọng sẽ thảo luận về những điểm chưa được giải quyết trong Công đồng Vatican II hoặc những điểm vẫn sẽ được thực hiện: thiếu linh mục, vị trí của phụ nữ trong Giáo hội, các mục vụ cho giáo dân, kỷ luật hôn nhân, ấn định tình dục công giáo, thực thi quyền lực trong Giáo hội…

Trên thực tế, như nhà vatican học Andrea Tornielli viết trong một bài báo cách đây vài năm, hồng y Martini đã hình thành giấc mơ này vào mùa hè năm 1977, trong một cuộc họp của tạp chí Concilium ở Hoa Kỳ. Nhà báo viết: “Cuộc họp của các nhà thần học và sử gia tiến bộ đã đặt ra các mục tiêu của công đồng tương lai: Giáo hoàng từ chức ở tuổi 75, Thượng hội đồng giám mục không còn tư vấn nữa mà có quyền biểu quyết, bãi bỏ bậc sống độc thân của linh mục, bình đẳng hóa phụ nữ và nam giới trong đời sống Giáo hội, bao gồm cả chức tư tế nữ.”

Nhà báo Tornielli cũng báo cáo có một mong muốn Công đồng Vatican III trỗi dậy vào đầu những năm 1990… trong các giới bảo thủ thân cận với Đức Gioan-Phaoloô II nhưng với các ý định ngược với ý định của hồng y Martini: chấm dứt hiệp đấu của các nhà cải cách và kiềm chế sự táo bạo của một số hội đồng giám mục nào đó. Hồng y Joseph Ratzinger, lúc đó là bộ trưởng Bộ Tín Lý đã phản đối, không thể chấp nhận được cả hai bên, coi ý tưởng về một công đồng mới là “hoàn toàn quá sớm”.

Đức Bênêđíctô XVI chấn chỉnh lại

Năm 2005, sáu năm sau “Tôi có một giấc mơ” của hồng y Martini, Joseph Ratzinger trở thành Giáo hoàng Bênêđictô XVI, hồng y Martini khi đó đã lớn tuổi và đau yếu, chỉ có một ít phiếu bầu, không giống như một Bergoglio nào đó chưa ai biết là đối thủ cạnh tranh chính của Ratzinger trong mật nghị này – và đã phát biểu bài diễn văn nổi tiếng trước Giáo triều Rôma về tranh chấp trong việc giải thích Công đồng Vatican II.

Phá vỡ hay liên tục? Với Đức Bênêđictô XVI, lựa chọn là rõ ràng: chống lại “khoa chú giải không liên tục và đứt đoạn”, được hỗ trợ bởi “các phương tiện thông tin đại chúng và một phần của thần học hiện đại” thổi trên than hồng của “tinh thần Công đồng”, để vượt ra ngoài các bản văn, ngài ủng hộ “khoa chú giải cải cách”, cải cách mà ngài định nghĩa là “đổi mới Giáo hội trong sự liên tục” với 2000 năm lịch sử và truyền thống. Một chấn chỉnh cho những người muốn đi xa hơn.

Năm 2016, ba năm sau khi được bầu chọn, Đức Phanxicô tuyên bố phải cần 100 năm để tiếp nhận một công đồng. Cũng như Đức Bênêđictô XVI, ngài khẳng định cần một thời điểm chín muồi cho một Công đồng Vatican III. Nhưng, bằng cách mở đầu dự án đồng nghị, bằng cách gieo những hạt giống canh tân Giáo hội với mong muốn củng cố trách nhiệm của các Giáo hội địa phương (ý tưởng này được trình bày trong tông huấn Niềm vui Tin mừng Evangelii Gaudium, văn bản của giáo hoàng được đưa ra vào lúc có thượng hội đồng vùng Amazon diễn ra, mạo hiểm đưa ra một số mục vụ táo bạo, ngài bắt đầu thực hiện giấc mơ của hồng y Martini. Một Vatican III từng mảnh?

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Leonardo Boff: Thượng hội đồng Amazon, “siêu việt” cho Giáo hội

60 năm Công đồng Vatican II Giáo hội tiếp tục cập nhật như thế nào

“Nếu không có Công đồng Vatican II, vụ nổ bung chúng ta chứng kiến ngày nay sẽ diễn ra sớm hơn và còn tệ hơn”

Vatican II: Vì sao Đức Phanxicô xem trọng việc kỷ niệm 60 năm Công đồng

60 năm Công đồng Vatican II Giáo hội tiếp tục cập nhật như thế nào

60 năm Công đồng Vatican II Giáo hội tiếp tục cập nhật như thế nào
 
Các Nghị phụ của Công đồng tập hợp tại Đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma để khai mạc Công đồng, ngày 11 tháng 10 năm 1962 | © Keystone / PAP
cath.ch, I.Media, 2022-10-11
Ngày 11 tháng 10 năm 2022  đánh dấu kỷ niệm 60 năm ngày khai mạc Công đồng Vatican II. Linh mục Daniel Moulinet, giáo phận Moulins và là giáo sư Lịch sử tại Học viện Công giáo Lyon, giải thích cách Đức Piô XII đã đặt những dấu mốc đầu tiên cho cuộc cải tổ Giáo hội mà những người kế vị ngài đã cụ thể hóa.
Đức Phanxicô đặt mình là người trong gia đình Đức Gioan XXIII khi phong thánh cho ngài và ở trong đường lối cập nhật hóa Giáo hội, linh mục Moulinet trở lại với di sản của Công đồng Vatican II, nơi tiếp tục truyền bá tiến trình thượng hội
Linh mục Daniel Moulinet dạy tại Học viện Công giáo Lyon | © UCLY
Đức Phanxicô nói, một công đồng cần phải mất 100 năm để đồng hóa. 60 năm sau, Công đồng Vatican II đã được đồng hóa chưa? Những chủ đề nào còn cần đào sâu?
Linh mục Daniel Moulinet: Tôi tin công đồng đã được đồng hóa hoàn toàn về nhiều điểm: chẳng hạn ở cấp độ phụng vụ, việc tham dự tích cực và có ý thức của tín hữu đã được đa số người kitô hữu đồng hóa. Ngày nay vị trí của Sách Thánh là đã được làm. Chúng ta không còn quan niệm về cấu trúc một bí tích, cử hành thánh lễ mà không có Lời Chúa. Trong quá khứ, điều này không nhất thiết phải như vậy. Bây giờ, bí tích Thánh Thể được xem là một “tổng thể”, không còn phân biệt giữa cái người ta gọi là “trước thánh lễ” và thánh hiến. Lời Chúa đã thay thế.
Về mặt giáo hội học, nhiều khía cạnh đã được tích hợp tốt. Đặc biệt, chúng ta thấy khái niệm “Nhà xứ” (Presbyterium) xuất hiện xung quanh giám mục ở mỗi giáo phận, các linh mục ý thức về điều này hơn trước rất nhiều. Và luôn có những điều cần khám phá. Linh mục cần lắng nghe giáo dân nhiều hơn. Một số giáo sĩ vẫn miễn cưỡng, nhưng Chúa Thánh Thần cũng nói qua giáo dân, như Công đồng nhắc nhở chúng ta.
Những dấu hiệu tiền thân của Công đồng là gì. Chúng ta có thể nói Đức Piô XII cảm thấy cần phải thay đổi không?
Về cấp độ phụng vụ, Đức Piô XII đã mở đường cho những thay đổi quan trọng ngay từ thông điệp về Phụng vụ thánh Mediator Dei năm 1947 của ngài, năm 1943, ngài đã đưa vào thực hành một thông điệp khác, Giáo Hội Là Nhiệm Thể Chúa Kitô, Mystici Corporis Christi. Thách thức là nghĩ về Giáo hội như một thân thể và áp dụng khải niệm này vào phụng vụ. Do đó, mỗi tín hữu trở thành một chi thể của một thân thể: chúng ta không còn có thể nói linh mục cử hành Thánh lễ, và giáo dân chỉ tham dự, như trong rạp hát.
“Đức Piô XII đã chuyển mọi thứ về phía trước, và Đức Gioan XXIII đã khuếch đại phong trào do người tiền nhiệm của ngài khởi xướng”.
Đức Piô XII cũng đã cho phép xuất bản các từ điển có bản dịch sang tiếng địa phương, ví dụ các ấn bản song ngữ la-tinh-Pháp, từ những năm 1950. Ở một số quốc gia như Đức hoặc Trung Quốc, trước Công đồng Vatican II, Giáo hội đã có thể cử hành thánh lễ bằng tiếng địa phương. Điều này không xảy ra ở Pháp, nhưng đối với việc cử hành các bí tích, người ta có thể dùng ngôn ngữ nói, với điều kiện là công thức của bí tích phải được giữ bằng tiếng la-tinh.
Có vẻ như tất cả đều bắt đầu từ Công đồng Vatican II, nhưng điều đó không đúng, trước đó đã có rất nhiều thay đổi. Chúng ta có thể nghĩ đến việc Canh thức Phục sinh năm 1954. Nếu không có triều Đức Piô XII, Công đồng đã không có cùng một xuất phát điểm, nó đã bắt đầu xa hơn nhiều. Đức Piô XII đã chuyển mọi thứ về phía trước, và Đức Gioan XXIII đã mở rộng phong trào do người tiền nhiệm khởi xướng.
Những người theo chủ nghĩa truyền thống thường chỉ trích Công đồng Vatican II vì đã góp phần vào cuộc khủng hoảng bản sắc mà Công giáo trải qua từ những năm 1970. Nhưng ngược lại, chúng ta có thể nghĩ cuộc khủng hoảng này có thể còn bạo lực hơn nữa nếu không có Công đồng không?
Có thể vậy, vì cú sốc với hiện đại có thể còn trực diện hơn. Nhưng trên thực tế, mọi thứ đã chuyển động trong một thời gian dài. Năm 1965, kết luận của Công đồng có thể xem là bước tăng tốc, nhưng không phải là điểm khởi đầu.
Trên thực tế, có hai giai đoạn trong việc tiếp nhận Công đồng. Trong những năm 1965-68, chúng tôi không đặt ra cho mình quá nhiều câu hỏi, chúng tôi nghĩ rằng sự đồng hóa sẽ xảy ra một cách tự nhiên. Ví dụ, các nhóm Thanh sinh công đã làm việc rất nhiều trên Tóm lược Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes. Nhưng ứng dụng có thể hơi quá theo chủ nghĩa chức năng và đơn giản hóa.
Ngày 11 tháng 10 năm 1962, các Nghị phụ Công đồng vào Đền thờ Thánh Phêrô
Chẳng hạn chúng tôi thành lập hội đồng giáo xứ theo mô hình “dân chủ” đảm bảo các linh mục thuộc nhiều nhóm có thể có mặt trong cơ quan này: linh mục công nhân, linh mục giảng dạy, tuyên úy Thanh sinh công, v.v. Chúng tôi làm trong các giáo phận, nhưng mô hình này có lẽ quá tập trung vào việc thích nghi với cách hoạt động của xã hội, mà không đi sâu vào vấn đề. Chúng tôi bắt đầu với bề nổi, thiếu bám rễ thiêng liêng.
Trước những khó khăn và chia rẽ đánh dấu giai đoạn thứ hai của triều Đức Phaolô VI , ngài có cảm thấy thất bại khi đối diện với việc thực thi Công đồng Vatican II, hay ngược lại, ngài nhận thức được sự chậm chạp của tiến trình lịch sử này không?
Đức Phaolô VI, là một người rất nhạy cảm, ngài gánh chịu gánh nặng của cuộc khủng hoảng này của Giáo hội và phải chịu đựng nó. Nhưng một đảo ngược đã diễn ra từ Năm Thánh 1975. Việc tổ chức Năm Thánh này đã làm dấy lên hoài nghi của những người chủ trương một “mục vụ chôn vùi”. Tuy nhiên, sự thành công của Năm Thánh đã thay đổi tình hình. Những cuộc tụ họp lớn này nhắc lại tầm quan trọng của một tôn giáo phổ quát, khi sau Công đồng, một số giáo sĩ không đánh giá cao tầm quan trọng này, chỉ muốn đón nhận những tín hữu kitô “có ý thức”, với một đức tin trí tuệ và lý trí hơn. Việc phục hồi lòng mộ đạo bình dân là hoa trái quan trọng của Năm Thánh, và ngày nay, Đức Phanxicô thường nhấn mạnh tầm quan trọng của hình thức mộ đạo bình dân này.
Di sản quan trọng khác của Năm Thánh 1975 là việc công nhận Canh tân đặc sủng. Được hồng y Suenens, giám chức người Bỉ thúc đẩy, Đức Phaolô VI đã cho những người Canh tân đặc sủng này một chỗ đứng, xem họ như một nhân tố trẻ trung hóa Giáo hội, mang đến một động lực mới. Các giám mục Pháp thời đó, được Thanh sinh công đào tạo tỏ ra miễn cưỡng hơn, nhưng cuối cùng, vào những năm 1980, họ bắt đầu đối thoại với phong trào này, giúp phong trào tự cấu trúc, chấm dứt sự tồn tại của một số cộng đồng ít cấu trúc hơn.
Ngày nay, triều giáo hoàng lâu dài của Đức Gioan-Phaolô II là chủ đề của nhiều bài phê bình, một số cáo buộc ngài đã làm chậm lại Công đồng, vì đã đóng cửa một vài tiến triển nào đó. Nhưng điều này có làm cho ngài bị lên án ai sai không? Hay ngược lại, ngài dấn thân hết mình cho Công đồng trong giáo huấn của ngài?
Tôi nghĩ triều giáo hoàng của ngài hoàn toàn phù hợp với Công đồng, và chính ngài là một nhân tố quan trọng. Ví dụ, chương về thuyết vô thần trong Tóm lược Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes là công của ngài rất lớn. Với tư cách là giáo hoàng, ngài giữ quan điểm công đồng, về tự do tôn giáo, về đại kết, về đối thoại với các tôn giáo khác, khi đối diện với những người tranh chấp định hướng này.
Ở cấp độ giáo hội học, Đức Gioan-Phaolô II đã không đi lui, hoàn toàn ngược lại. Ngài đã chia sẻ trọn con đường công đồng này. Ngày nay, những lời chỉ trích chủ yếu liên quan đến những lệch lạc của Giáo triều vào cuối triều của ngài, vì sức khỏe kém đã không cho ngài thực thi trọn vẹn quyền của ngài. Hiện tượng tương tự cũng xảy ra vào cuối triều giáo hoàng Piô XII. Nhưng sẽ rất đơn giản nếu chỉ nhắm đến những khó khăn này, vì về cơ bản, đó là một triều giáo hoàng vĩ đại.
Tiến trình Thượng Hội Đồng hiện nay có được xem như một cách truyền một làn gió công đồng mới vào đời sống của Giáo Hội không?
Vâng, tôi tin vậy, nhưng chúng ta vẫn phải khám phá ra phương thức vận hành của thượng hội đồng. Đây không phải đơn thần chỉ là một sự kiện, rồi sau đó ai về nhà đó. Tôi nghĩ tương lai của Giáo hội qua việc tông đồ của giáo dân, và từ đó là đào tạo đời sống thiêng liêng cho họ. Nếu chúng ta muốn mọi người tham gia vào đời sống Giáo hội, chúng ta phải xem việc đào tạo đời sống thiêng liêng là trải nghiệm cuộc gặp cá nhân với Chúa Giêsu Kitô. Nhờ có kinh nghiệm này, với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, mọi người sẽ có thể tìm thấy sự nhạy bén để trở thành một phần của Giáo hội và đảm nhận cương vị của họ trong việc xây dựng Giáo hội. Giáo hoàng có lý khi ngài nói về “các môn đệ truyền giáo”, là môn đệ trước hết là… lắng nghe Chúa Giêsu Kitô, để chính mình được dạy dỗ. Phải làm cho lời nói mang một ý nghĩa..
Do đó, cần thiết cộng đoàn kitô hữu phải thực sự là một cộng đoàn huynh đệ, rằng chúng ta hỗ trợ cho nhau. Mỗi giáo xứ cũng phải đảm nhận chiều kích diakonia, phục vụ người nghèo, cũng quan trọng như phụng vụ và dâng lễ. Mối quan hệ với Chúa Giêsu Kitô và mối quan hệ huynh đệ trong cộng đoàn, tôi nghĩ đó là những điều kiện tiên quyết để đời sống đồng nghị thay đổi dần dần đời sống Giáo hội, và để nó được điều chỉnh theo những gì Chúa yêu cầu.
“Chúng ta vẫn còn phải khám phá ra phương thức hoạt động đồng nghị. Đây không phải là làm một sự kiện và sau đó ai về nhà đó.”
Cha có nghĩ rằng có thể triệu tập một Công đồng Vatican III không?
Việc triệu tập một Công đồng Vatican III ngày nay dường như là không thể. Tại Công đồng Vatican II, tất cả các giám mục đã được hình thành trong cùng một khuôn mẫu thần học Âu châu. và bây giờ thì không như vậy. Ngày nay, với quá trình toàn cầu hóa, châu Âu không còn là trung tâm của thế giới. Vì thế, có lẽ có các công đồng lục địa đưa ra một con đường Công đồng phi tập trung, với các văn bản ngắn được Rôma soạn, nhưng sau đó sẽ phải thích ứng và điều chỉnh tùy theo các lục địa và quốc gia.
Marta An Nguyễn dịch
Bài đọc thêm: “Nếu không có Công đồng Vatican II, vụ nổ bung chúng ta chứng kiến ngày nay sẽ diễn ra sớm hơn và còn tệ hơn”

Bài mới nhất