Home Blog Page 1440

Phim tài liệu: Phanxicô, lòng thương xót

Phim tài liệu: Phanxicô, lòng thương xót

Ngày 13 tháng 3-2016, Đức Phanxicô kỷ niệm ba năm triều giáo hoàng của ngài. Một dịp để nhìn lại chân dung của vị giáo hoàng được mọi người trên toàn thế giới yêu mến này. Một lòng yêu mến có được ngay lập tức sau ngày bầu chọn và từ đó cứ tiếp tục tăng lên mãi. Đức Giáo hoàng Châu Mỹ La Tinh đầu tiên của lịch sử là người quy tụ mọi người, cả người tin cũng như người không tin. Cuốn phim tài liệu dài 26 phút bằng tiếng Pháp cố gắng giải thích vì sao ngài được mến chuộng như vậy, qua con đường mà Jorge Mario Bergoglio đi qua trong ba năm vừa qua: con đường do lòng thương xót dẫn đường!

 

Lòng thương xót là trọng tâm đời sống Đức Phanxicô, là nguồn gốc ơn gọi linh mục và bây giờ là động lực cho triều giáo hoàng của ngài. Trong hành vi, cử chỉ, lời nói và trong linh đạo của mình. Ngày 8 tháng 12-2015, khi mở Năm Thánh lòng thương xót, Đức Phanxicô đã tái khẳng định, lòng thương xót là ưu tiên tuyệt đối, là một điều cấp bách. Vì Đức Phanxicô xem lòng thương xót vừa là con đường dẫn đến Chúa, vừa là câu trả lời cho các sự dữ chính của thời đại chúng ta. Đối với ngài, hai khía cạnh này là một.

Rất tiếc là phim bằng tiếng Pháp, nhưng qua hình ảnh, chúng ta cũng thấy con đường của Đức Phanxicô đã đi qua, những con đường đã trở thành quen thuộc với các bạn đã xem hình trong các chuyến đi của ngài ở Vatican cũng như ở khắp nơi trên thế giới.

Marta An Nguyễn

Kinh duy nhất mà tôi không thể nào đọc xong

fr.aleteia.org, Zoe Romanovsky, 2016-03-18

Kinh duy nhất mà tôi không thể nào đọc xong là kinh “Xin hãy nhận lấy” của Thánh I-Nhã

Xin hãy nhận lấy

 

Lạy Chúa,

xin hãy nhận lấy tất cả tự do, trí khôn và cả ý chí con.

Tất cả những gì con có và đang làm chủ, Chúa đã cho con;

nay con xin dâng lại cho Chúa.

Tất cả là của Chúa,

xin Chúa xử dụng hoàn toàn theo tôn ý Ngài.

Lạy Chúa,

xin hãy ban cho con tình yêu và ân sủng Chúa.

Đối với con, thế là đủ.

 Thánh I-Nhã

Angel Pray StatueMột buổi chiều nọ, đang khi ngồi chờ các con tôi xong lớp thể thao, tôi ngồi lật mấy trang sách của nữ tác giả Dawn Eden: Nhớ lại lòng thương xót Chúa: chuộc lại quá khứ và thoát ra các kỷ niệm đau đớn (Remembering God’s Mercy: Redeem the Past and Free Yourself from Painful Memories). Tôi thấy tác giả dùng kinh “Xin hãy nhận lấy” của Thánh I-Nhã làm một trong các tựa chương sách của mình. Nếu có một kinh mà tôi không bao giờ có thể đọc xong, đó là kinh này, bạn có đọc xong không? Nếu bạn đọc xong được, thì bạn mạnh hơn tôi… Kinh “Xin hãy nhận lấy” là một kinh nhiều xúc cảm và rất sâu đậm, nhưng mỗi lần tôi đọc hoặc hát kinh này thì trong đầu tôi đầy cả một loạt suy nghĩ:

Lạy Chúa,

Xin hãy nhận lấy tất cả tự do của con,

Tất cả tự do của con hả Chúa? Và tại sao Chúa không lấy chỉ một ít thôi? Dù sao đó là tự do của con và thẳng thắn mà nói, con không nghĩ con có thể cho Chúa hoàn toàn, ít nhất là trong lúc này. Và rồi, điều này có nghĩa là gì? Con rất tiếc, nhưng con quá hãi sợ. Có thể khi con già? Nhưng thôi, con xin tiếp…

trí khôn và cả ý chí con,

Dạ, Chúa có thể lấy các kỷ niệm xấu của con, như thế càng tốt và con rất vui để chia sẻ các kỷ niệm tốt với Chúa, Chúa cũng đã biết hết rồi. Nhưng tất cả ký ức của con? Con sẽ khô cằn. Con còn muốn xin Chúa ở trong ký ức của con để con thấm nhuần ơn Chúa? Nhưng tại sao Thánh I-Nhã lại không xin như vậy? Con không muốn Chúa lấy hết trí nhớ của con; nó cũng đã không tốt rồi. Còn “trí khôn” của con, xin Chúa đừng lấy. Con thật sự muốn hiểu; con cần hiểu. Con cũng không hiểu điều này muốn nói gì… Và Chúa đã lấy của con?

và cả ý chí của con,

Ui! Kinh này không được chút nào. Con phải ngưng ở đây.

 

Tất cả những gì con có và đang làm chủ,

Chúa đã cho con;

nay con xin dâng lại cho Chúa.

Tất cả là của Chúa,

Trong khi con lại nghĩ, con trả lại Chúa một ít những gì Chúa cho con – có thể. Một phần. Con biết tất cả đều đến từ Chúa và con xin chân thành cám ơn Chúa, đúng, nhưng tại sao Chúa lại muốn con trả lại tất cả? Thánh I-Nhã nghĩ gì vậy?

Tất cả là của Chúa,

xin Chúa xử dụng hoàn toàn theo tôn ý Ngài.

Đúng, con biết tất cả đều là của Chúa, và Chúa có thể làm tất cả những gì Chúa muốn vì con không có tư cách gì để cự lại nếu Chúa thật sự muốn, nhưng xin Chúa đừng làm gì khủng khiếp. Vì dù cho cái gì con cho là khủng khiếp. Bởi vì nó khủng khiếp thật.

Lạy Chúa,

xin hãy ban cho con tình yêu và ân sủng Chúa.

Đối với con, thế là đủ.

Con thật sự muốn điều này. Con thật sự muốn tình yêu và ân sủng của Chúa: lúc nào con cũng xin điều này. Nhưng đúng ra, con không biết thế là đủ. Con biết là nên như thế, nhưng con khi nào cũng muốn hơn. Con nghĩ là bây giờ con đang bị mất tinh thần…

***

Đâu đó, con không nghĩ là Thánh I-Nhã hay các thánh khác có thể đọc kinh này. nhưng trong những chữ này, con nhận biết đó là sự buông bỏ mà con cần để tiến bộ. Nhưng ít nhất con không phải là người duy nhất: trong quyển sách Nhớ lại lòng thương xót Chúa, tác giả nói, trong một thời gian lâu, bà đã không đọc được “lời cầu nguyện của Chúa Giêsu” mà về sau, bà thấy bà thật sự rất cần, kinh đã mang ơn đến cho bà khi bà có can đảm đọc. Còn bây giờ, con sẽ cầu nguyện với kinh “Cầu nguyện trước thập giá của Thánh Damien” của Thánh Phanxicô:

Lạy Chúa ở trên cao sáng láng,

Xin soi sáng các tăm tối trong tâm hồn con

Và cho con một đức tin thật,

Một hy vọng vững chắc

Và một đức ái trọn hảo…

Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch

Người đóng vai Chúa Giêsu trong phim ‘Cuộc thương khó Chúa Kitô’ kể chuyện gặp Đức Gioan Phaolô II

Aleteia | Esteban Pittaro | 29-3-2016

Khi Jim Caviezel còn trẻ, anh phải ở nhà học tiếng Tây Ban Nha trong khi cả nhà thì đi gặp Đức Gioan Phaolô II trong chuyến tông du của ngài đến Vancouver, British Colombia. Anh đã lỡ dịp được thấy Đức Giáo hoàng. Nhưng 20 năm sau, với sự nghiệp vững vàng trong nghiệp điện ảnh, và được nhận đóng vai Chúa Giêsu trong bộ phim Cuộc thương khó Chúa Kitô của đạo diễn Mel Gibson, anh đã có được cơ hội thứ hai.

Và xin đưa ra đây hai phần trong cuộc buổi Đức Gioan Phaolô II tiếp kiến diễn viên Caviezel, được chính anh kể lại, nhưng trong hai lần khác nhau. Một thì nghiêm túc, một thì rất hài hước.

Cùng với vợ mình, anh được cơ hội chào hỏi và chuyện trò với Đức Giáo hoàng trong vòng 5 phút, trong năm 2004 thời điểm bộ phim công chiếu. Điều đầu tiên diễn viên Caviezel làm là cảm ơn Đức Giáo hoàng vì lá thư ngài gởi đến các nghệ sỹ, một lá thư đã có tác động lớn đến bản thân anh. Anh cũng cảm ơn Đức Gioan Phaolô bởi trong triều giáo hoàng của mình, ngài đã đề cao Đức Trinh nữ Maria.

Và khi được Đức Gioan Phaolô hỏi, anh cũng chia sẻ với Đức Giáo hoàng về cách anh chuẩn bị để đóng vai Chúa Giêsu trong phim. Trên chương trình truyền hình, một ngày trước ngày mất của Đức Gioan Phaolô, diễn viên Caviezel kể lại là khi Đức Giáo hoàng hỏi anh đã chuẩn bị thế nào để đóng vai Chúa Giêsu, thì anh bối rối trả lời là để chuẩn bị, anh đã chuyện trò dành thời gian với những người Ý …và anh còn nói, ‘Con nhĩ Chúa Giêsu là người Ý.’

Trước sự ngạc nhiên của Đức Giáo hoàng, anh tiếp: ‘Ngài đã không rời khỏi nhà cho đến khi 30 tuổi. Ngài luôn luôn đi chơi cùng 12 người bạn không đổi, và mẹ Ngài tin Ngài là Chúa, vậy nên, cha biết đó, Ngài hẳn là người Ý.’

Đức Gioan Phaolô II, nói tiếp ngay, mặt tỉnh queo, ‘Con nhầm. Ngài là người Ba Lan đó.’

March 15 2004 : Pope John Paul II meets the actor Jim Caviezel in the Vatican.Trong các bài phỏng vấn, diễn viên Caviezel, một người Công giáo, nhớ lại tầm quan trọng của Đức Gioan Phaolô II trong nghiệp diễn viên của anh, ngay cả khi anh cố gắng thuyết phục cha anh về nghiệp diễn xuất của mình. Cha anh chỉ đồng ý ủng hộ quyết định của anh khi anh cho ông biết Đức Wojtyla từng là một diễn viên.

Anh cũng giải thích rằng huấn giáo của Đức Gioan Phaolô II giống như bài đào tạo cho anh vậy.’ “Diễn xuất của tôi dựa trên sự thật. Và mọi điều tôi đọc về Đức Thánh Cha, trong lá thư ngài gởi đến các diễn viên, là ngài nói về sự thật. Và có sự thiện, có sự dữ. Điều quan trọng là đừng làm cho sự thiện có vẻ như sự dữ hay làm cho sự dữ có vẻ như sự thiện. Phải làm cho nó đúng như nó là. Đó là điều mà tôi đã học được. Và tôi nghĩ, khi ngài nói với mọi người, là ngài nói từ trái tim của mình. Và dù cho bạn đang nói trước một triệu người, hay bạn đang diễn với một diễn viên khác, thì bạn vẫn nói từ trái tim của mình. Đây là điều mà tôi học được nơi ngài.”

Đức Gioan Phaolô II đã viết trong lá thư gởi các nghệ sỹ, ‘Trong Chúa Kitô, Thiên Chúa đã hòa giải thế giới với Ngài. Tất cả những ai tin đều được kêu gọi làm chứng cho điều này, nhưng nó tùy thuộc vào anh chị em, những người đã hiến đời mình cho nghệ thuật, để bằng hết tài năng của mình, tuyên bố rằng trong Chúa Kitô, thế giới được cứu rỗi.’

Và diễn viên Caviezel đã được thể hiện đức tin của mình trong bộ phim Cuộc thương khó Chúa Kitô.

J.B. Thái Hòa chuyển dịch

Fabrice Hadjadj: “Huyền nhiệm của Sống Lại biến bi kịch thành cứu rỗi”

Fabrice Hadjadj: “Huyền nhiệm của Sống Lại biến bi kịch thành cứu rỗi”

lefigaro.fr, Marie-Laetitia Bonavita, 2016-03-25

Nhân dịp lễ Phục Sinh, văn sĩ triết gia Fabrice Hadjadj có bài nói về mầu nhiệm cứu rỗi vừa sâu xa vừa nhẹ nhàng.

Fabrice Hadjadj 2

Le Figaro: Xuất thân từ một gia đình Do Thái và vô thần, làm thế nào ông lại trở thành người công giáo?

Fabrice Hadjadj: Chắc chắn, thì tôi lại trở thành người vô thần hơn và do thái hơn. Một cách trung thực, tôi đã cố gắng là người vô thần, nhưng tôi nhận ra nếu vứt bỏ Chúa tôi sẽ ngốc, vì tôi sẽ chế ra một ngẫu tượng nhỏ tí theo kiểu của tôi, chẳng hạn: ngẫu tượng sẽ là tiền bạc, khoái lạc, danh dự và ngay cả nhận định riêng của tôi. Chủ nghĩa vô thần đã giúp tôi vứt bỏ các loại thần thiêng tự dựng, để đón nhận Chúa, Đấng làm cho chúng ta siêu việt. Và rồi, khi tôi cầu nguyện cho cha tôi đang lâm bệnh, bỗng tôi ngộ ra: một cách thình lình, tôi thấy chắc chắn Chúa đã là người thợ mộc do thái – điều này nghe khá chướng tai, nhưng phải nhận biết điều này, đặc biệt là ngày nay khi người ta đang trở về một loại bài do thái nào đó và dấy lên một cơn sốt kỹ thuật, đẩy chúng ta không còn tin vào người thợ mộc nhưng tin vào siêu Internet. Vậy mà đó chính là huyền nhiệm kitô giáo.

Tất cả chủ đề quyển sách của ông là để nhấn mạnh sự Sống Lại, một sự Sống Lại lấy gốc rễ trong đời sống hàng ngày. Không dễ phải không?

Ngay khi con người hình dung một bản thể sống lại trong vinh quang, thì bản thể này được xem như một siêu-siêu nhân làm những chuyện phi thường. Người này xuống địa ngục và khi họ trở lại, họ không mang lại cho chúng ta một lời nói nào ở phía bên kia, một bí truyền, một tiếng nói, một ánh sáng chưa từng có trước đây sao? Vậy mà Chúa Giêsu khi hiện ra với các môn đệ, Ngài nói: “Bình an ở với các con,” có nghĩa là một lời chào. Rồi ngài ăn với họ, bình giải Sách Thánh cho họ, như bất cứ một giáo sĩ nào hay như bất cứ một người phiêu lưu nào, sau chuyến đi họ về kể cho chúng ta nghe chuyến phiêu lưu mình vừa trải qua. Bộ dáng bên ngoài của Chúa đôi khi giống bộ dáng bên ngoài của người đầu tiên được thấy: bà Maria-Mađalêna tưởng Chúa là người làm vườn, lại còn nghi ngờ người này đã ăn cắp xác của Chúa; các người trên đường Êmau thì xem Chúa như người bàng quan, không biết chuyện gì đang xảy ra ở Giêrusalem. Tại sao vậy? Vì Chúa vừa thật sự cứu tạo vật của mình trong cái gọi là nhân bản nhất của nó. Và vì đời sống hàng ngày là tuyệt tác của Ngài, một cái gì mà chưa ai làm trước Ngài, đến mức mà Ngài đã tạo dựng ra vũ trụ để chưng nó ra trước mặt trời và các ngôi sao.

 

“Sự hiện hữu của Chúa là một cái gì kiểu như điều kiện khả thể để hoài nghi, thậm chí còn chữa lành cho chủ nghĩa vô thần”

Fabrice Hadjadj

 Thức ăn trần thế có một chỗ quan trọng trong các Phúc Âm (bàn thánh, Chúa Giêsu làm phép lạ bánh và cá). Cái bụng là thần thiêng ở điểm nào?

Ăn cái gì để Chúa Giêsu biến đổi sau khi Ngài sống lại? Một cách tự nhiên, đó là biến đổi một cái gì nơi chính mình, qua một việc bình thường, nhưng lại như một phép lạ: khi Léa Seydoux ăn gà thì con gà biến thành cô gái James Bond! Nhưng điều này đánh dấu sự lệ thuộc của chúng ta về mặt môi sinh đối với thức ăn, và như thế đối với cả toàn vũ trụ, vì, để nhận các thức ăn này, thì phải có mặt trời, mưa gió, mùa màng, ong ve, nông nghiệp (vì chính nông nghiệp là nền tảng của kinh tế, chứ không phải hệ thống tài chánh cao cấp hay kỹ thuật số). Cuối cùng, khi bạn mời “vào bàn!”, thì chuyện này không dính gì hết với thứ trật ý thức hệ hay liên thế hệ: các người trẻ người già, người thông minh người đơn sơ, con người và súc vật (con chó nhỏ của người phụ nữ thành Cana), Chúa ở nơi con người (ba người được gởi đến tổ phụ Abraham) và những người phản bội (Giuđa dùng trong bữa tiệc của Đấng Thiên sai), tất cả đến và mang muối đến dù có các khác biệt, các tranh chấp của họ. Ngôi Lời đã kết hợp với cái bụng vì chính đó là nơi mang công giáo tính một cách sâu đậm.

Thánh tông đồ Tôma nghi ngờ sự sống lại của nhiệm thể Chúa Kitô. Tại sao ông nói: “Nếu bạn nghi, bạn hãy nghi đến cùng: rằng nghi ngờ của bạn sẽ là một lòng tin tốt”?

Bởi vì tôi có đầu óc các-tê-siên rành rọt. Các con vật, chúng nó không nghi ngờ. Giống như triết gia Pháp Descartes đã chứng minh một cách tài tình, nếu chúng ta nghi ngờ tất cả, ngay cả nghi ngờ đến chính mình, là vì chúng ta đã có trong đầu một ý tưởng của Vô Tận. Đó là vì sao dù có cái gì đập trước mắt thì nó có thể mang một khoảng cách: một cái gì vẫn còn là hữu hạn, chưa phải là Chúa. Sự hiện hữu của Chúa là một cái gì kiểu như điều kiện khả thể để hoài nghi, thậm chí còn chữa lành cho chủ nghĩa vô thần. Nhưng Thiên Chúa vô tận, vừa mới mở lòng ra với Chúa thì Ngài trả chúng ta lại về cái hữu hạn, giống như tạo vật yêu quý của Ngài… Để tin cho được, Thánh Tôma không những đòi thấy mà còn đòi lấy tay sờ vào các vết thương của người Sống Lại. Ông đòi hỏi một loại phép lạ ngược lại. Trong một phép lạ bình thường, các vết thương sẽ biến mất. Với Người Sống Lại, các vết thương vẫn còn đó, mãi mãi. Và đó là điều Thánh Tôma hy vọng, vì ông vứt loại vinh quang phân biệt vật chất tinh thần, không xem các thảm kịch của lịch sử là nghiêm trọng, làm như sự khủng khiếp không xảy ra.

“Ai mơ một con người mạnh hay người phục tùng thì về bản chất là bất lực: họ không biết kinh ngạc thán phục trước người đến đầu tiên”

Fabrice Hadjadj

Làm gì khi đối diện với cái mà ông tố cáo như hai sự bài-truyền tin (contre-annonciation) ngày nay: chủ nghĩa chuộng kỹ thuật và chủ nghĩa hồi giáo?

Một mặt, quả thật, có một loại chủ nghĩa chuộng kỹ thuật, nó đưa ra một bản sao nhại đi nhại lại của Con Người Mới: thay vì ngôi Lời mặc xác phàm, thì xác phàm mặc bít (bit, đơn vị thông tin chỉ có hai số trị khác biệt là 0 và 1)… Mặt kia là chủ nghĩa hồi giáo, không phải là thiên thần Gabriel truyền tin cho Đức Mẹ, và cũng không phải để tôn vinh bản thể con người, nhưng để đặt bản thể con người dưới sự phục tùng của một Luật rũ bỏ trách nhiệm (mà trong đó là bộ đôi của thảo chương và tính toán hoàn toàn). Trong cả hai trường hợp, người ta từ chối thân phận con người trong hoàn cảnh bi thảm của nó, trong sự sinh ra, trong thịt da và trong tự do của nó. Nhưng làm sao có thể cự được với sự từ chối của một thiên đàng tự động hay tự động hóa này? Tiện nghi vật chất và tiện nghi tinh thần rất cám dỗ. Để không sa vào chước cám dỗ này, để đành chịu ở trong thân phận con người thì càng phải tin hơn nữa vào Chúa đã mặc xác phàm nơi người thợ mộc do thái bị giết chết năm 33 tuổi này. Vì khi đó người ta tin chắc, dù với tất cả hoài nghi của mình, rằng để có một cuộc sống thiêng liêng thì không cần phải chờ những vật dụng mới lạ nhất của sự phát triển không giới hạn, cũng không chờ ở thể chế luật lệ hồi giáo. Vả lại, ai mơ một con người mạnh hay người phục tùng thì về bản chất là bất lực: họ không biết kinh ngạc thán phục trước người đến đầu tiên.

Thiên đàng sẽ tại thế nếu mỗi người đều tin vào sự Sống Lại?

Chắc chắn là không. Đức tin không có gì là một giải pháp kỹ thuật hay một giải pháp dứt khoát. Sẽ vẫn còn thảm kịch, sẽ vẫn còn đau nhưng đó là “thuộc tính của con người”, để có thể nói, theo “như cũ”, thời người ta còn cắt sống cổ và chẳng áy náy lương tâm gì… Ngày nay, những việc làm khủng khiếp nhất, những chế độ độc tài nhất, những chuyện tàn phá nhất phạm được là vì chúng ta nỗ lực để bình thường hóa mọi chuyện và muốn dứt khoát đi ra khỏi thảm kịch. Và như bạn biết đó, muốn dứt khoát đi ra khỏi hoàn cảnh này thì phải không còn đàn bà, không còn trẻ con. Huyền nhiệm của sự Sống Lại không có ý định loại bỏ thảm kịch, nhưng hoàn thiện nó, biến đổi nó thành cứu rỗi, khám phá ơn ban dưới cái thông thường và thay đổi cái mất mát bằng của lễ.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: Fabrice Hadjadj: Minh triết của bác ái, một linh đạo nhập thể

Sự Thiện Vinh Thắng

Sự Thiện Vinh Thắng

Ronald Rolheiser, 28 Tháng Ba 2016

 Goodness

Tảng đá đã lăn khỏi mộ Chúa Giêsu sẽ tiếp tục lăn khỏi mọi huyệt mộ. Sự thiện không thể nào bị giam giữ, hay bị chết. Sự thiện thoát khỏi những kẻ tìm bắt, không bị giam cầm, băng qua, lướt đi, thậm chí có khi rời giáo hội, nhưng luôn luôn vươn lên, hết lần này đến lần khác, trên khắp thế giới. Đó là ý nghĩa của Phục Sinh.

Sự thiện không thể bị giam cầm hay bị giết. Chúng ta đã thấy điều này trong cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu. Có một số đoạn trong Phúc âm cho chúng ta ấn tượng là Chúa Giêsu rất khó bị bắt. Có vẻ như nếu Chúa chưa cho phép, thì không một ai làm gì được Ngài. Chúng ta thấy chuyện này nhiều lần. Lúc mở đầu sứ vụ, khi những người cùng quê Nazareth nổi giận vì lời của Ngài, lôi Ngài lên dốc núi để đẩy Ngài xuống, thì ‘Chúa băng qua giữa họ mà đi.’ Về sau, khi các nhà cầm quyền cố gắng bắt Ngài, thì Chúa Giêsu cũng ‘lướt đi.’ Và, trong một lần khác, khi Ngài ở trong đền thờ, và họ cố gắng bắt Ngài, thì đơn giản là Ngài rời đền thờ và ‘không một ai làm gì được Ngài bởi giờ của Ngài chưa đến.’ Tại sao lại không thể bắt được Ngài? Chúa Giêsu quá phi phàm về mặt thể lý, nên không một ai có thể giam cầm Ngài được ư?

Những câu chuyện ‘lướt đi’ này mang tính tượng trưng cao. Bài học cho chúng ta không phải là về sự lanh lẹ của Chúa Giêsu, nhưng là nhận thức rằng Lời Chúa, ơn Chúa, sự thiện của Thiên Chúa, và quyền năng Thiên Chúa không thể nào nắm giữ, giam cầm hay bị giết. Những sự của Thiên Chúa đầy phi phàm. Không bao giờ bị giam cầm, không bao giờ bị giết, và ngay cả khi có vẻ như đã bị giết, thì tảng đá chắn mộ cuối cùng luôn luôn lăn ra. Sự thiện tiếp tục phục sinh từ mọi hầm mộ.

Và sự phục sinh không dứt của sự thiện, chứ không phải của sự dữ và độc ác, cho chúng ta thấy chân lý về thế giới và cuộc đời của chúng ta. Nhà văn Do Thái-Hungari, Imre Kertesz, đã đoạt giải Nobel Văn học năm 2002, đã có một chứng tá thâm thúy về điều này. Ông từng là một cậu bé trong trại giết người của Đức Quốc xã, nhưng điều ông nhớ nhất về quãng thời gian này, không phải là những bất công, tàn ác, và cái chết mà ông chứng kiến ở đó, nhưng là những hành động nhân ái, trìu mến và vị tha giữa sự dữ. Vì thế sau chiến tranh, ông mong muốn đọc hạnh các thánh hơn là tiểu sử các tội phạm chiến tranh. Vẻ ngoài của sự thiện lôi cuốn ông. Với ông, có thể hiểu được sự dữ, còn sự thiện thì sao? Ai có thể giải thích được? Nguồn cội sự thiện là gì? Tại sao sự thiện cứ tuôn ra, tuôn tràn trở lại trên khắp cõi trái đất, trong mọi tình trạng thế nào chăng nữa?

Sự thiện tuôn trào khắp mọi nơi bởi sự thiện và quyền năng của Thiên Chúa là nguồn cội của tất cả mọi hiện hữu và sự sống. Đây là những gì được mặc khải trong sự phục sinh của Chúa Giêsu. Biến cố Phục Sinh mặc khải cho chúng ta nguồn cội khởi thủy của tất cả mọi sự, tất cả mọi hiện hữu và sự sống, nguồn cội đó tốt lành, nhân từ và yêu thương. Hơn nữa, Phục Sinh còn mặc khải cho biết sự tốt lành, nhân từ và yêu thương đó là sức mạnh tối thượng trong hiện thực. Những sự này là lời quyết định cuối cùng, và sẽ không bao giờ bị giam cầm, bị giết, hay bị làm ngơ hoàn toàn. Những sự này sẽ băng qua, băng qua không ngừng, băng qua luôn mãi. Đến cuối cùng, như Imre Kertesz nhận định, sự thiện lôi cuốn hơn sự dữ.

Và như thế chúng ta ở trong bàn tay an toàn. Bất chấp tin tức trong ngày có tệ đến thế nào, bất chấp cuộc sống chúng ta có đầy đe dọa thế nào, bất chấo tình hình trong vùng và toàn cầu có diễn biến xấu thế nào, bất chấp tình trạng bất công và tàn ác thế nào, và bất chấp sự giận dữ và hận thù có lan tràn thế nào, thì tình yêu và sự thiện sẽ xuất lại, sẽ lại xuất hiện, và đến cuối cùng sẽ chiến thắng.

Chúa Giêsu dạy rằng nguồn cội của mọi sự sống và hiện hữu là sự thiện và tình yêu. Ngài cũng hứa cho chúng ta một cái kết thiện hảo và yêu thương. Trong sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho chúng ta thấy Ngài có quyền năng để thực hiện lời hứa đó. Sự thiện và tình yêu sẽ chiến thắng! Cái kết chuyện đời chúng ta, cho cả thế giới và cho riêng chúng ta, đã được viết sẵn rồi, và đó là một cái kết có hậu.  Chúng ta đã được cứu. Sự thiện là cam đoan cho chúng ta. Trìu mến chờ chúng ta cuối đường. Chúng ta chỉ cần sống với sự thật tuyệt diệu này.

Người ta không thể nào bắt được Chúa Giêsu, cho đến khi Ngài cho phép nó xảy ra. Họ đặt xác Chúa trong mồ đá, và khóa lại bằng tảng đá lớn, nhưng tảng đá đã lăn ra. Các môn đệ đã bỏ Chúa khi Ngài lâm nạn, nhưng cuối cùng các vị đã trở lại với lòng hiến thân tận tâm hơn bao giờ hết. Các môn đệ tiên khởi đã bị bách hại, đã bị giết, nhưng thông điêp của Chúa vẫn lan truyền hơn nữa. Các giáo hội có khi bất trung, nhưng Thiên Chúa băng qua những hàng rào đền thờ cụ thể đó. Người ta mở miệng tuyên bố Thiên Chúa đã chết biết bao nhiêu lần, nhưng hàng tỷ người vừa mừng lễ Phục Sinh.

Sự thiện không thể bị giết. Đó là điều chúng ta tin.

J.B. Thái Hòa chuyển dịch

Một em bé 5 tuổi người Mỹ mong gặp Đức Giáo hoàng trước khi em bị mù

Một em bé 5 tuổi người Mỹ mong gặp Đức Giáo hoàng trước khi em bị mù

aleteia.org, 2016-03-28

Elisabeth Myers -Lizzy

Thứ tư 30 tháng 3-2016, Đức Phanxicô sẽ gặp em Lizzy trong buổi tiếp kiến chung. Đức Phanxicô là một trong những nhân vật cuối cùng em mong được gặp trước khi mình bị mù. Em bé người Mỹ 5 tuổi từ khi sinh ra đã chiến đấu chống một căn bệnh di truyền rất hiếm, đó là hội chứng Usher, một hội chứng làm cho em sẽ bị mù. Và trước khi đôi mắt của em mù hẳn, Đức Phanxicô sẽ gặp em vào buổi tiếp kiến ngày 30 tháng 3 để ôm em, khuyến khích em.

Em bé Elisabeth Myers, Lizzy là tên gọi ở nhà, em sinh ra và sống ở bang Ohio với người chị lớn hơn em 3 tuổi, cha mẹ em gốc Ý. Trước khi đôi mắt của em Lizzy không còn thấy, gia đình quyết định cho em một cơ hội duy nhất để gặp Đức Giáo hoàng, một ước mong mà em thường ấp ủ!

Cha mẹ em đã lên một danh sách để em xem, hy vọng các hình ảnh này sẽ ghi khắc vào trí nhớ em: Thác Niagara, hừng đông ở Bắc Cực, hoàng hôn ở bãi biển và các tuyệt tác nghệ thuật. Họ cũng muốn cho em có những sinh hoạt bình thường như đi sở thú, đi leo núi.

Khi tạp chí Mỹ People quan tâm đến trường hợp của em thì một công ty hàng không Thổ Nhĩ Kỳ tặng gia đình em bốn vé khứ hồi để đến Rôma gặp Đức Giáo hoàng.Ngày 29 tháng 3, em sẽ đến Rôma trên chuyến bay miễn phí do một hãng hàng không Thổ Nhĩ Kỳ tặng, giấc mơ em hằng ấp ủ sẽ được thực hiện. Ở thủ đô nước Ý, cả gia đình sẽ được các thiện nguyện viên của tổ chức Unitalsi lo, đây là một tổ chức công giáo lo cho khách hành hương và người bệnh, họ giúp một tay để thực hiện giấc mơ này.

Vatican cho biết, «Đức Giáo hoàng sẽ rất vui khi được gặp em bé Lizzy vào cuối buổi tiếp kiến ngày thứ tư 30 tháng 3», một ưu tiên chỉ dành cho các nhân vật lớn. Đối với Lizzy, Đức Phanxicô sẽ không theo nghi thức, ngài sẽ đến gặp em và ban phép lành cho em. Cũng có thể ngài sẽ mời gia đình em về Nhà trọ Thánh Mácta của ngài.

Nhưng vì sao một em bé ở một ngoại ô nước Mỹ xa xôi lại muốn một trong các hình ảnh cuối cùng em còn thấy là hình ảnh của Giáo hoàng Argentina này? Theo gia đình em cho biết, em Lizzy được đánh động bởi sự chân thành, bởi tình phụ tử khi Đức Giáo hoàng  Bergoglio nói chuyện với các em bé, các người trẻ.

Một thăm dò ý kiến với 150 người trẻ tuổi từ 19 đến 21 và từ 27 đến 29 cho biết, Đức Phanxicô «tuyệt  đối là người được thế hệ trẻ,” cho dù khuynh hướng chính trị, tôn giáo thế nào đều đồng ý về ngài như vậy.

Một nhà lãnh đạo, không những hướng dẫn và phục hồi lại Giáo hội công giáo, Đức Phanxicô cũng làm cách mạng qua ngôn ngữ và phương cách đối thoại với người trẻ, mà theo cuộc thăm dò này, họ rất «mến chuộng phong cách, cách từ chối một vài ưu tiên, sự gần gũi với người khác, những lời nói giàu lòng thương xót, sự quan tâm đến người nghèo, người bệnh và tất cả những người đau khổ», như chính em bé Lizzy, người từ Ohio bay đến Vatican để gặp Đức Phanxicô trước khi em không còn được thấy.

Marta An Nguyễn

Giải mã phản ứng của người Công giáo với Đức Giáo hoàng Phanxicô

Crux | John L. Allen Jr. | 27-03-2016

 Hồng y Bergolio và Đức Gioan Phaolô II

Trong hơn một phần tư thế kỷ, từ 1978 đến 2005, thánh Gioan Phaolô II là một trong những nhân vật được mến mộ nhất thế giới, với con số khảo sát luôn cao và các đám đông nồng nhiệt. Cho đến tận hôm nay, thánh lễ an táng ngài vẫn là sự kiện trực tiếp lớn nhất trong lịch sử truyền hình.

Nhưng như luôn luôn xảy ra với những lãnh đạo mạnh, đôi khi ngài cũng phân cực bên trong thể chế mình dẫn dắt.

Đặc biệt, những người Công giáo có chiều hướng chủ nghĩa tự do hơn, thường lên tiếng rằng Vatican có quá nhiều quyền hành, và rằng Giáo hội trở nên quá cứng ngắc và giáo điều. Nhưng bởi một gene Công giáo thâm sâu, mọi người ngần ngại chỉ trích Giáo hoàng trực diện, nên đã phát triển một thuật ngữ cho người ta nói ra những điều này một cách tránh né hơn.

Nếu bạn có nghe một thần học gia hay một giám mục nói về tầm quan trọng của ‘đoàn thể tính’ -chẳng hạn nói về ý tưởng là tất cả các giám mục nên cai quản Giáo hội như một đoàn thể, chứ không phải một vương quyền tuyệt đối ở Roma – thì đó thường được hiểu là những người đứng về chủ nghĩa tự do. Cũng như thế, khi nói đến việc Giáo hội cần ‘mục vụ’ hơn, thường nghĩa là đừng quá xét nét kỷ luật và giáo điều.

Ngày nay, chúng ta cũng có chuyện tương tự như thế với Đức Giáo hoàng Phanxicô. Ngài được mến mộ toàn cầu, nhưng theo cách nào đó lại gây chia rẽ trong Giáo hội. Trong trường hợp này, là những người Công giáo bảo thủ đang hoang mang.

AR-310189936

Và tôi xin đưa ra đây, cách giãi mã bốn kiểu nói của những người Công giáo bảo thủ:

‘Rõ ràng’ Khi ai đó nói về tầm quan trọng của việc cần rõ ràng về huấn giáo của Giáo hội, thì thường có nghĩa là họ thấy một vài lời nói của Đức Phanxicô có vẻ luộm thuộm, dễ hiểu nhầm, chẳng hạn như câu nói nổi tiếng của ngài, ‘Tôi là ai mà phán xét.’

‘Kẻ thù trong Giáo hội’ Khi bạn nghe người Công giáo nào nhất quyết rằng Giáo hội thực sự có những kẻ thù, thì đó có thể là sự khó chịu trước những tán thưởng mà thế giới thế tục dành cho Đức Phanxicô. Đây là cách để nói rằng cá tính ‘chẳng lẽ chúng ta không chung đường được hay sao?’ của ngài có nguy cơ hơi ngây thơ, bởi không phải ai cũng thực sự là người bạn của đức tin như vẻ ngoài của họ.

Tuần này, tôi dự lễ Thứ năm Tuần Thánh ở Roma, tại một giáo xứ cách Vatican chừng mười phút lái xe. Cha xứ đã nhấn rõ điểm này rằng, ‘có người không thích nói ra, nhưng Giáo hội thực sự có những kẻ thù.’ Dù sao đây cũng là một lời nhắc nhở rằng, ngay cả trong sân sau của Đức Giáo hoàng, bạn vẫn có thể thấy những người không thực sự ủng hộ hoàn toàn với mọi điều ngài nói và làm.

‘Thiêng liêng là trên hết’ Khi một người Công giáo nhất quyết rằng điều quan thiết của Giáo hội không phải là làm việc bác ái, như cho người đói ăn hay chăm sóc cho người nghèo, nhưng phải là các giáo huấn và thực hành thiêng liêng, thì đó có thể là dấu hiệu lo lắng rằng Đức Phanxicô nhấn mạnh quá nhiều về các việc thiện và lại không nhấn đủ về khía cạnh siêu nhiên, bao gồm đời sống phụng vụ của Giáo hội.

‘Tội lỗi’ Có những người lo lắng việc Đức Phanxicô nêu bật lòng thương xót có thể bị hiểu lầm thành kiểu như ‘Tôi ổn, anh cũng ổn’ một thái độ lấp liếm hiện thực tội lỗi của thế gian. Khi có ai nhất quyết rằng lòng thương xót chỉ đến khi ai đó đã sa ngã, thì có thể là mong muốn Đức Giáo hoàng mạnh tay hơn với tội.

Tất nhiên, có những giải pháp cho tất cả những mâu thuẫn này. Người ta có thể vừa rõ ràng vừa linh hoạt trong mục vụ, cũng có thể dấn thân cho việc bác ái và đời sống thiêng liêng như nhau.

Nhưng thường luôn có vấn đề nêu bật điểm này hay điểm kia, và hoàn toàn không có gì ngạc nhiên khi một Giáo hội với hơn 1.200.000.000 tín hữu, hơn 400.000 linh mục và 5000 mục trên toàn thế giới, không phải ai cũng cùng chính xác điểm nhấn với Đức Giáo hoàng.

Và tôi nghĩ có thể thêm một điểm nữa là: Làm giáo hoàng không dễ dàng gì.

J.B. Thái Hòa chuyển dịch

Barnabé Hounguevou: Tu sĩ Dòng Tên người Bénin, Phi Châu ở đất Trung Quốc 

Barnabé Hounguevou: Tu sĩ Dòng Tên người Bénin, Phi Châu ở đất Trung Quốc

Báo Le Brigand số 521, tháng 1-4 năm 2016

Trong số báo Brigand vừa qua, chúng tôi đã giới thiệu linh mục người Burunda Ladislas Nsengiyumva đi truyền giáo ở Trung Quốc. Hôm nay chúng tôi xin giới thiệu tu sinh trẻ Phi Châu Barnabé Hounguevou, anh đã đáp lời kêu gọi lên đường đi truyền giáo ở Trung Quốc. Theo lời yêu cầu của bề trên, anh đã để ra hai năm để học tiếng Quan Thoại, và đang tiếp tục được đào tạo ngành mục vụ trẻ ở Đài Loan.

Barnabé Hounguevou

Linh mục Pierre Bélanger: Barnabé Hounguevou, anh là một sinh viên Dòng Tên người Bénin, Phi Châu, bây giờ anh ở Đài Loan trong môi trường người Hoa… Xin anh cho biết tiến trình của anh, con đường dẫn anh đến đời sống tu trì và dẫn anh đến Đài Loan…

Barnabé Hounguevou: Câu chuyện ơn gọi của con bắt đầu từ thuở thơ ấu. Con nhớ con rất ngưỡng mộ một linh mục thừa sai Pháp, cha đến truyền giáo ở Phi Châu. Cuộc đời của cha đã tác động đến con rất nhiều. Nhưng khi con lên trung học thì con để dự định đi tu qua một bên. Khi lên trung học đệ nhị cấp, con bắt đầu lui tới Dòng Tên, nhưng con không có chủ đích thành tu sĩ Dòng Tên. Con chỉ muốn trao đổi với các cha Dòng Tên để biết Chúa, biết Giáo hội.

Chỉ sau khi đi tĩnh tâm ba ngày với họ, con thấy có một cái gì thay đổi trong lòng con. Con thật sự được đánh động với phút hồi tâm và với cách cầu nguyện theo Thánh I-Nhã. Sau khi đi tĩnh tâm về, con tiếp tục thực hành những gì con đã được học. Sau một thời gian, con bắt đầu ý thức hơn về những gì Chúa đã làm cho cuộc đời con. Con biết chú tâm đến các tác động nội tâm của con. Vì thế có nhiều câu hỏi đến với con, con nghĩ với cách cầu nguyện này, con có thể làm cho nhiều người được hưởng lợi, lúc đó, con bắt đầu nghĩ đến Dòng Tên.

Học xong trung học, con vào đại học, con học ngành địa lý. Con ở trong phong trào sinh viên và con muốn góp phần vào việc phát triển đất nước con. Và vì con không thấy một mối dây liên hệ trực tiếp nào giữa ơn gọi đi tu và việc phát triển nên con để ơn gọi qua một bên, con lo chuyện khác. Dù vậy, con luôn bị giằng co: một phần, con muốn thay đổi các chuyện, bằng cách đóng một vai trò trong việc phát triển Bénin, nhưng mặt khác, một phần, con cảm nhận khát khao một cái gì siêu việt mà con không thể nào đáp ứng được.

Con giữ một đức tin sống động: con làm việc ở giáo xứ, con ở trong nhóm cầu nguyện gọi là Lửa Mới. Dù con thật sự chưa ý thức, nhưng tất cả những chuyện này đã nuôi dưỡng ơn gọi của con.

Làm thế nào để cuối cùng con có được quyết định?

Giữa các dằng co nội tâm này, con may mắn tham dự một khóa tĩnh tâm tám ngày, khi đó mọi sự trở nên rõ ràng với con. Con không thể nào tiếp tục duy trì một lúc hai chương trình, con phải quyết định. Và con không thể nào chạy trốn: ơn gọi đi tu đã ở đó. Dù sao con cũng bỏ ra một ít thì giờ để kiểm xem ước muốn đi tu của con có còn hay không, khi con không còn ở trong bầu khí của khóa tĩnh tâm. Đó là thời gian nhận định: con tin chắc Chúa đã gọi con. Sau hai năm, con xin vào Dòng Tên.

Thử thách đầu tiên: vì con xong bài khảo luận địa lý một tuần sau khi khai giảng tập viện, nên nhà Dòng bắt con chờ một năm. Dù sao, đây cũng thêm một dịp để con nhận định: con có sẵn sàng “mất” một năm để vào Dòng Tên không? Nhưng Chúa đã làm nhiều việc: nếu không có năm “mất” này thì hôm nay con không ở Đài Loan. Nếu con vào nhà Dòng sớm hơn một năm thì con không để ý đến việc đi truyền giáo ở Trung Quốc, một dự án mà Bề trên Giám tỉnh của con xem rất quan trọng.

Vì sao người ở Phi Châu lại quan tâm đến Trung Quốc hay Đài Loan?

Phi Châu và Trung Quốc  là các ưu tiên của Dòng Tên trên thế giới. quan trọng là phải xây cầu cho hai thực thể này. Mặt khác, Dòng Tên quan sát những gì đang xảy ra trên thế giới: Trung Quốc đang trở mình thành cường quốc kinh tế và chính trị. Trung Quốc lại đang tăng cường quan hệ rất nhiều với các nước Phi Châu. Như thế đối với Dòng Tên, quan trọng là phải có các tu sĩ am hiểu hai môi trường để làm việc cho một sự xích lại gần nhau tốt hơn của hai thế giới này. Và lịch sử Dòng Tên với Trung Quốc trong các thế kỷ vừa qua cũng rất quan trọng; con nghĩ chúng ta có thể góp phần đáng kể trong bối cảnh hiện tại, một bối cảnh có thể đưa hai dân tộc này xích lại gần nhau.

Cá nhân con, trong những năm học triết, con có ngỏ ý xin đi thực tập ở một Tỉnh Dòng khác. Con muốn thử nghiệm một văn hóa khác. Con nghĩ đến Zambia vì con nghe nói ở đó có một Trung tâm nghiên cứu về xã hội-thần học mà con rất thích. Cha bề trên Tỉnh Dòng nói với con: “Chúng ta sẽ xem…”, cha nhắc cho con nhớ, Tỉnh Dòng Tây Phi có 14 nước!

Dù vậy sau một năm, con nhận một bức thư của Bề trên Tỉnh Dòng, cha cho con biết, nếu thật sự con muốn đi đến một Tỉnh Dòng khác Tỉnh Dòng này, thì con sẽ đi không phải ở Phi Châu, cũng không phải ở Tây phương… cha không nói rõ ở đâu! Con trả lời, nếu Chúa gọi con đi truyền giáo, Ngài sẽ đi theo con và hướng dẫn con. Một tháng sau, con nhận một bức thư khác: con được gởi đi Đài Loan. Con thật ngạc nhiên vì con không bao giờ nghĩ đến. Cha Bề trên Tỉnh Dòng nói rõ, ngài mong có vài tu sĩ Dòng Tên đến với môi trường văn hóa Trung Quốc vì như thế sẽ rất quan trọng cho tương lai của Dòng.

Barnabé trong một sinh hoạt mục vụ với người trẻBarnabé trong một sinh hoạt mục vụ với người trẻ

 

Thời gian tập viện của con như thế sẽ lâu hơn các tu sĩ khác vì con phải bỏ thì giờ ra học tiếng Hoa. 

Học tiếng Hoa đúng là một thử thách; đó là một ngôn ngữ rất khác ngôn ngữ la mã. Nhưng con cũng xoay xở được: nhờ ơn Chúa, chỉ trong vòng vài tháng, con nắm vững cách phát âm và con nói được. Nhưng khó nhất là viết. Và rồi còn phải hội nhập văn hóa: văn hóa ở đây khác hẳn văn hóa Bénin. Mới đầu, con phải tế nhị rất nhiều để hội nhập vào môi trường. Phải biết chấp nhận sự việc, phải hiểu biết qua về với nhau, nhưng cần rất nhiều thì giờ để hiểu thế giới người Hoa. Tuy nhiên con gặp may rất nhiều, trước hết và trên hết là con được nhà Dòng ở đây đón tiếp nồng hậu và tin tưởng ở con.

Ở Québec, Canada, chúng tôi thường có khuynh hướng xem Phi Châu là vùng đất truyền giáo. Làm thế nào con thấy được sự góp phần của các nhà truyền giáo Phi Châu cho Giáo hội khắp nơi trên thế giới? Không có các nhu cầu cấp bách ở Phi Châu sao?

Từ lâu Giáo hội Phi Châu đã được các nhà truyền giáo ngoại quốc đến giảng Phúc Âm. Đã có một điểm ngoặc ở Phi Châu theo lời mời gọi của Đức Phaolô VI ở Kampala: “Các bạn Phi Châu, các bạn hãy chính là người truyền giáo cho đất nước mình!”, ngài nói. Người Phi Châu nhận ra, đến lượt họ, họ phải gánh lấy trách nhiệm gieo hạt giống Phúc Âm trên mảnh đất của mình. Từ nhiều năm nay, đã có sự góp phần của các nhà truyền giáo Phi Châu cho các sứ vụ của Giáo hội trên khắp thế giới. Con nghĩ mình phải thấy trong bối cảnh này, đây là một trong các đóng góp lớn nhất cho sứ vụ hoàn vũ của Giáo hội.

Phi Châu từ lâu đã có nhiều nhà truyền giáo ngoại quốc đến giảng Phúc Âm. Bây giờ đến lượt Phi Châu thực hiện lòng quảng đại của mình. Đúng là Phi Châu có những nhu cầu cấp bách, có những thách đố quan trọng cần phải thực hiện, nhưng Giáo hội Phi Châu không thể co cụm lại trong các nhu cầu của mình, giả câm giả điếc trước lời kêu gọi của Giáo hội hoàn vũ. Phi Châu được gọi để “đi ra”. Con nghĩ Giáo hội Phi Châu đang ở trong hoàn cảnh của bà góa trong Phúc Âm: không phải cho của cải dư thừa của mình, nhưng cho cái ít ỏi mà mình đang có.

Như thế, trên thực tế, sứ mệnh của con ở Đài Loan ở trong một khuôn khổ khác. Từ khởi đầu, Dòng Tên của con là Dòng truyền giáo. Khi con vào nhà tập, Linh mục hướng dẫn khi nào cũng nhắc cho chúng con nhớ, mình ở trong chi thể của Dòng chứ không phải ở trong chi thể của Tỉnh Dòng. Các tài liệu chính thức cũng nhấn mạnh việc đào tạo tinh thần tông đồ của các tu sĩ Dòng Tên là phải “phát triển tinh thần hoàn vũ, trải nghiệm tính cách quốc tế của Dòng”.

Như vậy sứ mệnh của con ở Đài Loan được hiểu như đây là ý muốn hợp tác giữa hai ưu tiên của Dòng là Trung Quốc và Phi Châu. Khi mà Trung Quốc trở thành nước khổng lồ về mặt kinh tế cũng như chính trị, và sự hiện diện của Trung Quốc càng ngày càng mạnh ở Phi Châu, thì Dòng Tên có thể tùy theo tình hình mà góp phần lớn nhất để xây dựng công chính và xây dựng tính nhân văn cao hơn trong các tương quan, nhất là trong các tương quan giữa hai dân tộc. Thêm nữa, tinh thần của Tu nghị thứ 32 của Nhà Dòng là phải hiểu, phục vụ cho đức tin bao gồm đấu tranh cho công chính.

Con cho biết chương trình con làm việc ở đây, công việc kết nối các người trẻ. Có phải đây là dạy “giáo lý” cho người trẻ công giáo hay một cách để tiếp cận với các thanh niên trẻ Trung Quốc mà đa số không phải là kitô hữu không?

Đài Loan có 23 triệu dân nhưng chỉ có 1% là người công giáo. Người giữ đạo lại còn ít hơn. Chỉ những người già là còn đến nhà thờ. Sau khi nhận định, các tu sĩ Dòng Tên nhận thấy lo cho người trẻ là ưu tiên của Dòng. Con ở trong một nhóm sáu người do một giáo dân đứng đầu, nhóm hướng các hoạt động của mình cho người trẻ công giáo và với những người lớn nào cảm thấy mình có khát vọng, có ước muốn xây dựng một quan hệ với Chúa. Chúng con là nhóm Magis Youth Center. Chương trình của chúng con nhắm đến giới sinh viên nhưng cũng với các thanh niên lao động trẻ.

Trung tâm lên chương trình mục vụ cho giới trẻ Đài Loan, một ưu tiên của Tỉnh Dòng Trung Quốc. Hàng tháng chúng con tổ chức một buổi gặp gỡ ở Trung tâm Tien Educational Center Đài Loan; sinh hoạt này chú trọng đến Thánh Thể. Đây là một buổi họp được nhiều nhóm trẻ chuẩn bị và hướng dẫn. Có diễn kịch theo Phúc Âm, chủ đề liên hệ với đời sống hàng ngày. Có trao đổi từng nhóm nhỏ theo hai hoặc ba vấn đề. Ngoài Thánh Thể, nhóm còn có các sinh hoạt khác như cầu nguyện theo cách Taizé và tổ chức các buổi gặp gỡ theo từng chủ đề.

Tất cả là để mở cánh cửa đưa họ vào các chương trình đào tạo cao hơn. Đó là giai đoạn thứ nhì của Trung tâm Magis. Chúng con tin linh đạo I-Nhã thật sự giúp được người trẻ gặp Chúa trong cuộc sống của họ, rồi sau đó họ sẽ trở thành chứng nhân cho Tin Mừng. Chúng con bắt đầu tổ chức các khóa linh đạo I-Nhã và sắp tới, chúng con tổ chức các khóa tĩnh tâm cho người trẻ. Tất cả để giúp họ biết nhận định, mà theo con, nhận định là chìa khóa thiết yếu để định hướng cho tương lai của họ.

Chúng con cũng muốn giúp các người trẻ có tinh thần dấn thân phục vụ cho người khác, chẳng hạn giúp họ có dịp phục vụ ở những khu phố nghèo ở Đài Loan như giúp các người lớn tuổi, những người bệnh ở giai đoạn cuối và cũng có thể đi giúp các nước đang phát triển như Cam-bốt. Chúng con cũng có các sinh hoạt giúp đón tiếp và hỗ trợ người di dân, chúng con kết hiệp với các nữ tu Dòng Chúa Chiên Nhân Lành để làm việc.

Mới đầu thì các sinh hoạt còn tập trung ở Đài Loan, nhưng dần dần chúng con triển khai ở các thành phố nhỏ khác của Đài Loan, chúng con hy vọng một ngày nào đó sẽ phục vụ hết cả Tỉnh Dòng Trung Quốc của Dòng Tên. Cá nhân con, con nghĩ càng ưu tiên phục vụ cho người trẻ thì Dòng sẽ đầu tư vào mục vụ gia đình. Rất nhiều vấn đề của xã hội gặp phải là từ sự tan rã của các gia đình và từ đó kéo theo các hệ quả của nó.

Một người Phi Châu giữa người Hoa

Một người Phi Châu giữa người Hoa. Nhóm Magis chuẩn bị rất kỹ chương trình làm việc.

 

 Nhóm Magis tổ chức thánh lễ cho người trẻ với diễn kịch theo Phúc âm

Nhóm Magis tổ chức thánh lễ cho người trẻ với phần diễn kịch theo Phúc âm.

 

Chương trình được linh mục Giám tỉnh John Lee Hua yểm trợ

Các sinh hoạt phong phú. Chương trình được linh mục Giám tỉnh John Lee Hua yểm trợ.

 

Để kết thúc, cha hỏi riêng con, Barnabé, cái gì đã nuôi dưỡng con gắn bó với Dòng Tên? Con vừa là người Phi Châu, là tu sĩ Dòng Tên, là người trẻ ở thế kỷ 21 này, con thấy con như thế nào?

Con nghĩ điều nuôi dưỡng con gắn bó nhiều nhất với Dòng Tên, đó là những giây phút con lấy được sức lực nội tâm để con đem nó vào đời sống của con. Không có những giây phút này thì con chỉ là một ‘công chức thường’ của chương trình Magis. Khuynh hướng làm cho Chúa, chứ không làm những gì Chúa chờ mình vẫn hiện diện thường xuyên trong sứ vụ tông đồ. Phút hồi tâm là giây phút nhận định đích thực.

Còn về những gì là nền tảng cho ơn gọi của con thì càng ngày con càng sống phó thác vào Chúa. Trong nghĩa này, con thấy việc con đến Đài Loan đã giúp con. Từ bước đầu e ngại đến hội nhập được vào đời sống, bắt được văn hóa ở đây mà không gặp khó khăn lớn, đã củng cố cho con trong con xác tín “khi Chúa giao cho mình một sứ mệnh, thì Ngài cho mình phương tiện để thực hiện”.  Kinh nghiệm đức tin này hay lòng tin tưởng vào Chúa lớn dần đã giúp con vui vẻ đảm trách đời sống của một người trẻ, một tu sĩ, một người của Dòng Tên của con. Nó cũng giúp con càng ngày càng được bình tâm khi đối diện với một vài thách đố. Chính kinh nghiệm tin tưởng vào Chúa đã tác động lên những ngày con sống ở Đài Loan.

Luca Nguyễn Trung Tín dịch

Xe buýt “Cửa Thánh” đón các trẻ em đường phố ở Seoul, Nam Hàn

Xe buýt “Cửa Thánh” đón các trẻ em đường phố ở Seoul

Linh mục thừa sai Vincenzo Bordo cho biết, theo tinh thần Năm Thánh Lòng Thương Xót của Đức Phanxicô, linh mục đã cho chiếc xe “Cửa Thánh” lăn bánh chạy để đi tìm các trẻ em đường phố, mang hơi ấm lòng thương xót Chúa đến cho các em đường phố, những người ở bên lề xã hội, những người không ai chăm sóc.

Linh mục Bordo OMI

Linh mục Bordo cho biết, “xe buýt đi từ Nhà Anna” là căn nhà cung cấp bữa ăn hàng ngày cho 550 người nghèo, người vô gia cư. Cha nói: “Những đêm mùa đông lạnh giá, chúng tôi đi đến các vùng ngoại ô nguy hiểm của thành phố, nơi các em bụi đời sống trong những hoàn cảnh bi thảm. Đó là các em bé trai bé gái, các trẻ vị thành niên nếm mùi bạo lực, ma túy, các em bỏ nhà ra đi, lang bạt đến các quán bar, quán rượu, nhà chích, nhà điếm. Trong các nhà này tuy đầy ánh sáng, tuy họ như đang muốn đi tìm hạnh phúc, nhưng cuối cùng lại là cái chết đang chờ họ.”

Chỉ mong các em bước qua “cánh cửa lòng thương xót” của chiếc xe này để các em tìm lại hy vọng, tìm lại sức lực để xây dựng một cuộc đời mới. Các hành vi đầy lòng thương xót của Đức Phanxicô đã mang lại động lực, niềm hăng say và hy vọng cho những người sống bên lề cuộc sống, để họ có thể gặp được Chúa Giêsu Kitô, Đấng là lòng thương xót, là con đường của tình yêu, là con đường của sự sống.

Marta An Nguyễn

Câu chuyện của một em bé gái bị một linh mục lạm dụng đã trở thành một nữ tu

cath.ch, 2016-03-23

Câu chuyện

Linh mục Hans Zollner, Chủ tịch Trung tâm Bảo vệ Trẻ vị thành niên của Giáo hoàng Học viện Grégoria đã viết lời mở đầu cho một quyển sách tiếng Ý kể câu chuyện của một em bé gái bị một linh mục lạm dụng, và sau đó cô đã đi tu. “Quyển sách này làm cho độc giả bị thử thách. Đọc cho đến trang cuối là cả một công việc đau đớn vô cùng cả về mặt thể lý, tâm lý và thiêng liêng. Nhưng phải đọc, vì cuối cùng nó mang lại sự cứu thoát để đối diện với thử thách khó khăn này (…) vì chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm của mình”, linh mục Hans Zollner viết như trên trong lời mở đầu.

“Không dễ để nhìn tội của chúng ta trước mặt

Nếu không phải dễ để cảm thấy “cá nhân mình có trách nhiệm” thì cũng không dễ để “thấy tội của mình cũng như các thiếu sót của mình”, linh mục nhấn mạnh, “vậy mà ở cương vị giám mục và linh mục trong Giáo hội (…) chúng ta được xem là những người đại diện cho Giáo hội trong các khía cạnh tốt nhất cũng như xấu nhất của Giáo hội.

Bài mới nhất