Phỏng vấn đầy đủ với Linh mục Hans Zollner: Đối đầu với thực tế của các vụ lạm dụng

327

Phỏng vấn đầy đủ với Linh mục Hans Zollner: Đối đầu với thực tế của các vụ lạm dụng

catholicweekly.com, Catherine Sheehan, 2018-01-05

Linh mục Dòng Tên Hans Zollner trong buổi nói chuyện với nhân viên của giáo phận Wollongong. Hình ảnh: Daniel Hopper, Giáo phận Wollongong.

Linh mục Dòng Tên Hans Zollner, chủ tịch Trung tâm Bảo vệ Trẻ em tại Đại học Gregoria Rôma, thành viên của Ủy ban Giáo hoàng Bảo vệ trẻ vị thành niên, chuyên gia hàng đầu của Vatican trong lãnh vực bảo vệ trẻ vị thành niên.

Tuần trước tại Úc, linh mục đã có buổi nói chuyện với nữ ký giả Catherien Shehan báo Catholic Weekly về những gì Giáo hội đã học hỏi qua cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục.

Đâu là tầm rộng lớn của nạn ấu dâm trong Giáo hội công giáo? Cha có thể cho biết tỷ lệ phần trăm của giáo sĩ hoặc tu sĩ đã lạm dụng không?

Có rất ít số liệu thống kê đáng tin cậy và các nghiên cứu đang được thực hiện. Chỉ có ở một vài quốc gia. Một là Úc, nước kia là Mỹ và có thể là ở năm nước khác. Mức độ ít nhiều từ ba đến năm phần trăm linh mục trong một thời hạn cụ thể, liên quan chủ yếu đến những gì chúng ta đã biết, nơi xảy ra, tất cả vào khoảng từ năm 1950 đến năm 2010. Từ 10 đến 20 năm nay, tùy theo nước, con số này đã giảm gần như không còn. Các cáo buộc liên hệ đến 10 đến 20 năm này … nơi giáo hội đã quyết định có các biện pháp bảo vệ, và các quy tắc ứng xử, các đường lối chỉ đạo để thực hiện … và đã tiến hành tốt. Khi thông tin về bảo vệ là bắt buộc và khi giám sát là bắt buộc thì công việc được tiến hành. 

Như thế Giáo hội đã bắt đầu thực hiện các biện pháp này cách đây mười năm?

Từ năm 2002, hàng năm tại Mỹ đã đưa vào cái gọi là Điều lệ Dallas gồm các đường hướng chỉ đạo và các buổi thông tin bắt buộc. Tại Úc, như đã được Ủy ban Hoàng gia cho thấy… ở hầu hết các giáo phận, số cáo buộc trong những năm hiện tại, không phải 50 năm trước hay 30 năm trước, gần như là không. 

Giới truyền thông thường có ấn tượng các vụ ấu dâm là chuyện đầy rẫy trong Giáo hội công giáo. Có thể cho rằng nó có nhiều khả năng xảy ra trong Giáo hội hơn ngoài xã hội chung chung không?

Chúng tôi không thể nói rằng có nhiều khả năng và những người nói thì họ không dựa trên các con số thống kê. Sự kiện đơn giản là… Không có một thể chế nào, không có giáo phái hay tôn giáo kitô giáo nào có sự điều tra sâu sát như Giáo hội công giáo. Vì vậy, không có sự so sánh đúng về chuyện này. Và ngay cả trong các nhóm chuyên nghiệp, cũng không có nghiên cứu nào, chẳng hạn với giáo viên trường học ở các trường công lập … nhà tâm lý học, bác sĩ, cảnh sát, giới ca nhạc hoặc huấn luyện viên thể thao. Vì vậy, chúng tôi không có con số đáng tin cậy để so sánh số lượng linh mục công giáo, đặc biệt nếu bà nói trong toàn bộ số người của một nghề cụ thể.

Chúng ta cũng phải công nhận, đa số các vụ lạm dụng tình dục và dĩ nhiên là lạm dụng về mặt cơ thể trên trẻ vị thành niên là chuyện xảy ra trong bối cảnh gia đình. Tôi nghe một người tham gia vào các thủ tục của Ủy ban Hoàng gia nói, 95% các lạm dụng ở Úc xảy ra trong gia đình. Như thế có nghĩa 5% của các lạm dụng xảy ra trong tất cả các thể chế mà Giáo hội công giáo có phần trong đó. Bây giờ, điều này không biện minh gì cho Giáo hội công giáo. Mỗi vụ lạm dụng là một vụ quá thêm. Mọi lạm dụng do tu sĩ công giáo và các thành viên khác của Giáo hội công giáo là một tội ác khủng khiếp và phải bị truy tố và trừng phạt.

Như thế con số lạm dụng do các linh mục, các tu sĩ hay các thành viên khác của Giáo hội sẽ ít hơn 5% của tổng số lạm dụng tình dục trẻ em trong xã hội?

Không, 95% xảy ra trong bối cảnh gia đình, trong xã hội nói chung. 5% trong tất cả các tổ chức mà Giáo hội công giáo là một phần. Như thế, tất cả các trường công lập, tất cả các nhà tâm lý học ở trong số 5% này. 

Như vậy là ít hơn 5%? 

Ít hơn 5%.

Theo cha, Giáo hội công giáo đã hành động đủ để giải quyết vấn đề ấu dâm không?

Chúng ta không bao giờ làm cho đủ. Nhưng Giáo hội công giáo ở Úc đã làm được rất nhiều và chắc chắn là một trong số năm nước hàng đầu của thế giới. Nếu bà đến các giáo hội địa phương, các buổi họp của hội đồng giám mục ở đây thì bà sẽ thấy nhân viên được huấn luyện và có đủ mọi tài liệu. Có nhân viên được đào tạo, có các thông tin, có các hội nghị như thế này (một hội nghị trong giáo phận Wollongong). Bà sẽ có câu trả lời cho tất cả các khuyến nghị của Ủy ban Hoàng gia, 98% mọi đề nghị đều được chấp nhận mà không có một thảo luận nào và thật sự là làm việc theo những gì Giáo hội yêu cầu và xã hội yêu cầu.

Theo kinh nghiệm tâm lý gia của cha, các nạn nhân của ấu dâm cần gì nhất để chữa lành?

Hầu hết các nạn nhân mà tôi đã gặp, đã lắng nghe, họ đều nói, điều họ mong đợi là được lắng nghe, đó là điều dễ dàng để nói nhưng không dễ thực hiện bởi vì phải cởi mở, không những trong tinh thần mà cả trong quả tim, phải thật sự cho thấy sự thông cảm và phải hiểu chiều sâu của nỗi đau khổ của người mình chia sẻ. Rất nhiều nạn nhân nói họ mong có ai trong hàng ngũ cấp cao của Giáo hội lắng nghe họ. Bình thường nếu các vụ lạm dụng xảy ra trong giáo phận thì họ xin giám mục hay bề trên dòng nghe họ. Một số người không muốn gặp bất kỳ một ai trong hàng tu sĩ, khi đó phải tìm một người khác. Nhưng mọi người đều đồng ý, yếu tố quan trọng duy nhất trong tiến trình chữa lành là thực sự được lắng nghe … tất cả đều nói đây là điểm khởi đầu.

Một người bị lạm dụng tình dục trong tuổi thơ ấu có thể được chữa lành không?

Tôi đã thấy các nạn nhân đã có một tiến trình dài, họ nói họ được chữa lành và được hòa giải, đó là một giai đoạn khác. Nhưng tiến trình chữa lành sẽ khó có thể được nếu không có sự giúp đỡ của những người thân thuộc, chủ yếu là gia đình, bạn bè, chuyên gia cố vấn và tâm lý trị liệu. Đôi khi có một số lớn người bị lạm dụng tình dục họ được chữa lành nhờ tiến trình thiêng liêng do các linh mục hay các tu sĩ đảm trách. Điều ngạc nhiên là có những người cho biết họ được chữa lành nhờ các tu sĩ. Đây không phải là tiến trình cho tất cả, nhưng tôi đã gặp nhiều người được chữa lành. Và tôi vẫn còn tin điều này. 

Lạm dụng tình dục gây tác hại gì trên người ta? 

Hầu hết là phá hủy niềm tin, đó là hậu quả nặng nhất của lạm dụng. Nó phá hủy lòng tin vào chính mình, vào người khác và vào Chúa. Nếu người lạm dụng là một linh mục, tu sĩ hay một người trong Giáo hội, thì vấn đề là căn tính của người đó trong chuyện này. Sau đó là các vấn đề rối loạn tâm lý, mặc cảm tội lỗi. Thường họ có các cảm xúc và thái độ nghịch nhau đối với tình dục, và câu hỏi là làm sao để tái dựng lại căn tính, làm sao tôi có thể sống khi tôi bị lạm dụng như thế này quá sớm?

Vì sao các trường hợp lạm dụng tình dục trong Giáo hội bây giờ mới được đưa ra ánh sáng, vào lúc này? Cha có nghĩ rằng các tội ác này luôn có trong Giáo Hội nhưng chỉ bây giờ chúng ta mới khám phá ra chúng và sự quan trọng của chúng?

Chúng ta không chỉ bây giờ mới phát hiện ra ở Úc dưới nhiều làn sóng khác nhau, một chủ đề trong Giáo hội. Tôi đã gặp một linh mục phải đối diện với trường hợp đầu tiên trong đời mục vụ của cha ở giáo phận năm 1977. Nhưng từ đó, là đã 40 năm, đã có nhiều chuyện thay đổi trong Giáo hội, trong nước, chúng ta bắt đầu nói đến các vụ ấu dâm một cách công khai, ở một tầm mức lớn chỉ cách đây tám năm rưỡi. Có một thời điểm khi mọi người thật sự bắt đầu nói đến chuyện này vì đã có cởi mở và một vài cấm kỵ đã biến mất… 

Theo cha đâu là các nguyên nhân chính của các vụ ấu dâm của các tu sĩ?

Đây là câu hỏi mà khi trả lời có liên quan đến tất cả từng thủ phạm. Có những yếu tố chung…  những người lạm dụng trẻ vị thành niên đặc biệt là có sự khác biệt về quyền. Chẳng hạn là linh mục, tôi muốn lấy gì tôi thích, tôi lấy những gì tôi muốn, tôi không chịu trách nhiệm về những gì tôi làm. Tôi chứng tỏ cho thấy tôi là cấp cao, điều này cho thấy về mặt tâm lý, nhiều người bị lạm dụng cảm thấy mình thật sự yếu đuối. Họ có thể không có vẻ yếu đuối, nhưng họ cảm thấy họ không thể nào đối phó như một người lớn ngang hàng, họ không thể đương đầu với người khác phái. Vì vậy, có thể có tất cả các loại động lực diễn ra, kể cả các vấn đề chưa được giải quyết về bản sắc tình dục , vv.

Có yếu tố nào do các thủ phạm cũng đã từng là nạn nhân của lạm dụng tình dục trong quá khứ không?

Bây giờ đang có cuộc tranh luận khoa học về các con số mâu thuẫn của vấn đề này. Cá nhân tôi nghĩ rằng có một yếu tố có nguy cơ khi mình đã từng bị lạm dụng và tài liệu có nói, nhưng nó không cao như mọi người nghĩ. Không phải ai bị lạm dụng cũng tự động biến thành người đi lạm dụng lại. Điều này đã được chứng minh là sai. 

Cha có thấy bằng chứng nào trong Giáo hội những người lạm dụng bản thân họ đã bị lạm dụng?

Không có sự khác biệt giữa những người trong Giáo hội hay ngoài Giáo hội, không. Như tôi đã nói, có một yếu tố rủi ro nhất định, nhưng yếu tố rủi ro không có nghĩa là nhất thiết người đó hành động như vậy.

Cha có thấy yếu tố ma quỷ nào trong tất cả sự lạm dụng tình dục này trong Giáo Hội không?

Chắc chắn có những câu chuyện kinh khủng và chúng ta không thể tin rằng một linh mục có thể làm được điều đó như những gì chúng ta đã nghe và những gì thật sự đã xảy ra để tin rằng một linh mục lại có thể làm đến như thế. Do đó có yếu tố sự dữ đi xa hơn sự hiểu biết của loài người chúng ta và chắc chắn có một cái gì đó cũng là thành phần của một sự hiện diện ác quỷ nơi con người mà mình không thể hiểu được.

Các nghiên cứu độc lập ở Mỹ cho thấy 81% nạn nhân lạm dụng của hàng giáo sĩ là con trai ở tuổi dậy thì hay ngoài tuổi dậy thì. Vậy cha có nghĩ có yếu tố đồng tính trong cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục trong Giáo hội không?

Trong Giáo hội có những con số như đang có, và có vẻ được xác nhận những gì đang thực sự xảy ra và những gì đã xảy ra. Tôi sẽ nói, đầu tiên hết đồng tính không dẫn đến hành vi lạm dụng, điều đó rõ ràng. Và tôi bổ sung, theo kinh nghiệm của tôi và theo những gì tôi được đọc thì không phải tất cả những người đi lạm dụng, không phải tất cả các linh mục, những người đàn ông đi lạm dụng con trai lại tự nhận mình là đồng tính. Vì vậy, họ hành động tình dục đồng tính nhưng họ cũng sẽ có khuynh hướng tình dục khác giới, hoặc họ sẽ không xác định rõ ràng và duy nhất định hướng đồng tính của mình.

Vì vậy bây giờ người ta nói rất nhiều về vấn đề này. Một số người cho rằng chúng ta có một tỷ lệ đồng tính nào đó trong hàng giáo sĩ, điều đó đã rõ ràng và chúng ta không phủ nhận chuyện này. Và vì họ không được phép xử lý điều này, họ nghĩ họ được bảo cho biết họ không thể nói ra điều đó, đồng tính kéo dài và sau đó biểu lộ ra, họ không có liên hệ đồng tính với bạn bè, mà với các nam thiếu niên tuổi vị thành niên.

Như thế chính sách của Giáo hội có sàng lọc các chủng sinh có khuynh hướng đồng tính không?

Trong tiến trình tuyển nhận chủng sinh có phần kiểm tra tâm lý, ít nhất tôi nghĩ bây giờ có ở khắp nước và các nơi khác. Vấn đề không phải là quan hệ tình dục khác giới hay đồng giới để sàng lọc như vậy, về cơ bản, vì các nhà tâm lý không muốn nhìn vào vấn đề này nhưng nhìn vào dục tính toàn diện, về tình trạng sức khỏe, về sự chưa trưởng thành, về các quan hệ, về quyền lực, về kinh nghiệm sống. Bởi vì tình dục không phải là chuyện ngắt kết nối với phần còn lại của nhân cách. Ngược lại, nó rất hiện diện.

Vì thế, dù có tỷ lệ phần trăm cao của nạn ấu dâm trong hàng ngũ giáo sĩ, nhưng đó không phải là lý do đủ để ngăn chặn một người có khuynh hướng đồng tính vào hàng ngủ linh mục?

Không, Giáo hội có đường hướng dẫn cho vấn đề này, những người có khuynh hướng đồng tính bắt nguồn từ sâu không nên được nhận vào chủng viện hay được chịu chức. Câu hỏi đặt ra là “xu hướng bắt nguồn từ sâu” nghĩa là gì? Câu hỏi này chưa được xác định, chắc chắn không phải do khoa học. Vì vậy, có lúc phải thận trọng và chúng ta phải thừa nhận có những người đồng tính, hoặc những người tự cho mình là đồng tính ở trong hàng ngũ giáo sĩ. Chúng ta không cần phải phủ nhận điều này vì nó rõ ràng. Câu hỏi quan trọng hơn là họ sống như thế nào? Tôi nghĩ một linh mục đồng tính phải đương đầu với nhiều thách thức hơn là một linh mục dị tính, chỉ vì linh mục này phải bảo vệ học thuyết cho rằng đồng tính là không bình thường.

Một phần của vấn đề có phải là con trai thì dễ tiếp cận hơn không?

Đúng, tất nhiên, như tôi đã nói, chúng ta thấy giai đoạn được điều tra trong tất cả các báo cáo này là vào khoảng năm 1945, 1950 đến 2010, hoặc Ủy ban Hoàng gia năm 2018, và cho đến 20, 25 năm trước, các linh mục giảng dạy trong các trường nam, chỉ có các con trai mới được giúp lễ..v.v.

Vấn đề độc thân bắt buộc là một trong các vấn đề được Ủy ban Hoàng gia đưa ra.  Cha nghĩ gì có những người nghĩ rằng độc thân bắt buộc là một yếu tố góp phần vào cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục và cần được bãi bỏ?

Không có ảnh hưởng nhân quả giữa độc thân và ấu dâm và chính Ủy ban Hoàng gia đã tuyên bố như vậy, rằng sự độc thân không dẫn đến hành vi lạm dụng theo nghĩa đơn phương. Nó có thể trở thành một yếu tố nguy cơ khi qua năm tháng, người linh mục không sống tốt tình trạng độc thân, khi đó có thể dẫn họ đến tình trạng nghiện rượu, lạm dụng hình ảnh khiêu dâm trên Internet, lạm dụng người lớn hoặc trẻ vị thành niên. Độc thân bắt buộc không phải là giáo điều nên nó có thể thay đổi.

Vấn đề là 99,9% của tất cả những kẻ đi lạm dụng là họ không sống một cuộc sống độc thân. Vì vậy, câu hỏi trước hết là làm thế nào để đối phó với thực tế đó? Thứ hai là, 95% tất cả các linh mục không phải là người đi lạm dụng, vì thế độc thân rõ ràng không dẫn đến hành vi lạm dụng, nhưng theo thời gian và thời gian khá dài, các linh mục lạm dụng lần đầu tiên lúc 39 tuổi, đây là một dữ kiện khoa học đã được chứng minh. Lớn tuổi hơn nhiều so với một huấn luyện viên, một giáo viên, hoặc một nhà tâm lý khi họ lạm dụng lần đầu tiên ở tuổi 25. Vì vậy, độc thân trở thành một vấn đề nếu nó không được sống, không được hội nhập vào trong một lối sống lành mạnh.

Giáo hội tại Úc ở đây đã bị các phương tiện truyền thông chỉ trích là đã từ chối đề nghị của Ủy ban Hoàng gia bỏ Ấn tòa trong các trường hợp ấu dâm. Người ta cho rằng nếu Giáo hội thực sự muốn minh bạch thì phải ngăn chặn tất cả các bí mật kể cả Ấn tòa. Câu trả lời của cha là gì?

Họ không nghe những gì đã được lặp đi lặp lại nhiều lần. Làm cách nào để biết ai đang xưng tội với tôi? Tôi không biết tên của họ, đó là một phần của việc xưng tội. Hoặc chúng ta bỏ đi mọi xưng tội và không còn xưng tội nữa, hoặc chúng ta có lời xưng tội của một người mà mình không biết. Vậy làm cách nào tôi biết tên và có thể báo cáo người đó? Và nếu chúng ta lấy đi yếu tố này, yếu tố tôi không biết ai là người đến xưng tội, thì chắc chắn sẽ không ai đi xưng tội. Và họ đã phóng đại con số người đi xưng tội. Họ nghĩ hàng tuần mỗi giáo dân, mỗi người công giáo đều đi xưng tội sao. Thời buổi này ai còn đi xưng tội? Tôi nghe nhiều linh mục nói, và tôi có thể xác nhận, trong hàng chục năm làm linh mục, tôi chưa bao giờ nghe một người lạm dụng nào đi xưng tội.

Còn về vai trò của chủ nghĩa giáo quyền trong các vụ ấu dâm và việc bao che trong Giáo hội?

Chắc chắn ở đây có vấn đề của chủ nghĩa giáo quyền nếu chúng ta định nghĩa giáo quyền như cách mọi người định nghĩa và sống quá hơn vai trò và địa vị của mình, chứ không theo tính cách và năng lực cá nhân của mình. Tôi đã rất ngạc nhiên và được làm sáng tỏ qua các lời bình phẩm của các giáo dân tôi nghe trong những ngày gần đây, rằng chủ nghĩa giáo quyền không chỉ dành cho giáo sĩ. Các giáo dân cũng có thái độ giáo quyền, và đó cũng là vấn đề. Khi họ bám vào uy tín và họ lượng giá tầm quan trọng của họ qua số nhân viên họ có, qua loại xe họ lái, v.v.

Một lời chỉ trích khác của Giáo hội liên quan đến cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục là không có nhiều phụ nữ trong vai trò lãnh đạo. Cha có nghĩ rằng điều đó sẽ tạo khác biệt đáng kể liên quan đến ấu dâm không? 

Tôi sẽ nói phụ nữ chắc chắn sẽ được và sẽ có nhiều chức vụ hơn trong các vị trí lãnh đạo. Chính Đức Giáo hoàng đã làm chuyện này trong những năm vừa qua. Điều này sẽ tiếp tục. Tôi cũng ngạc nhiên khi nghe trong một cuộc hội thảo, một phụ nữ phát biểu đã làm việc nhiều cho bình đẳng nam nữ, nhưng bà cảnh báo, không phải để giải quyết vấn đề quyền lực mà thay thế phụ nữ vào công việc của đàn ông. Đó không phải là tình huống. 

Trong các cuộc phỏng vấn khác, cha cho rằng cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục này không phải là vấn đề của người công giáo tiến bộ và bảo thủ. Cha nghĩ gì về việc này?

Tại Mỹ, trong một thời gian dài, chúng ta có một cuộc tranh luận rất mạnh mẽ, một cuộc thảo luận lớn và dữ dội giữa những người tự do và bảo thủ. Nhưng sau khi bức thư của giám mục Viganò đưa ra, thì đây là một vấn đề liên quan đến toàn Giáo hội. Để ra bên ngoài các đảng chính trị của Giáo hội, bởi vì chúng ta có các vụ lạm dụng ở bên này bên kia và chúng ta có những người bên này bên kia muốn cải thiện, vì vậy đây có thể là cây cầu có lợi cho việc tạo ra một Giáo hội an toàn hơn cho trẻ em.

Nếu những cáo buộc chống lại cựu hồng y McCarrick là đúng, thì cha có nghĩ có nhiều người trong hệ thống cao cấp đã biết và che đậy bằng cách không làm gì hết không?

Chúng ta cần biết có bao nhiêu người biết thực sự về những cáo buộc này. Tôi cho rằng sẽ rất ít vì rõ ràng cáo buộc chỉ được chuyển đến cho một số rất ít người. Nếu chúng ta nghe tin đồn, nếu chúng ta nghe một số người nói họ nghe nói, thì chúng ta không ở trong một bối cảnh đầy đủ và sẽ làm giảm trách nhiệm của chúng ta về điều này. Vì vậy, tôi không nghĩ rằng sẽ có nhiều người bị truy tố rõ ràng. Sẽ có rất ít người biết chính xác những cáo buộc đó là gì.

Cha có tín nhiệm vào lời chứng của Giám mục Viganò không? Cha có nghĩ cần phải điều tra vụ này không?

Có, tôi nghĩ cần phải điều tra. Trong những ngày gần đây, tôi thấy rất nhiều, rất nhiều các câu hỏi nổi lên về bằng chứng khả tín của lời tố cáo này. Ở nhiều khía cạnh, thời điểm lời tố cáo mở ra câu hỏi về các lợi ích chính trị dẫn đến việc công bố bức thư này, chính xác lúc Đức Phanxicô đi Ai Len chấm dứt cuộc viếng thăm của mình. Vì thế có rất nhiều câu hỏi được đặt ra.

Cha có nghĩ câu trả lời của Đức Phanxicô với các nhà báo rằng ngài sẽ không nói một lời về chuyện này và họ phải tự tìm hiểu, có đủ cho các tín hữu bị tổn thương và hoang mang vì cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục này không?

Tôi nghĩ ngài đã cố gắng nói, ngài nói theo nghĩa đen là “lúc này tôi không thể nói gì. Các nhà báo làm công việc của họ, sau đó tôi sẽ quay trở lại sau”. Chính xác ngài xin các nhà báo làm những gì nhiều người yêu cầu các nhà báo làm, và không cố thuyết phục họ bằng cách nói “tôi đã không làm điều gì sai cả ra”. Tôi nghĩ theo nghĩa đó, ngài kêu gọi tất cả chúng ta phải tỉnh táo và không đơn giản là tin vào những gì chúng ta đọc… Hãy đi và kiểm tra mọi thứ. Tôi thấy bây giờ có rất nhiều bài báo đã đặt vấn đề khả tín của cáo buộc của giám mục Viganò, có nhiều yếu tố sai lầm về các sự kiện, nhiều thiếu sót trong thư, có nhiều câu hỏi mở khác liên quan đến vấn đề và cũng như nhiều người khác trong chúng ta, tôi hy vọng Đức Phanxicô hay Tòa Thánh sẽ trả lời.

Đâu là chìa khóa để ngăn chặn cơn khủng hoảng tình dục này tái phát?

Điều quan trọng là mọi người ý thức được sự lạm dụng đang xảy ra, những gì họ nói ra, những gì họ thông báo cho người mà họ có thể báo cáo. Và sau đó là quá trình đúng đắn được tuân theo. Tôi muốn cảnh báo về suy nghĩ rằng nó sẽ kết thúc một lần và mãi mãi. Đây là quan điểm của tôi về một ảo tưởng nguy hiểm vì sự dữ sẽ xảy ra với chúng ta và chúng ta sẽ không thể loại trừ mọi lạm dụng, đơn giản chỉ vì chúng ta có các nguyên tắc mới. Đây là một bước cần thiết và rất quan trọng, nhưng không phải là một bước đầy đủ theo nghĩa chúng ta sẽ không bao giờ loại được người nào đó muốn đi lạm dụng người khác.

Đó là lý do tại sao chúng ta cần phải tiếp tục học hỏi và phổ biến thông tin về báo cáo v.v và đó là công việc của Trung tâm Bảo vệ Trẻ em của Đại học Gregoria mà tôi là chủ tịch. Chúng tôi có các chương trình đào tạo trực tuyến, chúng tôi có các chương trình tại chỗ cho các nhân viên bảo vệ trong tương lai và đây là cách chúng tôi tin rằng sự thay đổi có thể xảy ra.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: “Biết khi nào nói và biết khi nào im lặng”