CHƯƠNG 1 – TUỔI TRẺ HAY LÒNG KHÁT KHAO THIÊN CHÚA

317

CHƯƠNG 1

TUỔI TRẺ HAY LÒNG KHÁT KHAO THIÊN CHÚA

Ngày 13-7-1858, Louis Martin và Zélie Guérin cùng hiện diện trong nhà thờ Đức Bà Alecon. Ông ba mươi tư tuổi và bà hai mươi sáu. Họ quen biết nhau mới ba tháng, nhưng không một phút nghi ngờ rằng cuộc hôn nhân này là do ý Chúa. Tuy nhiên, hôn phối không phải ơn gọi mà hai tấm lòng sốt mến này khao khát thời tuổi trẻ. Con đường đưa hai người đến với nhau cho chúng ta thấy ‘Thiên Chúa vẽ đường thẳng bằng những cong’ như thế nào.

Ông Louis sinh ngày 22-8-1982, tại Bordeaux. Cha của ông, Pierre-Francois Martin, là đại úy trong quân đội Pháp, đã tham gia các cuộc chiến của Napoleon, từng trú đóng ở nhiều nơi như Bordeaux, Avignon, và Strasbourg. Năm 1818, ông Pierre-Francois lấy bà Fanny Boureau, con gái một bạn đồng ngũ, và lo cả của hồi môn cho bà. Hai vợ chồng sinh được ông Louis và 4 người anh chị em (nhưng tất cả đều qua đời khi còn nhỏ).

Cha mẹ ông Louis có một đức tin mãnh liệt. Một ngày nọ, khi các anh lính hỏi đại úy Martin, tại sao trong thánh lễ, ông lại quỳ gối lâu đến thế, ông trả lời, ‘Bởi tôi tin.’ Bà con của ông cũng kinh ngạc trước cách ông đọc kinh Lạy Cha. Còn về Fanny, bà là một người phụ nữ cầu nguyện. Có thể thấy được điều này qua lá thư bà gởi cho con trai Louis của mình: ‘Mẹ thường nghĩ đến con lúc linh hồn mẹ nâng lên với Chúa, nương theo làn sốt mến trong lòng khi ở dưới chân ngai tòa Chúa! Dưới chân Chúa, mẹ cầu nguyện với hết thiết tha linh hồn.’ Nhờ đó, Louis được biết đến đức tin Công giáo từ tuổi rất nhỏ.

Chúng ta không biết nhiều về những năm tháng đầu đời của thánh nhân. Chỉ biết là, chuyển từ doanh trại này qua doanh trại khác, những năm tháng ảnh hưởng đời sống quân ngũ đã cho Louis thiên hướng kỷ luật và du hành. Năm 1830, đại uý Martin về hưu và đến sống ở quê nhà của mình, thành phố Alencon ở Normandy. Louis không theo học trường trung học, nhưng ông được dạy dỗ đủ để thể hiện trí thông minh và nhận thức sáng suốt, đặc biệt là trong văn học. Ông có thể chọn binh nghiệp như cha mình, nhưng quân đội Pháp đã mất đi vinh quang từ cuối kỷ nguyên Napolenon rồi. Louis ngày càng bớt tính du hành thám hiểm, và thiên nhiều hơn về nội tâm.

Sau một chuyến viếng thăm người chú, một chuyên gia chế tác đồng hồ ở Rennes, Louis khám phá ra sự tinh xảo và tỉ mẩn của nghề này, ông đâm yêu nghề chế tác đồng hồ và yêu cả vùng đất Brittany nữa. Ông sống ở đó trong hai năm 1842 và 1843, vừa học nghề sơ cấp, vừa đắm mình trong tác phẩm của các tác giả lớn. Ông đã sao lại vô số đoạn văn vào sổ của mình, và nhờ đó chúng ta biết được ông đặc biệt thích các tác giả trường phái Lãng mạn, nhất là Francois- Rene Chateaubriand, ông cũng mến các tác phẩm của Jacques-Benigne Bossuet, Francis Fenelon, và các tác giả tương tự.

Thị hiếu văn học của ông Louis cho thấy một nét cá tính quan trọng: ông là người nhạy cảm với vẻ đẹp, dù trong văn học hay cảnh vật vùng Brittany. Thường khi đi dạo ở miền quê, ông hay dừng lại khóc trước vẻ đẹp tuyệt diệu của tạo hóa. Dù cảm thức lãng mạn đang thịnh hành trong thời kỳ này, nhưng sự nhạy cảm của Louis thật khác biệt, bởi ông luôn luôn khám phá thấy Đấng Tạo Hóa trong mọi sự ông chiêm ngắm. Không mấy việc có thể làm cho ông hạnh phúc cho bằng được xách cây gậy đi đường và rong ruổi khắp những nơi đẹp tuyệt diệu, vừa đi vừa cầu nguyện.

Lần đầu tiên ông Louis làm một chuyến hành hương như thế, là vào tháng chín 1843, khi ông đi bộ qua dãy Alps thuộc Thụy Sỹ, và khám phá giấc mơ tuổi trẻ của mình: Tu viện Grand Saint Bernard. Công trình lừng danh này nằm ở độ cao hơn 2.500 mét, và đây là nơi Dòng Thánh Augustinô vừa chiêm niệm vừa chinh phục ngọn núi này. Cầu nguyện, vẻ đẹp, tinh thần anh hùng, những điều này quá mời gọi với linh hồn trẻ trung đang yêu mến sự tuyệt đối của ông.

Trong hai năm, vẫn tiếp tục học nghề chế tác đồng hồ ở Strasbourg, nhưng khát khao được vào dòng ngày càng chín muồi trong ông. Những năm tháng thật đẹp. Ông đã có những người bạn tuyệt vời, chia sẻ với ông một tuổi trẻ vui tươi và cầu nguyện. Năm 1845, ông đã quyết định chấm dứt thời kỳ này, và mong muốn trở lại Tu viện Grand Saint Bernard để trả lời cho tiếng gọi mà ông cảm nhận là từ Chúa mà đến. Nhưng ông bị thất vọng. Đan viện phụ, ban đầu nhiệt tình với sự sốt sắng và chính chắn của chàng trai trẻ này, nhưng rồi lại ngại ngùng khi biết Louis chưa học trung học. Để vào tu viện, cần phải biết tiếng La Tinh. Đan viện phụ mời Louis trở lại một khi đã hoàn tất trung học trước đã. Ông về lại Alencon, và trong vòng hơn một năm, ông lao vào sách vở, theo học các khóa tiếng La Tinh. Nhưng một căn bệnh đã làm gián đoạn các nỗ lực của ông. Louis nhận định đây là dấu chỉ của Đấng Quan Phòng, và lòng nặng trĩu nhưng ông quyết định gác lại khao khát sống đời tu sỹ.

Rồi ông kiên quyết phải học cho trọn nghề chế tác đồng hồ, nên lên đường đến Paris. Cuộc sống Paris đã thử thách ông thật khắc nghiệt, cho ông trải qua vô số cám dỗ, với những lối sống phóng đãng, một lời mời gia nhập hội kín, ảnh hưởng của suy nghĩ theo chủ nghĩa tự do của Voltaire, các khó khăn để giữ được đời sống cầu nguyện giữa chốn thủ đô hối hả và náo nhiệt … Theo lời kể của chính ông, thì cần phải rất can đảm mới thoát ra được nơi đó trong thắng lợi. Từ lúc đó, ông không còn chỉ dựa vào sức mình nhưng cậy đến sức mạnh của Chúa để dũng cảm sống. Chàng trai trẻ Louis cầu nguyện gấp đôi, và dâng mình cho Đức Mẹ tại Vương cung Thánh đường Đức Bà Vinh Quang, một nhà thờ mà ông đặc biệt yêu mến.

Như vàng thử trong lửa, Louis qua được thời gian ở chốn thủ đô phố hội mà vẫn giữ được sự trong sạch, từ đó cảm nghiệm thời gian này nâng đỡ cho ông suốt cả đời. Ông biết những cám dỗ mà cuộc đời có thể và không ngừng quyến dụ, và ông khuyên những người thân của mình đừng có rơi vào chúng.

An tâm khi có được một nghề trong tay, ông trở về Alencon, mở một tiệm chế tác đồng hồ ở Rue du Pont-Neuf, và về sau mở thêm một cửa hàng trang sức ngay nơi đó. Lúc ấy, Louis được hai mươi bảy tuổi, và tám năm cuộc đời tiếp theo của ông trôi qua êm đềm trong cầu nguyện, làm việc, đọc sách và giải trí. Bởi tính cách vui vẻ, dễ chịu và trầm ngâm của mình, ông nhanh chóng kết thân nhiều bạn. Họ thường ngồi ở câu lạc bộ Vital Romet, lập một nhóm nhỏ mang tên của người sáng lập (người bạn lớn của Louis), các thành viên trong nhóm cùng nhau chơi bi-da và đào sâu đức tin của mình. Ông cũng dành nhiều thời gian ngang ngửa như thế cho thú vui yêu thích của mình, là câu cá.

Năm 1857, ông mua một ngôi nhà mang tên Pavilion. Ngôi nhà này có một tháp ngũ giác, được ông bài trí đơn giản, trang trí như trong tu viện, với các câu trích đầy sốt mến thể hiện tinh thần thiêng liêng của ông như: ‘Chúa nhìn thấu tôi.’ ‘Sự bất diệt đến mà chúng ta không biết.’ ‘Phúc thay những ai giữ huấn lệnh của Đức Chúa.’ Ông thường lên tháp để đọc sách và cầu nguyện.

Cha Stephane-Joseph Piat có cho chúng ta một mô tả tuyệt vời về ông Louis trong giai đoạn này: Ông ‘có vóc người cao, với dáng điệu của một viên chức, dễ mến, vầng trán cao và rộng, nước da trắng, gương mặt dễ chịu với mái tóc màu hạt dẻ, cùng một ánh nhìn sâu sắc mà nhẹ nhàng trong đôi mắt màu nâu lục nhạt. Ông vừa giống một cảnh binh vừa như một nhà thần nghiệm, và luôn gây ấn tượng.’ Ông cũng có sức hút với các cô gái trẻ trong thành phố. Nhưng Louis dứt khoát từ chối mọi ý tưởng về chuyện hôn nhân, ông vẫn đau đáu vì khao khát chưa trọn của ơn gọi tu trì. Ông còn bắt đầu học lại tiếng La Tinh một cách đều đặn. Cuộc sống của chàng trai ba mươi tư tuổi ngày càng giống như lối sống tu sỹ. Nhưng mẹ ông vẫn luôn dõi mắt theo con trai mình. Bà Fanny Martin không tưởng tượng nổi cảnh người con trai yêu dấu của mình chưa vợ suốt đời. Bà tìm đủ mọi cách để khiến ông kết hôn, và cuối cùng, đã tìm được một viên ngọc quý.

Marie-Azelie Guerin, hay còn gọi là Zélie, sinh ngày 23-12-1831, tại Saint-Denis-sur-Sarthon thuộc vùng Orne. Cũng giống như cha của Louis, cha của bà cũng là một quân nhân, từng tham chiến trong các cuộc chiến của Napolen, và rồi quyết định nghỉ hưu tại Alencon. Lương hưu của ông ít ỏi, nên cả nhà phải chắt chiu từng đồng, Zélie chưa từng có được một con búp bê nào cả. Bầu khí gia đình không thật hạnh phúc. Cha bà, Isidore Guerin, là người tốt nhưng cáu kỉnh, và mẹ bà, Louise-Jeanne, thì ít tình cảm, thường hay xáo lẫn đức tin với luân lý khắc nghiệt. Có thể nói, tuổi thơ của Zélie ‘buồn như vải liệm’ và do bởi sự nghiêm khắc của mẹ mà ‘lòng tôi đau khổ rất nhiều.’

Zélie không được mạnh về cảm xúc, và về mặt thể lý, bà cũng vậy. Từ năm bảy đến mười hai tuổi, bà đau bệnh suốt và thời niên thiếu không ngừng bị hành hạ vì chứng đau nửa đầu. Nhưng điều này không ngăn cản được bà học hành tốt đẹp trong trường của các sơ Dòng Chầu Lượt. Thật may mắn, khi Zélie có được một người em trai và người chị gái đóng vai trò rất lớn trong cuộc đời mình. Marie-Louise, còn gọi là Elise, người chị gái, và cũng là bạn tâm giao và nâng đỡ cho Zélie, luôn ở gần bà như hình với bóng, và Isidore, nhỏ hơn bà đến mười tuổi và được Zélie yêu thương với tấm lòng như một người mẹ.

Gia đình Guerin cũng có truyền thống Công giáo mạnh mẽ. Trong nhà thường hay kể lại các cuộc phiêu lưu của ông chú Guillaume, một linh mục trong thời kỳ Cách mạng Pháp. Cha Guillaume đi trốn vì bị nhóm ‘Xanh’ lùng bắt. Một ngày nọ, khi cha đang đưa Mình Thánh Chúa cho một gia đình, thì một nhóm du côn ập vào. Cha đặt Mình Thánh Chúa dưới một đống đá, và nói rằng, ‘Lạy Chúa, xin tự lo cho mình, trong lúc con lo mấy người này,’ rồi cha ném những kẻ tấn công xuống bờ hồ gần đó. Một lần nữa, cha sống sót nhờ trí khôn của của ông Isidore, cha của Zélie, thưở ông còn là một đứa trẻ đang chơi trên ngực chú mình, lúc cha đang chạy trốn quân lính. Ở nhà Guerin, đức tin bén rễ từ trong lòng, nay cả khi thuyết Jansen khắc nghiệt đang nổi lên dữ dội vào thời ấy.

Bởi vì tuổi thơ u sầu, nên Zélie trở nên một thiếu nữ bồn chồn, đa cảm, quá ngại ngùng và thiếu tự tin. Bà như thế, nhưng từ thưở nhỏ, bà cũng đã ghi khắc câu của thánh Phaolô ‘khi tôi yếu là lúc tôi mạnh’ (2Cr 12, 10). Nghi ngờ về năng lực của mình, Zélie từ thưở bé đã sớm dựa vào Chúa, biết rằng quyền năng Chúa không bao giờ thất bại. Mối gắn kết giữa bà với Chúa quá sâu sắc, đến mức trước khi được 20 tuổi, bà đã tin rằng ơn gọi của mình là đi tu. Cũng như trong trường hợp của Louis, dòng mà Zélie chọn để đi tu, cho thấy cá tính chung của bà. Zélie muốn gia nhập dòng Nữ tử Bác ái của thánh Vincent de Paul, dòng giáo hoàng, kết hợp đời sống cầu nguyện và phục vụ năng động cho người nghèo. Nhưng một lần nữa, Thiên Chúa, Đấng biết rõ lòng con cái Ngài, đã chặn lại con đường này. Mẹ bề trên nói rõ rằng mẹ không tin Zélie có ơn gọi tu trì. Với Zélie, đây thật là một cú sốc lớn, nhưng bà không phải là mẫu người chìm đắm trong bất hạnh. Bà quyết định theo học một nghề.

Trong những năm học nghề, bà có được căn bản ngành đan tinh xảo ở Alencon. Đăng-ten của vùng Arachne mà Napoleon yêu chuộng, cần có sự khéo tay và tinh xảo đặc biệt. Zélie quyết định theo học nghề này và đã thành thục xuất sắc. Lúc đầu bà làm việc trong một nhà máy ở Alencon, nhưng có nhiều đồng nghiệp nam cứ luôn để ý đến bà, nên bà quyết định bỏ công việc này. Ngày 02-12-1851, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội, khi đang làm việc trong phòng, bà nghe thấy một tiếng vang lên trong lòng, nói rõ ràng rằng, ‘Con phải làm đăng-ten Alencon.’ Ngay lập tức, bà kể cho chị Elise, chị đã động viên và hứa sẽ ủng hộ cho cô.

Cả hai người mở công ty, một việc quá táo bạo, như lời bà thừa nhận về sau: ‘Làm sao mà chúng tôi, không có nguồn lực tài chính nào và cũng không có hiểu biết gì về kinh doanh, lại làm tốt và tìm được các cơ sở kinh doanh ở Paris tin tưởng nơi chúng tôi? Nhưng, đây là chuyện xảy ra quá nhanh, bởi chúng tôi đã bắt đầu ngay ngày hôm sau.’ Lúc đó, Zélie chưa tròn 20 tuổi. Nhưng bà đã khẳng định uy tín là người làm đăng-ten theo kiểu Alencon, và là chủ của việc kinh doanh này.

Cha Piat lại cho chúng ta một mô tả tuyệt vời nữa, lần này là về bà Zélie:

‘Có vẻ hơi thấp, rất xinh và gương mặt đầy ngây thơ, mái tóc nâu và phong cách đơn sơ, mũi cao và đẹp, đôi mắt màu sẫm ánh lên vẻ quả quyết đôi lúc thoáng đượm buồn, bà là một thanh nữ quyến rũ. Cả người bà toát lên sự hoạt bát, tinh tế, và đáng yêu. Với một tinh thần vui vẻ và thanh nhã, ý thức tốt, nhân cách tuyệt vời, và trên hết là một đức tin can trường, thật là một phụ nữ xuất chúng có sức hút với tất cả mọi người.’

Qua nhiều năm, vừa cầu nguyện vừa làm việc, Zélie càng khắng khít hơn với chị mình, qua những gian nan khởi nghiệp và cả thử thách của một ơn gọi khác dành cho chị Elise. Chị bà, Elise mong muốn được sống đời tu trì, nhưng đã gặp hết trở ngại này đến trở ngại khác, do bởi các vấn đề sức khỏe và nhiều lần ngần ngại. Ngày 07-4-1858, cuối cùng Elise cũng đến được trước ngưỡng cửa Tu viện Đức Mẹ Đi viếng ở Le Mans, với một khao khát sâu thẳm muốn làm thánh. Với Zélie, sự chia lìa này thật giằng xé trong lòng. Lúc đó, hai chị em đang khắng khít với nhau như hình với bóng. Chị Elise hỏi cô, ‘Em sẽ làm gì khi chị không còn ở đây nữa.’ Zélie nói là bà cũng sẽ đi. Và ba tháng sau khi người chị yêu dấu vào tu viện, bà đã làm thế. Bà theo một hướng mới … kết hôn với ông Louis.

Bà Fanny Martin, mẹ của Louis, đã theo học một vài khóa làm đăng-ten ở Alencon, và đã gặp Zélie, có cảm tình với cô gái trẻ này ngay lập tức. Với bản năng của một người mẹ, bà thấy nơi Zélie một người con dâu lý tưởng. Bà kể cho Zélie về Louis, và chắc chắn cũng nói nhiều hơn nữa với Louis về lòng đạo và vẻ đẹp của cô gái này.

Louis đã không còn phản đối nữa, và ông muốn gặp mặt Zélie.

Bà không có một người mẹ chu đáo để khuyên nhủ, nhưng bà có Chúa Thánh Thần: Zélie tình cờ gặp Louis lần đầu tiên trên một chiếc cầu. Ông tạo trong bà một ấn tượng sâu sắc, không chỉ là vẻ ngoài lôi cuốn, mà còn là cả con người ông, và một lần nữa, tiếng nói vang lên trong lòng đã khẳng định cho bà, ‘Đây là người mà Ta đã chuẩn bị cho con.’ Những người trẻ đang trong tiến trình nhận định chắc hẳn sẽ phải ghen tỵ với Zélie về sự rõ ràng thế này. Nhưng, đừng quên rằng, Zélie, cũng như Louis, đã làm tất cả để tìm được ơn gọi của mình, và đã từng băng qua nhiều hoang mạc cuộc đời để tìm được ơn gọi đó. Bà cũng có một tâm hồn đủ mở rộng để nghe được tiếng nói của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần không cần phải tiết lộ cho Zélie tên của ‘người được hứa ban’ bởi chỉ vài ngày sau, bà Fanny Martin đã lo việc này rồi.

Hai người gặp nhau vào tháng tư 1858, và nhanh chóng quý mến nhau. Họ đính hôn, và với lời khuyên của linh mục chuẩn bị tiền hôn nhân, hai người quyết định làm phép hôn phối vào ngày 13 tháng bảy.

Ông bà Louis và Zélie sinh được chín người con. Hai người vừa nuôi dạy con cái, vừa tiếp tục nghiệp chế tác đồng hồ và đăng-ten của mình. Năm người con gái, là Marie sinh năm 1860, Pauline vào năm 1861, Leonie năm 1863, Celine sinh năm 1869, và Têrêsa sinh năm 1873. Bốn thiên thần nhỏ khác đã sớm về trời là: Helene vào năm 1870, được năm tuổi, Joseph vào năm 1866, Jean-Baptiste-Joseph vào năm 1867, và người con gái cũng tên Têrêsa vào năm 1870.

J.B. Thái Hòa chuyển dịch

CÁC VỊ THÁNH ĐỜI THƯỜNG

Nguyên bản Louis et Zelie Martin: Les saints de I’ordinaire, của Helene Mongin. J.B. Thái Hòa chuyển dịch từ bản dịch tiếng Anh

Sts. Louis and Zélie Martin: The Extradionary Parents of St. Thérése of Lisieux, của Marsha Daigle-Williamson