Home Blog Page 985

Đức Phanxicô biết rất rõ tình trạng Giáo hội ở Trung quốc

Đức Phanxicô biết rất rõ tình trạng Giáo hội ở Trung quốc

cath.ch, 2018-10-10

Ngày 9 tháng 10-2018, giám mục Gioan baotixita Dương Hiểu Đình, giáo phận Diên An, Thiểm Tây tuyên bố  với hãng tin công giáo Ý SIR, “Giáo hội hoàn vũ luôn được xem như một gia đình.”

Theo giám mục Dương Hiểu Đình, Giáo hội như một gia đình gồm có vợ, chồng: một đơn vị luôn hiệp nhất.” Ngày 7 tháng 10 giám mục Dương Hiểu Đình và giám mục Giuse Quách Kim Tài, giáo phận Thừa Đức, Hà Bắc đã cùng đồng tế với hồng y Francesco Coccopalmerio, hồng y chủ tịch Ủy ban giáo hoàng các văn bản pháp lý.

Hai giám mục Trung quốc đến Rôma để tham dự thượng hội đồng giới trẻ đức tin và phân định ơn gọi.

Theo giám mục Dương Hiểu Đình thì Đức Phanxicô rất am tường tình trạng Giáo hội Trung quốc. Ngài “không muốn chúng tôi bị tách ra khỏi Giáo hội hoàn vũ”. Giám mục Dương Hiểu Đình cũng cho biết, ngài luôn mong chờ một chuyến tông du của Đức Phanxicô đến Trung quốc.

Thỏa hiệp tạm thời với Bắc Kinh

Ngày 22 tháng 9 vừa qua, Vatican loan báo đã có một thỏa hiệp ‘tạm thời’ với Bắc Kinh về việc bổ nhiệm các giám mục. Trong khuôn khổ thỏa hiệp này, Đức Phanxicô đã bỏ vạ tuyệt thông cho bảy giám mục được phong mà không có sự đồng ý của Vatican, trong đó có giám mục Quách Kim Tài. Thỏa hiệp này đã giúp cho các giám mục được tham dự Thượng hội đồng các giám mục. Trước đây, nhà cầm quyền Trung quốc luôn ngăn chận không cho các giám chức đi Rôma. Tuy nhiên vì bận việc, hai giám mục đã không ở lại trọn thời gian thượng hội đồng.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: Bắc Kinh: Các lý do của quyết định lịch sử của Đức Giáo hoàng

Trung quốc-Vatican:  Một thỏa hiệp đã được ký nhưng các vấn đề vẫn còn treo lơ lửng

Các giám mục trong kỳ họp thượng hội đồng

Đức Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI, Đức Phanxicô, ba vị giáo hoàng của tôi

Đức Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI, Đức Phanxicô, ba vị giáo hoàng của tôi

lefigaro.fr, Pierre-Hervé Grosjean, 10-2-2014

Pierre-Hervé Grosjean, cha xứ họ đạo Saint-Cyr l’école (Yvelines), người sáng lập PadreBlog nêu lên tính liên tục của các vị giáo hoàng. Theo cha, các giáo hoàng có chết đi, thì Giáo hội vẫn tồn tại.

Cách đây một năm, Đức Bênêđictô XVI đã làm cả thế giới ngạc nhiên khi ngài tuyên bố từ nhiệm, vì xác tín rằng ngài phải nhường chỗ cho một người khác để sinh ơn ích cho Giáo hội hơn. Một ngạc nhiên khác xảy ra là việc bầu chọn Đức Phanxicô! Một việc ngoài tất cả dự đoán của các “chuyên gia”, trên ngai thánh Phêrô bây giờ là một vị giáo hoàng làm những việc cụ thể, có khả năng chạm đến tâm hồn của mọi người, kể cả những người ở xa xa Giáo hội.

Đức Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI, Đức Phanxicô… Nhiều người thử đưa ra những điểm khác biệt giữa ba cột trụ lớn của đức tin này. Làm như thế chứng tỏ là không biết các ngài và không hiểu Giáo hội gì cả! Giáo hoàng không phải là chủ nhân của sứ điệp mà ngài có thể thay đổi theo ý mình. Ngài nhận sứ điệp và ngài truyền đi. Từ 2000 ngàn năm nay, các giáo hoàng kế vị nhau. Qua những con người này, qua các tài năng và yếu đuối của các ngài, sứ điệp tiếp tục được truyền đi.  Các nhạc trưởng kế tiếp nhau điều khiển, mỗi người với cá tính riêng của mình, nhưng bản dàn bè vẫn là một: Tin Mừng. Khi người ta hỏi, tôi thích ai trong ba vị, tôi luôn luôn trả lời: trước khi thương Đức Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI, Đức Phanxicô, tôi thương Đức giáo hoàng. Trong nghĩa này, cùng một lòng tin, tôi đã thương giám mục Roma kế vị lần tới, trước khi biết ngài.

Giáo hoàng không phải là chủ nhân của sứ điệp mà ngài có thể thay đổi theo ý mình. Ngài nhận sứ điệp và ngài truyền đi.

Tuy vậy điều này không ngăn chúng ta suy niệm về những gì mà mỗi giáo hoàng đặc biệt mang đến cho Giáo hội và thế giới. Chắc chắn các ngài không có cùng một đặc sủng và đó lại là điều đáng quý cho Giáo hội. Nếu phải nói lại những gì người khác đã nói, tôi sẽ nói như sau:

– Gioan Phaolô II là Giáo hoàng của Đức Cậy. Khi ngài được bầu là người Đại diện Chúa Kitô thì lúc đó Giáo hội đang suy yếu vì các bất ổn hậu Công đồng. Thế giới đang ở trong tình trạng chiến tranh lạnh, bức tường im lặng đang ngự trị ở Âu châu và đàng sau đó, chế độ cộng sản đang làm chủ. Đức Gioan Phaolô nói những lời đầu tiên trong cương vị giáo hoàng với Giáo hội và với thế giới: “Xin anh chị em đừng sợ!” Các thử thách và bách hại mà ngài đã sống qua, Đức Gioan Phaolô II biết các lực này sẽ không thắng nếu con người biết dựa vào Chúa Kitô. Đứng trước chủ nghĩa vô thần đang gặm nhắm Âu châu, ngài canh tân Giáo hội trong một năng lực tích cực, mời gọi mọi người “tân phúc âm hóa”. Ngài nói chuyện trực tiếp với giới trẻ qua các Đại hội Giới trẻ: Ngài biết họ không bị in dấu bởi các ý thức hệ như những người lớn tuổi và ngài dựa trên họ để sứ điệp của Giáo hội được tái khám phá và được đề xuất như con đường cho một hạnh phúc thật sự, ngài giải thích điều này cho họ với một giọng điệu nghiêm khắc nhưng đầy tình phụ tử và đầy nhiệt huyết. Qua rất nhiều chuyến công du, Đức Gioan Phaolô đã truyền được niềm hy vọng này cho những dân tộc bị bách hại, mang đến cho họ lòng can đảm và sức mạnh để làm sập các bức tường.

– Đức Bênêđictô XVI kế vị ngài một cách tự nhiên, sau một thời gian dài là cánh tay mặt của ngài. Vị giáo hoàng-giáo sư là Giáo hoàng của Đức tin. Không giống với các bức biếm họa, ngài dịu dàng và khiêm tốn, yêu chuộng Sự Thật,  trước chủ nghĩa tương đối hóa đang ngự trị chung quanh, ngài không ngừng nhắc đi nhắc lại, phẩm giá con người là dùng lý trí của mình đi tìm Sự Thật và đón nhận Sự Thật trong đức tin. Mọi người nổi tiếng hay không trên thế giới đều nhận thấy cách giảng dạy của ngài rất rõ ràng. Ngài giải thích đức tin, cho thấy đức tin mạch lạc như thế nào, gây lại cho người ta hứng thú đọc sách và ngài tin người trẻ cũng có thể đọc các sứ điệp của Tin Mừng. Vì muốn hàn gắn các vết thương và xây dựng lại sự hiệp nhất giữa người công giáo, ngài tìm hết cách để thuyết phục Huynh đệ thánh Piô X (Fraternité Saint Pie X) trở lại và ngài chú trọng làm đẹp phụng vụ. Chúng ta cũng biết ơn ngài về thái độ dứt khoát không dung thứ cho các vụ ấu dâm, chuyện này đã có thể làm hoen ố bộ mặt của hàng tu sĩ. Cũng trong việc này, đối với ngài, phải đặt lên hàng đầu công lý và sự thật, những điều mà các nạn nhân có quyền hưởng. Vì sống theo phương châm của mình, ngài là người đầu tiên hợp tác trong vấn đề này.

– Đức Phanxicô đến như một cơn lốc bất ngờ. Nhưng là một cơn lốc bác ái rơi xuống thành phố Roma và Giáo hội. Là giáo hoàng của Đức Ái, ngài không từ bỏ điều gì của các vị tiền nhiệm, ngài luôn luôn nhắc đến họ với một tấm lòng trìu mến và biết ơn. Ngài nhắc cho thế giới và cho Giáo Hội nhớ, trong việc loan báo Tin Mừng, tình yêu không điều kiện của Thiên Chúa là điều phải loan báo đầu tiên. Chỉ khi đón nhận tình yêu này mới có thể hiểu được những đòi hỏi về mặt tinh thần xuất phát từ tình yêu này. Đức Phanxicô vẫn là con người của ngày nào: một người hành động cụ thể, một người chủ chăn lo cho đàn chiên, một vị giáo hoàng nói chuyện như một cha xứ, gần gũi với tín hữu mình. Ngài gần như là người thân quen của gia đình. Sự gần gũi lạ thường này gây xáo trộn nhưng không vì thế mà làm giảm uy quyền của Đức Thánh Cha. Chính qua lòng tốt vui vẻ, tinh thần dám làm, lời nói sinh động và cụ thể của ngài mà Đức Thánh Cha có uy đối với Giáo Triều cũng như với các ký giả, với các tín hữu đi lễ ngày chúa nhật cũng như với những người còn ở “xa xa” mà Đức Phanxicô không bao giờ quên nhắc tới.

Đức Cậy, Đức Tin và Đức Ái. Ba nhân đức đối thần khác biệt nhưng người ta không thể xem như đối nghịch. Ba nhân đức gọi là “đối thần”, bởi vì đó là ơn Chúa và đặt chúng ta trực tiếp trong quan hệ với Chúa. Đức Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI, Đức Phanxicô… ba người ngoại hạng, ba nhân vật lỗi lạc, rất khác nhau nhưng lại liên kết chặt chẽ với nhau, ba ơn mà Chúa ban cho thế giới và Giáo hội, cho thế hệ chúng ta và những thế hệ tiếp theo.

Nguyễn Tùng Lâm dịch

Hồng y Madagascar loan báo Đức Phanxicô sẽ đến thăm Madagascar

Hồng y Madagascar loan báo Đức Phanxicô sẽ đến thăm Madagascar 

Ngày 28 tháng 6 -2018, Đức Phanxicô trao mũ hồng y cho Tổng Giám mục  Madagascar, Désiré Tsarahazana 

la-croix.com, 2018-10-09

Ngày thứ ba 9 tháng 10-2018, trong một buổi họp báo ở Vatican, hồng y Madagascar, Désiré Tsarahazana cho biết Đức Phanxicô sẽ đến đảo Madagascar trong năm 2019.

Hồng y tuyên bố trong một buổi họp báo về các công việc của thượng hội đồng giám mục về giới trẻ: “Chúng tôi đến gặp Đức Giáo hoàng để mời ngài đến thăm Madagascar. Chúng tôi hân hạnh báo tin cho quý vị hay, năm 2019 ngài sẽ đến thăm chúng tôi.”

Hồng y Désiré Tsarahazana được Đức Phanxicô phong hồng y vào tháng 5 vừa qua, ngài cho biết: “Đây là một khích lệ lớn cho mọi người, đặc biệt là cho các bạn trẻ.”

Về phần mình, ông Greg Burke, phát ngôn viên của Vatican cho biết: “Tôi không thể xác nhận, tuy nhiên chương trình đã được nghiên cứu ở một giai đoạn tiến đi rất xa.”

Hồng y giải thích, các bạn trẻ đã tham dự tích cực vào đời sống của Giáo hội, như để chứng minh, ngài cho biết hiện nay có một cuộc họp quốc gia ở miền tây Madagascar quy tụ được 30.000 bạn trẻ đến tham dự. Ngài nói thêm: “Trên thực tế, các người trẻ của chúng tôi đã phải đương đầu với nạn nghèo đói cực kỳ, nạn thất nghiệp, họ tốt nghiệp mà không có việc làm, họ nản chí vì nạn tham nhũng gặm nhắm đất nước chúng tôi.”

Hồng y mô tả: “Vì không tin tưởng vào hệ thống pháp lý, các người trẻ Madagascar lao mình vào bạo lực và dân chúng tự làm luật cho nhau.”

Madagascar là đảo lớn thứ tư trên thế giới, ở vùng biển Ấn Độ dương với diện tích rộng 587.000 cây số vuông và có 25 triệu dân. Vùng đất này trước kia là thuộc địa của Pháp và giành được độc lập năm 1960. Nước Madagascar là nước sản xuất va-ni lớn nhất thế giới.

Dù kinh tế phát triển nhưng Madagascar có một tỷ lệ nghèo khổ rất nặng, năm 2017 tỷ số người nghèo là 76,2% dân số. Một nửa trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng kinh niên, một hiện tượng mà các chuyên gia cho rằng vì quá lệ thuộc vào gạo.

Madagascar là nước thứ 5 trên thế giới có nhiều trẻ em không được đến trường. Cứ mỗi mùa đông nam cực, Madagascar lại bị nạn dịch hạch hoành hành, năm 2017 nạn dịch hạch  đã lan đến nhiều thành phố làm cho hơn 200 người thiệt mạng.

Tháng 1 năm 2017, Hồng y Quốc Vụ Khanh Pietro Parolin đã đến thăm Madagascar nhân kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao giữa Madagascar và Tòa Thánh. Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II là giáo hoàng cuối đến thăm Madagascar từ ngày 28 tháng 4 đến 1 tháng 5 năm 1989.

Vào tháng 9 vừa qua, Đức Phanxicô đã tuyên bố với một nhóm người Nhật khi họ đến thăm ngài, ngài mong được đến thăm đất nước của họ vào năm 2019.

Trong lịch trình tông du hiện nay chỉ có chuyến đi Panama để tham dự Ngày Thế giới Trẻ từ 22 đến 27 tháng 1 – 2019 là đã được thông báo chính thức.

Trong chuyến ra nước ngoài gần đây thăm các nước vùng vịnh Baltic, Đức Phanxicô 81 tuổi đã có dấu hiệu mệt mỏi và bị cảm cúm.

Ngày thứ ba, ngài đã trật chân té khi đi về Nhà Thánh Marta, nhưng ông Greg Burke, giám đốc Văn phòng báo chí Tòa Thánh cho biết, ngài “đã đứng dậy được và không sao.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Sự trở lại huy hoàng của Đức Phaolô-VI

Sự trở lại huy hoàng của Đức Phaolô-VI

Đức Phaolô-VI đến Đất Thánh tháng 1 năm 1964. 

lavie.fr, Philippe Clanché, 2018-10-03

Ngày 14 tháng 10, Đức Phanxicô sẽ phong thánh Đức Phaolô-VI, giáo hoàng đã đưa Công đồng Vatican II đi đến nơi về đến chốn. Chúng ta cùng nhìn lại các đức tính của một con người mà tầm nhìn và lối sống đã thấm đượm trong nhiều trụ chính của giáo hoàng hiện nay.

Bị kẹt giữa hai ngôi sao hùng vỹ, nhà hiền triết Gioan XXIII và cơn lốc Gioan-Phaolô II, giáo hoàng cuối cùng của thế kỷ trước gần như biến mất trên đài ra-đa. Trước hết nhờ vào niên lịch, chứ không phải chỉ nhờ vào nhân vật mà ngày 14 tháng 10 Đức Phanxicô sẽ phong thánh ở Rôma. Đức Phanxicô là một trong những người ngưỡng mộ nhiệt thành Đức Giovanni Battista Montini, giáo hoàng Phaolô VI, người qua đời cách đây 40 năm, ngày 6 tháng 8 – 1978 ở tuổi 81. Năm nay cũng là năm kỷ niệm 50 năm Thông điệp Sự sống con người Humanæ vitæ và cũng là kỷ niệm sự hiện diện của Đức Phaolô-VI trong buổi gặp gỡ với hội đồng giám mục Châu Mỹ La Tinh ở Medellín (Colombia), người đã bật đèn xanh cho quyết định ưu tiên lo cho người nghèo. Tuy nhiên hai kỷ niệm này nói lên hai khía cạnh của một giáo hoàng thường không được thấu hiểu mà rồi đây sẽ được tôn kính trên các bàn thờ.

Phanxicô, Phaolô VI: dù hai người sống ở hai bối cảnh không thể so sánh được, nhưng hai giáo hoàng cùng chia sẻ nhiều thực tại giống nhau. Rất nhiều sự đổi mới về phong cách của giáo hoàng cuối cùng người Ý (nếu chúng ta đi tắt triều giáo hoàng ngắn ngũi của Đức Gioan-Phaolô I) trùng với giáo hoàng hiện nay. Đức Phaolô-VI không đội mũ miện tượng trưng cho hoàng triều và ngài chỉ dùng ghế khiêng (gesta sedatoria) khi bị đau cột sống. Chắc chắn ngài sẽ thích xe giáo hoàng bây giờ.

Nhà khảo luận và nhà xuất bản Michel Cool giải thích: “Đức Phaolô-VI quan tâm đến hình ảnh của một Giáo hội cho”. Tác giả vừa xuất bản quyển sách Ngôn sứ Phaolô VI, mười hành vi đánh dấu Lịch sử (Paul VI prophète, dix gestes qui ont marqué l’Histoire, nxb. Salvator). Thời điểm chưa đến để xem thường các căn hộ của dinh tông tòa. Tuy vậy, ngày nay nhiều người xem Đức Phaolô-VI là giáo hoàng hiện đại đầu tiên. Tác giả Michel Cool ghi nhận: “Ngài nhìn thế giới với cặp mắt nhân hậu, với tinh thần hiếu kỳ ngưỡng mộ nhưng sáng suốt. Chính trong tinh thần này mà ngài đọc các tiểu thuyết của nhà văn Pháp Françoise Sagan để hiểu xã hội mới, một xã hội đích thực là nó chứ không phải xã hội như mình mong muốn. Tuy nhiên ngài cũng không tán thưởng tất cả.”

Đối thoại và đại kết

Xuất thân từ một gia đình dấn thân, Montini cũng là một giáo hoàng chính trị. Thân phụ của ngài là luật sư  và là nhà báo, ông đi tìm một con đường thứ ba giữa chế độ phát-xít sẽ áp đặt lên xã hội trong những năm 1920 và chủ nghĩa vô thần. Là cha tuyên úy của Liên hội sinh viên công giáo, cha xứ trẻ Montini tiếp tục công việc của gia đình bằng cách đào tạo các thành phần ưu tú hậu-phát xít. Các môn đồ của ngài sẽ thành lập các trụ cột cho đảng Dân chủ kitô giáo cai trị nước Ý trong nhiều thập niên. Dựa trên đối thoại nhiều hơn là lời cảnh cáo, hành động ngoại giao của Đức Phaolô-VI biến Vatican thành nơi gặp gỡ của tất cả các lãnh đạo trên thế giới. Bây giờ họ không còn đến quỳ gối để nhận phép lành, nhưng đến để thảo luận sự tiến bộ của thế giới. 

Trong tất cả lãnh vực hành động của mình, đối thoại là một trong các chữ chính của triều giáo hoàng của ngài. Tu sĩ Dòng Đa Minh Thierry-Marie Courau viết trong quyển Cứu rỗi là đối thoại, từ Đức Phaolô-VI đến Đức Phanxicô (Le Salut comme dialogue, de saint Paul VI à François, nxb. Cerf) viết: “Xác tín thiết thân của ngài là duy chỉ có con đường đối thoại mới xây dựng văn minh của tình yêu, chương trình hoạch định mà Chúa đã lập nên cho con người.” Đức Phaolô-VI thức khuya để trả lời, ngài viết tay cho các linh mục ở khắp nơi trên thế giới. Còn giáo hoàng Châu Mỹ La Tinh thì không ngần ngại cầm điện thoại lên để gọi… thời đã thay đổi! Và có dịp là ngài hô hào trên máy vi âm: “Đối thoại, đối thoại” (Il dialogo, il dialogo). Cũng không phải tình cờ mà dấn thân cho đại kết lại là sợi dây nối kết hai giáo hoàng.

Năm 1964, tại Vườn Ô-liu, vòng ôm với Athénagoras, thượng phụ chính thống giáo Constantinople đánh dấu hồi cuối của các vụ dứt phép thông công như tham vọng của Vatican mang lại các con chiên đi lạc về ràng. Trở thành bạn bè, Athénagoras và Đức Phaolô-VI mơ có thể cử hành thánh lễ chung với nhau, nhưng giấc mơ chưa thành. Tác giả Michel Cool viết: “Đức Phaolô-VI tin vào các cử chỉ, vì thời gian làm việc của các nhà thần học thì quá lâu.” Năm 2016 ở La Havana, Cuba, với thượng phụ Kyril của Maxcơva, Đức Phanxicô cũng có chọn lựa như vậy. 

“Nhà cải cách lớn”

Trong nội bộ, Đức Gioan XXIII vẫn là người cha của công đồng, nhưng Đức Phaolô VI mới đúng đích thực là giáo hoàng của công đồng. Rất gần với vị tiền nhiệm của mình, ngài tiếp tục công đồng đã khởi xướng từ năm 1963 ngược với ý kiến của phần lớn giáo triều. Nhà báo Christophe Henning, tác giả quyển sách Đời sống nhỏ bé của Đức Phaolô-VI, (Une Petite vie de Paul VI, Desclée de Brouwer, 2014) khẳng định: “Ngài đã làm cho Công đồng Vatican II được áp dụng và có thể áp dụng được. Ngài biết tạo các hành vi mạnh, cũng giống như cách Đức Phanxicô làm.” Tác giả Michel Cool ghi nhận: “Trong khi công đồng đầy cả xáo trộn, Đức Phaolô-VI biết làm cho mọi người đồng ý với nhau, là quay về nguồn, là theo bước chân của Chúa Kitô”, tác giả đưa ra bằng chứng qua chuyến đi Đất Thánh lịch sử của ngài vào tháng 1 năm 1964. 

Vào thời đó, trên chuyến bay từ Đất Thánh về, tuần báo Paris Match đã thuê chiếc máy bay Caravelle cùng với 60 ký giả để tường trình chuyến đi của Đức Phaolô-VI đến Đất Thánh tháng 1 năm 1964, biến chiếc máy bay thành phòng biên tập và phòng rửa ảnh để Paris Match là tờ báo đầu tiên tường trình sự kiện được bày bán đầu tiên! Như thế báo chí biến giáo hoàng người hành hương thành ngôi sao báo chí.Tác giả Christophe Henning nói thêm: “Và khi Đức Phaolô-VI muốn nói về hòa bình, ngài đến Liên Hiệp Quốc ở New York để nói.” Trên thực tế, ngược với ý tưởng được lan truyền, Đức Gioan-Phaolô II không phải là giáo hoàng đầu tiên đi vòng quanh thế giới. Trong các điều kiện vật chất không thuận lợi bằng, Đức Phaolô-VI đã có chín chuyến đi nước ngoài, viếng thăm tất cả các châu lục. Chỉ một ngày ở Hồng Kông đã làm cho ngài đến giờ phút này là giáo hoàng đầu tiên chạm đất Trung Hoa.

Chúng ta không thể hình dung cải cách, bản đồ đi đường của Đức Phanxicô, mà không nghiên cứu công trình của Đức Phaolô-VI. Ông Michel Cool viết: “Ngài là nhà cải cách lớn, được hỗ trợ bởi kiến thức uyên thâm về guồng máy.” Dưới thời giáo hoàng uy tín Montini, có thể kể đến thượng hội đồng các giám mục và Ban Thư ký cho những người không tin… Về các đổi mới, phải kể đến việc bổ nhiệm giáo dân nam nữ vào làm việc trong các văn phòng giáo triều, phục hồi chức vị phó tế vĩnh viễn, bỏ vạ tuyệt thông các linh mục-thợ hay bỏ án tử hình ở Vatican (1969).

Không một thần học gia nào, ngay cả thần học gia sôi sục Hans Küng cũng không bị phạt dưới triều giáo hoàng của ngài. Lần đầu tiên, Jacques Loew, tu sĩ Dòng Đa Minh công nhân bến cảng người Pháp, linh mục Maurice Zundel người Thụy Sĩ, người không được mến chuộng tại nước mình, đến giảng tĩnh tâm ở Vatican. Và dĩ nhiên là cải cách phụng vụ và thánh lễ mang tên ngài, cũng như đưa phần dẫn nhập Cựu Ước vào phụng vụ. Tuy nhiên chương trình tốt đẹp này vẫn chưa được hoàn thành, tác giả Michel Cool bình luận: “Phanxicô phải tiếp tục công việc được để nguyên trạng từ năm 1978.” 

Văn hóa thảo luận nội bộ

Mỗi triều giáo hoàng có cơn khủng hoảng của nó. Ngoài các cẩn thận hậu công đồng, Đức Phaolô-VI còn phải đương đầu với tình trạng ra đi của rất nhiều linh mục. Tác giả Christophe Henning ghi nhận: “Ngài có cái nhìn của một Giáo hội đang sập. Nhờ công đồng, ngài hiểu Giáo hội sẽ trở nên một cái gì khác hơn là một thứ trật, là tập thể các linh mục. Công đồng Vatican II cung cấp tất cả để loại trừ chủ nghĩa giáo quyền.” Tác giả Michel Cool bổ túc: “Ngài kêu gọi đừng làm hoang vắng Giáo hội. Đừng phán xét Giáo hội như người đứng ngoài xem, nhưng phải giúp Giáo hội bằng sự phê phán khoan dung và có các đề nghị.” Ở đây xuất hiện ý tưởng thảo luận nội bộ mà Đức Phanxicô thường yêu cầu trong các thảo luận giữa các giáo sĩ ở thời buổi này.

Còn về sự thiếu hiểu biết gây ra do sự thận trọng về Thông điệp Sự sống con người, Humanæ vitæ, thông điệp này đưa ra một lập luận bằng vàng cho vị giáo hoàng hiện nay trong ước muốn giải tập trung của mình. Vì bằng cách ‘nói không’ với các cách tránh thai khác ngoài cách tự nhiên, Đức Phaolô-VI muốn, trên tất cả, trong số các động cơ khác, là chống một chính sách làm vô sinh hàng loạt ở các nước gọi là các nước thứ ba. Và vì thế thông điệp được đón nhận ở Phi châu và Châu Mỹ La Tinh, nhưng bị chỉ trích ở các nước phát triển, bằng chứng cho sự khó khăn tế nhị để có một lời áp dụng cho toàn thế giới trong lãnh vực tế nhị này.

Vì thế nếu không có một ‘thế hệ Phaolô VI’ thì ngày nay Đức Phaolô-VI vẫn là nguồn cảm hứng. Tác giả Michel Cool tóm tắt: “Sứ điệp của ngài mời gọi chúng ta, tín hữu kitô trong thế giới không còn là thế giới kitô nữa, và thế giới này như thế nào thì phải yêu nó như thế đó. Trước khi thay đổi thế giới – ngài thích dùng chữ ‘biến đổi khuôn mặt’ hơn là ‘trở lại’ -, Đức Phaolô-VI mời gọi chúng ta thay đổi chính mình. Ngài đi trước Đức Phanxicô trong xác tín của mình, rằng không có gì có thể thực hiện được với chủ nghĩa giáo quyền, với chủ nghĩa cộng đồng riêng của mình và đối với một số người còn là sự khinh miệt thế giới.” Bao nhiêu là dấu hiệu, vượt ra ngoài gương mẫu cá nhân, là cả một giá trị lớn.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Phaolô-VI trên trang bìa số báo Paris Match 770 ngày 11 tháng 1-1964

Chuẩn bị cho lễ phong thánh Đức Phaolô-VI ở quảng trường Thánh Phêrô

Xin đọc: Đức Phaolô VI, Giáo hoàng của Công đồng

Di sản đích thực của Đức Giáo hoàng Phaolô VI

Tông huấn “Sự sống Con người” có là sứ ngôn không?

Xem lại Tông huấn Sự sống Con người

Vì sao phong thánh cho nhiều giáo hoàng như vậy?

Vì sao phong thánh cho nhiều giáo hoàng như vậy?

lavie.fr, Sixtine Chartier, 2018-10-05

Trên 12 giáo hoàng tại chức từ năm 1846, Giáo hội công giáo sắp phong thánh giáo hoàng thứ tư (3 trong số này được phong trong 50 năm gần đây), phong chân phước một và sẽ mở hai án phong chân phước sắp tới đây. Tác giả Bernard Lecomte, một chuyên gia về các triều giáo hoàng cho rằng, sự tự-vinh danh la-mã như vậy về lâu về dài “sẽ làm một cửa hiệu.”

Sử gia Paul Airiau trong tác phẩm Tự điển Vatican và Tòa Thánh (Dictionnaire du Vatican et du Saint-Siège, nxb. Robert Laffont, dưới quyền điều khiển của Christophe Dickès) cho rằng, việc phong thánh các giáo hoàng được triển khai từ năm 1850 nhằm củng cố quyền uy giáo hoàng, dù trước đó cũng đã có một số khá lớn giáo hoàng được phong thánh. Năm 1954, Đức Piô XII phong thánh cho Đức Piô X qua đời năm 1923. Sử gia Airiau giải thích: “Như thế Đức Piô XII xem Đức Piô X là gương mẫu của người bảo vệ cho giáo điều và sự độc lập của Giáo hội, khi chế độ cộng sản bách hại người công giáo, và sự làm mới lại giáo lý và mục vụ được khẳng định.” 

Một cách nghịch lý, đặc biệt là sau Công đồng Vatican II, sự thánh thiện của giáo hoàng được hệ thống hóa. Trong một hành động tế nhị cân bằng hậu công đồng, Đức Phaolô VI đưa ra trường hợp các giáo hoàng Phaolô VI và Gioan XXIII để nhấn mạnh đến sự liên tục giữa hai người tiền nhiệm của mình: một mặt là sự trường kỳ của giáo điều, mặt kia là sự canh tân mục vụ.

Đúng, đó là một giáo hoàng lớn. Nhưng không phải là Thánh Vinh Sơn Phaolô hay Mẹ Têrêxa. Người dạy giáo lý nào ở giáo phận Bamako, Mali đã cảm hứng cho Đức Phaolô-VI?

– Bernard Lecomte, chuyên gia về triều giáo hoàng

Vào thời Đức Gioan-Phaolô II, bước qua thế kỷ 21, thời gian bước nhanh và các vụ phong thánh cũng bước nhanh. Tiến trình được đơn giản hóa, con số các thánh và chân phước nở rộ.  Giáo hoàng Ba Lan cũng không tránh được làn sóng này, ngài có đặc sủng đặc biệt và đi nhiều nơi trên thế giới, nên khi vừa nghe tin ngài qua đời năm 2005, đám đông đã la lên ở quảng trường Thánh Phêrô “Phong thánh ngay!” (Santo Subito!). Sự kiện vượt lên các động lực chính trị của Vatican như các thế kỷ trước.

Theo tác giả Paul Airiau, việc mở tiến trình phong chân phước cho Đức Gioan-Phaolô I năm 2003, mà triều giáo hoàng của ngài chỉ kéo dài 30 ngày, “phản ảnh một quá trình sâu sắc” tạo cảm hứng cho các giáo hoàng: “Sự thánh thiện của Giáo hội phản ảnh qua vị lãnh đạo của mình.” Với Đức Phaolô-VI, Giáo hoàng Phanxicô nối tiếp việc phong thánh cho các giáo hoàng gần đây. Sử  Bernard Lecomte, chuyên gia về triều giáo hoàng nói: “Đúng, đó là một giáo hoàng lớn. Nhưng không phải là Thánh Vinh Sơn Phaolô hay Mẹ Têrêxa. Người dạy giáo lý nào ở giáo phận Bamako, Mali đã cảm hứng cho Đức Phaolô-VI?”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: Sự trở lại huy hoàng của Đức Phaolô-VI

Một thánh lễ “cầu cho hòa bình” với sự hiện diện của tổng thống Nam Hàn Moon Jae in

Một thánh lễ “cầu cho hòa bình” với sự hiện diện của tổng thống Nam Hàn Moon Jae in

Tổng thống Moon Jae-in tại chức từ ngày 10 tháng 5 – 2017

Ngày thứ ba 9 tháng 10-2018, văn phòng báo chí Tòa Thánh loan tin, trong chuyến đi Vatican của tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in, ngày 17 tháng 10, một thánh lễ cầu nguyện cho hòa bình sẽ được Đức Hồng y Quốc Vụ Khanh Pietro Parolin cử hành tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Ngày 18 tháng 10-2018, Đức Phanxicô sẽ tiếp tổng thống Nam Hàn ở Dinh Tông Tòa. Hãng thông tấn Yonhap của Nam Hàn cho biết, trong dịp này, tổng thống Nam Hàn sẽ chuyển lời mời chính thức của chủ tịch Bắc Hàn Kim Jong-un đến Đức Phanxicô, ông mời ngài đến thăm Bắc Hàn. Trong cuộc họp thượng đỉnh ở Bình Nhưỡng ngày 18 đến 20 tháng 9 vừa qua, chủ tịch Kim Jong-un đã bảo đảm với tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in, ông sẽ đón tiếp “nồng nhiệt Đức Phanxicô” nếu ngài đến Bình Nhưỡng.

Đức Phanxicô cổ động cho hòa bình ở Triều Tiên

Từ đầu năm đến nay, Đức Phanxicô nhiều lần kêu gọi giải hòa và hiệp nhất ở bán đảo Triều Tiên. Ngày 10 tháng 6 vừa qua, ngài đặc biệt cầu nguyện với Mẹ Maria, “nữ vương Triều Tiên” cho một tương lai hòa bình có thể có ở bán đảo Triều Tiên sau nhiều tháng căng thẳng nặng của chương trình hạch nhân của Bắc Hàn. Lời tuyên bố này được đưa ra hai ngày trước cuộc gặp lịch sử của tổng thống Mỹ

Donald Trump và nhà lãnh đạo Bắc Hàn Kim Jong-un. Cuộc gặp gỡ này được sứ thần Alfred Xuereb ở Nam Hàn và Mogoli đánh giá “rất quan trọng” trong vấn đề giải trừ vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn. Và vào ngày 21 tháng 6 vừa qua, trong chuyến đi Thụy Sĩ, Đức Phanxicô đã gặp một phái đoàn tín hữu kitô của cả hai miền bắc-nam Triều Tiên.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: Kim Jong-un mời Đức Phanxicô đến Bắc Hàn

Anna, từ vũ nữ khỏa thân đến nữ tu

Anna, từ vũ nữ khỏa thân đến nữ tu

fr.aleteia.org, Linh mục Przemek “Kawa” Kawecki, Dòng Don Bosco và Marzena Devoud, 2018-10-08

“Khi tôi nhảy, mọi người xem tôi như cô gái điếm. Nhưng nhờ Chúa Giêsu, tôi hiểu thân thể tôi không phải là thùng rác”. Nữ tu Anna Nobili, cựu vũ nữ khỏa thân, bây giờ là nữ tu nói chuyện với báo Aleteia.

Trước khi gặp Chúa, Anna Nobili là vũ nữ khỏa thân. Cô nhảy trong các hộp đêm ở thành phố Milan, nước Ý, cho đến ngày cô gặp Chúa Kitô. Sáu năm sau, cô nghe tiếng gọi của Chúa và trở thành nữ tu Dòng các nữ tu Nhà Nazareth. Nữ tu Anne Nobili kể cho chúng tôi nghe câu chuyện trở lại lạ lùng của sơ.

Cái gì đã làm cho cô gái trẻ đẹp và nhạy cảm như sơ khỏa thân trong các hộp đêm?

Nữ tu Anna Nobili: Cha mẹ tôi ly dị năm tôi 13 tuổi. Cha tôi rất hung bạo với mẹ tôi, vừa bằng lời vừa đánh đập. Cha tôi là một người bất hạnh, ông trút hết nỗi bực tức của mình trên con cái. Không ai dạy cho cha tôi biết yêu thương là như thế nào. Cha tôi không thể mang tình thương đến cho vợ con. Lớn lên, sự thiếu tình thương phụ tử này làm cho tôi ngày càng không thể chịu đựng nỗi. Trong lòng tôi là một nỗi trống vắng xúc cảm to lớn. Tôi rất rụt rè, tôi nói ngọng… 

Để lên sân khấu tôi không được rụt rè…

Khi đó tôi nghĩ tôi chẳng có giá trị gì. Ở trường, tôi cảm thấy bị loại ra rìa. Các bạn học làm cho tôi có cảm tưởng tôi chẳng được tích sự gì. Tôi phải giống các bạn để được chấp nhận. Khi đó tôi bắt đầu ăn mặc lập dị, tôi bắt mẹ tôi phải mua áo quần đắt tiền và hợp thời trang cho tôi. Tôi trang điểm và ăn mặc khiêu khích để các bạn gái phải ghen tức với tôi. Dung mạo của tôi rất xinh và gợi cảm. Các cô xem tôi như một hiểm nguy cho họ. Tôi lại bị cô độc và ruồng bỏ. Tôi bắt đầu bị suy thoái tinh thần. 

Khi đó sơ không có bạn trai?

Có chứ. Anh ta phớt lờ tôi ban ngày nhưng lại lợi dụng tôi ban đêm. Chúng tôi ở chung với nhau ban đêm, nhưng ban ngày tôi ở một mình. Khi tôi hiểu anh ta không yêu tôi, tôi rất phẫn nộ. Khi đó tôi đổi qua lối sống về đêm. Tôi bắt đầu làm việc ở một vài hộp đêm ở thành phố Milan, rượu chảy như suối cũng như khỏa thân. Với công việc này, tôi gặp không biết bao nhiêu là đàn ông. Tôi biết tất cả các người canh hộp đêm của thành phố. Tôi có thể vào miễn phí bất cứ đâu. Hai giờ sáng tôi xong việc, sau đó tôi đi một vòng các tiệm nhảy disco cho đến sáng. 

Khi đó sơ có hạnh phúc không?

Tôi sống trong ảo tưởng của hạnh phúc. Tôi không yêu chính mình, nhưng đàn ông thích cơ thể của tôi. Thân thể và điệu nhảy của tôi là dụng cụ để tôi săn đàn ông như săn chiến lợi phẩm. Càng ngày càng nhiều hơn, mỗi đêm là một người mới. Tôi còn học nhảy để diễn trong các vở diễn và giúp tôi mở cánh cửa bước vào lãnh vực truyền hình. Tôi trở nên người nổi tiếng. Tôi đi khắp nơi trên thế giới.

Biến cố nào đã làm cho sơ từ giả nhảy khỏa thân đến đi tu?

Dù thành công, tôi vẫn cảm thấy trống rỗng. Thật ra tôi cảm thấy mình cô độc và… dơ bẩn. Cơ thể tôi không nhận một cử chỉ dịu dàng nào. Luôn hung bạo và khiêu khích, không một chút êm ái dịu dàng. Tôi mơ có ngày tôi sẽ gặp một người con trai nói yêu tôi, rung động vì tôi. Tôi không bao giờ gặp.

Vì thế đó là bước ngoặt của sơ?

Tôi không biết. Ma quỷ kiểm soát đời tôi. Nó nói tôi phải làm gì và tôi vâng lời nó. Tôi sống như một người mù. Tôi xem nhà mình như khách sạn. Tôi đi ngang anh chị em tôi mà không nói chuyện với họ. Trước khi ra khỏi nhà, tôi trang điểm cả giờ. Tôi để hàng tấn mỹ phẩm lên mặt mà cũng không hài lòng. Mỗi lần tôi ngồi trước gương, mẹ tôi đến nói chuyện với tôi. Bà nói với tôi về Chúa Giêsu. Một ngày nọ tôi tức lên, tôi nói với mẹ tôi, tôi không xin để sống. Nhưng mẹ tôi vẫn tiếp tục nói với tôi về Chúa Giêsu. Bà đi lễ mỗi chiều để cầu nguyện cho tôi. 

Cái gì đã thúc đẩy sơ thay đổi?

Một ngày nọ có một bà gọi tôi ngoài đường. Tôi không biết bà ấy, nhưng bà biết rõ về tôi. Chúng tôi bắt đầu nói chuyện… Tôi hiểu mẹ tôi đã cho bà một tấm hình của tôi. Với tất cả các bạn gái của mẹ tôi, bà xin họ cầu nguyện cho tôi, đây là một thói quen đặc biệt của người Ý. Bà bạn này của mẹ đề nghị tôi đi một khóa tĩnh tâm ở Axixi. Tôi thuận đi. Khi đến đó, chỉ trong vòng một ngày, tôi đã sống một cái gì rất tuyệt vời. Ở đây có các bạn trẻ hát và cầu nguyện. Họ cũng vui chơi nhưng không say sưa. Đối với tôi, đó là một chuyện rất mới và rất đẹp. Tôi giàu, tôi có trong tay tất cả mọi đứa con trai tôi muốn, tôi tổ chức các buổi dạ tiệc địa ngục, nhưng tôi chưa bao giờ biết một bầu khí vui vẻ như vậy. Một vài tháng sau, tôi đi lễ. Tôi nghe linh mục nói, trong nhà thờ lúc này, Chúa rất yêu người nào đến đây lần đầu. Tôi có cảm tưởng cha đang nói về tôi. Lời của cha đã làm cho tôi rất xúc động. Có một cái gì vỡ tan trong lòng tôi. Tôi mới 22 tuổi, tôi tiếp tục làm vũ nữ khỏa thân nhưng tôi đi lễ mỗi chúa nhật. Thường thường, tôi đi thẳng đến các hộp đêm, nơi tôi nhảy suốt đêm. Khi ra về, tôi nói với các bạn tôi sẽ đi lễ vì Chúa thương tôi. Chúng xem tôi như con điên. Còn tôi, tôi ở trong hai trạng thái “điên”: điên của đời sống về đêm và điên vì tình yêu của Chúa Giêsu. 

Như thế cũng khó chọn lựa giữa hai cái điên này?

Đúng… tôi đong đưa giữa hai cái điên. Cho đến ngày tôi cảm thấy sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu. Đó là trong một khóa tĩnh tâm. Ngày hôm đó là ngày tôi nhảy lần cuối. Ngày hôm sau, tôi quyết định thay đổi cuộc sống. Khi tôi nhảy trong các hộp đêm, mọi người xem tôi như cô gái điếm. Chính Chúa Giêsu làm cho tôi thấy, thân thể tôi không phải là thùng rác. Ngài cho tôi thấy, tôi là hạt ngọc đích thực. Khi đàn ông tặng tôi lời khen để đổi lấy thân thể tôi thì tình yêu của Chúa Giêsu là không điều kiện.

Khi đó sơ từ bỏ tất cả để theo Ngài?

Tôi cần phải bỏ tất cả: hộp đêm, truyền hình, tất cả… Tôi muốn biết Ngài! Dù vậy, ngày tôi bắt đầu nghe tiếng gọi đi tu, tôi hoảng lên. Tôi sợ phải chấp nhận đời sống này, tôi sợ Chúa sẽ lấy đi niềm vui sống, lấy đi hạnh phúc của tôi. Nhưng ngày hôm sau khi gặp cơn hoảng sợ này, tôi đọc một đoạn trong sách Diễm ca: “Này em gái của anh, người yêu anh sắp cưới, em là khu vườn cấm, là dòng suối canh phòng nghiêm mật, là giếng nước niêm phong” (4, 12). Đoạn này đã mở tâm hồn tôi đến với Ngài.

Sơ có lời khuyên nào cho các bạn trẻ cảm thấy mất định hướng, bị cô độc, không có ai hiểu mình, bị gạt ra bên lề như sơ hồi trước không?

Rất nhiều phụ nữ tìm giá trị của mình nơi người đàn ông. Đôi khi sau một quan hệ bất hạnh, họ rơi vào vòng tay của người đầu tiên để cảm thấy mình được xứng đáng, để lấy lại tự tin. Điều này không bao giờ có hiệu quả. Chúng ta không thể đi tìm người đàn ông với bất cứ giá nào. Tốt hơn phải ở một mình một thời gian và nhìn lại đời sống nội tâm của mình. Không có gì đáng giá hơn là nhìn lại nét đẹp riêng của mình, giấc mơ của mình, những chuyện không dính gì đến việc đi tìm một người yêu. Khi một phụ nữ biết tôn trọng chính mình, biết yêu chính mình, khi họ chăm sóc cho họ và biết giá trị đích thực của mình, thì cuối cùng họ sẽ tìm được người đàn ông thật sự yêu thương họ và tôn trọng họ. Họ sẽ không còn bị lôi cuốn bởi những người đàn ông muốn lợi dụng họ. Họ sẽ lôi cuốn những người đàn ông đi tìm một phụ nữ xinh đẹp và tự do đến với họ.

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc: Nolwenn, 20 tuổi, kể câu chuyện trở lại chớp nhoáng của minh

Kim Jong-un mời Đức Phanxicô đến Bắc Hàn

Kim Jong-un mời Đức Phanxicô đến Bắc Hàn

la-croix.com, Dorian Malovic, 2018-10-09

Đức Phanxicô ở đền thánh Solmoe, căn nhà sinh tiền của Thánh Anrê Kim Taegon, linh mục đầu tiên ở Nam Hàn. / POOL-OR/CPP/CIRIC

Ngày thứ ba 9 tháng 10, phủ Tổng thống Nam Hàn loan báo chủ tịch Kim Jong-un mong Đức Phanxicô sẽ đến thăm Bắc Hàn, một lời mời mà Tổng thống Nam Hàn sẽ chuyển đến Vatican trong lần ông đến thăm Vatican ngày 17 và 18 tháng 10 sắp tới.

Ngoại giao Bắc Hàn không biết một giới hạn nào. Nhà lãnh đạo Bắc Hàn Kim Jong Un hy vọng Đức Phanxicô sẽ đến Bình nhưỡng, và trong dịp này ông sẽ “nồng nhiệt đón tiếp”, ngày thứ ba 9 tháng 10, phủ Tổng thống Nam Hàn loan báo tin trên và cho biết sẽ chuyển lời mời này đến Vatican. Tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in người công giáo sẽ có buổi tiếp kiến riêng với Đức Giáo hoàng khi ông đến Vatican vào ngày 17 và 18 tháng 10 sắp tới. Ông Kim Eui-kyeom, phát ngôn viên của Tổng thống Moon Jae-in cho biết: “Trong buổi gặp Đức Phanxicô, Tổng thống Nam Hàn sẽ chuyển lời mời của chủ tịch Kim Jong Un theo đó, ông Kim Jong-un sẽ nồng nhiệt đón Đức Giáo hoàng khi ngài đến Bình nhưỡng.”

Từ ngày 13 đến 21 tháng 10, tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in có chuyến đi dài qua Âu châu, ông sẽ đến Pháp, Ý và Đức và ông sẽ phải giải thích cho các nhà lãnh đạo Âu châu về đường lối chính trị xích lại gần Bắc Hàn của ông và các tiến triển gần đây của vùng bán đảo này.

Một nền ngoại giao Bắc Hàn không có giới hạn

Sau nhiều năm căng thẳng vì chương trình hạch nhân, từ đầu năm nay, vùng bán đảo Triều Tiên là sân khấu của một sự thư giãn lạ thường bởi ba cuộc họp thượng đỉnh giữa tổng thống Moon Jae-in và chủ tịch Kim Jong-un. Kim Jong-un sẽ đến Maxcơva sắp tới và sẽ tiếp Chủ tịch Tập Cận Bình trước khi đến Seoul để có một buổi họp thượng đỉnh lịch sử khác.

Đức Tổng Giám mục Nam Hàn Hyginus Kim Hee-joong đã tháp tùng tổng thống Nam Hàn trong buổi họp nam-bắc hàn ở Bình nhưỡng vào ngày 19 tháng 9 vừa qua.

Theo nguồn tin báo Thập giá có được, “Tổng Giám mục đã chuyển sứ điệp đến Kim Jong-un qua trung gian của tổng thống Moon Jae-in và phản ứng của Kim không bất lợi chút nào”. Trong một lần nói chuyện với Tổng Giám mục Hyginus Kim Hee-joong Nam Hàn, chủ tịch Kim Jong-un đã nhờ chuyển đến Vatican ý muốn xây dựng hòa bình của mình.

Một linh mục ở Nam Hàn phân tích như sau: “Lời mời này hẳn làm cho hội đồng giám mục Nam Hàn hân hoan. Hiện nay vai trò của ngoại giao rất quan trọng trong tiến trình xích lại gần Bắc Hàn, nhưng đứng trên quan điểm đạo đức thì sẽ rất khó để biện minh cho một cuộc thăm viếng ở một đất nước hoàn toàn vô thần, loại bỏ mọi tín ngưỡng hay mọi hình thức giữ đạo.”

Tự do tín ngưỡng có trong Hiến pháp Bắc Hàn nhưng mọi sinh hoạt tôn giáo đều được quy định chặt chẽ và hoàn toàn bị cấm bên ngoài các cơ sở chính thức.

Bình Nhưỡng, cựu “Giêrusalem của Á châu”

Vào đầu thế kỷ 20, trước khi bán đảo Triều Tiên phân chia, Bình Nhưỡng là trung tâm tôn giáo quan trọng có nhiều nhà thờ và có một cộng đoàn giáo dân có tên “Giêrusalem của Á châu”. Nhưng nhà sáng lập chế độ Bắc Hàn và chủ tịch Kim Il Sung, ông của Kim Jong-un, xem kitô giáo là một đe dọa cho chế độ của độc tài của ông. Ông loại hẳn kitô giáo bằng các vụ thanh trừng, giam bắt trong các trại cải tạo.

Từ đó, chế độ Bắc Hàn cho phép các tổ chức công giáo có nhiều chương trình nhân đạo nhưng họ không có một quan hệ nào với Vatican. Trong chuyến đi Nam Hàn năm 2014, Đức Phanxicô đã cử hành một thánh lễ ở thủ đô Seoul với ý chỉ cầu nguyện cho sự thống nhất của hai miền.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Khiết tịnh và Tình yêu

Khiết tịnh và Tình yêu

Ronald Rolheiser, 2018-19-10

 Khốn cho khiết tịnh, nếu nó không được thực hành trong yêu thương, nhưng khốn cho yêu thương mà không có khiết tịnh.. 

Đây là những lời của thầy dòng Biển Đức, Benoit Standaert, và tôi tin chúng có thể rất hữu ích trong văn hóa thời nay, nơi mà hầu như mọi người cả trong giới thế tục lẫn sống đời khiết tịnh tận hiến đều nghĩ rằng tính dục và khiết tịnh là thứ đối lập nhau như tử địch.

Thật đáng buồn khi thời nay người ta không hiểu rõ sự đối lập này, cả trong văn hóa lẫn trong Giáo hội chúng ta. Trong văn hóa đương đại, sự khiết tịnh hầu như được xem là ngây thơ ngơ ngác, thiếu sự khai sáng quan trọng, và chỉ là một phẩm chất được tôn vinh và bảo vệ trong tuổi ấu thơ. Thật vậy, trong nền văn hóa thời nay, khiết tịnh thường bị khinh thị và bị xem là sự khắc nghiệt về đạo đức dựa nên nỗi sợ. Mỉa mai thay, nhiều người trong Giáo hội đang cố bảo vệ sự khiết tịnh lại, cũng chẳng lành mạnh hơn gì. Chúng ta không bao giờ liên kết sự khiết tịnh với một linh đạo có thể tôn vinh tính dục như là món quà đẹp đẽ của Thiên Chúa vốn được định để gắn kết sự phong phú, thiêng liêng và vui mừng.

Tính dục và khiết tịnh không phải là đối thủ như kiểu nền văn hóa và giáo hội chúng ta thường nhận định. Chúng chỉ là hai mặt của đồng xu. Chúng cần nhau. Tính dục không có khiết tịnh thì vô hồn và không đáng trọng. Ngược lại, khiết tịnh tự xem mình là cao vượt hay tách rời tính dục, thì sẽ kết cục trong cằn cỗi, phán xét và giận dữ. Khốn cho cả hai, nếu không biết tôn trọng mặt kia.

Bất hạnh thay, ngoại trừ vài ngoại lệ, Giáo hội chưa từng hiểu thấu về tính dục, và cũng như vậy, trừ số ngoại lệ còn hiếm hoi hơn, nền văn hóa của chúng ta chưa từng hiểu thấu sự khiết tịnh. Người ta tìm kiếm, và hầu như chẳng thấy, một linh đạo kitô giáo về tính dục thật sự bao quát và tôn vinh chính đáng món quà tuyệt vời mà Thiên Chúa ban tặng chúng ta trong tính dục. Cũng như thế, người ta cũng tìm kiếm, và hầu như chẳng thấy, một tiếng nói thế tục nào toát lên được tầm hệ trọng của khiết tịnh. Khi ông Môsê đứng trước bụi gai bốc cháy và Thiên Chúa bảo ông, “Cởi giày ra vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh,” cũng có lẽ là lời Thiên Chúa đang nói về chúng ta khi đứng trước mặt nhau trong mầu nhiệm tình yêu và tính dục. Tính dục đem lại sự sống chỉ khi nó được trao ban và đón nhận cùng lòng tôn trọng thích đáng.

Tính dục không chỉ là tình dục. Khi tạo thành con người đầu tiên, Thiên Chúa nhìn họ và nói, “Con người ở một mình thì không tốt!” Điều này không chỉ đúng với ông A-dong và bà E-và, mà còn đúng với tất cả mọi con người, mọi sinh vật, và mọi phân tử nguyên tử trong vũ trụ. Ở một mình thì không tốt, và tính dục là ngọn lửa tồn tại trong chúng ta ở mọi mức độ hiện sinh, ý thức và không ý thức, cả thân xác và linh hồn, hướng chúng ta ra khỏi sự cô độc của bản thân, hướng về gia đình, cộng đồng, tình bạn, kết giao, sinh sôi, đồng sáng tạo, mừng vui, phấn khởi và giao hợp. Tính dục có liên kết với bản năng sống của chúng ta, và không thể tách rời khỏi sự thiêng liêng mà chúng ta cảm nhận trong mình với tư cách thụ tạo theo hình ảnh Thiên Chúa. Và là một sinh lực, tính dục là điều thiêng liêng, không bao giờ đáng bị dè bỉu hay bị hạ giá xuống một thứ tầm thường.

Còn khiết tịnh, nhiều người chúng ta không biết, trước hết không chỉ là một khái niệm trong tình dục. Nó hơn thế nhiều. Khiết tịnh là sự tôn trọng thích đáng và kiên nhẫn thích đáng, không chỉ là lập trường của chúng ta với hôn nhân, mà thật ra là lập trường của ta trước mọi chuyện trong đời. Khiết tịnh không phải là độc thân, và càng không phải là lãnh đạm. Người ta có thể độc thân nhưng không khiết tịnh, cũng như người ta có thể có sinh hoạt tình dục tích cực nhưng vẫn khiết tịnh. Nếu hiểu đúng, thì khiết tịnh không phải là bài tình dục, mà nó bảo vệ tính dục khỏi sức mạnh quá dữ dội của chính nó bằng cách tạo nên những bộ lọc cần thiết, là sự kiên nhẫn và tôn trọng, để cho người khác được là chính mình, cho chúng ta được là chính mình, và cho tình dục được là một ơn thiêng liêng đem lại sự sống như mục đích của nó.

Trong quyển Holy the Firm, Annie Dillard đã cho chúng ta một hình ảnh rất thú vị về khiết tịnh. Bà kể rằng, một ngày nọ, khi ngắm một chú bướm vất vả chui ra khỏi kén, và bà đã mất kiên nhẫn. Tiến trình thoát kén thật đẹp nhưng chậm kinh khủng, nên bà đã lấy một cây nến và thêm nhiệt lượng cho nó. Chú bướm chui ra khỏi kén nhanh hơn, nhưng bởi tiến trình đã không theo đủ thời gian và sự tự do cần thiết của nó, nên chú bướm chui ra với đôi cánh bị hỏng. Quy luật tự nhiên đã không được tuân thủ, một lỗi lầm trong khiết tịnh, một sự mất kiên nhẫn thiếu khôn ngoan, một sự hấp tấp dẫn đến khiếm khuyết xảy ra trong tự nhiên.

Tính dục và khiết tịnh cần nhau. Tính dục đem lại sinh lực, khát khao, nồng nhiệt và khẩn bách khiến chúng ta nhận ra, trong vô thức hay ý thức, rằng ở một mình thì không tốt. Nếu dập tắt tiếng nói của tính dục, chúng ta sẽ trở nên cằn cỗi và giận dữ. Mặt khác, khiết tịnh cho chúng ta biết rằng, trên hành trình tìm kiếm sự hòa hợp với mọi thứ vượt ngoài bản thân, chúng ta phải đủ kiên nhẫn và tôn trọng để cho người khác được trọn vẹn là chính họ và chúng ta được trọn vẹn là chính mình.

J.B. Thái Hòa dịch

 

Cuộc gặp liên thế hệ tại thượng hội đồng giới trẻ

Cuộc gặp liên thế hệ tại thượng hội đồng giới trẻ

Mỗi lần Đức Phanxicô nói với các bạn trẻ, ngài đều khuyến khích họ nói chuyện với ông bà nội ngoại của mình. © Ricardo Rossi/Flickr/CC BY-NC 2.0)

cath.ch, 2018-10-09

Vatican News trong ấn bản tiếng Ý ngày 8 tháng 10 cho biết, Đức Phanxicô sẽ nói chuyện với các bạn trẻ và người lớn tuổi trong buổi gặp liên thế hệ có tên ‘Minh triết mọi thời’. Buổi gặp này sẽ diễn ra ngày 23 tháng 10 tại Viện giáo phụ Augustinianum, Rôma.

Theo các nhà tổ chức sự kiện có mặt trong thượng hội đồng giới trẻ, thì buổi gặp này là do sự “quan tâm” của Đức Phanxicô đối với các thế hệ để “họ cùng đi một con đường chung với nhau”. Mỗi lần Đức Phanxicô nói chuyện với cử tọa trẻ, ngài đều khuyến khích họ nói chuyện với ông bà nội ngoại của mình.

Ngày 6 tháng 10, trong buổi gặp của các Nghị phụ với các bạn trẻ, Đức Phanxicô đã lên tiếng: “Các người lớn tuổi là gốc rễ cho sự tăng trưởng của các con, không có gốc rễ này, chúng ta không thể có hoa trái.” Ngày 24 tháng 9, tại thành phố Riga (Lettoni), Đức Phanxicô kêu gọi các người lớn tại hãy là “gốc rễ sống” để các người trẻ được “ghép vào”.

Gặp gỡ với Ủy ban tổ chức JMJ 2019

Trong lần gặp ngày 23 tháng 10 sắp tới sẽ có sự hiện diện của các bạn trẻ, các người lớn tuổi trên thế giới, Tổng Giám mục José Domingo Ulloa Mendieta, giáo phận Panama, chủ tịch Ủy ban tổ chức Ngày Thế giới Trẻ (JMJ) năm 2019 và linh mục Antonio Spadaro, giám đốc tạp chí Dòng Tên Văn minh Công giáo Civiltà Cattolica.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài mới nhất