Home Blog Page 827

Đã đến lúc Đức Phanxicô cần xem lại thỏa thuận với Trung quốc

Đã đến lúc Đức Phanxicô cần xem lại thỏa thuận với Trung quốc

Đức Phanxicô gặp giáo dân Trung Hoa trong một buổi tiếp kiến chung ở quảng trường Thánh Phêrô

Vatican cần xem lại các thỏa thuận của các giám mục khi Bắc Kinh gia tăng đàn áp tín hữu kitô và hồi giáo

international.la-croix.com, Michael Sainsbury, 2019-11-12

Cứ mỗi tuần trôi qua lại có thêm một chuyện mới về sự đàn áp các người công giáo cũng như các tín hữu tin lành và hồi giáo ngày càng gia tăng ở Trung quốc, chính sách “hán hóa” tôn giáo không thương tiếc của chủ tịch Tập Cận Bình tiếp tục thực hiện.

Điều này càng ngày càng trở nên rõ ràng với Vatican, và sẽ là vấn đề trong chuyến tông du sắp tới của ngài ở Thái Lan và Nhật bản. Người công giáo trong vùng, đặc biệt là ở Trung quốc, Hồng Kông và Đài Loan muốn ngài đề cập đến vấn đề này trong chuyến đi của ngài.

Sẽ khó tin nếu các ký giả không đặt câu hỏi này trên chuyến bay giáo hoàng và truyền thống của giáo hoàng cho chúng ta biết ngài sẽ có câu trả lời. Thật sự là khá đặc biệt vì chuyến đi bắt đầu 14 tháng sau ngày ký kết thỏa hiệp lịch sử nhưng lại gây nhiều tranh cãi giữa Bắc Kinh và Tòa Thánh về việc bổ nhiệm các giám mục.

Thỏa thuận này đã được thực hiện trong nhiều năm, và thoạt đầu cho thấy Vatican đã nhượng bộ nhiều ở bàn thương thuyết: Đức Phanxicô đã phục hồi bảy giám mục bị vạ tuyệt thông (và một giám mục đã qua đời). Đó là các giám mục của Hội Công giáo Yêu nước (CCPA) và bây giờ Hội này do Bộ Công tác Mặt trận thống nhất của Đảng Cộng sản và Hội đồng Giám mục Trung Quốc Công giáo kiểm soát, mà Vatican không công nhận.

Nhưng quyết định của Bắc Kinh để nhận khoảng 30 giám mục do Vatican chỉ định và làm việc “chui”, hoạt động và nằm ngoài sự kiểm soát của Giáo hội Công giáo Yêu nước đã bị chậm lại. Bắc Kinh chỉ công nhận hai trong số họ, và chỉ mới bắt đầu vào tháng tám. Vào thời điểm thỏa thuận, nhiều người nghĩ đây là khởi đầu cho một tiến trình sẽ thấy nhiều giám mục được Bắc Kinh tiếp tục thêm vào danh sách, nhưng tất cả lại im lặng thêm một lần nữa.

Những gì chúng ta biết, đó là các nhà đàm phán Vatican đã làm việc cật lực để làm sáng tỏ các chi tiết còn giữ bí mật, nhất là hội nhập các giáo phận được Vatican phê chuẩn và những người được Bắc Kinh phê chuẩn. Điều này rõ ràng ảnh hưởng đến các giám mục. Các giáo phận của Vatican có từ những năm 1940 trước khi cộng sản thắng trong cuộc nội chiến. Nói rằng từ đó Trung quốc thay đổi chỉ là một cách nói, với các thay đổi nhân khẩu học khổng lồ liên quan đến hàng trăm triệu người. Thật đơn giản để Vatican thuận theo địa lý của các giáo phận của Bắc Kinh.

Nhưng trong khi các chuyện như ranh giới giáo phận và việc bổ nhiệm các giám mục tương đối dễ đàm phán thì vấn đề chia rẽ giữa giáo hội chui và giáo hội chính thức lớn hơn nhiều. Giáo hoàng khuyến khích hội nhập, ngài cũng cho phép các linh mục, giám mục trong cương vị người công dân quyết định vào Hội Công giáo Yêu nước hay không, theo lương tâm của họ.

Các báo cáo cho thấy, nhiều người trong giáo hội chui vẫn ở lại giáo hội chui và quan tâm chính mà Bắc Kinh hy vọng có được với thoả hiệp vẫn còn ở ngoài tầm tay.

Kể từ khi thỏa thuận được ký kết, Bắc Kinh và các chính quyền tỉnh khác nhau của Trung quốc, đặc biệt là Hà Bắc, tỉnh gần với Bắc Kinh và có nhiều tín hữu kitô nhất tiếp tục chương trình hán hóa, nhằm thúc đẩy tín hữu trung thành với Bắc Kinh. Đây là một loại quốc hữu hóa tôn giáo rất hiệu quả nhưng không phải là một việc chưa từng có. Chẳng hạn, trong Giáo hội Anh giáo, quốc vương trị vì hiện nay là Nữ Hoàng Anh, bà đứng đầu Giáo hội Anh giáo.

Hiện nay các hình ảnh của cựu chủ tịch độc tài Mao Trạch Đông và nhà lãnh đạo độc đoán Tập Cận Bình vẫn được treo trong nhà thờ và cờ Trung quốc được treo bên ngoài. Đối với người công giáo chui và các tín hữu tôn giáo khác, đây là lý do vì sao họ chọn ở lại với giáo hội không chính thức. Có một sự tách biệt rõ ràng giữa đời sống thiêng liêng của họ với quốc gia. Vì thế đã tạo nên một sự đè nặng không tả bên trong nội bộ Vatican.

Quả tim truyền giáo

Bắc Kinh cũng dùng các biện pháp luật lệ nhà nước, đặc biệt là luật tài sản và luật cấm trẻ vị thành niên tham gia các buổi lễ tôn giáo, trong các lớp học hè và các sinh hoạt khác.

Điều này như một mũi tên bắn vào chính trọng tâm truyền giáo, phá vỡ một thế hệ tương lai những người lo việc thờ phụng và các người có trách nhiệm trong giáo hội. Nếu Vatican lo lắng về các hình ảnh của các nhà độc tài treo trong nhà thờ thì Vatican cũng phải lo đến lệnh cấm trên các trẻ vị thành niên này. Hàng loạt quy định đã được ban hành, thường đặc biệt lập ra để đưa các giáo xứ nghèo ở nông thôn còn xung đột với Bắc Kinh về với pháp luật qua nhiều áp đặt quy định trên họ.

Một số linh mục bị giam tù. Nhà cầm quyền Trung Hoa tiếp tục giam giữ các linh mục bị cho là có vấn đề hoặc ngăn cản họ tham gia các buổi lễ tôn giáo. Việc bán sách đạo và Thánh Kinh trên mạng cũng bị cấm.

Bắc Kinh hy vọng thỏa thuận với các giám mục giúp họ kiểm soát lớn hơn với 10 đến 12 triệu người công giáo với sự hỗ trợ của Vatican. Con số chính xác giữa những người theo giáo hội chui và chính thức rất khó xác định, nhưng thường con số này được chia đôi cho cả hai.

Bắc Kinh hy vọng sau sự kiểm soát này sẽ đưa đến việc công nhận ngoại giao của Tòa Thánh, Vatican là quốc gia châu Âu duy nhất công nhận Đài Loan. Kết hợp các sự kiện đã làm cho Hồng Kông chống lại ông chủ độc tài của mình ở Bắc Kinh, là lời cảnh báo Đài Loan rằng Tập Cận Bình đang nhắm đến họ. Trên tất cả, sự thống nhất lục địa vẫn là mong muốn lớn nhất của Đảng cộng sản.

Cuối cùng có một nỗi kinh hoàng không thể nào tả xiết về cách đối xử của Bắc Kinh đối với người hồi giáo Duy Ngô Nhĩ (Uyghur) ở bang Tân Cương. Ước tính có từ 1 đến 2 triệu người đã bị gom lại và cưỡng bức vào các trại tập trung, bắt họ phải bỏ đạo của họ. Một báo cáo gần đây xác nhận có 150 người bị chết trong các trại. Con số thực sự chắc chắn nhiều hơn, đó là bản báo cáo tin cậy không nói đến về các vụ tra tấn và hãm hiếp có hệ thống.

Điều này đã đưa Tập Cận Bình vào danh sách duy nhất của các kẻ giết người hàng loạt ở các trại trừng giới, cùng với Adolf Hitler và Joseph Stalin. Và bây giờ có khả năng các đối xử tương tự sẽ giáng lên các tín hữu kitô không tuân theo luật lệ Nhà nước.

Với các bằng chứng này, Đức Phanxicô và hồng y Quốc Vụ Khanh Pietro Parolin, kiến trúc sư của thỏa thuận Bắc Kinh sẽ phải nghiêm túc tự hỏi, với lương tâm kitô giáo, liệu mối liên kết của Vatican và Trung quốc có thể đi xa hơn nữa không.

Hy vọng trong một tuần nữa hay hơn chúng ta sẽ có vài thấu suốt hiếm hoi trong suy nghĩ của các ngài.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Vatican xóa các hình của phó tổng thống Đài Loan: quá khó nuốt với Trung quốc

Các người giúp lễ là sức mạnh rất lớn của Giáo hội công giáo 

Các người giúp lễ là sức mạnh rất lớn của Giáo hội công giáo 

Đức Phanxicô gặp một số em giúp lễ trong chuyến hành hương về Rôma của các em từ 30 tháng 7 đến 3 tháng 8 năm 2018.

fr.aleteia.org, Jules Germain, 2016-11-15

“Các người giúp lễ là sức mạnh rất lớn của Giáo hội công giáo”, câu này là câu của nhà lãnh đạo Giáo hội tin lành Đức Heinrich Bedford-Strohm nói!

Sứ mạng giúp lễ mang đến cho các bạn trẻ cơ hội để phục vụ tận tình Giáo hội công giáo, để có thể tích cực tham dự vào thánh lễ và phụng vụ, khám phá tất cả các chi tiết trong công việc này.

Mục sư Heinrich Bedford-Strohm, chủ tịch Giáo hội tin lành Đức giải thích: “Truyền thống này của Giáo hội công giáo chứng tỏ cho thấy các bạn trẻ kitô giáo có thể tham gia vào thánh lễ và có một chức năng thực sự trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể”. Giáo hội tin lành Đức là Giáo hội lớn bao gồm các giáo phái luther và cải cách (theo đường lối calvin) trong cùng tín ngưỡng.

Mục sư nói thêm: “Thêm nữa tổ chức của các bạn trẻ giúp lễ rất quy mô, họ có thể đưa hàng chục ngàn người giúp lễ đến Rôma để gặp Đức Giáo hoàng. Trong Giáo hội tin lành chúng ta, chúng ta không có gì để so sánh với việc này”. Mục sư đề nghị phát triển một thể chế tương tự như vậy cho Giáo hội tin lành.

Cái nhìn từ bên ngoài này là dịp để chúng ta nhận thức sự phong phú trong phụng vụ của chúng ta và vai trò dành cho các bạn trẻ được gọi để đến gần với Mầu nhiệm Thánh Thể và đến gần với Chúa Kitô như Chúa yêu cầu: “Bấy giờ người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng và cầu nguyện. Các môn đệ la rầy chúng. Nhưng Đức Giêsu nói: ‘Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng’. Người đặt tay trên chúng, rồi đi khỏi nơi đó” (Mt 19, 13-15).

Marta An Nguyễn dịch

 

Những ngày ở Rôma

 

Xin đọc thêm: Thông điệp bằng tiếng Pháp Đức Phanxicô gởi các người giúp lễ Pháp

Năm lý do tốt để trẻ em học giúp lễ

Ông Peter Reilly, người giúp lễ già nhất thế giới đã qua đời, thọ 103 tuổi

Một cuộc hành hương quy tụ 60000 trẻ em giúp lễ về Rôma

Kế hoạch của Đức Giám mục Barron nước Mỹ để “đưa” các bạn trẻ về với Giáo hội

Kế hoạch của Đức Giám mục Barron nước Mỹ để “đưa” các bạn trẻ về với Giáo hội

presence-info.ca, Carol Zimmermann, 2019-11-12

Đức Giám mục Robert E. Barron, giám mục phụ tá giáo phận Los Angeles đã nhấn mạnh trước các đồng hữu của mình ở Hội đồng Giám mục Mỹ (USCCB), rằng ưu tiên của các nhà lãnh đạo giáo hội là “đưa” các người trẻ về với Giáo hội. (CNS photo/Bob Roller)

Đức Giám mục Robert E. Barron, chủ tịch Ủy ban truyền giáo và giáo lý của Hội đồng giám mục Mỹ, người được biết đến qua trang mạng Truyền Lửa (Word on Fire) và loạt phim tài liệu Giáo hội công giáo đã đưa ra một kế hoạch gồm 5 giai đoạn nhằm đưa những người cho mình không có liên quan gì đến tôn giáo về với Giáo hội.

Ngài nói, để bắt đầu, Giáo hội phải hướng công việc của mình về công bằng xã hội, đưa người trẻ vào trong các việc săn sóc người cần giúp đỡ, các buổi nấu cháo cộng đồng, các công việc ở nhà tù, giúp đỡ người vô gia cư. Các người hướng dẫn chương trình có thể củng cố điều này bằng cách nhắc lại các sứ điệp về công bằng xã hội của các giáo hoàng từ thời Đức Lêô XIII đến Đức Phanxicô. Ngài nói, bắt từ đó, Giáo hội sẽ quảng bá thêm các tác giả và các nghệ sĩ riêng của mình để cho giáo dân thấy nét đẹp của đức tin công giáo.

Một bước quan trọng khác là ngưng đơn giản hóa đức tin, như ngài đã lặp lại “từ lâu”. Đức Giám mục nói, các bạn trẻ hoặc bất cứ giáo dân ở tuổi nào đều phải có khả năng giải thích vì sao mình tin. Để bắt đầu, “chúng ta phải nhấn mạnh đến nội dung trí tuệ trong các lớp tôn giáo” nhất là trong các trường học công giáo, các chương trình giáo dục tôn giáo và trong các lớp chuẩn bị nhận bí tích.

Theo kinh nghiệm riêng của ngài, người ta hỏi ngài các câu hỏi rất đơn giản về đức tin trên Reddit, một công cụ tổng hợp tin tức trên Internet, chẳng hạn như: “Chúa là ai và bạn có thể chứng minh sự hiện hữu của Chúa không? Bạn có thể giải thích sự dữ và làm thế nào bạn biết tôn giáo của bạn là đúng?”. Ngài nói, điều này “sẽ làm quả tim bạn tan nát khi nhận ra mình đã không truyền đạt truyền thống của mình một cách có hiệu quả”, nhưng không vì thế mà chúng ta đầu hàng. Thay vào đó, công việc sẽ bắt đầu ở địa phương, trong giáo xứ.

Ở cấp giáo xứ, người công giáo phải nhận ra các giáo xứ không phải chỉ là nơi chúng ta cử hành bí tích, mà còn phải là nơi truyền giáo. Điều này đặc biệt đúng khi chúng ta đưa tay ra cho các bạn trẻ vì “các bạn trẻ sẽ không bao giờ đến với chúng ta, chúng ta phải đến với họ.” Ngài nói thêm, ý tưởng gặp gỡ mọi người rất phù hợp với thông điệp đi kèm của Đức Giáo hoàng.

Điểm cuối cùng Đức Giám mục đưa ra có liên quan đến việc dùng các phương tiện truyền thông xã hội để làm dịu xu hướng căng thẳng này: “Chúng ta phải đầu tư nhiều thì giờ và tiền bạc để tìm những người giỏi làm việc trên các phương tiện truyền thông xã hội của mình, đề nghị các giáo xứ hay một nhóm giáo xứ thuê một người để lo cho có hiệu quả sứ vụ xã hội.”

Bài thuyết trình của giám mục đã gây ra hơn một giờ thảo luận giữa các giám mục Mỹ, tất cả đều đồng ý việc giáo dân ít đi nhà thờ là mối quan tâm sâu đậm, và có thể có các khả năng khác để đối phó như từ việc tăng thêm lòng sốt mến Đức Mẹ đến các việc truyền giáo hoặc củng cố các chương trình giáo lý.

Đức Giám mục đã đưa ba giáo dân lên bục để hướng dẫn thảo luận, trong đó có ông Brandon Vogt, tác giả và giám đốc chương trình Truyền Lửa, ông lặp lại quan điểm của giám mục, việc các người trẻ ra khỏi Giáo hội là một “cuộc khủng hoảng to lớn”.

Ông nói, một người đi vào Giáo hội cửa trước thì có sáu người rưỡi ra cửa sau, ông nhấn mạnh không những phải bít khe hở mà còn phải “đi tìm những người đã bỏ ra đi”.

Ông cũng đề nghị, giống như các giáo xứ và các giáo phận có nhân viên làm việc về các vụ lạm dụng, thì chúng ta cũng phải có người làm việc ở cấp địa phương để đưa bàn tay ra cho những người đã rời Giáo hội. Ông nói thêm: “Nếu đây là một ưu tiên thì phải làm nổi bật lên bằng nguồn nhân lực”.

Trong một buổi hội thảo mới sau phần trình bày, Đức Giám mục Barron nói, ngài không ngạc nhiên về cuộc nói chuyện lâu dài về việc quay về với Giáo hội, vì khi ngài đề cập đến chủ đề này vào mùa xuân vừa qua, hội trường chỉ cho ngài 10 phút và phần thảo luận đã kéo dài một giờ.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Thông điệp bằng tiếng Pháp Đức Phanxicô gởi các người giúp lễ Pháp

Thông điệp bằng tiếng Pháp Đức Phanxicô gởi các người giúp lễ Pháp

fr.aleteia.org, 2019-11-12

Ngày thứ ba 12 tháng 11, trong một video gởi các người giúp lễ Pháp, Đức Phanxicô nói: “Cha rất vui được ngỏ lời với các con, (…) để mời các con tham dự chuyến hành hương của các bạn trẻ giúp lễ.”

Ngài khuyến khích các bạn trẻ Pháp giúp lễ lên đường đi hành hương từ ngày 20 đến ngày 24 tháng 8 – 2020 tại Rôma. Như thường lệ, video được quay từ bàn làm việc của ngài, nhưng lần này ngài đọc video của mình bằng tiếng Pháp.

Đối với ngài, chuyến hành hương của các bạn trẻ vào cuối hè sang năm là “dịp duy nhất” để gặp Chúa Kitô, để yêu Chúa nhiều hơn và để dấn thân cho Chúa. “Cha rất vui được ngỏ lời với các con, các con là những người giúp lễ cho giáo xứ mình, cha mời các con tham dự chuyến hành hương do Giáo hội Pháp tổ chức.” 

Tất cả được gọi để phục vụ Chúa Kitô

Đức Phanxicô nhắc lại: “Chúa Giêsu kêu gọi các con phục vụ Ngài trong phụng vụ Thánh lễ. Chúng ta tất cả được gọi để phục vụ Chúa Kitô trong đời sống hàng ngày, trong những lúc gặp gỡ với các anh chị em mình.”

Ngài xin các bạn trẻ tiếp tục dấn thân trong nhiệm vụ của mình. Hành trình theo bước chân các thánh tông đồ là dịp để các bạn trẻ Pháp thăm mộ các Thánh Phêrô, Phaolô, những người cũng được Chúa Giêsu gởi đi truyền giáo. “Chứng từ dũng cảm của họ vì thế có thể khuyến khích các bạn trẻ kiên trì tiếp tục trong đời sống tín hữu kitô.”

Ngài nói thêm: “Và dù có các mâu thuẫn và chỉ trích mà các con có thể gặp phải hay thậm chí các câu hỏi các con tự hỏi.”

Đây cũng là dịp để các con gặp gỡ với những người chúng con cùng chia sẻ trong việc phục vụ Chúa. Đức Phanxicô nhấn mạnh: “Chúng ta không phải là tín hữu kitô một mình: cùng nhau chúng ta sẽ mạnh hơn, can đảm hơn và đi xa hơn.”

Đức Phanxicô kết thúc video dài ba phút rưỡi của mình với lời xin các bạn trẻ cầu nguyện cho công việc của mình, một lời xin rất cảm động vì “làm giáo hoàng” không dễ chút nào!

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc thêm: Các người giúp lễ là sức mạnh rất lớn của Giáo hội công giáo 

Năm lý do tốt để trẻ em học giúp lễ

Ông Peter Reilly, người giúp lễ già nhất thế giới đã qua đời, thọ 103 tuổi

Một cuộc hành hương quy tụ 60000 trẻ em giúp lễ về Rôma

Tại Nhật, Đức Phanxicô có thể sẽ không đồng ý với chính phủ về chương trình hạt nhân và hòa bình

Tại Nhật, Đức Phanxicô có thể sẽ không đồng ý với chính phủ về chương trình hạt nhân và hòa bình

ncronline.org, Joshua J. McElwee, 2019-11-12

Trong buổi tiếp kiến chung hàng tuần ngày 19-6-2019, Đức Phanxicô chào các thành viên hòa bình của hai Thành phố Hiroshima và Nagasaki, ngài xem bức hình ngày hôm sau vụ dội bom nguyên tử năm 1945. Hình CNS / Vatican Media.

Trong chuyến đi Nhật ngày 23 tháng 11, phần lớn sự chú ý sẽ tập trung vào tầm quan trọng của cuộc viếng thăm thành phố Hiroshima và Nagasaki, hai thành phố duy nhất bị thảm họa nguyên tử, và vào lời kêu gọi mạnh mẽ của Đức Phanxicô trong việc giải trừ vũ khí nguyên tử.

Nhưng các nhân vật công giáo và các chuyên gia chính trị địa phương tin rằng, Đức Phanxicô có thể đề cập đến các vấn đề khác, vì thế sẽ làm cho chuyến đi của ngài nhạy cảm về mặt chính trị, thậm chí có thể đặt ngài vào thế bất hòa với chính phủ bảo thủ của Thủ tướng Shinzo Abe.

Hai vấn đề chính: kế hoạch của chân phước nhằm khởi động lại khả năng sản xuất hạt nhân, bất chấp hậu quả lâu dài của thảm họa nhà máy hạt nhân Fukushima Daiichi năm 2011, và các nỗ lực của Thủ tướng Abe nhằm sửa đổi hiến chương hòa bình của Nhật sau chiến tranh.

Giáo sư môn chính trị Koichi Nakano của Đại học Sophia, Tokyo tuyên bố: “Các ưu tiên chính trị giữa giáo hoàng và Thủ tướng Abe không nhất thiết phải đồng bộ với nhau.”

Giáo sư Nakano viết nhiều về các đảng chính trị của Nhật, giáo sư cho biết: “Điều đáng quan tâm là xem cách Đức Giáo hoàng sẽ phản ứng như thế nào, thậm chí có thể đưa ra sáng kiến về các vấn đề mà giáo hội… không đồng ý với chính phủ Nhật và Thủ tướng Abe.”

Ngày 6 tháng 8-2019, Thủ tướng Shinzo Abe mang vòng hoa đến Đài Tưởng niệm Hòa bình ở Hiroshima để tưởng niệm các nạn nhân đã thiệt mạng trong vụ dội bom nguyên tử năm 1945. Hình CNS / Kyodo via Reuters.

Thủ tướng Abe Nhật lên cầm quyền từ năm 2012 và sẽ sớm trở thành thủ tướng lâu đời của Nhật, ông theo đuổi các chính sách mà hầu hết các nhà bình luận xem là thuộc cánh hữu và theo chủ nghĩa quốc gia.

Giáo hội công giáo ở Nhật dù chỉ chiếm không đến 1.5% dân số nhưng lại là nhà lãnh đạo trong việc phản đối chính phủ, đặc biệt về vấn đề liên quan đến năng lượng hạt nhân và sửa đổi hiến chương hòa bình.

Năm 2015, khi Thủ tướng Abe ban hành luật cho phép nước Nhật tham dự vào các cuộc xung đột nước ngoài, bất chấp sự đồng thuận với đa số áp đảo về bản chất vi hiến của các biện pháp này, ủy ban công lý và hòa bình của hội đồng giám mục đã thảo một “tuyên bố phản kháng” gởi lên Thủ tướng.

Một số nhà máy điện hạt nhân đã đưa vào hoạt động trong những năm sau thảm họa Fukushima, năm 2016, hội đồng giám mục đã viết thư ngỏ để “thông báo cho thế giới các nguy hiểm của việc sản xuất năng lượng hạt nhân và đưa ra lời kêu gọi hủy bỏ chương trình này”.

Theo giáo sư Nakano, nhiều người Nhật, kể cả người không theo đạo công giáo cũng mong chờ xem Đức Phanxicô sẽ nói gì với Thủ tướng Abe và các nhà lãnh đạo chính trị khác ở dinh Thủ tướng vào ngày 25 tháng 11. Ông nói: “Người công giáo ở Nhật rất thiểu số, nhưng thẩm quyền đạo đức của giáo hoàng và giáo hội nói chung, ảnh hưởng ngoại giao của Giáo hội rất được tôn trọng.”

“Ngài sẽ đề cập đến vấn đề gây tranh cãi chung quanh những gì được cho là sử dụng năng lượng hạt nhân một cách hòa bình không? Ngài có đưa ra một thông điệp lịch sự nhưng rõ ràng, thúc đẩy nước Nhật duy trì chủ nghĩa hòa bình sau chiến tranh không?”

Hai bề trên Dòng hy vọng Đức Phanxicô sẽ đề cập đến các vấn đề này

Nữ tu Mieko Uno, giám tỉnh Dòng Thánh Tâm đặc biệt mong Đức Phanxicô sẽ nói với Thủ tướng Abe “bỏ sự lệ thuộc vào việc sản xuất năng lượng hạt nhân.”

Linh mục Yoshio Kajiyama, bề trên giám tỉnh Dòng Tên từ năm 2010 đến năm 2017 cho rằng thông điệp của các giám mục Nhật về việc sản xuất năng lượng hạt nhân là “xuất sắc”: “Tôi hy vọng Đức Phanxicô sẽ nêu lên việc phải bỏ các nhà máy điện hạt nhân. Rất nhiều người Nhật chấp nhận thông điệp của các giám mục. Tôi hy vọng Đức Giáo hoàng sẽ đề cập đến vấn đề này.”

Thảm họa Fukushima Daiichi gây ra do trận động đất và sóng thần được xem là thảm họa hạt nhân nặng nhất sau vụ Tchernobyl năm 1986. Nguy cơ phóng xạ đã làm cho 154 000 người phải sơ tán, người dân lo ngại nước ngầm và cây cối bị nhiễm phóng xạ.

Hiến pháp sau chiến tranh ban hành năm 1947 tuyên bố, dân tộc Nhật Bản “mãi mãi từ bỏ xem chiến tranh là quyền tối thượng của quốc gia, và đe dọa hoặc sử dụng vũ lực như một phương tiện để giải quyết các tranh chấp quốc tế”.

Từ nhiều năm nay, Thủ tướng Nhật Abe đã chân thành mong muốn Đức Phanxicô đến thăm nước Nhật. Lần đầu tiên ông mời ngài là trong lần ông đến Vatican tháng 6 năm 2014. Đức Phanxicô sẽ tham dự nhiều sự kiện trong chuyến đi 3 ngày của mình. Sau khi đến Tokyo ngày 23 tháng 11, ngày 24 tháng 11 ngài sẽ bay 1,600 cây số để đến Nagasaki và Hiroshima trong chuyến đi một ngày, trước khi về lại Tokyo đêm hôm đó.

Ngài sẽ gặp Thủ tướng Abe và tân Hoàng đế Naruhito ngày 25 tháng 11.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Chi tiết chương trình chuyến đi Thái Lan và Nhật Bản của Đức Phanxicô

Hồng y Manyo Maeda: Vai trò của Giáo hội trong nước Nhật ngày càng thế tục hóa

Đức Phanxicô và Đức Tổng Giám mục Justin Welby muốn đi Xuđăng 

Đức Phanxicô và Đức Tổng Giám mục Justin Welby muốn đi Xuđăng

Đức Phanxicô tiếp Đức Tổng Giám mục Justin Welby ở Nhà Thánh Marta ngày 13 tháng 11

cath.ch, 2019-11-14

Một thông báo của Tòa Thánh ngày 13 tháng 11 cho biết, vào cuối buổi tiếp kiến, Đức Phanxicô và Đức Tổng Giám mục Anh giáo Cantorbéry, Justin Welby đã đồng ý, nếu tình hình chính trị ở Nam-Xuđăng “cho phép thành lập một chính phủ chuyển tiếp đoàn kết dân tộc trong 100 ngày sắp tới” thì cả hai vị sẽ đi thăm đất nước này.

Ngày 13 tháng 11, Đức Phanxicô đã có buổi tiếp kiến riêng với Đức Tổng Giám mục Justin Welby ở Nhà Thánh Marta, cùng đi với Đức Tổng Giám mục Welby có Tổng Giám mục Ian Ernest, giám đốc Trung tâm Anh giáo ở Rôma và là đại diện của Cộng đồng Anh giáo bên cạnh Tòa Thánh. Trong buổi “tiếp kiến thân tình”, hai vị đã trao đổi về các vấn đề chung quanh tình trạng các tín hữu kitô trên thế giới.

Hướng tới một chính phủ thống nhất?

Cả hai vị đều nhắc đến một vài tình trạng khủng hoảng quốc tế, đặc biệt là “tình trạng đau thương” ở Nam-Xuđăng. Đức Phanxicô và Đức Tổng Giám mục Justin Welby đã đồng ý, nếu tình hình chính trị ở Nam-Xuđăng “cho phép thành lập một chính phủ chuyển tiếp đoàn kết dân tộc trong 100 ngày sắp tới” thì cả hai sẽ đi thăm đất nước này.

Tổng thống công giáo Salva Kiir, bà Rebecca Nyandeng De Mabior Phó Tổng thống và lãnh đạo phe đối lập Riek Machar đã đồng ý để thành lập một chính phủ chuyển tiếp thống nhất trước ngày 12 tháng 11 theo một thỏa thuận hòa bình được ký vào tháng 9 năm 2018 tại Addis-Abeba (Êtiôpia): Hiệp định Phục hồi về Giải quyết Xung đột ở Nam-Xuđăng. Sau cuộc họp ở Uganđa, các nhà lãnh đạo đã đồng ý kéo dài giai đoạn tiền chuyển tiếp 100 ngày để “có thể thực hiện các nhiệm vụ quan trọng”. Cả hai phe chính trị ở Nam-Xuđăng đồng ý kéo dài đến tháng 2 năm 2020.

Đi Nam-Xuđăng vào năm 2020?

Đức Phanxicô đã nhiều lần ngỏ ý muốn đến đất nước này nhưng không có điều kiện cuối cùng nào hội đủ để thực hiện chuyến đi. Gần đây trong giờ Kinh Truyền Tin ngày chúa nhật 10 tháng 11 ở Dinh Tông Tòa, ngài tuyên bố ngài sẽ đi thăm Nam-Xuđăng vào năm 2020.

Tháng 4 năm 2019, Đức Phanxicô đã mời các nhà lãnh đạo chính trị của đất nước Nam-Xuđăng đi tĩnh tâm ở Vatican. Sau cuộc tĩnh tâm, Tổng thống công giáo Salva Kiir, bà Rebecca Nyandeng De Mabior Phó Tổng thống và ông Riek Machar, lãnh đạo phe đối lập đã gặp Đức Phanxicô ở Nhà Thánh Marta ngày 11 tháng 4 năm 2019.

Cam kết “đối thoại hội nhập”

Sau khi đọc lời cầu nguyện cuối cùng, vượt ra ngoài nghi thức bình thường, Đức Phanxicô đã có một cử chỉ xúc động đặc biệt, ngài quỳ xuống trước Tổng thống Salva Kiir và nhà đối lập Riek Machar hôn chân họ như một dấu hiệu xin họ duy trì hòa bình và giải hòa cho đất nước. Bảy tháng sau buổi tĩnh tâm chưa từng có này, ngài lại khuyến khích các nhà lãnh đạo tiếp tục cam kết để có một “đối thoại hội nhập”.

Là quốc gia trẻ nhất thế giới, Nam-Xuđăng được độc lập khỏi Xuđăng từ tám năm nay. Khi đó ông Salva Kiir là tổng thống và ông Riek Machar là phó tổng thống. Hai năm sau, ông Salva Kiir truất phế ông Riek Machar và từ đó đất nước Nam-Xuđăng lâm vào cảnh nội chiến.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Tổng thống công giáo Salva Kiir, bà Rebecca Nyandeng De Mabior Phó Tổng thống và ông Riek Machar, lãnh đạo phe đối lập đã gặp Đức Phanxicô ở Nhà Thánh Marta ngày 11 tháng 4 năm 2019.

Xin đọc thêm: Tổng thống Salva Kiir: Tôi đã run khi Đức Phanxicô hôn chân tôi 

Quỳ xuống cho hòa bình: Hành vi thống thiết của Đức Phanxicô dưới chân các nhà lãnh đạo Nam Xuđăng

Các nhà lãnh đạo Nam Xu-đăng xúc động sâu xa trong ngày tĩnh tâm của họ ở Rôma

Sức mạnh thiêng liêng

Điều mới lạ cho nhân loại

Điều mới lạ cho nhân loại

Trích sách Làm sao đọc Phúc Âm mà không mất đức tin, Linh mục  Alberto Maggi (Comment lire l’ Évangile sans perdre la foi. Nhà xuất bản Fides, Pháp).

Các nhà chiêm tinh đến bái lạy Đức Giêsu Hài Nhi, Phúc âm thanh Mát-thêu (Mt 2: 1-12)

Gọi ông nội Chúa Giêsu như thế nào đây? Câu trả lời tùy theo độc giả tra cứu Phúc âm nào. Theo thánh sử Mát-thêu thì tên là Giacốp (Mt 1: 16) nhưng theo thánh Luca thì tên là Êli (Lc 3: 23). Dĩ nhiên đối với lịch sử cứu rỗi thì tên chính xác thân sinh thánh Giuse không phải là chuyện quan trọng, nhưng giữa các thánh sử, sự khác nhau này chỉ là một ví dụ nhỏ giữa những khác nhau khác lớn hơn mà chúng ta thấy đây đó giữa Phúc âm này, Phúc âm kia. Những khác nhau sâu đậm đã làm cho chúng ta không hiểu chính xác những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm thật sự là ở đoạn được xem là quan trọng trong truyền thống kitô là đoạn “bữa ăn cuối cùng”. Đoạn này được ba thánh sử ghi chép, cả ba đều khác nhau về lời Chúa Giêsu tuyên xưng về bánh và rượu cũng như về hành vi đi kèm theo.

Sự kiện các thánh sử không quan tâm đến độ chính xác sự việc xảy ra nhưng quan tâm đến chân lý đức tin chứa đựng trong đó. Chân lý chỉ có một, các phương thức hình thành thì khác nhau như chúng ta thấy trong Phúc âm thánh Mát-thêu và thánh Luca, cả hai đều nói một chân lý nhưng trình bày trong hoàn cảnh và nhân vật khác nhau. Chân lý mà họ muốn truyền lại là các người ở ngoài tôn giáo bị xem như ở xa Chúa, trên thực tế, chính là những người đầu tiên nhận thấy sự hiện diện của Chúa ở giữa lòng nhân loại. Đó là điều mà các thánh sử muốn lưu truyền. Các hình thức, các phương cách thì lại khác nhau. 

Mười hai nhà chiêm tinh

Trong văn học đời xưa, thường có khuynh hướng đặt tên cho các nhân vật họ kể chuyện, các thánh sử mô tả dưới dạng ẩn danh nhưng lại mô tả một cách chính xác. Phúc âm thánh Mát-thêu chỉ nói tổng quát “các vị chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem” nên không thỏa chí tò mò, người ta muốn biết thêm tên, bao nhiêu người, họ giàu có như thế nào. Về số lượng, mới đầu là hai, sau đó đến thế kỷ thứ ba tăng thêm thành bốn, đến thời Trung Cổ thì lên con số tối đa là mười hai. Cuối cùng, con số được ấn định theo quà tặng mang đến “vàng, nhủ hương, mộc dược” vậy là con số ba được ấn định. Rồi một cách nhanh chóng, người ta đi từ đoán mò đến tin như bắp các chiêm tinh gia này là vua để thuận theo với thánh vịnh 72: 10: “Cả những vua Ả-rập, Xơ-va cũng đều tới tiến dâng lễ vật.” Như thế càng rắc rối hơn cho việc đặt tên. Thế là xảy ra cuộc tranh đua để có tên trong danh sách, một danh sách phương đông và một danh sách Ê-thi-ô-pi. Giữa hai danh sách, danh sách phương tây được dùng và từ nay số lượng người thăm viếng là ba, các nhà chiêm tinh là các vua, họ có tên là Gaspar, Melchior và Balthazar. Và để đừng ai ganh ai, một người da trắng, một người da vàng, một người da đen.

Một truyền thống nhân gian như vậy đã che lấp tầm quan trọng các nhân vật mà thánh Gioan Krít-tô-xôm đã gọi họ là “những tổ phụ đầu tiên của Giáo Hội”, từ nay các nhân vật này chỉ là những hình ảnh dùng trang hoàng cho máng cỏ. Vào thời Cổ Đại, chữ “nhà chiêm tinh, mage” ám chỉ những người nghiên cứu khoa học huyền bí, từ thầy bói đến các nhà thiên văn. Trong Cựu Ước văn bản Hy Lạp, danh từ này chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong sách Đa-ni-en khi nói đến sự khôn ngoan của các em bé hơn tất cả các “thầy phù thủy và pháp sư trong toàn vương quốc.” (Đn 1: 20-22). Thường thường họ bị xem là những kẻ bói toán lừa bịp, mang tiếng xấu. Đối với văn hóa và tôn giáo Do thái, các nhà chiêm tinh, ảo thuật lại còn bị cho là những người ô uế, trước hết vì họ là lương dân, sau là họ làm nghề bị Thánh Kinh lên án (Lv: 19: 26) và bị người Do-thái cấm: “Ai học một cái gì từ nhà ảo thuật đều đáng bị chết.” Trong Tân Ước, chữ “chiêm tinh, mage” mang tính cách tiêu cực (Cv 8: 9-24) và trong sách giáo lý đầu tiên, người kitô bị cấm hành nghề chiêm tinh.

Tuy vậy, dù bị xem là những người ở ngoài tôn giáo, thánh Mát-thêu xem họ là những người đầu tiên nhận biết có sự hiện diện của Thiên Chúa trong nhân loại và họ đi thông báo cho dân Do-thái. Nhưng những người này thay vì vui mừng thì lại lo lắng: “Vua Hêrôđê bối rối và cả thành Giêrusalem xôn xao.” Hêrôđê liền triệu tập các thượng tế và kinh sư để hỏi xem Đấng Thiên Sai sinh ra ở đâu: danh vị “Thiên Sai” chứng tỏ cho thấy Hêrôđê và toàn thành phố Giêrusalem lo sợ về đấng Thiên Sai, đấng giải phóng dân Ít-ra-en. Theo truyền thống, sự hãi sợ này cũng giống như sự hãi sợ của các vua Pha-ra-ô và toàn nước Ai cập thời các chiêm tinh gia loan báo việc ông Môsê sinh ra đời: những người cầm quyền hoảng sợ trước tin sẽ có người giải phóng dân Do thái ra đời, họ ra lệnh giết tất cả bé trai sơ sinh Do thái (Xh 1: 16-22). Lần này, vua Hêrôđê hoảng sợ vì nghe tin có một vị vua mới ra đời (vì là người Idulméen, ông không có quyền làm vua người Do-thái, ông sợ mất địa vị) và cùng với ông, cả thành phố Giêrusalem lo lắng. Tiên tri I-sai-a đã tiên đoán một tương lai huy hoàng cho Giêrusalem: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi” (Is: 60: 1); nhưng trong Phúc âm thánh Mát-thêu, từ đầu đến cuối, Giêrusalem vẫn ở trong bóng tối.

Ngôi sao là dấu hiệu duy nhất các lương dân này thấy, ngôi sao không chiếu sáng trên Giê-ru-sa-lem: ánh sáng của Thiên Chúa sẽ không chiếu trên những người nhân danh Chúa mà loại bỏ người khác nhưng ánh sáng của Chúa chiếu trên những người bị ở bên lề. Giê-ru-sa-lem, thành phố thánh nhưng cũng là thành phố giết người sẽ không nhận biết mầu nhiệm sống lại của Chúa Kitô. Chỉ sau khi các vua rời Giêrusalem thì ngôi sao mới chiếu lại để chỉ đường cho họ: “Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.” Thánh sử nêu điểm khác biệt nổi bật giữa sự bối rối xao xuyến của vua Hêrôđê và thành phố Giêrusalem và mừng rỡ vô cùng của các vua. Khi Chúa có mặt, vua và cư dân thành Giêrusalem sợ cho những gì họ sẽ bị mất: địa vị và đền thánh; phần họ, các vua mừng rỡ vì họ sắp dâng lễ vật: vàng, nhủ hương, mộc dược. “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi.” Họ không vào cung điện: chính trong căn nhà thường dân mà họ tìm thấy một vị vua đích thực; không ở đền thánh: chính trong căn nhà mà “Thiên Chúa ở với chúng ta” (Mt 1: 23).

Được thiên thần báo đừng trở lại với vua Hêrôđê ở Giêrusalem, các vua đi theo một lối khác để về nhà: một lối khác là chữ rất ít khi được dùng trong Cựu Ước, chỉ dùng khi nói đến việc dân Do thái từ bỏ “Nhà của Chúa” nơi họ thờ bò vàng. Theo thánh sử, Giêrusalem không phải là thành phố thánh mà Chúa được đón tiếp mà là căn nhà tội lỗi nơi Chúa sẽ bị giết: những gì vua Hêrôđê không làm được thì các thầy thượng tế làm được, đó là giết Chúa Giêsu (Mt 26: 65-66). 

Từ chuồng bò đến ngôi sao 

Thánh Luca không kể chuyện các nhà chiêm tinh mà kể chuyện các mục đồng thành Bêlem, may thay các mục đồng này cũng ẩn danh (Lc 2: 1-20).  Nếu thánh Mát-thêu đặt ưu tiên cho chiều kích phổ quát khi mô tả các chiêm tinh lương dân như những sứ giả của Chúa, những người bị xem là xa Chúa, bị dân Do-thái loại trừ thì thánh sử Luca làm nổi bật khía cạnh bên lề của những người ngoài lề trong lòng xã hội Do thái.

Vào thời Chúa Giêsu, các mục đồng không có quyền công dân và là những người bị xã hội ruồng bỏ. Làm việc đến đờ người, họ sống trong hoàn cảnh đê hèn cả về mặt tôn giáo, bị xem là ô uế, không có một khả năng gì để cứu chuộc họ, vừa không biết gì về Lề Luật, vừa không có một khả năng gì để giữ đạo. Họ bị xem và bị đối xử như súc vật, nhưng súc vật còn được đối xử tốt hơn: khi con vật bị rơi xuống hố còn được người ta cứu lên chứ mục đồng thì không. Bị xem như người tội lỗi có tấm lòng chai đá, không những bị loại ra ngoài mà họ là những người đầu tiên nằm trong danh sách sẽ bị loại nếu một khi Đấng Thiên Sai đến, theo lời giảng dạy của vua Sa-lô-môn: trong nước Trời, người nào xấu xa sẽ không được ở.

Như thế, họ là những người ở xa Chúa nhất, bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ: “Vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh.” Thánh vịnh gia đã mong muốn “Tất cả người tội lỗi đều bị diệt trừ (Tv 37: 38). Nhưng khi Chúa gặp người tội lỗi, Chúa không vứt họ vào lửa: Chúa bao phủ họ bằng tình yêu của Chúa. Chúa không nói những lời lên án nhưng loan báo “một nềm vui lớn”, sự sinh ra đời của đấng sẽ giải phóng họ khỏi thân phận người bên lề. Sự loan báo được xác nhận bởi “muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương.” Vinh danh của Chúa thể hiện một cách rõ ràng, bằng bình an cho tất cả những người được Chúa thương.

Ở thời mà Quyền Thế của vua chúa thế gian được xem như quyền tối thượng, phải kiểm kê dân số toàn dân để không một ai lọt khỏi sổ thuế thì Tình Yêu được thể hiện qua sứ điệp nhắm đến tất cả mọi người: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ được sinh ra.” Và các mục đồng đi về Bêlem để loan báo tin mừng họ vừa nhận được. Để gặp Chúa, không phải đến Giê-ru-sa-lem mà đến Bêlem, nơi Chúa đã nói: “Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.” (1 Sm 16: 7)

Mục đồng và các chiêm tinh không thể đến gần Chúa trong đền thờ vì họ là lương dân và là người tội lỗi, bây giờ họ được tự do đến với Chúa nơi Hài Nhi, Đấng vừa đến với nhân loại. Những người mà tôn giáo cho rằng họ sống trong bóng tối lại là những người đầu tiên nhận thấy ánh sáng của Chúa, trong khi những người nghĩ họ sống trong ánh sáng thì vẫn ở trong bóng tối. Khi Chúa Giêsu đến với thế gian – Chúa Giêsu là món quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại – không một linh mục thượng tế nào của Giê-ru-sa-lem nhận ra. Những người tội lỗi mục đồng và những người lương dân chiêm tinh thì nhận ra. Hai hạng người mà các thượng tế xem là những người ngoài lề cứu rỗi vì họ không đàng hoàng thì lại nhận ra dấu hiệu của Chúa. Những người đi kiểm kê dân số cũng không nhận ra Chúa.

Thánh sử nói “tất cả đều ngạc nhiên khi nghe các mục đồng kể lại”. Từ tạo thiên lập địa người ta đều nghĩ Chúa thưởng người tốt, phạt người xấu: vậy đâu là điều mới lạ của Chúa, đấng “nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6: 35)? Nếu bây giờ Thiên Chúa thay vì phạt những người tội lỗi, Chúa tỏ cho họ tình thương của Chúa, thế thì không còn tôn giáo! Tất cả đều kinh ngạc vì sự lạ kinh khủng này, kể cả mẹ Maria. Đức Mẹ không từ chối điều mới lạ này nhưng tiếp nhận nó trong lòng để luôn cùng tiếp tục hiệp ý với Chúa. Và các mục đồng ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa: trước đây tôn vinh và ca tụng Thiên Chúa là công việc độc quyền của các thiên thần (Lc 2: 13-14). Với một Thiên Chúa của tình thương, mọi sự đều có thể có được ngay cả với các mục đồng.

Ignace Trần An Huy dịch

Xin đọc thêm: Lời nói đầu sách Làm sao đọc Phúc Âm mà không mất đức tin

Thiên Chúa, Đấng Cứu Tinh quyền thế

Người được Chúa Giêsu thương mến

Người tị nạn thất vọng về chuyến đi Thái Lan của giáo hoàng

Người tị nạn thất vọng về chuyến đi Thái Lan của giáo hoàng

 Trại tị nạn Mae Ra Ma Luang ở Thái Lan. Hình COERR

la-croix.com, Claire Lesegretain, Ucanews, 2019-11-07

Theo các nhà quan sát, chuyến đi ngắn của Đức Phanxicô đến Thái Lan ngày 21 và 22 tháng 11 trước khi đi Nhật đã không có chương trình để ngài gặp các người tị nạn, trong khi vấn đề tị nạn là một thực tế quan trọng của đất nước này.

Các phóng viên của hãng tin Ucanews cho biết, chương trình chuyến đi của Đức Phanxicô đến Thái Lan làm nhiều người thất vọng. Thái Lan là một đất nước có đa số người dân theo đạo Phật, một số người công giáo tại đây đã đổ lỗi cho hồng y Phanxicô Xaviê Kriengsak Kovitvanit, Tổng Giám mục giáo phận Bangkok, “người không được mến chuộng nhiều trong giáo phận của mình”, đã không biết đề nghị với Đức Phanxicô có các cuộc gặp gỡ và thăm viếng phù hợp.

 Dành quá nhiều chỗ cho quyền lực

Đặc biệt cơ quan Caritas Quốc tế là một cơ quan rất quan trọng ở Thái Lan và Cơ quan Dòng Tên giúp người tị nạn (JRS) là cơ quan có mặt ở Thái Lan từ lâu rất thất vọng vì đã bị bỏ quên trong chuyến tông du của Đức Phanxicô đến Bangkok.

Một chương trình chú trọng đến các cuộc gặp với nhà cầm quyền (Thủ tướng cựu đại tướng Prayut Chan-o-cha và vua Rama X) các chức sắc (Đại Hòa thượng Phật giáo Thái Lan, Somdet Phra Ariyavongsagatanana IX), cũng như chuyến thăm các cơ sở (bệnh viện Thánh Lu-i do các nữ tu Dòng Thánh Phaolô Chartres phụ trách).

Sự lãng quên kỳ lạ người tị nạn

Trong chương trình chính thức, không có một dự trù nào để Đức Phanxicô gặp các người tị nạn, trong khi Thái Lan là nước giáp biên giới với Miến Điện có nhiều trại tị nạn dành cho các dân tộc thiểu số bị bắt bớ và bị bỏ quên của người Karen.

Hãng tin Ucanews nhắc lại, “khác với chuyến đi của Đức Gioan-Phaolô II đến Thái Lan năm 1984, ngài đã dành nhiều thì giờ để nói chuyện với người tị nạn Việt, Miên, Lào ở một trại tị nạn miền Nam Bangkok”.

Đó là lý do vì sao người công giáo địa phương tự hỏi, ở một đất nước có hàng trăm ngàn người tị nạn, được đăng ký hoặc bất hợp pháp, và Giáo hội công giáo đã luôn làm việc tích cực và lâu dài để giúp họ mà Đức Phanxicô không cụ thể hỗ trợ trong khi vấn đề tị nạn và người di dân là vấn đề quan trọng của ngài. 

Thái độ mơ hồ của Giáo hội địa phương

Thêm nữa trong những ngày gần đây, các bài báo trên trang Ucanews nhắc lại tình trạng nguy kịch của các người tị nạn công giáo người Pakistan, họ rất sợ bị nhà nước để ý, họ không dám tham dự thánh lễ của giáo hoàng cử hành, cũng như tham dự buổi gặp ngày 21 tháng 11 tại sân vận động quốc gia, buổi gặp người trẻ ở nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Lên Trời.

Các bài báo còn viết: “Giáo hội Thái Lan có thể tạo thuận lợi để giúp cho người tị nạn Pakistan kitô nhưng có vẻ như Giáo hội không muốn mối quan hệ đặc quyền của họ với cấp cao nhất của nhà nước bị tì vết”. 

Xung đột ly khai chết người

Một chủ đề trọng yếu khác không có trong chương trình chính thức, dĩ nhiên không vì thế mà ngăn Đức Phanxicô không đề cập đến trong các cuộc gặp gỡ với nhà cầm quyền: xung đột bạo lực ở miền Nam nước Thái giữa các người ly khai hồi giáo với quân đội Thái đã làm cho 7 000 người thiệt mạng.

Thái Lan: Ít nhất có hai “vụ đánh bom” trong cuộc họp của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á, Asean

Dù sau cuộc đảo chính năm 2014, các vụ tấn công ít hơn, quân đội đã tăng cường tuần tra và kiểm soát các vụ giới nghiêm, nhưng vừa qua, một cuộc tấn công mới được cho là của phiến quân hồi giáo ly khai đã diễn ra vào ngày thứ tư 6 tháng 11 ở bang Yala miền Nam.

Các kẻ tấn công đã bắn vào hai trạm kiểm soát, làm thiệt mạng ít nhất 15 người. Đây là một trong các vụ tấn công có nhiều người chết trong lịch sử của cuộc nổi dậy ly khai nổ ra năm 2004 trong các bang có đa số người dân theo đạo hồi ở miền Nam nước Thái.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc thêm: Chi tiết chương trình chuyến đi Thái Lan và Nhật Bản của Đức Phanxicô

Linh mục Niphot Thianwihan, người phục vụ các cộng đồng thiểu số ở Thái Lan

Linh mục ấu dâm, “Phải nhớ trách nhiệm của giới giáo sĩ”

Linh mục ấu dâm, “Phải nhớ trách nhiệm của giới giáo sĩ”
la-croix.com, Xavier Le Normand, 2019-11-11
Ai sẽ trả tiền bồi thường cho các nạn nhân của các linh mục ấu dâm? Câu trả lời của ông François Huguenin, nhà khảo luận và nhà xuất bản.
Bồi thường cho nạn nhân của lạm dụng tình dục là chuyện quan trọng. Bồi thường là một phần trong toàn bộ việc nhận lỗi và công nhận nạn nhân. Tuy nhiên việc gây quỹ cho các nạn nhân này có một cái gì hơi lấn cấn. Người ta có cảm tưởng hệ thống cấp bậc Giáo hội – có nghĩa là các giáo sĩ – vẫn sẽ xin giáo dân tiền để trả cho các sai lầm riêng của họ. Và nếu có những gia đình đã từ chối hoặc nhắm mắt lại – dù cố ý hay không cố ý – thì họ cũng là nạn nhân.
Lỗi cơ bản là lạm dụng thiêng liêng
Chúng ta tất cả đều biết của cải của Giáo hội trước hết đến từ giáo dân, không phải từ các linh mục hay giám mục. Như vậy nếu chúng ta muốn bồi thường thì phải cần giáo dân tham gia. Tôi không chống đối việc xin dân Chúa đóng góp, nhưng với điều kiện các giáo sĩ phải nhấn mạnh rõ ràng: “Đây là lỗi của chúng tôi, chúng tôi không thể trả và thật xấu hổ khi chúng tôi buộc phải kêu gọi đến anh chị em.” Nó phải được nói lên như vậy! Không được để trên cùng một mâm, trách nhiệm của các gia đình im lặng và các tu sĩ đi săn mồi.
Trong lời của mình, Giáo hội phải minh bạch với chính mình, để luôn nhớ trách nhiệm cơ bản của một hệ thống giáo sĩ đã cho phép và bao che loại hành động tội ác này. Và phải được lặp đi lặp lại nhiều lần. Lỗi cơ bản nằm ở lạm dụng thiêng liêng dẫn đến lạm dụng tình dục, trong địa vị mà một số tu sĩ đã hành động trên trẻ em.
Còn nhiều điểm cần điều chỉnh
Ngoài ra khoản bồi thường này không được dùng để đóng hồ sơ vì một vài nạn nhân sẽ còn đau khổ đến suốt đời họ. Điều quan trọng là các nạn nhân có thể khiếu nại công khai, dù khoản bồi thường này là công khai – nhưng vẫn tôn trọng ẩn danh của các nạn nhân nào yêu cầu. Khoản bồi thường này không được tự làm trong nội bộ Giáo hội. Ngoài ra việc đóng hồ sơ các vụ lạm dụng quá nhanh sẽ ngăn cản việc thực hiện nhiều cải cách cần thiết. Chẳng hạn rất nhiều người nghĩ đến việc đào tạo linh mục. Ngoài ra chúng ta không được quên các nạn nhân chính.
Cuối cùng, theo tôi, điều quan trọng là việc bồi thường này phải cùng làm với nạn nhân. Ngoài số tiền trả, còn nhiều điểm cần điều chỉnh, thậm chí phải được xác định lại để tránh tất cả những điều này vẫn còn nằm trong nội bộ Giáo hội. Vì sao không thông qua một ủy ban độc lập, trung lập với Giáo hội, để đảm bảo khoản bồi thường này không phải là một cám dỗ mới để khép lại sự việc?
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Xin đọc thêm: Giáo hội sẽ trả khoán cho các nạn nhân các vụ lạm dụng như thế nào

François Huguenin, nhà khảo luận và nhà xuất bản

Thánh tích của Thánh Timôtê sẽ được trưng bày ở Đền thờ Thánh Phêrô

Thánh tích của Thánh Timôtê sẽ được trưng bày ở Đền thờ Thánh Phêrô
acistampa.com Marco Mancini, 2019-11-12
Đức Phanxicô đã đồng ý để thánh tích của Thánh Timôtê sẽ được trưng bày ở Đền thờ Thánh Phêrô. Thánh tích của cộng sự viên với Thánh Phaolô sẽ đến Đền thờ Thánh Phêrô ngày 26 tháng 1-2020.
Ngày chúa nhật 26 tháng 1-2020, hòm đựng thánh tích của Thánh Timôtê, cộng sự viên của Thánh Phaolô được giữ ở nhà thờ chính tòa Termoli, sẽ được trưng bày ở Đền thờ Thánh Phêrô. Trong một buổi tiếp kiến riêng với linh mục Benito Giorgetta, linh mục giáo phận Termoli, Đức Phanxicô đã đồng ý thánh tích Thánh Timôtê được trưng bày ở Đền thờ Thánh Phêrô.
Nhân dịp này linh mục Benito đã tặng Đức Phanxicô một bức tượng bằng sứ do một nghệ sĩ làm trong xưởng của gia đình “Iktus – Lucia và Bernardo Bertolino”, nơi tiếp đón các tù nhân bị quản chế, được tự do tạm, được giao làm các công việc xã hội và các việc tương tự khác, linh mục Benito có trách nhiệm lo cho những người này.
Trong một cuộc họp báo để xác nhận chuyến hành hương của thánh tích Thánh Timôtê, Đức Giám mục Gianfranco De Luca, giám mục giáo phận Termoli-Larino tuyên bố: “Chúng tôi cám ơn Đức Phanxicô đã chấp nhận đề nghị này. Với Giáo hội địa phương, món quà này là lời mời gọi cụ thể để chúng tôi dấn thân trọn vẹn, sâu đậm và cụ thể với giáo huấn của Đức Thánh Cha. Điều này tạo nên một đà nhiệt huyết mới để kiên trì trong lời cầu nguyện cho ngài, vì Chúa Thánh Thần nói với Giáo hội ngày nay qua lời giáo huấn và hành động mục vụ của ngài, để chúng ta có thể tìm thấy một chỗ trong quả tim chúng ta và để cụ thể hóa trong đời sống cộng đồng của địa phận.”
Ngài nói thêm: “Chúng ta có một lý do khác để cám ơn Đức Phanxicô: qua chuyến đi hành hương của thánh tích Thánh Tinôtê đến Đền thờ Thánh Phêrô, trung tâm của giáo hội hoàn vũ, ngài khuyến khích chúng ta hiểu và trân trọng món quà của Chúa Quan Phòng đã phong phú ban cho địa phận chúng ta được giữ thánh tích, và do đó thúc giục chúng ta có mối quan hệ mới mẻ và sâu đậm hơn với Lời Chúa, Lời không những được chúng ta lắng nghe và tiếp nhận trong lòng nhưng còn được sống, được chia sẻ, được làm chứng trong đời sống hàng ngày”.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài mới nhất