Home Blog Page 367

Chân dung người công giáo như người cộng sản già

Chân dung người công giáo như người cộng sản già

philomag.com, Denis Moreau, 2022-11-22

Triết gia Denis Moreau năm 2019. © Jean-Matthieu Gautier/Hans Lucas

Đau lòng trước những vụ tai tiếng tình dục ảnh hưởng đến Giáo hội, đặc biệt là với các giám mục, triết gia công giáo Denis Moreau so sánh quan điểm của giáo dân với quan điểm của những người cộng sản thất vọng trong thập niên 1980. Ông đặt câu hỏi về cam kết của chính mình.

“Chúng tôi chạy (…) về phía vách đá sau khi đặt một thứ gì đó trước mặt chúng tôi để ngăn chúng tôi nhìn thấy nó” Blaise Pascal, Tư tưởng (1670), Lafuma 166

“Tôi không biết bây giờ ông như thế nào, tôi không thấy tăm hơi ông từ lâu, có thể bây giờ ông đã chết: khi tôi còn trẻ, trong những năm 1980, tôi lui tới chơi với người cộng sản già. Ông không phải là người hùng của Đảng, ông là người giản dị và tốt bụng, rất hào phóng, khao khát công lý, có một lòng nhiệt thành chiến đấu không ngừng, giống như nhiều đồng chí của ông, ông có một lý tưởng đáng ngưỡng mộ thúc đẩy ông: xóa bỏ bất bình đẳng, mang hạnh phúc đến cho mọi người, mang hòa bình đến cho toàn thế giới. Tôi rất thích ông, người cộng sản già của tôi, nhưng trong thâm tâm, với tuổi trẻ và không hoài nghi chuyện gì, tôi sẵn sàng nắm lấy tương lai trước mắt, tôi thấy ông thật đáng thương – dù tôi không nói ra sợ ông đau lòng. Đảng mà ông đặt tất cả hy vọng, ngày càng cho thấy rõ, đó là bộ máy quan liêu nặng nề, bị những thành viên có thế lực trong đảng gặm nhắm như mọt, bất lực và thường xuyên tham nhũng; luật im lặng ngự trị bằng vũ lực với những hỗn loạn; hầu hết mọi thứ đều không ổn định ở Liên Xô và các quốc gia vệ tinh của nó; tại Pháp, chỉ số bầu cử của Đảng Cộng sản Pháp liên tục giảm. Nhưng không có gì giúp được: người cộng sản già của tôi ngoan cố không chịu chấp nhận sự thật này dù đó là điều hiển nhiên. Ông giữ niềm tin vào Đảng, ông yêu Đảng, ông nói như loạn thần kinh (tôi nghĩ vậy). Tôi thực sự không biết nên đổ lỗi cho ông vì ông mù quáng không thể nhìn thẳng vào thực tế, hay tôi ghen với ông vì sự kiên định trong các cam kết của ông, một hình thức trung thành ngoan cường bền bỉ với những lựa chọn của mình khi còn trẻ, dù hoàn cảnh bây giờ đã thành khó khăn. Trở lại một câu của Marx, tôi muốn nói với người chiến binh già rằng chủ nghĩa cộng sản là “thuốc phiện của nhân dân”, của chính ông – vì thuốc phiện gây nghiện nên ông không thể vượt lên được, không dễ dàng bỏ được, dù ông biết là mình phải dừng lại.

Rồi thời Mikhaïl Gorbatchev đến. Ông khác với những người đứng đầu Liên Xô trước ông, ông chơi một loại âm nhạc khác – ông không tạo được sự hợp nhất nơi những người cộng sản tuân thủ nghiêm ngặt và những hệ thống phân cấp cũ bị mắc kẹt trong những điều họ chắc nịch và trong bộ đồng phục diễn hành của họ. Trong một thời gian, ông đã nghĩ chủ nghĩa cộng sản có thể thay đổi, tự cải cách từ bên trong. Nhưng chúng ta có bao giờ thấy một tổ chức nặng nề như vậy tự chính nó thay đổi không? Cái ác quá sâu và bộ máy quá cứng nhắc. Liên Xô sụp đổ, Gorbachev biến mất. Và đó là dấu chấm hết, ít nhất là ở phương Tây, xem chủ nghĩa cộng sản như một tầm nhìn về thế giới có khả năng huy động đám đông (tất nhiên, điều này không ngăn cản một số người cộng sản vẫn còn đây đó).

Tôi, người công giáo Pháp, đến lượt tôi, tôi cũng sắp già (tôi 55 tuổi), mấy ngày này tôi băn khoăn về một vấn đề làm tôi nhức nhối: tôi cũng vậy, thực chất tôi đã không trở thành như người cộng sản già nua cằn cỗi đó sao? Khả năng huy động tập thể của đạo công giáo trong một nước như nước Pháp, nơi hiện nay chưa đến 2% giáo dân đi lễ ngày chúa nhật (con số này nhiều hơn mười lăm lần trong những năm 1960) còn lại gì? Có phải báo cáo Sauvé (báo cáo của Ủy ban Độc lập về các vụ Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp) với những kết luận khủng khiếp của nó, đã không đưa ra ánh sáng hoạt động sai lầm sâu đậm của một tổ chức bị ảnh hưởng bởi các vấn đề hệ thống nghiêm trọng đó sao? Quyển sách Sodoma của tác giả Frédéric Martel đã đưa ra những tiết lộ rất gần đây về việc điều tra, trong các trường hợp bạo lực tình dục, của hơn một chục giám mục Pháp – và chúng ta biết nhiều giám mục khác đã nhận thức được hành vi sai trái của các đồng nghiệp của họ và họ che giấu, đã không cho thấy sự băng hoại sâu xa về đạo đức và chính trị của các giám chức trong Giáo hội đó sao? Dù thông cảm và quyết tâm chấn chỉnh hệ thống, Đức Phanxicô có khác gì một Gorbachev trong chiếc áo chùng trắng, không có một hy vọng thành công nào trong chiến dịch giải cứu con thuyền đang ngập nước tứ phía – vậy mà nhiều bộ máy Giáo hội công giáo gắn bó với việc duy trì bề ngoài, cũng như đặc quyền của họ, họ phản đối mạnh mẽ mong muốn cải cách của giáo hoàng?

Do đó, câu hỏi làm tôi trăn trở, day dứt, đau đớn: Tôi, một người công giáo Pháp của những năm 2020, trung thành từ thuở niên thiếu với tôn giáo mà tôi vô cùng yêu mến và trên đó tôi đã xây dựng đời tôi, liệu tôi có thấy mình như tình trạng của người cộng sản già không?

Với thời gian trôi qua, tôi thường bị hỏi: trong những điều kiện như vậy, vì sao ông vẫn còn là tín hữu công giáo? Với tôi, dường như tôi vẫn còn khả năng biện minh cho lựa chọn này (nhưng trong bao lâu?). Tôi vẫn còn là tín hữu kitô, vì tôi vẫn tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Rỗi, tôi cần được cứu, tôi chưa bao giờ đọc bất cứ điều gì giống như lời lửa cháy của Bài giảng trên núi (Phúc âm Mattêô, 5-7) và câu hỏi của Thánh Phêrô còn sống động trong lòng tôi: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Phúc âm Thánh Gioan, 6, 68). Việc một số người cùng đạo với tôi cư xử như những kẻ lưu manh không làm tôi thay đổi. Nhưng người ta nói với tôi, tôi vẫn có thể là kitô hữu dù tôi bỏ Giáo hội công giáo. Tôi thú nhận tôi đã nghĩ đến chuyện này. Nhưng tôi vẫn tin rằng Giáo hội công giáo được Chúa Giêsu Kitô thành lập và nhờ Giáo hội tôi mới biết Chúa Giêsu, tôi cảm thấy tôi mắc nợ điều này: dù có những cá nhân trong Giáo hội cư xử như rác rưởi cũng không thay đổi gì với tôi. Tôi cũng không muốn quên trong số những người nhận mình là người công giáo, vẫn còn nhiều người (giáo dân cũng như linh mục) là những người phi thường, tận tụy, quảng đại, làm nhiều điều tốt, nhất là cho những người yếu thế, mong manh, thiếu thốn nhất, cũng như còn những người chân chính, ngay thẳng và đáng kính trong quá trình hủy diệt chủ nghĩa cộng sản của những năm 1980. Tôi vẫn là người công giáo, vì bất chấp mọi thứ, tôi muốn duy trì hy vọng (và tôi xin bạn nghĩ nó dễ dàng!). Tôi không biết, nói đúng ra, người cộng sản già của tôi, dù có ảo tưởng đến đâu, có nhìn về tương lai với hy vọng hay không. Hay ông có một loại lạc quan hơi ngây thơ, thậm chí ngây thơ của thời tiền sử (“Chủ nghĩa duy vật khoa học dự đoán nó nhất thiết sẽ xảy ra theo cách này”, v.v.) thực chất không có một chỗ tối thiểu nào cho bất ngờ. Niềm hy vọng kitô giáo đúng hơn là hình thức của một thỉnh nguyện siêu hình (một “nhân đức thần học” như chúng ta nói trong biệt ngữ công giáo): ý tưởng này cho rằng ngay cả khi mọi thứ dường như bị hủy hoại – như với các môn đệ của Chúa Giêsu khi Ngài chết trên thập giá -, dù trong vực sâu của những thảm họa nghiêm trọng nhất, một lối thoát, hiện không thể đoán trước, cuối cùng có thể hình thành. Nhà văn công giáo Pháp Georges Bernanos (1888-1948) đã viết rất hay trong các tiểu thuyết của ông về những trận chiến tâm linh, những thảm kịch trong cuộc sống đã làm kích động tâm hồn chúng ta, ông tổng hợp một cách đáng ngưỡng mộ những khía cạnh khác nhau này của niềm hy vọng kitô giáo:

“Người bi quan và người lạc quan đều đồng ý không nhìn mọi thứ như chúng vốn có. Người lạc quan là người ngốc hạnh phúc, người bi quan là người ngốc bất hạnh. (…) Chủ nghĩa lạc quan là thế phẩm của hy vọng mà tuyên truyền chính thức là giữ độc quyền. Nó tán thành mọi thứ, phục tùng mọi thứ, tin tưởng mọi thứ. (…) Nhưng hy vọng đã chinh phục.  Chúng ta chỉ có hy vọng qua sự thật, với cái giá phải trả là rất nhiều nỗ lực và kiên nhẫn lâu dài. Để tìm thấy hy vọng, chúng ta phải vượt qua tuyệt vọng. Khi đi hết đêm, chúng ta sẽ thấy một bình minh mới. (…) Lạc quan là hy vọng hão huyền cho kẻ kẻ hèn nhát và ngu ngốc. Hy vọng là nhân đức, là đức hạnh, một quyết tâm anh hùng của tâm hồn. Hình thức cao nhất của hy vọng là vượt qua tuyệt vọng”. Georges Bernanos, Tự do để làm gì? (trong Tiểu luận và những bài viết chiến đấu, nxb. Gallimard, 1953).

“Hy vọng là vượt lên tuyệt vọng”. Không thể phủ nhận, đây là một công thức này rất đẹp. Trong những ngày này, người công giáo Pháp dùng công thức này rất nhiều. Nhưng về lâu dài, sự nghi ngờ len lỏi vào: điều gì sẽ xảy ra nếu đó chỉ là một khẩu hiệu, một trừu tượng siêu hình rỗng tuếch không thể với tới thực tế? Vì người công giáo Pháp ngày nay bị lâm trong tình trạng: gần như không một tháng nào, thậm chí một tuần nào trôi qua mà không nghe tin có thêm một nhà lãnh đạo công giáo rớt đài. Mỗi lần như vậy, chúng tôi xuống tinh thần, chúng tôi ghê tởm, ngày chúa nhật sau đó chúng tôi đi lễ thụt lui, xấu hổ, buồn nôn, mơ hồ, mỗi lần chúng tôi nghe hứa “sẽ không bao giờ như vậy nữa”, bài học sẽ được rút ra và hành động đã được thực hiện, sẽ chấm dứt những thứ rác rưởi như rác cuốn vào thảm, rằng từ giờ trở đi mọi thứ sẽ được minh bạch, Giáo hội sẽ là “ngôi nhà an toàn”. Lời, lời và lời! Mỗi lần như vậy, vài ngày sau, trong khi chờ đợi cơn chán nản đi qua, cho một tia hy vọng mong manh nào đó tái sinh thì những thứ tào lao mới lại xuất hiện, những vụ che giấu mới, những vi phạm mới với những cam kết đã đưa ra. Trong nhiều năm, tôi đã ít nhiều ngoan ngoãn nuốt nước bùn này, nhưng một ngày nọ, vào cuối tháng 10 năm 2022 này, có điều gì đó trong tôi vỡ òa ra. Chúng tôi được biết có một giám mục Pháp nổi tiếng và có uy tín trong Giáo hội, trước đây đã cùng với những chàng trai trẻ “khỏa thân khi xưng tội”: trước nhà tạm, nơi mà theo thần học công giáo, Chúa Kitô thực sự hiện diện, một tội lỗi được thú nhận, một chiếc áo bị loại. Nó vô cùng đồi trụy, theo một nghĩa nào đó nó thật không nghĩa lý gì so với hàng ngàn nạn nhân trẻ em bị lạm dụng trong báo cáo Sauvé nói đến, nhưng với tôi nó quá bẩn thỉu. Bạn biết đó, nó giống như các thí nghiệm “kết tủa” bạn làm trong lớp hóa học: bạn nhỏ một giọt vào chất lỏng không màu, nó dường như không thay đổi gì cả. Một giọt nữa, không có gì. Nhiều giọt khác, không có tác dụng gì đáng chú ý. Cuối cùng là giọt cuối cùng: không lớn hơn những giọt khác, nhưng sau đó, dung dịch đột nhiên trở nên đục. Giọt cuối cùng hoàn thành những gì đang dần chin muồi, không nghi ngờ gì, nó cho thấy sự lãng phí của lòng tin tưởng, năng lượng, niềm vui vốn gần như đến ở giọt cuối cùng này và hoàn tất quá trình.

Trong một thời gian dài, tôi là một người công giáo cổ điển và ngoan ngoãn, đặt niềm tin hiếu thảo vào tất cả các giám mục và những người lãnh đạo Giáo hội. Sự tin tưởng này (hay đức tin này, trong tiếng la-tinh là cùng một từ: fides) bay giờ đã vỡ tan.

Vì thế tôi áp dụng khẩu hiệu của “Hội những người rửa tội”, một phong trào công giáo phản đối, mà tôi không có mối quan hệ ý thức hệ đặc biệt nào: “Không rời đi, cũng không  im lặng.” Liệu khoảng cách quan trọng này mà tôi đang đối diện với Giáo hội như một thể chế và những người lãnh đạo Giáo hội có đủ để ngăn tôi thấy mình trong tình trạng mù quáng nô lệ của một chiến binh cộng sản già nua của những năm 1980 không? Hay tất cả những lý do mà tôi tự đưa ra để không rời bỏ con thuyền Giáo hội, bất chấp mọi thứ, có nghĩa là tôi thấy mình đang ở trong tình trạng mù quáng bệnh hoạn  giống y hệt đó không? Không thể, vì hèn nhát hay tự mãn tội lỗi với những ý tưởng đẹp đẽ đã truyền cảm hứng cho tuổi niên thiếu của tôi, để tuyên bố một cách sáng suốt cho một vụ phá sản lớn và không thể chối cãi, đồng thời rút ra những hậu quả đó sao?

Thành thật mà nói, tôi thực sự không biết nữa. Chúa ơi, xin đến giúp con, Chúa ơi, xin Chúa giúp chúng con!”

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Denis Moreau: Làm thế nào để là người công giáo ngày nay?

Triết gia Denis Moreau: sáu điều tôi thích nơi Đức Bênêđictô XVI

Giám mục Robert Francis Prevost đứng đầu Bộ Giám mục

Giám mục Robert Francis Prevost đứng đầu Bộ Giám mục

cath.ch, I.Media, 2023-01-30

Ngày thứ hai 30 tháng 1, Tòa Thánh loan báo Đức Phanxicô đã chấp nhận đơn từ chức vì giới hạn tuổi của hồng y bộ trưởng bộ Giám mục Marc Ouellet. Hồng y cũng rời chức vụ chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Châu Mỹ Latinh. Giám mục người Mỹ Robert Francis Prevost, tu sĩ Dòng Âugutinô, 67 tuổi kế vị hồng y Ouellet.

Cho đến nay, giám mục Prevost là giám mục giáo phận Chiclayo, Peru. Ngài sẽ nhận nhiệm vụ tại Vatican ngày 12 tháng tư. Đức Phanxicô đã bất ngờ chọn một người không điển hình, một tu sĩ truyền giáo đứng đầu bộ đầy quyền lực, có trách nhiệm tuyển chọn các giám mục của các vùng đất kitô giáo lịch sử.

Sinh tại Chicago ngày 14 tháng 9 năm 1955, giám mục Robert Francis Prevost xuất thân từ một gia đình gốc Pháp, Ý và Tây Ban Nha. Được đào tạo toán học và triết học tại Đại học Villanova ở Philadelphia, năm 1977 ngài vào tập viện Âugutinô, 4 năm sau ngài tuyên khấn và chịu chức tại Rôma năm 1982.

Năm 1987, ngài đậu tiến sĩ giáo luật tại Angelicum (Đại học Giáo hoàng Thánh Tôma Aquinô) với luận án về “Vai trò bề trên địa phương của Dòng Thánh Âugutinô”. Trong thời gian làm luận án, ngài đi truyền giáo đầu tiên ở Peru năm 1985-86, với tư cách là chưởng ấn của giáo phận Chulucanas và cha sở của nhà thờ chính tòa.

Nhận Peru làm quê hương

Sau khi về quê hương Illinois vài tháng với tư cách là người chịu trách nhiệm về mục vụ ơn gọi và giám đốc các cơ quan truyền giáo cho tỉnh nhà, năm 1988 ngài trở lại Peru trong mười một năm, tại đây ngài làm nhiều sứ mệnh trong tổng giáo phận Trujillo: đặc biệt ngài thành lập một giáo xứ mà ngài là linh mục quản xứ đầu tiên cho đến năm 1999, ngài cũng là người đứng đầu cộng đoàn của mình, thẩm phán giáo hội, giám đốc chủng viện Âugutinô, trưởng học viện và giám đốc chủng viện giáo phận, nơi ngài dạy giáo luật, giáo phụ và luân lý.

Giám mục Francis Prevost đến từ Illinois | © Truyền thông Vatican

Được bầu làm Giám tỉnh, năm 1999 ngài về lại Chicago trước khi được bầu làm Bề trên Tổng quyền Dòng Thánh Âugutinô, một chức vụ ngài đã giữ hai nhiệm kỳ sáu năm, từ năm 2001 đến năm 2013. Sau một năm chuyển tiếp, ngài là giám đốc đào tạo tại tu viện Thánh Augutinô ở Chicago, ủy viên hội đồng và phó giám tỉnh, ngài được Đức Phanxicô phong giám mục tháng 11 năm 2014.

Chưa từng có một tu sĩ truyền giáo đứng đầu bộ Giám mục

Đầu tiên ngài là giám quản tông tòa giáo phận Chiclayo, tháng 9 năm 2015 ngài là giám mục thực thụ của giáo phận. Theo ấn bản năm 2022 của Niên giám Giáo hoàng, giáo phận nằm ở phía bắc Peru có 90 linh mục giáo phận, với tổng số dân 1,3 triệu người, 83% trong số này là giáo dân công giáo. Giám mục Prevost cũng từng là giám quản tông tòa của giáo phận Callao, một hải cảng lớn ở Thái Bình Dương từ năm 2020 đến 2021.

Việc bổ nhiệm ngài vào Giáo triều sẽ đưa ngài lên làm hồng y trong công nghị sắp tới. Ngài là thành viên bộ Giáo sĩ từ tháng 7 năm 2019 và bộ Giám mục từ ngày 21 tháng 11 năm 2020: những bổ nhiệm kín đáo này đôi khi có thể là dấu hiệu đầu tiên cho việc nhận trách nhiệm trong Giáo triều Rôma.

Nam bán cầu được vinh danh

Đây là lần đầu tiên một giám mục truyền giáo ở ngoài quốc gia gốc của mình được bổ nhiệm làm người đứng đầu thánh bộ chiến lược này, chịu trách nhiệm tuyển chọn giám mục của các giáo phận trong các quốc gia ‘kitô giáo xưa cổ’, chủ yếu nằm ở ‘bắc bán cầu’. Các vùng đất truyền giáo vẫn thuộc thẩm quyền của bộ Truyền giáo, trước đây là bộ Truyền giáo các Dân tộc. Nhưng đôi khi giám mục từ các quốc gia ở Nam bán cầu giữ chức vụ tổng trưởng thánh bộ dành cho các giám mục, như trường hợp hồng y Beninese Bernardin Gantin từ năm 1984 đến năm 1998 và người kế nhiệm ngài, hồng y người Brazil Lucas Moreira Neves, từ năm 1998 đến năm 2000.

Kể từ khi Vatican muốn nắm trong tay các tòa giám mục bị cám dỗ theo khuynh hướng thần học giải phóng, Ủy ban Giáo hoàng về Châu Mỹ la-tinh theo truyền thống được liên kết với bộ Giám mục. Và được gọi là “bộ Giáo sĩ” cho đến khi Tông hiến mới Anh em hãy rao giảng Tin Mừng Praedicate Evangelium về tổ chức Giáo triều Rôma ra đời năm 2022.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Sự ra đi của hồng y Ouellet: kết thúc trị vì dưới áp lực

Sự ra đi của hồng y Ouellet: kết thúc trị vì dưới áp lực

Sự ra đi của hồng y Ouellet: kết thúc trị vì dưới áp lực

cath.ch, I.Media, 2023-01-30

Là giám chức có ảnh hưởng nhưng kín đáo trong Giáo triều Rôma, người có thể làm giáo hoàng trong mật nghị năm 2013, hồng y người Canada Marc Ouellet, 78 tuổi, là đại diện của đường lối bảo thủ muốn tương thích với triều giáo hoàng của Đức Phanxicô trong những năm gần đây. Việc từ chức ngày 30 tháng 1 năm 2023, vì lý do tuổi tác, của người chịu trách nhiệm trong tiến trình bổ nhiệm giám mục của phần lớn thế giới trong 13 năm, xảy ra khi ngài vừa bị đặt vấn đề trong các trường hợp lạm dụng, nhưng ngài được sự hỗ trợ của Tòa Thánh.

Là con thứ ba trong gia đình có tám người con, xuất thân từ vùng Abitibi của tỉnh bang Québec, hồng y Marc Ouellet có một quá trình không điển hình: sau khi chịu chức, ngài dạy tại chủng viện Bogotà, Colombia, nơi đây ngài vào Dòng Xuân Bích.

Sau đó, ngài là giáo sư ở Rôma và trở lại Colombia làm giám đốc chủng viện Manizales. Ngài về lại Canada để đứng đầu chủng viện Montréal. Tiến sĩ thần học, ngài thân cận với Đức Joseph Ratzinger, và cùng với Đức Ratzinger ngài thành lập tạp chí Communio năm 1972 để cố gắng đưa việc tiếp nhận Công đồng Vatican II ra khỏi thuyết nhị nguyên “chủ nghĩa bảo thủ/chủ nghĩa truyền thống”.

Một thần học gia được Đức Gioan Phaolô II và Bênêđictô XVI cổ động

Môn đệ và là người rất ngưỡng mộ thần học gia Dòng Tên Hans Urs von Balthasar, ngài được đích thân Đức Gioan Phaolô II phong giám mục năm 2001 với tư cách là thư ký của Hội đồng Giáo hoàng Hiệp nhất Kitô giáo. Năm sau, Đức Gioan-Phaolô II bổ nhiệm ngài cai quản tổng giáo phận Québec và là người đứng đầu Giáo hội Canada, sau đó phong ngài làm hồng y vào năm 2003.

Những năm tháng của ngài ở Québec đánh dấu bằng những căng thẳng trong giáo phận của ngài, với một số nhóm công giáo chỉ trích quan điểm kiên định của ngài về trợ tử hoặc phá thai. Sau cuộc bầu chọn Đức Bênêđictô XVI, ngài trở thành một trong những cộng tác viên thân cận nhất của giáo hoàng. Năm 2010, Đức Bênêđictô XVI bổ nhiệm ngài đứng đầu bộ Giám mục – một cơ quan quyền lực chịu trách nhiệm tuyển chọn giám mục các giáo phận trên khắp thế giới, chủ yếu ở bắc bán cầu – và của Ủy ban Giáo hoàng Châu Mỹ Latinh.

Người bảo vệ truyền thống dưới thời Đức Phanxicô

Theo nhà vatican học Gerard O’Connell, tại mật nghị năm 2013, ngài nhận 22 phiếu bầu trong lần bỏ phiếu đầu tiên, sau hồng y Scola (30 phiếu) và Bergoglio (26 phiếu). Sau khi được bầu chọn, Đức Phanxicô giữ hồng y Ouellet tại vị trong gần mười năm, dù thường xuyên có những tin đồn hồng y bị thất sủng. Vấn đề là có một số việc liên quan đến tên của hồng y, đặc biệt liên quan đến người em trai Paul của ngài, bị kết tội tấn công tình dục liên quan đến hai cô gái tuổi vị thành niên ở Canada. Giữ vị trí chiến lược, ngài thường bị chỉ trích về hành động của mình, hoặc về sự im lặng trước các vấn đề nhạy cảm.

“Hồng y Ouellet cũng đối đầu với các giám mục Đức”

Trong Giáo triều Rôma, hồng y Ouellet khẳng định mình là người bảo vệ Truyền thống về các bí tích. Khi vấn đề phong chức cho các ông đã lập gia đình được nhấn mạnh trong Thượng hội đồng Amazon năm 2019, ngài đã xuất bản một quyển sách bảo vệ chức tư tế, trong đó ngài nhấn mạnh lợi ích của bậc sống độc thân.

Năm 2022, ngài tổ chức một hội nghị chuyên đề tại Vatican để khởi động lại thần học về chức tư tế khi Thượng hội đồng của Giáo hội Đức thúc đẩy “những bước đi” cho việc phong chức phụ nữ hoặc chấm dứt tình trạng độc thân của linh mục.

Ngài khẳng định, không thể hiểu được cuộc sống độc thân nếu không có đức tin. Hồng y Ouellet cũng đã đối đầu với các giám mục Đức trong chuyến đi ad limina của họ được báo chí nói nhiều vào tháng 11 năm 2022, ngài cố gắng áp đặt lệnh gia hạn nhưng không được.

Kết thúc “trị vì” dưới áp lực

Tháng 8 năm 2022, hồng y bị liên lụy cá nhân khi có đơn khiếu nại về những hành vi không phù hợp với một cựu cộng tác viên của giáo phận Québec. Chưa đầy 48 giờ sau khi vụ này được loan báo, qua Văn phòng Báo chí Tòa Thánh, Đức Phanxicô cho biết ngài thấy “không có đủ yếu tố để mở cuộc điều tra theo giáo luật”. Giáo hoàng dựa vào kết luận của một cuộc điều tra được linh mục Jacques Servais thực hiện đầu năm 2021, linh mục này là bạn thân của hồng y Ouellet, các nhà quan sát thì thầm bàn tán.

Ngày 13 tháng 12 năm 2022, hồng y Ouellet thông báo ngài khởi kiện người phụ nữ tố cáo ngài trước tòa án Québec về tội phỉ báng, để “chứng minh sự sai trái của các cáo buộc” và “khôi phục danh tiếng và danh dự của ngài”. Vài tuần sau, nạn nhân trước đây ẩn tên, đã xuất hiện với tên thật để nạp một đơn khiếu nại mới về hành vi sai trái tình dục tại tòa án Canada. Hồng y phản ứng bằng cách nói với báo chí Canada rằng ngài “không có gì để che giấu”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Giám mục Robert Francis Prevost đứng đầu Bộ Giám mục

Hồng y Hollerich: “Những người chỉ trích Thượng hội đồng không thể ngăn chặn công việc của Thượng hội đồng.”

Hồng y Hollerich: “Những người chỉ trích Thượng hội đồng không thể ngăn chặn công việc của Thượng hội đồng.”

ncregister.com, Edward Pentin, 2023-01-28

Hồng y Hollerich, tổng trường trình viên của Thượng hội đồng về tính đồng nghị đã đưa ra một số tuyên bố mạnh mẽ trong tuần này: “Những người chỉ trích Thượng Hội đồng sẽ không thể ngăn chặn công việc của Thượng hội đồng.”

Hồng y Dòng Tên Jean-Claude Hollerich, đã từng đi truyền giáo ở Nhật trong 23 năm, ngài là một trong những phụ tá thân cận nhất của Đức Phanxicô và là một trong những nhân vật hàng đầu của thượng hội đồng về tính đồng nghị, đã chỉ trích những người gièm pha tiến trình này, ngài gọi họ là những người sợ cho một “Giáo hội đang chuyển động” và họ biết họ không thể ngăn chặn tiến trình đồng nghị.

Hồng y Jean-Claude Hollerich, giáo phận Luxembourg, tổng tường trình viên của Thượng Hội đồng Giám mục từ năm 2021 đến năm 2024, đã đưa ra những tuyên bố táo bạo khác trong tuần này, đáng chú ý ngài nói ý tưởng một châu Âu kitô giáo đã là “chuyện của quá khứ”, mọi người nên được chấp nhận và không bị phán xét, và tổng giám mục cựu thư ký riêng Georg Gänswein của Đức Bênêđictô XVI đã phản bội cựu giáo hoàng khi ông không ở trong “cái bóng” của ngài.

Năm ngoái hồng y đã kêu gọi xem xét lại giáo huấn của Giáo hội về đồng tính, ngài nói với nhật báo Quotidiano Nazionale ngày 26 tháng 1, ngài nghĩ “những ai muốn Đức Phanxicô từ nhiệm, họ không muốn một Giáo hội chuyển động”.

Ngài nói: “Rất may là tâm trí của ngài vẫn sáng suốt,” nhưng hồng y thừa nhận một số người trong Giáo hội, kể cả các hồng y và giám mục muốn ngài từ chức. Đó cũng là những người trong các nhóm người sợ Thượng Hội đồng và một Giáo hội chuyển động, không còn bị mắc kẹt trong quá khứ. Trên thực tế, họ biết họ không thể ngăn chặn được.

Tương lai của Giáo hội: hồng y Hollerich cảm thấy “trách nhiệm có một cái gì đó xuất hiện” của Thượng Hội đồng

Những bình luận của ngài đã làm cho một số nhà bình luận Ý, trong đó có nhà vatican học Franca Giansoldati của Il Messaggero cho rằng hồng y Hollerich hy vọng chương trình nghị sự không chính thống của Con đường đồng nghị Đức sẽ được toàn thể Giáo hội công giáo đón nhận – dù một  tiếp cận như vậy sẽ mâu thuẫn với những bình luận gần đây của Đức Phanxicô, và một lá thư từ Vatican gởi các giám mục Đức kêu gọi họ không lật đổ hệ thống phân cấp của Giáo hội.

Về cựu tổng giám mục Gänswein thư ký riêng của Đức Bênêđictô

Khi được hỏi về quyển sách gần đây của tổng giám mục Gänswein Không có gì ngoài Sự thật – Cuộc sống của tôi bên cạnh Đức Bênêđictô XVI, nội dung quyển sách đã bị rò rỉ cho báo chí trước tang lễ của ngài, hồng y Hollerich nói: “Người đại diện cho Giáo hội là giáo hoàng, không phải là chủ tịch Phủ giáo hoàng. Tổng giám mục Gänswein đã thể hiện mình quá đáng, ông muốn thay thế giáo hoàng Phanxicô và đây là vấn đề rất nghiêm trọng.”

Khi được hỏi liệu ngài có nghĩ tổng giám mục Gänswein có phản bội Đức Bênêđictô XVI hay không, hồng y Hollerich trả lời: “Có, tôi vẫn nghĩ bất cứ ai là thư ký của giáo hoàng đều phải luôn là cái bóng của ngài và không được tìm cách lộ ra ánh đèn màu.”

Quan điểm của hồng y Hollerich về tổng giám mục Gänswein khác với quan điểm của hồng y Angelo Scola, tổng giám mục danh dự giáo phận Milan, trong một phỏng vấn với tuần này với tạp chí Oggi Ý đã ca ngợi giám mục Đức là “người tôi trung thành và đáng khen ngợi.” Hồng y Scola nói: “Tôi nghĩ, tôi ngờ nhà xuất bản đã lên kế hoạch ra mắt quyển sách hồi ký của ngài. Và đó là cách những câu được đưa ra cho một cuộc phỏng vấn. Nhưng tôi đã đọc, tổng giám mục  Georg đã yêu cầu nhà xuất bản hoãn việc phát hành để tránh hiểu lầm.”

Ở một nơi khác trong cuộc phỏng vấn với nhật báo Quotidiano Nazionale, hồng y Hollerich cố gắng giảm bớt sự khác biệt giữa Đức Phanxicô và Đức Bênêđictô XVI, ngài nói, “mỗi lần Đức Bênêđictô XVI gặp Đức Phanxicô, ngài rất vui. Có một lần, tôi là nhân chứng trực tiếp, tôi nhớ nụ cười thật tươi của Đức Ratzinger”.

Một Âu châu kitô giáo đã là chuyện của dĩ vãng

Tuần này hồng y cũng đưa ra một số nhận xét đáng ngạc nhiên trong một hội thảo của ngài ở Frankfurt, trong đó ngài nêu lên ý tưởng về một Âu châu kitô giáo đã là chuyện của dĩ vãng. Ngài nói với một cử tọa được Đại học Triết học và Thần học Sankt Georgen mời: “Chúng ta sẽ không còn một Âu châu kitô giáo nữa, nhưng hy vọng chúng ta sẽ có một Giáo hội nhỏ sống động ở châu Âu.”

Phát biểu về chủ đề “Liệu Giáo hội ở châu Âu có bền vững không? Làm sao có thể cải cách?”, ngài nói nhiều người ở châu Âu ngày nay không còn hiểu các khái niệm của kitô giáo, “không còn hiểu từ ‘Chúa’”, và khẳng định chúng ta đang sống trong thời đại mà “sự thay đổi văn minh với quy mô khổng lồ”.

Ngài nói tiếp với hãng thông tấn công giáo Đức KNA: “Tín hữu kitô sẽ phải làm chứng cho đức tin kitô giáo, trước hết qua những hành động chân chính và cởi mở, ngược với thời cổ đại, chúng ta không còn ở trong một xã hội kitô giáo mà giáo huấn của Giáo hội ở hàng đầu. Thay vào đó, điều đầu tiên chúng ta cần làm hôm nay là gặp gỡ, để có thái độ cởi mở và chấp nhận mọi người.”

Ngài nói thêm, điều đó không có nghĩa là giáo lý sai, nhưng trước hết cần có hành động đáng tin cậy để làm cho mọi người quan tâm đến đức tin kitô giáo. Ngài nói: “Một lần nữa, chúng ta cần hành động giống như Chúa Kitô hơn, có nghĩa là chấp nhận mọi người mà không phán xét họ, cho dù họ đã ly dị hay tái hôn hay đồng tính. Ngày nay mọi người hiểu việc loại trừ là không theo tinh thần đạo công giáo.”

Các tuyên bố gây tranh cãi

Hồng y Hollerich đã sống nhiều năm ở Nhật Bản, ngài đã có một số tuyên bố gây tranh cãi trong những năm gần đây. Một năm trước, khi Covid -19 vẫn còn là tâm điểm chú ý, ngài ủng hộ phải có giấy chứng nhận tiêm vắc-xin để vào nhà thờ và năm 2019, ngài ủng hộ việc phong chức linh mục cho các ông đã lập gia đình. Năm 2020, ngài nói với báo La Croix, ngài sẵn sàng để phụ nữ chịu chức. Nhưng không vì vậy mà ngài bị chận không thăng tiến trong các cấp bậc của Giáo hội. Ngược lại, ngài đã có được danh tiếng và ảnh hưởng trong những năm gần đây.

Năm 2018, ngài đã thay thế hồng y Reinhard Marx làm chủ tịch Ủy ban các Hội đồng Giám mục của Liên minh Châu Âu, và năm sau, Đức Phanxicô phong hồng y cho ngài.

Năm 2021, Đức Phanxicô bổ nhiệm ngài làm tổng tường trình Thượng hội đồng về tính đồng nghị, nhiệm vụ của ngài là trình bày các chủ đề của thượng hội đồng khi bắt đầu cuộc họp và điều phối sự đóng góp của các nghị phụ.

Trong quá khứ, việc được bổ nhiệm vào vị trí này là dấu hiệu rõ ràng về sự chấp thuận của giáo hoàng và một số người thậm chí còn cho rằng đây là dấu hiệu cho thấy người này là người ưu tiên kế vị giáo hoàng đương kim.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Sự lạc quan tốt đẹp của hồng y Hollerich

 Nếu mật nghị muốn có một Phanxicô thứ nhì, thì đây là tên và chương trình của người đó

Thế tục, tất cả là thế tục, chỉ có thế tục…

Thế tục, tất cả là thế tục, chỉ có thế tục…

Chương 14 sách Công giáo trong tự do

Trích sách Công giáo trong tự do (Catholique en liberté, nxb. Salvator, 2019)

renepoujol.fr, 2022-01-15

Nếu chủ nghĩa thế tục của Nhà nước đảm bảo quyền tự do tin hay không tin của mọi người, thì nó chưa bao giờ mang nghĩa một loại thế tục nào đó của xã hội, do bản chất đa nguyên của nó. Và từ chối quyền thể hiện bản sắc tôn giáo của người dân trong tư cách là công dân, là cách chắc nhất để củng cố các chủ nghĩa cộng đồng mà chúng ta đang đấu tranh. Một trăm ngày trước cuộc bầu cử Tổng thống Pháp, đây là thành tích cần phải giữ gìn và canh như canh sữa đun trên lửa.

Chương này mở đầu cho phần thứ ba và phần cuối của quyển sách, tôi chọn chất vấn đồng bào tôi và xã hội tôi đang sống. Quan điểm của tôi? Để nhắc lại cho các kitô hữu để họ không độc quyền về nhân đức và quan tâm đến lợi ích chung nhưng ước mong đức tin của họ vào Thiên Chúa siêu việt, nuôi dưỡng một chất vấn đạo đức và thiêng liêng trong việc phục vụ nhân loại, và không nên loại bỏ chúng trong các cuộc tranh luận công khai.

Thế tục, tất cả là thế tục, chỉ có thế tục…

Sự cám dỗ có thể rất mạnh khi chúng ta xem trọng đối thoại liên tôn và cởi mở với nó, như một vấn đề cụ thể đối với tín hữu và sẽ không liên quan đến xã hội. Và, đối với người công giáo, có thể thấy trong đó công trình đổi mới của Công đồng Vatican II và sau đó của Đức Gioan-Phaolô II đã chủ động trong cuộc họp tại Assisi. Chúng ta thường không biết có một Nghị viện Tôn giáo Thế giới được tổ chức lần đầu tiên tại Chicago năm 1893, nhân dịp Triển lãm hoàn vũ quy tụ gần cả trăm linh đạo. Vào đầu năm 2015, khi phụ trách Thư Hàng tuần xã hội Pháp (Lettre des Semaines sociales de France) mà tôi là thành viên Hội đồng quản trị, tôi đã gặp ông Samuel Grzybowski, khi đó 23 tuổi, đồng sáng lập và chủ tịch đầu tiên của Cùng tồn tại (Coexister), một hiệp hội trẻ liên kết các tín ngưỡng. Tôi muốn hỏi anh về quyển sách anh vừa xuất bản1, trong đó anh kể Chuyến đi vòng quanh thế giới về các cách giữ đạo liên tôn (Inter-Faithtour) năm 2013 với bốn người bạn từ các truyền thống tôn giáo và triết học khác nhau: một người do thái, một hồi giáo, một người theo thuyết bất khả tri và một người vô thần (Victor Grèzes, người mà tôi đã nói), khám phá các cách giữ đạo liên tôn ở khoảng bốn mươi quốc gia. Anh là người công giáo. Và tôi ấn tượng bởi nhận xét mạnh mẽ của anh: “Tôi rút tỉa được ở chuyến đi vòng quanh thế giới này, xác tín rằng đối thoại giữa các tôn giáo và giáo phái, dù hữu ích và cần thiết đến đâu, nó không phục vụ cho toàn xã hội, nhưng ngày nay lại ngược lại, cách tiếp cận phi tín ngưỡng của nó mang lại cho nó một vai trò công ích trong việc phục vụ cuộc sống chung.”

Chủ nghĩa thế tục của Nhà nước cho rằng thế tục của xã hội là hoàn toàn phi lý.

Đã có tất cả trực giác về một phong trào từ nay mở rộng hoàn toàn, nhưng sẽ rất nhanh chóng đụng với những bản sắc của các tôn giáo khác nhau cũng như với những người ủng hộ một chủ nghĩa thế tục đấu tranh. Trong một thời gian, điều này đã làm cho hiệp hội Cùng tồn tại rút lại sự chấp thuận của họ trong tư cách là một hiệp hội vì lợi ích chung, một công chức nhiệt tình của Bộ Tài chính đã đánh giá – một cách lạm dụng – rằng các tham chiếu rõ ràng của họ đến các truyền thống tôn giáo hoặc tín ngưỡng khác nhau là đụng chạm đến chủ nghĩa thế tục. Khi chỉ hai ngày sau cuộc tấn công vào tòa soạn báo Charlie Hebdo, lời kêu gọi “Chúng ta đoàn kết” của tám mươi nhân vật hàng đầu ký tên, cô Radia Bakkouch, chủ tịch của hiệp hội trẻ, trong một diễn đàn cô đã bị chỉ trích, rằng hiệp hội “muốn thay thế sự trung lập thế tục bằng sự chung sống của các tôn giáo”. Như thể chủ nghĩa thế tục đòi hỏi sự biến mất của tính đa dạng, sự u minh hỗ tương và sự không đối thoại.

Chúng ta thực sự đang ở trọng tâm của sự nhầm lẫn được duy trì trong một số môi trường xem rằng ngoài thỏa hiệp lịch sử năm 1905 đánh dấu sự tách biệt giữa các Giáo hội và Nhà nước, chủ nghĩa thế tục, với tư cách là một triết học nhân văn vô thần, vẫn luôn là một cuộc chiến cần tiếp tục chiến đấu. Rằng chủ nghĩa thế tục của Nhà nước sẽ bao hàm chủ nghĩa thế tục của xã hội, điều này hoàn toàn vô lý. Như thể các công dân của đất nước này bị thu lại thành những người lính nhỏ bé giản dị của Nhà nước, đơn màu và trần trụi, không giới tính, không bản sắc, không khuôn mặt và không linh hồn. Cũng chính những người tự mừng cho một nước Pháp giàu đa dạng cũng không có khả năng mở sự phong phú này cho tính đa nguyên của những xác tín tôn giáo. Cũng chính những người cầu xin công nhận quyền của người thiểu số trong mọi lĩnh vực lại muốn hạn chế quyền của các tôn giáo với lý do 63% người Pháp nói rằng họ không theo tôn giáo nào và do đó các tín hữu sẽ không còn là chính họ nữa… họ chỉ là thiểu số! Quý vị chịu khó đi tìm chỗ sai lầm! Cũng chính những người có ý định lên án mọi hình thức chủ nghĩa cộng đồng nào không phù hợp với luật pháp của Nhà nước sẽ mạo hiểm củng cố nó một cách khách quan, dồn họ đến với nhau để tự do chia sẻ những gì làm cho họ sống, và những gì làm họ bị cấm nói trước công chúng.

Chủ nghĩa vô thần nhà nước ở thế kỷ 20 là: Hitler, Stalin, Mao, Pol Pot…

Chủ nghĩa thế tục này dường như xuất hiện lại từ năm 2014, dưới sự chỉ đạo của ông François Baroin, ở vị trí chính thức của Hiệp hội các Thị trưởng Pháp2. Trong suốt lịch sử nước Pháp, và cho đến ngày nay ở một số khu vực trên thế giới, các tôn giáo đã hoặc là một yếu tố bạo lực và chia rẽ, với thực tế là họ tuyên bố nắm giữ chân lý và áp đặt nó với sự đồng lõa của các lực lượng chính trị, thật đáng tiếc đó là một thực tế. Đơn vị hiệp nhất  của nước Pháp hầu như không tồn tại trong các cuộc chiến tranh về tôn giáo và chúng ta nợ Nhà nước trong việc Nhà nước đã thành công bình định đất nước bằng vũ lực. Chúng ta đừng bao giờ quên điều này. Tuy nhiên, luật phân tách năm 1905 càng là luật tôn trọng những xác tín của mỗi người, trong đó luật đảm bảo quyền tự do ngôn luận; cũng như theo tôi, dường như không thể chấp nhận được khi tuyên bố áp đặt lên công dân một triết lý chính thức, dù đó là triết lý nhân văn. Bởi vì, kinh nghiệm cho thấy, sau đó chúng ta nhanh chóng trôi qua, từ một triết học không bị khuất phục đối với các giáo điều tôn giáo, đến một triết học tuyên bố phủ nhận chúng hoặc ít nhất là cấm các công dân chấp nhận tham khảo một cách công khai và tập thể nơi công cộng. Đây là cánh cửa mở ra cho một chủ nghĩa vô thần của Nhà nước mà từ thế kỷ 20, chúng ta đã không giữ được ký ức rằng nó thực sự phục vụ hòa bình, chung sống và dân chủ. Chỉ cần nghĩ đến hàng trăm triệu cái chết do các bàn tay của Hitler, Stalin, Mao và Pol Pot cộng lại là hiểu.

Nhà thờ chính tòa Créteil: một không gian văn hóa được thành phố đồng tài trợ… trong chủ nghĩa thế tục!

Vậy mà trong một tài liệu tháng 12 năm 2014, Đại Đông phương Pháp đề xuất danh sách 25 biện pháp để một nước Cộng hòa thế tục, tiến xa hơn nữa, ‘chấm dứt việc tài trợ công cho các hoạt động tôn giáo dù dưới hình thức văn hóa’. Ngày 20 tháng 9 năm 2015, tôi tham dự lễ khánh thành nhà thờ chính tòa mới Créteil trong giáo phận của tôi. Cùng có mặt, ngoài ông Bernard Cazeneuve, bộ trưởng Bộ Nội vụ phụ trách thờ phụng, ông Laurent Cathala, phó thị trưởng đảng Xã hội của Créteil, ông Christian Favier, chủ tịch Cộng sản của Hội đồng Bộ. Ngày hôm đó, người này người kia đều nhắc lại vì sao thị trấn Créteil và sở Val-de-Marne đã tài trợ cho chương trình văn hóa của nhà thờ mới (phòng trưng bày, khán phòng và hội nghị) trong sự tôn trọng nghiêm túc của chủ nghĩa thế tục và luật pháp của nước Cộng hòa.

Sau đó, ngày 7 tháng 10, tôi điều khiển chương trình ở gian giữa của chính nhà thờ này, chung quanh Thông điệp về sinh thái Laudato Si của giáo hoàng, một cuộc tranh luận công khai có phó thị trưởng MoDem của Plessis-Trévise và thị trưởng cộng sản của hạt Champigny. Có phải đã có “một hoạt động bao gồm việc thờ phụng được trình bày dưới dạng văn hóa” không? Ai, trong cuộc sống thực, phục vụ tốt nhất chủ nghĩa thế tục và sống cùng nhau: các quan chức được bầu chọn của Val-de-Marne hay anh em của đường Cadet?

“Nhiều người đến với Charlie hơn là đến với thánh lễ?”

Cuộc tấn công của hồi giáo vào tòa soạn báo Charlie Hebdo ngày 7 tháng 1 cùng năm đã đẩy cuộc tranh luận về chủ nghĩa thế tục lên cao điểm. Liệu có thể chấp nhận được, trong một nền dân chủ tự do, một số kẻ khủng bố lạnh lùng đến ám sát các nhà báo nhân danh Allah không? Không, câu hỏi thậm chí không nên đặt ra. Và phản ứng của người dân Pháp, vào ngày chúa nhật sau đó là ở tầm cao của sự phủ nhận này. Nhưng có cần thiết như thế, cả hồi giáo và chủ nghĩa hồi giáo, để cho rằng hạn chế người này để triệt người kia tốt hơn không? Có cần thiết, như một số “cây bút vĩ đại” của báo chí Pháp trong những ngày sau đó tuyên bố đưa “quyền báng bổ” vào luật không? Mặc dù đây là quyền tự do được đảm bảo cho mọi công dân, mà việc thực hiện quyền tự do này không phải là đối tượng của bất kỳ quyền truy tố nào trước tòa án sao? Tại sao muốn chuyển thành luật khách quan những gì là và phải là một tự do?

Số báo “lịch sử” của Charlie Hebdo được xuất bản một ngày sau vụ tấn công (bán được bảy triệu bản) chạy các trang trung tâm: “Chúa nhật 11 tháng 1 năm 2015, nhiều người đến với Charlie hơn là đến với thánh lễ.” Như thế nước Pháp sẽ nhờ cuộc tuần hành này để đẩy lui chủ nghĩa mù quáng công giáo sao? Nhưng mối liên hệ với cuộc tấn công là gì? Hàng trăm ngàn tín hữu hôm đó lạnh lùng bỏ thánh lễ ngày chúa nhật để đi tuần hành. Tôi có mặt! Một số nói họ là Charlie, một số khác thì không, như tôi! Họ thấy trong đám đông những người bạn hồi giáo, những người cũng là công dân nước Pháp, dù đôi khi họ bị bầm dập vì tranh biếm họa và lo lắng sợ mọi người quay lại chống họ, giữ hình ảnh những kẻ sát nhân chỉ vì những kẻ này xưng mình là hồi giáo. Tôi nhớ tôi đã đi lang thang mấy giờ đồng hồ liền ở Paris với linh mục Gilles Godlewski, cha quản nhiệm nhà thờ chính tòa Créteil cùng với vài giáo dân khác và một phái đoàn của nguyện đường hồi giáo do giáo sĩ Sheikh Ilyes hướng dẫn. Và chúng tôi gặp một đại diện của Phong trào do thái tự do Pháp. Ngày đó, chúng tôi không phải là công dân hạng hai “bất chấp” tôn giáo chúng tôi và sự từ chối đòi quyền báng bổ thế tục, tự do và bắt buộc.

Chỉ chưa đầy một tuần để chứng kiến hố thẳm của sự bất hòa mở ra lại

Vì thế vào ngày 10 và 11 tháng 1, nước Pháp cảm thấy tự hào về một sự hiệp nhất vừa được tìm lại. Và chỉ chưa đầy một tuần để chứng kiến hố thẳm của sự bất hòa mở ra lại. Chúng ta sẽ cho rằng những kẻ khủng bố là đúng phải không? Liệu chúng ta có củng cố hoang tưởng về một chủ nghĩa thế tục vốn chỉ có thể xây dựng trên sự phủ định, sự xóa sổ nơi công cộng, của các tôn giáo có hàng ngàn năm tuổi, về những minh triết mà xã hội chúng ta mắc nợ một phần những điều tốt đẹp nhất của họ không? Chúng ta có thực sự muốn ngày mai thấy lời tiên tri của nhà văn Michel Houellebecq trong quyển tiểu thuyết Tuân phục Submission của ông: sự kết hợp thiêng liêng, cuối cùng đã chiến thắng, của một kitô giáo và hồi giáo bực tức, trên đống đổ nát của nước Cộng hòa? Mặc dù phần lớn, những người theo kitô giáo và hồi giáo nhận ra mình trong đó, ngay cả khi họ yêu cầu một số cân nhắc dành cho họ.

Làm sao mà không cảm thấy day dứt những ngày sau đó khi đọc trên mạng xã hội những dòng tâm sự đầy thương cảm của các trí thức: nhà văn, triết gia, nhà xã hội học; của những người “thiện tâm”, cởi mở và rộng lượng, những người theo chủ nghĩa nhân văn, những người theo chủ nghĩa cộng hòa, thừa nhận rằng họ đã cam chịu im lặng trong một cuộc tranh luận bất khả thi, nơi mà chính ý tưởng tôn trọng người khác và niềm tin của họ dường như trở nên báng bổ với những tín điều mới và quan niệm chuyên chế về tự do ngôn luận và chủ nghĩa thế tục. Chúng ta có hy vọng đảm bảo một vài chiến thắng ý thức hệ quyết định nào đó trước sự im lặng của những người chỉ đơn giản kêu gọi lý trí và tình huynh đệ không?

Có phải mười hai cái chết của báo Charlie Hebdo, tự xưng là “tạp chí vô trách nhiệm”, để đòi hỏi từ nay việc giảng dạy đạo đức thế tục trong trường phải thoát khỏi mọi liên hệ bất kỳ nào giữa tự do và trách nhiệm không? Có cần thiết phải giải thích cho học sinh các trường trung học và đại học của chúng ta, rằng việc đốt các nhà thờ ở Niger, cướp phá nhà của giáo dân kitô giáo, cái chết của mười người do bị trả thù, là cái giá hợp lý nếu xét về quyền bất khả xâm phạm của báo Charlie Hebdo để có thể biếm họa nhà tiên tri không? Không, trong mắt tôi Charlie không phải là nước Pháp, Charlie không phải là quốc gia, Charlie không phải là hiện thân của lương tâm nước Pháp hay tự do ngôn luận. Charlie, trong số những yếu tố khác, không phải là không có tài năng hoặc dũng cảm, là một trong những yếu tố cấu thành. Chỉ như thế! Muốn thuyết phục chúng tôi ngược lại là phỉnh phờ. Đúng, tạp chí Charlie Hebdo sẽ có thể tiếp tục viết một cách tự do. Vì chúng ta giữ quyền công dân, đưa ra tranh cãi về sự thánh hóa quyền tự do ngôn luận mà họ tuyên bố là phục vụ, giống như bất kỳ hình thức thánh hóa nào. Nếu bất kỳ tôn giáo nào đều có thể bị chỉ trích và đặt vấn đề, thì quyền tự do ngôn luận được dựng lên như một giáo phái mới cũng nên có thể làm.

Do đó, gắn bó của tôi với chủ nghĩa thế tục, một phần, được liên kết với quyền tự do bày tỏ tín ngưỡng mà nó cho phép và đảm bảo ở nơi công cộng, mà không có bất kỳ ưu tiên nào. Vẫn cần dùng quyền tự do này để không đụng với kiểu đọc thế tục và loại trừ của những người trong giới truyền thông. Sự tự do hành động của họ giả định chúng ta có thể diễn đạt trong một ngôn ngữ dễ hiểu, những gì chúng ta muốn nói. Trong ba mươi lăm năm làm báo, tôi đã biết hai loại hình đại diện. Đã có nhiều lần tôi từ chối lời mời tham dự một số chương trình truyền hình, nơi tôi bị cho là người công giáo vì nghĩa vụ, một loại kẻ vô dụng hữu ích bị chế giễu mà không bị trừng phạt (điều này không xảy ra với người do thái cũng như người hồi giáo) và với sự đồng thuận của công chúng. Công giáo nhưng không khổ dâm! Quá tệ cho đa nguyên! Nhưng ai là người thực sự quan tâm khi nói đến các tôn giáo?

Chúa Giêsu kết hôn với bà Maria Mađalêna hay là Ngài ở với Thánh Gioan?

Nhưng tôi có một kỷ niệm thú vị về những nỗ lực ít nhiều thành công khác. Khi phim Mật mã Da Vinci chuyển thể từ quyển tiểu thuyết ăn khách của tác giả Dan Brown ra rạp, tôi được mời lên truyền hình để nói quan điểm của nhà báo công giáo về chủ đề trọng tâm của quyển tiểu thuyết: hôn nhân của Chúa Giêsu với bà Maria Mađalêna, người mà hậu duệ bí ẩn đến tận chúng ta.

Trên sàn quay của chương trình Ngừng lại trên các hình ảnh (Arrêt sur Images), tôi cố gắng giải thích vào thời Chúa Giêsu, được kết hôn và có nhiều con cháu là ơn lớn nhất có thể có cho một giáo sĩ do thái như Ngài. Nếu Chúa Giêsu kết hôn thì sao các thánh sử cùng chia sẻ những giá trị này lại im lặng? Để không làm cho Vatican giận hai mươi thế kỷ sau ư? Nghiêm trọng hơn, tôi cố gắng giải thích trước ống kính, nếu Chúa Giêsu muốn vâng lời, khó nghèo và khiết tịnh, đó là để đánh dấu sự tự do tuyệt đối của Ngài – và mời chúng ta làm như vậy – đối diện với những gì luôn xảy ra ở mọi thời, và ngày nay hơn bao giờ hết, đã và vẫn là nguồn gốc của bạo lực giữa con người: quyền lực, tiền bạc và tình dục. Và không phải ngẫu nhiên mà chúng ta muốn khám phá lại đời sống đan tu, hoàn toàn dựa trên ba lời khấn vâng lời, khó nghèo và khiết tịnh. Một lời kêu gọi gởi đến chúng ta để kiềm chế những xung động có thể trở nên phá hoại người khác và cả cho chính chúng ta. Nhìn thấy ánh mắt ngờ vực của ông Daniel Schneidermann khi tôi đang nói, tôi hiểu đoạn này sẽ bị cắt bỏ khi dựng phim… và chính xác là vậy!

Vài ngày sau, trên kênh C8, ông Jean-Marc Morandini cố gắng làm cho tôi thừa nhận, cuộc hôn nhân này của Chúa Giêsu là một xác suất mà tôi không thể từ chối… không để cho tôi có một xác suất của tôi. Biết khán giả của kênh là ai và tôi không chắc sẽ gặp độc giả của báo Pèlerin ở đó, tôi dám phản công. Tôi nói với ông, cuộc hôn nhân của Chúa Giêsu với bà Maria Mađalêna là một luận cứ xưa cổ. Ngày nay, các nhà nghiên cứu giỏi nhất quan tâm nhiều hơn đến giả thuyết Chúa Giêsu có một thỏa ước với Thánh Gioan, hai người đàn ông độc thân ở với nhau… Và tôi đã tận dụng hiệu ứng của sự ngạc nhiên để nói những gì tôi cần phải nói!

Sử dụng tốt chủ nghĩa thế tục ở trên đài.

Tạm để chuyện đùa sang một bên, trong một xã hội quá ngột ngạt bởi chủ nghĩa tiêu dùng và chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa thế tục có thể là cơ hội để giáo dân nói với những người cùng thời rằng, việc đi tìm Chúa, tìm đời sống thiêng liêng, tìm sự nhưng không trong tình yêu, được nhận được chia sẻ, cũng có thể mang lại ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta. Không phải “sửa chữa” vì lợi ích cho các Giáo hội hay cho các tôn giáo nhưng để phục vụ nhân loại trong chiều kích thực sự của nó.

Ở Sylvanès (Aveyron), văn hóa phục vụ cho chủ nghĩa đa nguyên.

Trong thế giới văn hóa, chủ nghĩa thế tục cũng thể hiện một lý tưởng gặp gỡ nơi các truyền thống tôn giáo và tâm linh khác nhau có thể đối thoại với nhau và sống chung với xã hội và thế giới nghệ thuật. Đó là những gì tu viện Sylvanès, gần thành phố quê hương tôi, ở phía nam Rouergue đã sống hơn bốn mươi năm nay. Và tôi vẫn còn vô cùng biết ơn linh mục dòng Đa Minh André Gouzes và Michel Wolkowitsky đã làm cho tu viện dòng Xitô có từ thế kỷ thứ 12 này trở thành nơi mở cửa cho đối thoại và sáng tạo, trong một tam hợp hiệu quả giữa các tiết mục âm nhạc cảm hứng công giáo với sự phong phú của các truyền thống tôn giáo và tâm linh thế giới, với xã hội thế tục vốn là thực tế của chúng ta. Sự gắn bó của tôi với nơi này, qua nhiều tác phẩm xuất bản khác nhau và với tư cách thành viên ban quản trị, do xác tín, không phải không có khó khăn hoặc đôi khi kháng cự, những gì tốt nhất mà chủ nghĩa thế tục có thể đại diện cho sự phục vụ của đất nước, khi chúng ta hiểu giáo dân có thể phục vụ nó với lòng trung thành, quảng đại và không vụ lợi.

Rằng các tôi tớ Chúa không xem mình là vua Xêda và Xêda không xem mình là Chúa.

Ngày 9 tháng 4 năm 2018, giống như nhiều người Pháp, tôi tò mò muốn biết tổng thống Emmanuel Macron sẽ nói gì với các giám mục Pháp chào đón ông ở Học viện Bernardins, Paris. Ông có dùng giọng điệu thông đồng quá đáng như cựu tổng thống Nicolas Sarkozy được bầu là kinh sĩ danh dự năm 2007 ở nhà thờ Lateran, Rôma; hay khoảng cách cố ý khinh thường của cựu tổng thống François Hollande không? Tôi thích bài diễn văn của ông hơn. Dù trong tư cách là một công dân, người công giáo, đôi khi tôi cũng muốn ông nói với Hội đồng Giám mục Pháp hay với người tín hữu một cách khác hơn. Ông biết, vì ông có văn hóa, rằng kể từ Công đồng Vatican II, Giáo hội đã tự xác định mình là “dân của Chúa” và như thế với thuật ngữ này không đủ tiêu chuẩn cho các cơ quan điều khiển mình. Việc phân biệt hai điều này sẽ giúp chúng ta có thể tôn vinh tốt hơn một thực tế mà theo mặc định, đã bị mờ nhạt: tính đa nguyên trong các ý kiến trong chính lòng của người công giáo Pháp.

Ngay ngày hôm sau, tôi nghe nói, để bày tỏ “cảm nhận mối dây liên kết giữa Giáo hội và Nhà nước đã bị tổn hại thì quan trọng là phải sửa chữa nó”, như thử một tấn công vào luật năm 1905. Tôi đã không nhận ra điều đó, một tách biệt ngụ ý một sự phủ nhận thực tế, vì khi đó nó là vấn đề về mối quan hệ giữa quyền lực công và những người có trách nhiệm việc phụng tự. Về phần tôi, tôi thích nguyên thủ Quốc gia công nhận giữa người công dân và Quốc gia cũng tồn tại những cộng đồng cùng thân cận trong cấu trúc quốc gia, trong đó có Giáo hội công giáo; tôi thích ông tố cáo biếm họa của một đạo công giáo bị giảm xuống thành những chiến binh thiểu số thù địch với Nhà nước; tôi thích nghe ông khẳng định rằng rễ cây, dù đó là rễ kitô giáo cũng ít quan trọng hơn nhựa sống nuôi dưỡng rễ cây; tôi thích lời nhắc nhở của ông, rằng con người, bản sắc và số phận của nó là vấn đề thực sự và duy nhất của thế kỷ đang bắt đầu của chúng ta; tôi thích sự tôn vinh cho sự dấn thân chiến đấu của người công giáo trong tất cả các lĩnh vực của đời sống liên kết và cũng như sự tiếc nuối đôi khi nó được thực hiện bằng cách bỏ rơi lĩnh vực chính trị; tôi thích lời mời dành cho các tín hữu cũng chia sẻ những bất ổn của thế giới đương đại; tôi thích ông gọi Giáo hội là “không hợp thời” và do đó có tính tiên tri, chú ý đến việc nhắc lại linh đạo để con người đặt câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống… Và ngược với lời kết án ông ở một số môi trường, tôi không tìm thấy trong nhận xét của nguyên thủ quốc gia bất kỳ một lời nói nào nhượng bộ người công giáo, điều này làm cho người ta nghĩ ông đã vượt ra ngoài đối thoại cộng hòa đơn giản. Ngày đó, mọi người đều hiểu, nhất là với luật đạo đức sinh học, ông bảo vệ quyết định theo hướng không nhất thiết phải là hướng mong muốn của các giám mục và những người đã chia sẻ các phân tích với họ.

Chúng ta sẽ không bao giờ có thể lập lại cho đủ: người giáo dân ít có lý do hơn để thù địch với chủ nghĩa thế tục – ngay cả khi nó vẫn còn là một cuộc đấu tranh – bởi vì họ tìm thấy nguồn gốc của nó trong các sách Phúc âm. “Hãy trả cho Xêda những gì của Xêda, và cho Chúa những gì của Chúa”, đó là những gì xây dựng chủ nghĩa thế tục. Nhưng điều này giả sử, vừa tôi tớ Chúa thì không cho mình là người thay thế Xêda, và Xêda không tự nhận mình là Chúa.

  1. Samuel Grzybowski, Mọi con đường đều dẫn đến người khác Tous les chemins mènent à l’autre, nxb. L’Atelier, 2015.)
  2. Ban giám đốc từ năm 2021 do David Lisnard, người kế nhiệm ông đảm nhận.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Sự thật như cuộc đi tìm được chia sẻ

Hồng y Hollerich: nhân vật chủ chốt trong chiến lược của Đức Phanxicô

Hồng y Hollerich: nhân vật chủ chốt trong chiến lược của Đức Phanxicô

renepoujol.fr, René Poujol, 2023-01-29

Quyển sách mới nhất của ngài mở ra một vài bí mật về tầm nhìn của giáo hoàng với tương lai của Giáo hội công giáo.

Người vẫn còn ít được công chúng biết đến, cả trong giới công giáo. Tu sĩ Dòng Tên, tổng giám mục tổng giáo phận Luxembourg, được phong hồng y năm 2019 và hiện là chủ tịch Ủy ban Giám mục Liên minh Châu Âu (Comece), năm 2021, ngài được Đức Phanxicô đề cử làm tổng tường trình cho Thượng Hội đồng về đồng nghị, thượng hội đồng sẽ chỉ kết thúc vào năm 2024. Vì thế ngài là nhân vật chủ chốt trong một dự án chắc chắn là tâm huyết nhất của Đức Phanxicô dành cho Giáo hội ngày mai: cởi mở với tính tập thể rộng lớn hơn. Đủ để nói quyển sách phỏng vấn ngài được xuất bản cách đây vài tháng rất đáng để đọc kỹ. Vì trong đó ngài tiết lộ cho chúng ta một số bí mật quý giá về ý định của Đức Phanxicô. Đức Phanxicô dự định không đi xa đến mức nào?

Từ ngày 5 đến ngày 9 tháng 2 sắp tới, cái gọi là giai đoạn Lục địa của Thượng hội đồng về tính đồng nghị sẽ được tổ chức tại Praha, Cộng hòa Séc, đó là một trong những quốc gia thế tục hóa nhất ở châu Âu – và vì thế, đó là một trong những quốc gia ít tôn giáo nhất đối với nước Pháp, một phái đoàn mười bốn người sẽ đi dự. Giai đoạn đầu tham khảo ý kiến của các tín hữu từ khắp nơi trên thế giới đã là chủ đề của những đánh giá hỗn hợp ở Pháp, mà tôi thấy không hữu ích khi bàn lại ở đây. Vatican đã thực hiện một bản tổng hợp, dựa trên những đóng góp nhận được từ các hội đồng giám mục khác nhau. Đây là Tài liệu cho giai đoạn lục địa (DEC), rất trung thực, sẽ là cơ sở cho các cuộc thảo luận trong những tuần tới.

Đức Phanxicô giao cho hồng y Hollerich tổng hợp các văn bản của Thượng hội đồng

Trên cơ sở các phân tích đến từ các châu lục khác nhau với các đặc điểm văn hóa rất khác nhau, tổng thư ký của Thượng hội đồng sẽ soạn thảo tài liệu làm việc (instrumentum laboris) dùng để làm chất liệu suy tư cho các thành viên sẽ về Rôma vào mùa thu tới để họp Thượng hội đồng phiên đầu tiên trong hai phiên của “giai đoạn 3” (phiên thứ hai được dự trù vào tháng 10 năm 2014). Vì thế có khả năng đầu năm 2025, Đức Phanxicô sẽ công bố trong một tông huấn, những gì ngài giữ lại từ các kết luận và khuyến nghị của Thượng Hội đồng do hồng y Hollerich tổng hợp với tư cách là tổng tường trình. Qua lịch trình này, khó có khả năng Đức Phanxicô từ nhiệm, ngoại trừ ngài bị bệnh bất ngờ, trước khi tiến trình này kết thúc mà chúng ta biết đây là chiến thuật trọng tâm của ngài cho Giáo hội ngày mai. Điều này một lần nữa nói lên vai trò then chốt của hồng y Hollerich! Và chúng ta có thể hình dung một văn bản chắc chắn trung thành với các trao đổi, nhưng lại mang dấu ấn của người biên tập nó.

Trong quyển sách phỏng vấn Tìm Chúa trong mọi sự được xuất bản lần đầu ở Đức, sau đó được bổ sung bằng cuộc trao đổi với nhà xuất bản Antoine Bellier cho ấn bản tiếng Pháp (Trouver Dieu en toutes choses, nxb. Salvator), hồng y Hollerich nhìn lại thời gian 20 năm ngài sống ở Nhật cho đến khi ngài được bổ nhiệm làm tổng giám mục Luxembourg năm 2011. Những năm tháng sống ở một xã hội cực kỳ thế tục với truyền thống thần đạo và phật giáo ghi dấu ấn sâu sắc trong văn hóa Nhật. Họ thuyết phục ngài, dù người công giáo tin vào Chúa Kitô, nhưng người công giáo không độc quyền nắm giữ sự thật; rằng đối thoại với các tôn giáo khác và với thế giới hậu hiện đại là cấp thiết, đòi hỏi này là trọng tâm của thông điệp kitô giáo. Ngài viết: “Rõ ràng là tôi không thể chỉ nói: ‘Bây giờ tôi sẽ rao giảng Tin Mừng cho anh em.’ Chúa cũng hiện diện trong văn hóa Nhật và tôi muốn bắt đầu công việc của tôi qua việc khám phá văn hóa này”.

Tìm kiếm Chúa trong thế giới chúng ta và nhận ra Ngài ở đó: Một cái nhìn khác về sứ mệnh

Thật dễ hiểu, chính trong trạng thái tâm trí này mà ngài đã chủ trì Ủy ban Giám mục Cộng đồng Châu Âu (Comece) kể từ năm 2018, và cho công việc của ngài trong tư cách là tổng tường trình của Thượng hội đồng thế giới về tính đồng nghị. “Chúng ta phải chấp nhận con người ngày nay dạy cho chúng ta tìm Thiên Chúa trong thế giới hiện tại của chúng ta và nhận ra Ngài ở đó.” Một cái nhìn khác về Sứ mệnh. Sau đó, với chính Giáo hội công giáo: “Giáo hội bị bệnh với những tranh cãi ý thức hệ nội bộ. Nó phải nhường chỗ cho sự đa dạng. Trong thế giới ngày nay, chúng ta không thể đòi hỏi tất cả mọi người phải có một đức tin hoàn toàn đồng nhất (…) Chúng ta chỉ có thể bảo tồn các truyền thống nếu chúng ta thay đổi và điều chỉnh chúng. Nếu không thì truyền thống biến mất.”

Từ Đức Phanxicô trong văn bản. Nói về thượng hội đồng, ngài tuyên bố trong một phỏng vấn với Tuần báo La Croix tháng 1 năm 2022: “Chúng ta có một thần học mà sẽ không ai hiểu được trong hai mươi hoặc ba mươi năm nữa. Nền văn minh này sẽ trôi qua. Đó là lý do vì sao chúng ta cần một ngôn ngữ mới phải dựa trên Tin Mừng. Tuy nhiên, toàn thể Giáo hội phải tham gia vào việc phát triển ngôn ngữ mới này: đây là ý nghĩa của Thượng hội đồng.” Cũng như ý nghĩa sâu xa của Công đồng Vatican II trong “tinh thần” của nó, vượt ra ngoài “văn thư” của các văn bản công đồng mà đôi khi người ta tìm cách đóng khép nó: việc đưa vào một cập nhật thường xuyên, thông qua tính đồng nghị và tính hợp đoàn giám mục. Vì điều đang bị đe dọa là việc tiếp nhận, hiểu biết sứ điệp Kitô giáo ở các lục địa với các truyền thống văn hóa khác nhau.

Đừng mong chờ thượng hội đồng trả lời tất cả các câu hỏi của thời

“Không ai có thể một mình đi đến cùng công việc hội nhập văn hóa mới của kitô giáo. Sự tham gia của tất cả các Giáo hội địa phương là cần thiết để đạt được điều này. (…) Một thượng hội đồng châu Âu sẽ được hoan nghênh nhưng điều này cần thời gian.” Một cách khác để nói chúng ta không nên mong chờ Thượng hội đồng này sẽ mang lại câu trả lời ngay lập tức và dứt khoát cho tất cả các câu hỏi của thời điểm này: đời sống độc thân bắt buộc của linh mục, truyền chức cho các ông đã lập gia đình, vị trí của phụ nữ trong Giáo hội… Nhưng có lẽ đã có, ngài công nhận tính hợp pháp của một quyền tự trị mục vụ và giáo lý nào đó, từ lục địa này sang lục địa khác, để quản lý những vấn đề này theo thực tế địa phương, trong tinh thần tôn trọng sự hiệp nhất của Giáo hội và sự toàn vẹn đức tin. Bước tiếp theo – nhưng chỉ sau đó – là mang đến câu trả lời cụ thể theo nghĩa của Thượng Hội đồng về châu Âu mà hồng y Hollerich đã đề cập.

Một quyển sách của sự táo bạo ôn hòa

Phải đọc “Tìm Chúa trong mọi sự”. Đối với “sự táo bạo ôn hòa” này, vốn là đặc điểm nổi bật của tu sĩ Dòng Tên gần gũi với Đức Phanxicô. Sự táo bạo khi hồng y mời gọi chúng ta “tích hợp cách suy nghĩ mới về đức tin dựa trên thực tế sống động của con người ngày nay”; sự táo bạo khi ngài kêu gọi chúng ta đồng hành với các ông các bà, những người cùng thời với chúng ta trong cuộc sống hàng ngày của họ, không phán xét họ, thay vì mệt mỏi uốn cong luật lệ của thành phố; táo bạo khi ngài khuyên, liên quan đến đức tin, hãy “suy niệm với những người trẻ tuổi và cùng họ tìm kiếm câu trả lời, thay vì liên tục nhắc nhở họ về những điều mà sách giáo lý cổ điển đưa ra”; sự táo bạo khi ngài thúc giục chúng ta “hãy thay đổi cách nhìn về tình dục”, điều này thường chỉ phản ánh loại đạo đức tư sản của thế kỷ 19 không liên quan đến truyền thống công giáo cổ đại; táo bạo khi ngài gợi ý “Tin tưởng vào con người là tin tưởng vào Chúa.”

Nhưng sự táo bạo tiết chế với một số hăng tiết nào đó,  khi ngài nhắc “cần phải khẳng định có một phẩm trật, đó là một phần của giáo huấn Giáo hội”; thậm chí ngài còn táo bạo hơn khi nhấn mạnh, “hội nhập văn hóa (là cần thiết) không phải là một thích nghi”; táo bạo tiết chế với con đường đồng nghị của Đức, “đôi khi tôi có cảm tưởng các giám mục Đức không hiểu giáo hoàng. Ngài không tự do, ngài triệt để và chính sự triệt để của Tin Mừng có thể dẫn đến thay đổi”; táo bạo được tiết chế cũng trong một tinh thần như vậy, ngài viết: “Cải cách cơ cấu không nên là vấn đề duy nhất ở trọng tâm các cuộc thảo luận. Giáo hội cũng được kêu gọi ‘ra khỏi sự giam hãm thiêng liêng của mình’”.

“Giáo hội không còn đủ sức để tự cải cách.”

Khi đọc một quyển sách, thỉnh thoảng tôi dừng lại một đoạn đặc biệt đánh động tôi, do sự độc đáo của viễn cảnh nó mở ra, và tặng nó như món quà cho những người thân yêu, để nuôi dưỡng suy tư cho chính họ. Tôi tặng quý độc giả hạt ngọc dưới mắt tôi, khi tôi đọc quyển sách phỏng vấn này: “Trong ngôn ngữ chúng ta và theo cách chúng ta nhận thức các sự việc, quá khứ ở phía sau và tương lai ở phía trước. Tuy nhiên, ở Ai Cập cổ đại thì ngược lại: quá khứ ở phía trước vì chúng ta biết và chúng ta nhìn thấy nó, còn tương lai, thứ mà chúng ta không thể nhìn thấy vì chúng ta không biết, thì ở phía sau. Theo tôi, Giáo hội công giáo dường như vẫn còn khuynh hướng lý luận như người Ai Cập, nhưng điều này không còn hiệu quả nữa. Chúa mở ra tương lai cho chúng ta. (…) Khi chúng ta nói về truyền thống vĩ đại của Giáo hội, chúng ta thường tô điểm cho một thời đại cụ thể chưa từng tồn tại như nó được mô tả. Một số cho rằng thánh lễ ngày xưa đẹp hơn. Nhưng họ đang nói về thánh lễ nào? Đa số thời gian, họ tưởng tượng về một quá khứ mà họ dựng lên như một truyền thống và họ lý tưởng hóa, và chính điều này đã dẫn đến sự sụp đổ của nền văn minh Ai Cập. Nó không còn đủ sức để tự cải cách.”

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Sự lạc quan tốt đẹp của hồng y Hollerich

René Poujol là tác giả quyển sách Công giáo trong tự do đang được đăng trên trang Phanxicô.

Lời giới thiệu sách Công giáo trong tự do

 “Cái chết này là của tôi”: lời chứng lạnh người của linh mục José bị tấn công ở Tây Ban Nha

“Cái chết này là của tôi”: lời chứng lạnh người của linh mục José bị tấn công ở Tây Ban Nha

fr.aleteia.org, Alvaro Real và Cécile Séveirac, 2023-01-27

Linh mục Juan José, chánh xứ nhà thờ La Palma bị một kẻ khủng bố hồi giáo nhắm để giết ngày thứ tư 25 tháng 1, ngài nói với hãng truyền thông Tây Ban Nha COPE về quá trình tấn công đã làm cho nhân viên phòng thánh Diego Valencia bị thiệt mạng.

Hai ngày sau vụ tấn công bằng rựa vào hai nhà thờ ở Algeciras, miền nam Tây Ban Nha ngày thứ tư 25 tháng 1, linh mục Juan José, chánh xứ của nhà thờ La Palma đã bị bọn khủng bố nhắm đến lần thứ hai, ngài kể chi tiết rùng rợn  diễn biến của vụ tấn công.

Ngài nói với hãng truyền thông Tây Ban Nha COPE, và cho biết, chắc chắn ngài là mục tiêu ban đầu của tên khủng bố, nhưng cuối cùng nhân viên phòng thánh Diego Valencia đã thiệt mạng. Ngài giải thích: “Linh mục đang nói chuyện với bạn bây giờ lẽ ra là người đã nằm trên mặt đất ở sân trước nhà thờ.” Khi kẻ tấn công cầm rựa vào nhà thờ La Palma thì linh mục Juan José đang ở một giáo xứ khác, nơi ngài đang ban bí tích Thêm Sức. Ngài nói: “Các giáo dân khóc gọi điện thoại cho tôi, họ nói với tôi, một người hồi giáo vào nhà thờ hét, họ đã giết nhân viên giữ phòng thánh vì nghĩ đó là linh mục. Cái chết này là dành cho tôi. Nhưng anh Valencia đã chết thay cho tôi.” Linh mục kể, kẻ tấn công lên bàn thờ, vừa ném các vật dụng vừa la hét. Nhân viên phòng thánh đi ra xem chuyện gì đang xảy ra. Khi nhìn thấy con dao của tên khủng bố, anh Diego Valencia lao ra ngoài để cầu cứu. Bị tên khủng bố bắt được, anh bị đâm nhiều nhát rựa ở sân trước nhà thờ. Linh mục José nói: “Cái chết này là của tôi, nhưng anh Valencia đã chết thay tôi.”

Còn linh mục Antonio Rodriguez, bị tấn công ở nhà thờ đầu tiên, ngài bị thương nặng và đã được mổ ở bệnh viện, Cha Juan José viết tưởng niệm anh Valencia trên Facebook của cha:

“Tôi không có lời nào để nói lời tạm biệt với anh, người bạn  trung thành của tôi. Tôi chỉ muốn nói lên lời cám ơn anh vì anh đã cống hiến hết mình cho cộng đồng giáo xứ chúng tôi, tôi bảo đảm với anh Diego thân yêu của tôi, giáo xứ sẽ không bao giờ giống như trước nữa. Cám ơn Diego”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

“Giáo hoàng ư? Ngài là người cha thiêng liêng của chúng ta”

“Giáo hoàng ư? Ngài là người cha thiêng liêng của chúng ta”

la-croix.com, Loup Besmond de Senneville Đặc phái viên thường trực của báo La Croix tại Rôma, 2023-01-28

Đức Phanxicô xem việc cải cách Giáo triều của ngài là một tiến trình thiêng liêng. Mỗi thứ bảy hàng tuần, phóng viên thường trực của báo La Croix, Loup Besmond de Senneville đưa quý độc giả vào hậu trường của đất nước Vatican nhỏ nhất thế giới này.

Thố lộ đến vào cuối cuộc phỏng vấn với một nguồn tin của Vatican. Của những người tiếp khách trong phòng khách nhỏ của một bộ hoặc trong các nhà hàng hay quán cà phê ở khu phố Borgo – vì ở Vatican, người ta không bao giờ tiếp khách trong văn phòng của mình. Sau khi thảo luận về các vấn đề đến cùng, cuộc trò chuyện ngày hôm đó trong bầu khí hơi là lạ đang trùm lên Giáo triều Rôma, đặc biệt với việc xuất bản một số sách chỉ trích Đức Phanxicô.

Người đối thoại với chúng tôi bắt đầu: “Bạn biết đó, giáo hoàng từa tựa như người cha thiêng liêng của chúng ta. Trong những năm đầu tiên, ngài cho chúng ta thấy thế nào là tội. Bây giờ ngài cho chúng ta biết con đường nào chúng ta nên đi. Thật ra, ở Vatican ai cũng nhớ bài phát biểu của ngài về ‘15 căn bệnh’ của Giáo triều trong lần chúc Giáng sinh đầu tiên triều giáo hoàng của ngài, bài phát biểu này đã tác động sâu đậm đến tâm trí mọi người. Trong những tuần sau đó, và theo lời khuyên của hồng y Jean-Louis Tauran, hồng y đã qua đời năm 2018, Đức Phanxicô bắt đầu chuyến viếng thăm các thánh bộ, đến gặp từng thành viên làm việc trong chính quyền trung ương của ngài.

Qua năm tháng, về mặt hình thức, phần nào ngài bớt chỉ trích trực diện với các dịch vụ của ngài, nhưng dè chừng vẫn còn.  Được duy trì bởi chính ngài, ngài đã thiết lập và sau đó ngài vun trồng các mạng lưới làm việc song song vững mạnh. Nhưng không vì thế mà ngài ngừng “chỉ ra con đường mà (Giáo triều) phải đi”, lặp lại lời của nguồn Vatican nói với chúng ta trong ngày. Các định hướng được thể hiện nơi Đức Phanxicô với hy vọng, việc cải cách Giáo triều sẽ không chỉ thông qua việc tái tổ chức các cơ cấu mà còn thông qua việc theo đuổi một mục tiêu thiêng liêng: phục vụ Tin Mừng.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: “Tôi cảm thấy như vậy”, phương pháp đưa ra quyết định của Đức Phanxicô

Bốn lần các thiên thần đã giúp Đức Bênêđictô XVI

Bốn lần các thiên thần đã giúp Đức Bênêđictô XVI

aleteia.org, Fernando Cárdenas Lee, 2023-01-14

Đức Bênêđictô XVI đã có ít nhất bốn kinh nghiệm với thiên thần bản mệnh và chính ngài đã nói đến.

Linh mục Fernando Cardenas, chuyên về các thiên thần, đã nói về chuyện này trong một video của cha.

Lần đầu tiên khi Đức Bênêđictô bị bệnh bạch hầu lúc còn nhỏ. Mọi người nói ngài sẽ không qua khỏi, nhưng cuối cùng ngài bình phục và nghĩ nghĩ mình được lành là nhờ thiên thần hộ mệnh cứu.

Lần thứ hai là khi ngài rơi xuống bể nước gần nhà và thoát được, ngài cũng nghĩ là nhờ thiên thần hộ mệnh cứu.

Sau đó, vào cuối Thế chiến thứ hai, Hitler buộc tất cả thanh niên Đức phải vào Đoàn thanh niên Hitler, và thanh niên trẻ Joseph bị gởi đến một đơn vị phòng không. Nhưng ngay khi có thể, ngài bỏ trốn. Ngài bị nhiễm trùng máu và lúc đó tình cờ ngài gặp một số binh lính. Tình huống lúc đó rất nghiêm trọng vì đào ngũ là phản bội tổ quốc. Nhưng vì sức khỏe yếu, họ để ngài đi và ngài có thể về nhà. Trong hồi ký, ngài viết dường như có một thiên thần đã bảo vệ ngài.

Năm 2009, khi đã là giáo hoàng, ngài đi nghỉ ở Castel Gandolfo với ý định sẽ viết tác phẩm Giêsu Nadarét. Đến nơi, ngài bị té và  phải bó bột. Ngài nói, thiên thần của ngài đã để cho ngài bị té để ngài có thì giờ nghỉ ngơi.

Đức Bênêđictô XVI đã dạy gì về các thiên thần

Nhà báo Vittorio Messori đã phỏng vấn hồng y Ratzinger khi ngài còn là bộ trưởng bộ Giáo lý Đức tin và hỏi ngài về thế giới vô hình.

Ngài trả lời bằng phép loại suy: khi chúng ta nhìn vào mắt một người, chúng ta có thể thoáng thấy điều gì đó đang diễn ra bên trong, chẳng hạn người đó buồn hay vui. Chúng ta không nhìn thấy nỗi buồn, nhưng khi nhìn vào mắt một người, bạn có thể thoáng thấy điều gì đó vô hình.

Nhà báo Messori hỏi ngài có thấy thiên thần hộ mệnh không, ngài trả lời không và nói mối quan hệ này phát triển như thế nào tùy vào tính chất của mỗi người và dù sao con người không chỉ giao tiếp với thiên thần mà còn giao tiếp với Chúa.

Về các thiên thần, Đức Bênêđictô XVI giảng trong lễ kính các tổng lãnh thiên thần (29 – 9 – 2007) mà chúng ta biết theo Kinh Thánh và theo Truyền thống, họ là những tạo vật (không phải là thần) nhưng bản chất của họ là ở trước sự hiện diện của Chúa và về cơ bản là hướng về Chúa. Đó là lý do vì sao hầu hết tên các thiên thần đều kết thúc bằng từ gốc “el”, có nghĩa là Chúa.

Có một khía cạnh quan trọng khác của các thiên thần: họ là sứ giả của Chúa. Đức Bênêđíctô XVI nói, các thiên thần có thể ở gần chúng ta chính vì sự gần gũi của các ngài với Thiên Chúa. Họ đến để khơi dậy trong chúng ta những gì chúng ta đã quên hoặc những gì tiềm ẩn trong chúng ta: tài năng, đức tính, các ơn, phẩm chất tốt đẹp, giá trị …

Các thiên thần đến lay chuyển chúng ta, để khơi dậy những gì Chúa đã ban cho chúng ta và giúp chúng ta gặp gỡ chính mình.

Đức Bênêđíctô XVI nói với các bạn trẻ, hãy cảm nhận sự hiện diện của các thiên thần và để các thiên thần hướng dẫn mình. Ngài khuyến khích các cặp vợ chồng nên thường xuyên xin thiên thần giúp đỡ để có thể thường xuyên làm chứng cho một tình yêu đích thực.

Chúng ta hãy cùng với các thiên thần đi vào hiệp thông với Chúa.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Những bức thư từ Kiev: thư thứ 33 của linh mục Đa Minh Jaroslav Krawiec từ trung tâm cuộc chiến Ukraine

Những bức thư từ Kiev: thư thứ 33 của linh mục Đa Minh Jaroslav Krawiec từ trung tâm cuộc chiến Ukraine

Hồng y Konrad Krajewski mừng Lễ Giáng sinh ở Fastiv, tại Nhà Thánh Martinô cùng với các anh em trong dòng, các thiện nguyện viên và người tị nạn | © Jaroslaw Kraviec

cath.ch, Bernard Hallet, 2023-01-25

Linh mục Jaroslav Krawiec là tu sĩ dòng Đa Minh, gốc Ba Lan, cha xuất thân từ tu viện Mẹ Thiên Chúa ở trung tâm thủ đô Kiev. Kể từ ngày 26 tháng 1 năm 2022, linh mục thường xuyên gởi “ghi chú từ Ukraine” cho ban biên tập trang Công giáo Thụy Sĩ.

Xe tăng ở trọng tâm của mọi chú ý. Ngày 21 tháng 1, Ukraine lên án “sự thiếu quyết đoán” của phương Tây trong việc cung cấp xe tăng hạng nặng, một số đồng minh châu Âu đã trực tiếp chỉ trích Đức khi nước này từ chối cung cấp xe tăng Leopard cho Kyiv khi người Nga đang tấn công.

Linh mục Jaroslav Krawiec là tu sĩ dòng Đa Minh

Anh chị em thân mến,

Tôi chờ khi cha Misha và các tình nguyện viên của Nhà Thánh Martinô Porres từ Fastiv trở về an toàn để gởi thư này cho anh chị em. Họ đi ngày hôm qua để đem cứu trợ nhân đạo tới Kherson. Thật không may, tôi không thể liên lạc với họ, vì vậy tôi chỉ nhận được thông tin cập nhật qua điện thoại.

Những ngày này Kherson rất nguy hiểm vì thành phố và khu vực xung quanh bị bắn phá mỗi ngày. Theo cha Maksym của giáo xứ Kherson, hôm qua (20-1) là một trong những ngày nặng nhất trong năm. Bên cạnh nhiều cuộc tấn công từ bên kia sông Dnipro, nơi đóng quân của quân đội Nga, người dân có thể nghe thấy tiếng súng trên đường phố. Không có gì ngạc nhiên khi gần đây đã có nhiều người dân địa phương rời khỏi Kherson. Cha Misha nói: “Buổi sáng, chúng tôi đi phát cơm ở xóm gần sông. Trong khu vực mười lăm căn hộ của tòa nhà, chỉ còn lại ba gia đình.”

Ai cũng tự hỏi liệu có đáng mạo hiểm sức khỏe và sinh mạng để đến những nơi này hay không. Vì dù sao cứu trợ nhân đạo cũng có thể cách này cách khác đem đến tận nơi cho họ. Với sự giúp đỡ tận tình của các tình nguyện viên địa phương, hàng cứu trợ có thể đến với người đang cần. Sẽ đơn giản hơn, rẻ hơn và dĩ nhiên là an toàn hơn.

Tuy nhiên, ai đã từng tiếp xúc với người sống gần chiến tuyến – những người mà pháo kích, thiếu điện, lạnh giá, ngày mai không chắc mình còn sống – đều vui mừng khi họ được đến thăm, đều hiểu chúng tôi phải đến đó và chúng tôi phải đến với họ. Đó là mệnh lệnh từ trái tim và tình yêu. Thực phẩm, thuốc men và quần áo ấm có thể được người khác mang đến, nhưng niềm hy vọng trong lúc khó khăn chỉ có thể mang đến qua sự hiện diện cá nhân.

Phân phối thực phẩm ở Kherson | © Linh mục Misha Dòng Đa Minh

Một chai sâm banh

Cha Misha kể cho tôi nghe cuộc gặp với người dân Chornobaivka, nơi cách đây vài tháng đã diễn ra trận chiến khốc liệt giữa quân đội Nga và Ukraine. Ngôi làng này được xem là cửa ngõ phía bắc của Kherson và sân bay của làng đã  thành biểu tượng cho sự kháng cự kiên cường của Ukraine. Một trong những phụ nữ tổ chức sinh nhật của cô. Rõ ràng, cô đợi khách từ sáng: với chai sâm banh!

Chiến tranh đã tạo quy định trang phục riêng trong lúc khó khăn này. Ví dụ, chiếc áo phông tổng thống Zelensky mặc đã thành huyền thoại. Và chúng tôi có áo phông lạnh cho các tình nguyện viên của Hiệp hội và Nhà Thánh Martinô Porres. Tôi xin cha Misha: “Cho tôi một chiếc áo!” Tôi thấy chiếc áo đen mới của cha có dòng chữ “Gc: 4:17” trên đó. Tôi xin chiếc áo XL! Tôi nói: “Đây là câu trích của thư Thánh Giacôbê Tông đồ?” Cha Misha trả lời: “Đúng, ai biết làm điều tốt mà không làm thì mắc tội”. Những lời mạnh mẽ này, tôi sẽ nhớ trong một thời gian dài.

Sứ thần Tòa Thánh tại Ukraine, cùng với cha Misha đã làm phép cho ngôi nhà mới của dòng Đa Minh ở Fastiv | © Jaroslaw Kraviec

Tôi nhận thấy mọi người thường ôm nhau khi họ gặp nhau. Trong thời chiến, hình thức chào này đã trở nên rất phổ biến. Trước chiến tranh, chỉ những người rất thân mới dám ôm nhau như vậy nơi công cộng ở Ukraine. Với tôi, dường như chúng tôi chỉ đơn giản nhận ra tầm quan trọng của mối quan hệ và chúng tôi cần nhau như thế nào. Chúng tôi cũng đã nhận ra cuộc sống của chúng tôi mong manh và không chắc như thế nào. Cách đây một thời gian, trong buổi chia tay với một cặp vợ chồng từng là hướng dẫn viên cho chúng tôi, ở đâu đó xung quanh Izium, trên con đường tối tăm và đầy sương mù đến Kharkiv, chúng tôi đã ôm nhau. Tôi chỉ biết họ trong vài giờ, nhưng kinh nghiệm qua con đường chúng tôi đã đi và tấm bánh chúng tôi đã chia sẻ với những người thiếu thốn đã đưa chúng tôi đến gần nhau hơn.

Giáng sinh với hồng y Krajewski

Tôi đã viết lá thư cuối cùng của tôi trước Giáng sinh. Rất nhiều điều đã xảy ra kể từ đó. Chẳng hạn chúng tôi được hồng y Konrad Krajewski đến thăm, ngài mang đồ cứu trợ từ Vatican đến Ukraine. Lần này là máy phát điện và áo lót giữ nhiệt rất cần thiết cho mùa đông. Chúng tôi không định gặp nhau, nhưng khi nghe ngài sẽ đi Kyiv, tôi điện thoại cho ngài và mời ngài đến Fastiv. Trong một chuyến viếng thăm trước đó, hồng y đã gặp cộng đoàn Đa Minh ở Kyiv.

Ngài đã dành đêm Giáng sinh với anh chị em, tình nguyện viên và người tị nạn đang ở Nhà Thánh Martinô. Trong thánh lễ nửa đêm, ngài có bài giảng rất cảm động. Khi nói về lời mời gọi của Chúa Giêsu “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28), ngài nhấn mạnh đến từ “tất cả những ai”. Đúng là chiến tranh đã mở lòng để chúng ta đến với nhau và cùng nhau phục vụ những người gặp khó khăn. Tôi nghĩ đây là điều mà hồng y trải nghiệm khi nói chuyện với người tị nạn và tình nguyện viên.

Một ngôi nhà mới

Vào ngày lễ Hiển Linh trọng thể, chúng tôi đã mở một ngôi nhà khác, lần này dành cho những người đã không còn nhà trong chiến tranh. Đó là lý do để chúng tôi có niềm vui lớn lao trong những lúc khó khăn này, và để nói lên lòng biết ơn sâu sắc với tất cả những ai đã đóng góp vào việc xây dựng. Hơn mười người đã sống ở đó, trong đó có các bà mẹ có con nhỏ.

Ngôi nhà thứ ba do các tu sĩ Đa Minh khai trương tại Fastiv cho phụ nữ và trẻ em | © Jaroslaw Kraviec

Đây đã là ngôi nhà thứ ba chúng tôi điều hành ở Fastiv để giúp những người đang gặp khó khăn. Tổng giám mục Visvaldas, sứ thần Tòa thánh tại Ukraine đã đến làm phép ngôi nhà, và tôi có nói chuyện với bà Oksana và con trai Zhena 9 tuổi của bà. Họ từ Bakhmut đến với chúng tôi khi bắt đầu chiến tranh để trốn các cuộc oanh tạc. Người cha cũng có tên là Zhena đã hy sinh trong cuộc chiến để Ukraine được tự do.

Công việc của lòng thương xót

Ông Bartosz Cichocki, đại sứ Ba Lan tại Kyiv cũng dự lễ khánh thành ngôi nhà dành cho người tị nạn. Ông đi cùng vợ là bà Monika. Cá nhân họ đã tham gia vào công việc của chúng tôi trong một thời gian dài. Vui mừng khi thấy một sáng kiến thành công, chúng tôi hiểu, “kinh nghiệm Fastiv” này đã thay đổi chúng tôi. Đây là cách lòng thương xót hoạt động.

Tôi rất ấn tượng với buổi hòa nhạc từ thiện do Dàn hợp xướng Thiếu niên Học viện Âm nhạc Quốc gia Kyiv tổ chức tại đại sảnh của Học viện Thánh Tôma Aquinô Đa Minh tối hôm qua. Một nhóm nghệ sĩ trẻ đã biểu diễn mười tác phẩm của các nhà soạn nhạc Ukraine. Một trong số đó là bài hát truyền thống: “Tôi đi bên núi và bên thung lũng”, được ca sĩ Oleksandra Stetsiuk hát rất hay, kể câu chuyện của một cô gái trẻ khóc khi mất người yêu: “Tôi đi bên núi và bên thung lũng. Tôi không thấy ai cả. Trái tim tôi khóc. Trái tim tôi khóc. Với nỗi buồn vô hạn.”

 

Dàn hợp xướng Thanh niên Học viện Âm nhạc Quốc gia Kyiv biểu diễn các tác phẩm của các nhà soạn nhạc Ukraine | © Jaroslaw Kraviec

Chiến tranh cướp đi mạng sống của những nhân vật lớn và làm tan nát trái tim người thân yêu của họ. Khi xem tin tức bạn bè chia sẻ với nhau, tôi thấy cáo phó của ông Victor Onysko, nhà biên tập phim đã đi lính vài tháng trước đó. Anh hy sinh trong trận chiến ngày 30 tháng 12 khi mới 40 tuổi. Tôi chưa bao giờ gặp Victor, dù tôi biết anh theo một cách nào đó qua nhiều bộ phim hay của Ukraine mà anh đồng đạo diễn. Vợ anh là Olga chia sẻ kỷ niệm về anh trên Facebook. Cô chia sẻ nỗi đau của mình, bây giờ là nỗi đau chung của người dân  Ukraine. Tôi thú nhận tôi không thể không khóc khi đọc những lời của Olga.

 “Người hùng của em. Anh yêu. Mọi thứ của em.”

“Trái tim em sẽ dừng lại ở ngày này trong năm 2022 khủng khiếp này. Vì anh còn ở trong năm này. Anh hùng của em. Anh yêu. Mọi thứ của em. Em không biết làm sao để có thể tiếp tục sống, để tiếp tục thở mà không có anh. Em không biết liệu em có mơ lại được không. Điều duy nhất em muốn bây giờ là chủ nghĩa Nga xấu xa này bị trừng phạt càng sớm càng tốt và sẽ càng ít người cảm nhận nỗi đau mất mát khôn nguôi, nỗi mất mát cháy bỏng này.”

Em chưa viết nhiều về anh ở đây; em sợ, em xấu hổ khi thú nhận điều này, em sợ làm không đúng. Facebook không phải là nơi tốt cho sự chân thành. Và anh luôn nói các bài tường thuật thực địa của anh ở mặt trận Ukraine chỉ dành cho anh. Đáng lẽ anh phải biên tập phim, nhưng anh lại “biên tập” một thực tế quân sự với tư cách là đại đội trưởng. Không có một khả năng nào mình có thể thấy lại nhau. Các anh đã rất mệt mỏi, nhưng các anh săn sóc nhau. Các anh đã vượt lên trong từng mất mát. Các anh đã nói không có tra tấn nào trong chiến tranh lớn hơn là thông báo cái chết của đồng đội cho gia đình biết. Bây giờ em cảm thấy cảm giác này trên chính con người của em. Trái tim em tan nát khi người lính của anh khóc nức nở trên điện thoại và thề với em, anh ấy không biết có người nào, có người chỉ huy nào tốt hơn anh.

Những vết thương không thể chữa lành trong tâm hồn

Người ta nói anh hùng không bao giờ chết. Nhưng không may, họ chết. Giờ đây hàng ngàn người đang chết, để lại người thân những vết thương không thể chữa lành. Em sẽ biết ơn nếu anh bị thương, tàn tật, bị cụt tay cụt chân, bị chấn thương… hoặc bất cứ chuyện gì miễn anh còn sống. Nhưng không may, em đã không có may mắn này. Em sẽ không bao giờ có thể núp trong vòng tay anh, nghe giọng nói của anh, cười với những câu chuyện cười của anh và thảo luận hàng giờ với các phim của anh.

Điều duy nhất còn lại của anh là con gái chín tuổi với đôi mắt xám của anh. Nhờ anh, con đã có một tuổi thơ tuyệt vời với xe máy, xe đạp, với lều, với trượt tuyết, âm nhạc, vùng núi Balkan, với các buổi hòa nhạc ở Berlin. Và khi em không thể thở được trong nước mắt suốt ngày trên tàu, con đã xoa đầu em và nói bố đã chiến đấu vì tự do của chúng ta và bố sẽ luôn ở trong tâm trí chúng ta.

Quá đau lòng. Đau không nói nên lời…”

Tôi xin chào và xin cầu cầu nguyện cho những người  thân đã qua đời vì chiến tranh.

Jarosław Krawiec OP,

Kiev, ngày 21 tháng 1 năm 2023,

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Những bức thư từ Kiev: thư thứ 31 của linh mục Đa Minh Jaroslav Krawiec từ trung tâm cuộc chiến

Bài mới nhất