Home Blog Page 355

“Suýt nữa tôi phải sống ngoài đường”: các linh mục gặp khó khăn khi rời Giáo hội vì tình yêu

“Suýt nữa tôi phải sống ngoài đường”: các linh mục gặp khó khăn khi rời Giáo hội vì tình yêu

Hình minh họa

Gần đây linh mục Christophe Chatillon, quản nhiệm nhà thờ chính tòa Orleans rời nhà dòng vì tình yêu. Các linh mục khác đã vi phạm luật sống độc thân kể lại những khó khăn của họ khi họ từ bỏ Giáo hội.

bfmtv.com, Sophie Cazaux, 2023-02-13

Năm 2017, linh mục David Gréa đã gặp Đức Phanxicô. Không phải tất cả các linh mục đều có thể nói như vậy, nhưng cuộc gặp này không nhằm mục đích để vinh danh linh mục. David Gréa đã bị giám mục của cha cho về vì cha có mối quan hệ yêu đương.

Năm 2016, linh mục gặp người vợ Magalie, “một người theo đạo tin lành đi nhà thờ”, linh mục giải thích với hãng tin BFMTV.com. Năm 2000, thụ phong linh mục khi 31 tuổi, linh mục luôn thắc mắc về luật độc thân do của Giáo hội công giáo la mã áp đặt trên các linh mục. Linh mục David Grea cho biết: “Tôi gặp vấn đề với đời sống độc thân, nhưng tôi được bảo: ‘Không thành vấn đề, khi Chúa gọi ai, Ngài ban cho người ấy phương tiện để sống sứ vụ của mình’. Chúng tôi được cho biết vấn đề này sẽ được giải quyết nếu chúng tôi có ơn gọi chân thành.”

Cựu linh mục David Gréa giải thích hôn nhân của mình

Vấn đề này linh mục David chôn vùi trong nhiều năm vì công việc mục vụ của cha phát triển tốt, nhưng ba năm trước khi gặp Magalie, cha nhận ra cha “hạnh phúc với tư cách là linh mục, nhưng không với tư cách như một người đàn ông”.

Cựu linh mục David Gréa gặp Đức Phanxicô tại Nhà trọ Thánh Marta tháng 4 năm 2018

Đây cũng là điều đã thúc đẩy linh mục Christophe Chatillon, quản nhiệm nhà thờ chính tòa Orleans rời dòng vào cuối tháng 1 vừa qua, cha không còn khả năng chống đỡ “những thất vọng trong thừa tác vụ linh mục, và đặc biệt là tình trạng độc thân”. Trong một thư gởi cho giáo dân, cha giải thích: ““Ngay giữa những khó khăn mà tôi đã trải qua trong những năm gần đây, tình cờ của cuộc đời muốn tôi tìm sự an ủi mà tôi cần với người bạn lắng nghe và nâng đỡ tôi. Hôm nay, tôi không thể hình dung trong tương lai tôi sống không có cô ấy.”

Các quan hệ che giấu

Linh mục Marc Frassier cũng có cảm giác “thiếu một cái gì đó”. Chịu chức năm 27 tuổi, 15 năm cống hiến đời mình cho Giáo hội. Linh mục Fassier giải thích với hãng tin BFMTV.com: “Điều thu hút tôi, đó là khía cạnh quan hệ, sự kết hợp giữa mối quan hệ với Chúa và mối quan hệ với người khác, với việc đi tìm điều tuyệt đối.”

Linh mục Fassier là linh mục ở giáo xứ Les Lilas, Seine-Saint-Denis khi linh mục gặp cô Ingrid năm 2017. Lúc đó cô chuẩn bị rửa tội cho đứa con cuối của cô và dần dần họ có mối quan hệ bạn bè. Linh mục Fassier kể: “Chúng tôi trao đổi rất nhiều.”

Cuối năm 2018, mối quan hệ này đi đến mốc quan trọng. Linh mục nhớ lại: “Một ngày nọ, tôi mời cô đến nhà uống trà và khi kết thúc cuộc gặp, (…) cô hôn tôi. Đó là một ngạc nhiên và cũng là một khám phá. Tôi nghĩ ngoài tình bạn, còn có tình yêu. Cô sợ phá vỡ tình bạn của chúng tôi. Tôi nói, ‘chúng ta hãy đón nhận điều này, đây là điều chúng ta phải sống và phải đi tới.’”

Cựu linh mục nói thêm: “Tôi nhận ra những gì đang xảy ra với tôi chính là điều tôi đã tìm từ lâu, hình thức của sự tuyệt đối mà tôi đang theo đuổi: yêu và được yêu, một cách hiện thân.”

Sau nhiều tháng sống bí mật, vì sợ bị phát hiện, càng ngày họ càng sống xa giáo xứ. Tháng 1 năm 2020, linh mục cho rằng tình hình này không còn có thể giải quyết được nữa, nhưng quyết định của linh mục được đẩy nhanh vì có bức thư ẩn danh gởi đến cho giám mục nói về quan hệ này. Ngài quyết định loại linh mục ra khỏi giáo xứ, nhưng hơn một năm sau, khi Ingrid và Marc tham gia vào một podcast, giám mục mới đình chỉ công việc của linh mục.

Độc thân, “một ơn cho người khác và cho Thiên Chúa”

Theo nhà xã hội học Josselin Tricou (tác giả quyển sách Những chiếc áo chùng và những con người, Des soutanes et des hommes), tình huống này không quá hiếm. Khi nghiên cứu về giới tính và tình dục trong hàng giáo sĩ công giáo, ông nhận thấy “thông thường, nguyên nhân làm cho linh mục rời sứ vụ không phải là đời sống lứa đôi, nhưng là họ biết chính họ”. Ông giải thích: “Ngay cả khi rất phức tạp để biết có bao nhiêu linh mục có đời sống tình dục tích cực, nhưng có thể nói đây là trường hợp của 50% trong số họ.”

Linh mục Olivier de Cagny, giám đốc chủng viện Paris, người đào tạo các linh mục tương lai giải thích cho hãng tin BFMTV. com: “Phải phân biệt linh mục phạm tội, họ xin tha thứ, họ đứng dậy và tiếp tục sứ vụ. Nhưng cuộc sống hai mặt bị che giấu, tôi không nghĩ nó tồn tại nhiều như vậy. Tôi tin có nhiều linh mục chưa bao giờ có quan hệ tình dục, tôi chắc rằng nhiều người cũng bị cám dỗ. Bậc sống độc thân có từ lâu, từ thời Chúa Giêsu và Tin Mừng, có những người hoàn toàn tận hiến cho Giáo hội. Đó là dấu hiệu của sự sẵn sàng hoàn toàn, một ơn cho người khác và cho Chúa.”

Và cũng có một chiều kích thiêng liêng. Linh mục nói tiếp: “Qua việc dâng lễ, chúng tôi cử hành ơn Chúa Giêsu, Đấng cũng đã hiến thân. Là linh mục chúng tôi cử hành thánh lễ, chúng tôi muốn sống cách cụ thể những gì được cử hành trong phụng vụ.”

Một sự ra đi thường là bị bắt buộc

Rời khỏi sứ vụ không giống như từ chức ở một công ty truyền thống. Khi sự ra đi tiếp theo sau một quan hệ yêu đương, thường thì khá gượng ép: năm 2005, khi giám mục của linh mục Bernard Chalmel biết tin thì linh mục đã có hai con, ngài cho ông một tháng để rời giáo phận.

Khi đó ông 57 tuổi, ông vào chủng viện năm 18 tuổi. Ông cho biết: “Khi bạn là linh mục, bạn không được bao quanh đủ. Thường thì chúng tôi được mời đến dự lễ rửa tội, đám cưới. Sau đó, chúng tôi về nhà và cảm thấy mình rất cô đơn. Chúng tôi không có ai để chia sẻ. Chúng tôi chỉ nói về chuyện nhà thờ với người khác, như thể chúng tôi không có nhân tính, giáo dân tách chúng tôi ra.”

Linh mục De Cagny thừa nhận các linh mục “qua những cơn những khủng hoảng và thử thách và ngày nay Giáo hội rất quan tâm đến sự cô đơn của họ”.

Khi cho nghỉ, linh mục Bernard Chalmel được lãnh một năm “lương”. Cuối năm đó ông đi xin việc. Ông nhớ lại: “Văn phòng tìm việc cười tôi. Không có bao nhiêu linh mục đi xin việc, họ không biết xếp tôi vào ô nào.”

“Hôm trước hôm sau, chúng tôi là con số không”

Cựu linh mục David Gréa nói “sau khi rời Giáo hội, tôi gần như thấy mình kết thúc cuộc đời ngoài đường phố”. Nhưng nhờ giáo phận chi trả nhờ đánh giá kỹ năng của cha nên cha đã được đào tạo lại để thành huấn luyện viên quản lý và hiện cùng với cựu linh mục Marc Fassier điều hành một công ty trong lãnh vực này.  Linh mục Fassier cũng gặp khó khăn khi rời sứ vụ mà ông vô cùng yêu thích: “Cuộc sống của chúng tôi là linh mục… Địa vị xã hội của chúng tôi là linh mục… Đột nhiên, chúng tôi quay trở lại số không.”

Nhà xã hội học Josselin Tricou nhận xét: “Có một huyền thoại công giáo cho rằng làm linh mục là một sự hy sinh to lớn. Nhưng cái giá phải trả thực sự là việc ra đi, nó kéo theo việc mất hào quang linh mục, mất một nghề suốt đời, mất an toàn kinh tế… Họ chỉ ra đi khi buộc phải ra đi.”

Cựu linh mục David Gréa nói: “Tôi nhớ đi giảng, đó là điều tôi luôn có trong mình. Tôi tiếp tục đi nhà thờ, đôi khi tôi nghĩ tôi có một điều gì đó muốn nói.”

Cựu linh mục Bernard Chalmel cũng nói: “Tôi rất nhớ cuộc đời linh mục, tôi vẫn có ác mộng về nó. Điều hối tiếc của tôi là tất cả các mối quan hệ con người tôi đã có thể dệt nên, nhưng so với thể chế mà theo tôi nó phát triển quá tệ, thì tôi không hối tiếc.”

Cảm giác bị bỏ rơi

Những khó khăn về vật chất và tâm lý này kết hợp với cảm giác bị bỏ rơi và bất công. Cựu linh mục Marc Fassier nói cha có cảm giác mình bị “dứt phép thông công”, cha tố cáo: “Việc loại bỏ các linh mục sống tình yêu của họ một cách lành mạnh là thiếu nhất quán mà tôi không thể chịu đựng được, so với những tiết lộ trong những năm gần đây về các vụ tấn công và hãm hiếp tình dục do các giáo sĩ làm và đôi khi được Giáo hội công giáo che đậy.”

Cựu linh mục Bernard Chalmel nói: “Tôi cảm thấy mình bị phản bội. Tôi biết làm linh mục là cam kết sống độc thân, nhưng thực tế cảm nhận được tình yêu con người không ngăn cản họ không làm việc tốt cho mọi người.”

Bây giờ linh mục Chalmel là tài xế xe buýt, cha nói tiếp: “Tôi xem đây là như một sự bỏ rơi. Không ai hỏi tôi sống như thế nào, làm lại cuộc đời như thế nào, chúng tôi bị thả ra ngoài. Rồi mang cảm giác bị từ chối, rồi tức giận, tôi hiểu sẽ chẳng bao giờ có thay đổi.”

Linh mục Olivier de Cagny thừa nhận, “có một vấn đề kinh tế và có vấn đề từ quan điểm nhân loại, quan điểm tình huynh đệ” trong sự đồng hành với các linh mục này: “Lẽ ra chúng tôi có thể giữ mối quan hệ anh em và điều đó thật khó khăn, vì cả hai bên đều thấy mình bị phản bội. Quyết định làm linh mục là quyết định chọn bậc sống độc thân, một quyết định được làm trong tự do, đảm nhận quyết định của mình, điều này không có gì ngạc nhiên khi bị loại khỏi bậc giáo sĩ. Về phía chúng tôi, chúng tôi cũng phải cẩn thận để không bị khinh thường.”

Hướng tới sự nới lỏng quy định?

Việc đặt lại vấn đề bắt buộc các linh mục phải sống độc thân có quá xa vời? Nhà xã hội học Josselin Tricou nhận xét, “câu hỏi không hoàn toàn khép lại” dù “thời của Giáo hội không nhất thiết là thời của thời sự”. Năm 2019, trong thượng hội đồng Amazon, ý tưởng mở chức tư tế cho các ông đã lập gia đình được đề xuất, để bù cho việc thiếu linh mục trong vùng. Một đề xuất mà cuối cùng đã không được Vatican chấp nhận.

Đức Phanxicô khai mạc Thượng hội đồng về Amazon tại Vatican, ngày 7 tháng 10 năm 2019. © Andreas SOLARO / AFP

Theo linh mục Olivier de Cagny, “cuộc tranh luận vẫn còn mở, nhưng chúng ta cũng sẽ không đạt được điều đó một cách nhanh chóng”. Cha quản nhiệm nhấn mạnh “giáo huấn của công đồng Vatican II, từ 1962 đến 1965, và các giáo hoàng cuối cùng đã nhắc lại sự gắn bó của họ với nghĩa vụ này ở phương Tây”.

Sau khi linh mục David Gréa và vợ là bà Magalie gặp giáo hoàng năm 2017, ông cho biết: “Mọi việc diễn ra rất tốt đẹp, ngài là người rất giản dị, niềm nở và tôn trọng. Ngài nói ngài nhận ra sự chân thành trong tiến trình của chúng tôi. Ngài có xác tín trung thành với phúc âm, cuộc sống độc thân đó là một lời kêu gọi chứ không phải là một cái gì tự động.”

David Gréa rời sứ vụ

Cựu linh mục David Gréa rõ ràng đã không nhận được lời kêu gọi này và bị xuống thành hàng giáo dân trong một tiến trình giáo luật sau 17 năm làm linh mục.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Khi linh mục rời chức thánh, giáo dân đau buồn

Trong thảm kịch, có hy vọng

Trong thảm kịch, có hy vọng

osservatoreromano.va, 2023-02-18

Trận động đất ở khu vực biên giới giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Syria là một trong những trận động đất tàn khốc nhất trong lịch sử. Một thảm kịch to lớn, Đức Phanxicô đã lên tiếng khi nghe tin. Trận động đất trong đêm 5 rạng sáng ngày 6 tháng 2 đã cướp đi sinh mạng của hơn 46.000 người.

Trận động đất khủng khiếp này đã giáng thêm một đòn nặng nề vào một khu vực vốn đã mong manh, gây ra “tình trạng khẩn cấp trong tình trạng khẩn cấp”. Đó là thảm kịch của những người phải di dời cần được hỗ trợ nhân đạo: hàng trăm ngàn người sống sót mất nhà cửa sau trận động đất, những người này cộng thêm những người tị nạn do 12 năm xung đột ở Syria tạo ra.

Thổ Nhĩ Kỳ, quốc gia đã tiếp nhận hơn 5 triệu người tị nạn Syria, hiện đang hỗ trợ những người di cư khác, như em bé trong ảnh hiện đang sống trong thành phố lều được dựng gần sân vận động Islahiye Atatürk, gần Gaziantep. Một cuộc sống bấp bênh, không thể làm chúng ta dửng dưng trước nhu cầu cấp thiết phải cung cấp viện trợ nhân đạo.

Tuy nhiên giữa sự tàn phá, vẫn tiếp tục có những tia hy vọng được thắp sáng nhờ các cuộc giải cứu gần như phép lạ. Như trường hợp của ba người sống sót, trong đó có một em bé đã chết ngay sau khi được đưa lên xe cứu thưông, sáng nay họ được kéo ra từ đống đổ nát ở tỉnh Hatay của Thổ Nhĩ Kỳ, 296 giờ sau trận động đất. Hoặc của Mustafa Avci, người đàn ông Thổ Nhĩ Kỳ 34 tuổi trong bức hình, được giải cứu sau 261 giờ dưới đống đổ nát của ngôi nhà ở Antioche. Hôm qua, tại một bệnh viện ở Mersin, anh Avci đã có thể gặp vợ là Bilge và con gái mới sinh Almile của họ. Hôm nay em bé được 13 ngày tuổi, em sinh ra vào ngày động đất. Trong thảm kịch còn có hy vọng.

Marta An Nguyễn dịch

Đức Phanxicô gởi 10.000 áo giữ nhiệt cho nạn nhân bị động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ và Syria

Hồng y và con voi

Hồng y và con voi
la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Đặc phái viên thường trực báo La Croix, Rôma, 2023-02-18
Con voi và hồng y trong buổi trình diễn ngày thứ bảy 11 tháng 2-2023 ở rạp xiếc Rony Roller
Cách Rôma không xa, ngày thứ bảy 11 tháng 2, một buổi biểu diễn xiếc độc đáo đã diễn ra. Mỗi thứ bảy hàng tuần, phóng viên thường trực của báo La Croix, Loup Besmond de Senneville đưa quý độc giả vào hậu trường của đất nước Vatican nhỏ nhất thế giới này.
Khung cảnh thật bất ngờ. Diễn ra cách xa Vatican, ở ngoại ô Rôma. Chính xác hơn đó là rạp xiếc, rạp xiếc Rony Roller. Vòi cuốn lên, một con voi xám hùng dũng đi theo lệnh người huấn luyện, bốn người nằm dài trên sân khấu. Cảnh trình diễn lặp đi lặp lại, cứ mỗi lần như vậy cái chân xám xịt nặng trĩu nâng lên, lướt qua thân người nằm vài xăngtimét, rồi dẫm xuống bên kia, chỉ trong một nhịp thở. Tên của màn trình diễn: “Khúc đường chết” (il passaggio della morte).
Ngày hôm đó, một trong những người nằm xuống, người đàn ông với mái tóc hoa râm và mặc áo ấm, theo những gì cho thấy thì người này kiên trì tập thể dục. Và đó là hồng y Konrad Krajewski. Ngày thứ bảy 11 tháng 2, tuyên úy người Ba Lan của giáo hoàng, phụ trách Ủy ban Từ thiện Vatican đã mời 2.000 người vô gia cư, người di cư và người tị nạn, đến một trong những rạp xiếc nổi tiếng nhất ở Rôma để “những người có cuộc sống khó khăn có được vài giờ thanh thản”.
Dĩ nhiên các video và hình ảnh về con voi và vị hồng y đã phát vòng quanh Vatican, tạo phản ứng thích thú liên quan đến vị hồng y vốn nổi tiếng là người đặc biệt. Một “Đức ông” của giáo triều từng làm việc lâu năm với hồng y mỉm cười nói: “Ngài hơi khó kiểm soát, ngài muốn làm gì thì làm, ngài làm theo cái đầu của ngài.” Trong những tháng gần đây, chính hồng y Krajewski đã thân chính lái xe đi Ukraine nhiều lần, đó là những chiếc xe cứu thương của Đức Phanxicô tặng cho các hiệp hội Ukraine, có lần đoàn xe của ngài bị bắn tỉa, ngài buộc phải trú ẩn. Một kiểu phong cách không thể xếp loại được vì Đức Phanxicô đặc biệt thích những phong cách này.
Marta An Nguyễn dịch
Bài đọc thêm: Vatican mời 2.000 người tị nạn, vô gia cư, tù nhân xem xiếc
Người nghèo gọi hồng y là Don Corrado, tiếng Ý là Cha Konrad. Hồng y nói với hãng tin OSV News: “Trong rạp xiếc, họ bắt đầu hét lên: Don Corrado, Don Corrado, để khuyến khích tôi lên sân khấu,” Và ngài lên sân khấu nằm dài cùng với ba diễn viên xiếc để đi qua “Khúc đường chết!”
Ngài nói đùa: Tôi không tình nguyện, tôi không mất trí.”
Hồng y Krajewski trên đường đi Ukraine

Tổng giám mục Pezzi, Matxcova: “Ngày nay chỉ có giáo hoàng Phanxicô là người tin vào hòa bình.”

Tổng giám mục Pezzi, Matxcova: “Ngày nay chỉ có giáo hoàng Phanxicô là người tin vào hòa bình.”

Tổng giám mục Paolo Pezzi, trưởng giáo chủ, người gốc Ý mang quốc tịch Nga, tổng giáo phận Mẹ Thiên Chúa tại Matxcova. Một năm sau cuộc xung đột ở Ukraine, ngài nói: “Ngày nay chỉ có giáo hoàng Phanxicô là người tin vào hòa bình.”

agensir.it, Chiara Biagioni, 2023-02-15

Phỏng vấn tổng giám mục Paolo Pezzi, giáo phận Matxcova, một năm sau chiến dịch quân sự quy mô của Nga ở Ukraine. Ngài nói: “Tôi nghĩ những gì chúng ta cần làm bây giờ là không bao giờ đóng cửa, không bao giờ khép đối thoại. Vì thế từ chối gặp gỡ và đối thoại sẽ là sai lầm. Điều này không có nghĩa nhất thiết phải chấp nhận lập trường của người kia hoặc giữ im lặng. Nhưng theo tôi, từ chối gặp mặt ở bất kỳ cấp độ nào, chỉ làm tăng khoảng cách xa nhau.”

Từ Praha. Một năm sau ‘chiến dịch’ quân sự quy mô của Nga ở Ukraine bắt đầu ngày 24 tháng 2 năm 2022, tổng giám mục Paolo Pezzi, giáo phận Matxcova và là chủ tịch Hội đồng Giám mục công giáo Liên bang Nga lập bảng kết toán và đưa ra một viễn cảnh. Ngài nói: “Giáo hoàng là người duy nhất thực sự mong muốn hòa bình và vì lý do này, ngài không đóng bất kỳ cánh cửa nào. Tôi thực sự nghi có một mong muốn hòa bình thực sự từ phía các tác nhân trực tiếp hoặc những người liên hệ khác. Và theo tôi, đây là trở ngại lớn nhất. Nếu ít nhất chúng ta mong muốn hòa bình thì có lẽ chúng ta đã có thể tiến vài bước tới hòa bình. Tôi không muốn tỏ ra yếm thế, hoài nghi hay quá thiên về phía Giáo hội công giáo, nhưng ngày nay những người thực sự tin vào hòa bình e chỉ có giáo hoàng”.

Cha sống ở Matxcova, xin cha cho biết một năm qua nước Nga đã thay đổi như thế nào?

Tổng giám mục Paolo Pezzi. Càng ngày nước Nga càng thay đổi nhận thức về cuộc xung đột, đi từ ngoài lề sang ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của đất nước. Điều này dẫn đến một sự hoang mang nào đó, người dân tự hỏi liệu nó có thực sự xứng đáng hay không. Mặt khác, dĩ nhiên chúng tôi cũng thấy có những người ngày càng tin tưởng hơn, nhưng tôi muốn nói đến một tâm trạng khó chịu nào đó, đó là tâm trạng tôi thấy nhiều nhất.

Cam kết quân sự này có tác động gì trên mặt kinh tế không?

Chắc chắn nó có tác dụng của nó. Chúng tôi đã thấy chất lượng thực phẩm bị giảm. Nhiều công ty làm việc trong ngành may mặc đã rời Nga và việc nhập khẩu trở nên khó khăn hơn nhiều. Chi phí sinh hoạt đã gia tăng, người dân ít đi ăn ngoài, họ chưa đi nghỉ hè hoặc ngày nghỉ ngắn hơn hoặc theo một hình thức khác. Du lịch ở Nga đã sụp đổ hoàn toàn, mức sụp đổ đến 92-93%. Năm 2022, không đến 8% người nước ngoài đến Nga. Đã có một số người than phiền quỹ hưu trí bị dành cho chi phí quân sự. Họ cũng nói việc kiểm soát thuế đối với các công ty đã tăng lên, để tìm các khoản trợ cấp trang trải cho quốc phòng. Nhưng đây là tin tức lan truyền, tôi không xác nhận được.

Người ta nói về con số 200.000 lính Nga đã chết. Nước Nga nói gì về con số này?

Chuyện này ở đây người ta không nói đến nhiều, không có con số chính thức, hoặc ít nhất là tôi chưa bao giờ đọc được. Vì vậy, chúng ta đi từ con số vài chục ngàn lên đến vài trăm ngàn. Tôi không biết chắc, nhưng một sự thật vẫn còn: vẫn còn nhiều nạn nhân. Họ không nói gì nhiều về chuyện này, ngoại trừ việc đề cao hành động của một số binh lính. Không có nhiều đám tang và thường diễn ra khiêm tốn, cũng không nhấn mạnh, trong khi ở Ukraine, tôi thấy mọi đám tang đều được phổ biến và có đông người đi dự.

Thực tế là Nga bị xem là quốc gia xâm lược và ngày càng bị cô lập trên chính trường quốc tế, tình trạng này được thấy như thế nào ở mức độ xã hội Nga?

Nghịch lý thay, nó lại có hiệu ứng bùng nổ. Và đây là hiệu ứng mong muốn. Nói cách khác, người ta nói phản ứng chống lại Nga là không tương xứng và cuối cùng chính người dân là người thua thiệt, vì thế người dân sẽ trở thành nạn nhân của các âm mưu nước ngoài.

Có phải thượng phụ Kirill cũng tự cô lập mình với quan điểm ủng hộ tổng thống Putin và cuộc chiến không?

Tôi không nghĩ ông bị cô lập. Ít nhất trong chính thống giáo vì ngay từ đầu đã có một số Giáo hội chính thống ủng hộ Giáo hội chính thống Nga. Còn về cuộc xung đột tạo một khoảng cách chung lan rộng là đúng.

Làm thế nào để thoát ra khỏi sự bế tắc về ngoại giao và tôn giáo, làm cho mục tiêu hòa bình ngày càng xa vời?

Tôi nghĩ những gì chúng ta cần làm bây giờ là không bao giờ đóng cửa, không bao giờ khép đối thoại. Vì thế từ chối gặp gỡ và đối thoại sẽ là sai lầm. Điều này không có nghĩa nhất thiết phải chấp nhận lập trường của người kia hoặc giữ im lặng. Nhưng theo tôi, từ chối gặp mặt ở bất kỳ cấp độ nào, chỉ làm tăng khoảng cách.

Nó sẽ kết thúc như thế nào?

Nó sẽ kết thúc tốt đẹp vì tất cả chúng ta đều ở trong tay Chúa và chúng ta không bao giờ được quên điều này. Chúa đã cho phép biết bao biến cố bi thảm xảy ra trong lịch sử. Ngài đã để cho dân được chọn là Israel bị tiêu diệt. Ngài đã để cho các vụ trục xuất xảy ra. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn tiếp tục và tiếp tục làm di chuyển lịch sử. Nhưng Ngài không di chuyển như nghệ sĩ múa rối. Ngài di chuyển vì tình yêu. Chúng ta phải vào trong logic này. Và vì vậy chúng ta có thể nói, đúng, Chúa thực sự cho phép một điều, đó là, chỉ vì một điều tốt đẹp hơn, đúng, đây không phải là nói theo cảm tính, theo khẩu hiệu dễ dãi. Vì lý do này, tôi cũng có thể nói ngày hôm nay, với lòng tin tưởng chân thành và hy vọng, nó sẽ kết thúc tốt đẹp.

Nhưng liệu người công giáo Nga và người công giáo Ukraine, con cái của cùng một Giáo hội, có sẵn sàng bắt tay nhau và xây cây cầu hòa bình nhỏ bé giữa hai quốc gia của họ không?

Tôi nghĩ vậy, bởi vì nó đã và đang xảy ra. Chẳng hạn, chúng tôi đã gặp nhau ở Praha trong giai đoạn lục địa của Thượng hội đồng. Tôi được đánh động vì các quan hệ dễ dàng giữa các giám mục và giáo dân của hai quốc gia. Tất nhiên, điều này không có nghĩa là họ không đấu tranh hay không có những quan điểm và cách tiếp cận khác nhau. Nhưng tôi thực sự được đánh động bởi sự thật, rằng con cùng một Cha không phải chỉ là một câu nói bề ngoài.

Họ có thể đóng góp gì cho công việc khó khăn để xây dựng hòa bình?

Sự tha thứ. Tôi sẽ không bao giờ cảm thấy mệt mỏi khi nói điều này. Đó là khám phá mà chúng tôi đã thực hiện vào ngày 25 tháng 2 năm ngoái và từ ngày đó, tôi đã không ngừng nói lên. Nếu chúng ta không tha thứ, ngay cả trên mặt trận thì chúng ta sẽ mang vết thương này suốt đời. Chỉ có tha thứ mới có thể chữa lành những vết thương sâu nhất.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Bà Stawnychy, giám đốc Caritas Ukraine hy vọng Đức Phanxicô đến thăm Ukraine

 

Vụ hai anh em linh mục Philippe: sức mạnh hấp dẫn của chứng quá tự mê

Vụ hai anh em linh mục Philippe: sức mạnh hấp dẫn của chứng quá tự mê

la-croix.com, Jacques Arènes, 2023-02-16

Nhà phân tâm học Jacques Arènes nghiên cứu trường hợp của hai anh em linh mục Philippe. Ông đưa ra tính chất của “sức hấp dẫn phi thường của một số người có chứng tự mê quá đáng”, làm cho họ có thể lừa gạt và lạm dụng rất nhiều người. Ông cũng đặt vấn đề việc các thể chế như Giáo hội đã trở nên yếu thế khi đối diện với những người này.

Linh mục Marie-Dominique Philippe, người sáng lập cộng đoàn đan tu Thánh Gioan mừng kỷ niệm 70 năm linh mục ngày 30 tháng 06 năm 2006, tại Ars, nước Pháp. Jacques COUSIN/CIRIC

Vụ anh em linh mục là không thể tin được. Chính khía cạnh rối trí này đã mở đầu cho quyển sách gần đây của tác giả Tango Cavalin, kể lại cuộc điều tra ông đã thực hiện theo yêu cầu của linh mục giám tỉnh Dòng Đa Minh. Nhà sử học trích dẫn một trong những nhân vật chính của câu chuyện này là linh mục Antonin Motte, trong những năm 1960, linh mục đã viết cho một trong những anh em dòng của mình: “Điều không thể tin được đôi khi lại là sự thật” (trang 12). Nó chính xác và nói rất nhiều về lệch lạc của các kiểu thần bí-tôn giáo này….”

Sử gia Tangi Cavalin: “Anh em linh mục Philippe biết cách xây dựng lại bản thân dù đã bị lên án”

Vụ việc kỳ lạ và rất “có thật” này chất vấn chúng ta dưới nhiều khía cạnh. Trước hết, nó nhấn mạnh đến sức hấp dẫn phi thường của một số người mắc chứng tự mê, đặc biệt là khi họ thông minh xuất sắc, họ có một sức mạnh phi thường làm cho các mạng hỗ trợ họ hành động ở mọi cấp độ của hệ thống phân cấp, kịch tính hóa suy nghĩ và từ đó đưa họ ra sân khấu, tạo một sức mạnh quyến rũ, một quyền lực lạm dụng theo đủ mọi nghĩa của từ này. Câu chuyện đáng kinh ngạc này kéo dài hàng chục năm, thách thức cả với ký ức lẫn với lãng quên, nhưng cũng là sự phủ nhận của người này người kia, từ đó áp đặt chính nó lên nhiều người nam nữ, với những người này là quyến rũ, với những người kia là sức mạnh của lạm dụng.

Một hình thức loạn luân

Bởi vì những người để mình bị cuốn vào “tin” vào đó. Còn về “nhu cầu” tin, tin bất chấp lý trí, tin vào những điều mặc khải riêng liên quan đến một hình thức loạn luân giữa Chúa Kitô và mẹ của Ngài, tin rằng tất cả những điều này có thể được tái hiện một cách rất cụ thể trong mối quan hệ thiêng liêng thì sao? Nó rất mạnh mẽ, nhu cầu rất đặc biệt này với “niềm tin” thu hút sự nhạy cảm về tình dục, với khả năng tiếp thu tưởng tượng không còn chỗ cho nghi ngờ, mà chỉ tin chắc vào “những cuộc viếng thăm”.

Phân tâm học thường nghi ngờ với sự “tràn ngập” tưởng tượng của một số vụ đi tìm tâm linh hoặc một số nhóm tôn giáo nào đó. Vì thế nhà phân tâm học Pháp Jacques Lacan đưa ra sự “chiến thắng” của tôn giáo (chủ đề của một hội nghị) và không chỉ là “tôn giáo chân chính” (ở đây có lẽ ông muốn nói đến truyền thống công giáo) nhưng còn ở một số tôn giáo sai lầm, nơi lòng mộ đạo lan tỏa và đôi khi tà phái tạo ra cảm giác “nếu bạn muốn, thì đây là nơi của bạn”. Nó ám chỉ đến nhu cầu vô tận của một ý nghĩa do một nền văn hóa tạo ra để đi tìm chính nó, và bởi nhu cầu không kiềm chế về sự trấn an nhạy cảm khi đối diện với cái mà vào thời điểm anh em linh mục Philippe bắt đầu hành động, được gọi là “chủ nghĩa hiện đại”.

Các cơ quan điều chỉnh

Đừng để ý đến các thể chế, các quy tắc, các cơ quan quản lý của họ. Tác giả Cavalin nhấn mạnh: “Như thể để gặp Chúa, phải biến mình thành không thể cai trị được trước những người khác” (trang 278). Nhu cầu tin tưởng này liên quan đến tất cả chúng ta. Nó đòi hỏi phải vượt qua lò nung chế biến tâm hệ và từ đó là lý trí. Nhưng nó diễn ra dễ dàng hơn khi, nghịch lý thay, các thể chế này rất mong manh, là con mồi của các cuộc đấu tranh nội bộ.

Làm thế nào mà những người ít “siêu bản ngã” như anh em linh mục Philippe lại có thể lừa dối những người chung quanh họ lâu dài như vậy? Sự hai mặt của các nhân vật này chắc chắn có tầm quan trọng của nó, nhưng họ cũng tin vào chính những điều họ nói, cũng như nhóm nhỏ đã “huấn luyện” và bao quanh họ. Việc sử dụng các cấp độ diễn từ khác nhau là rất cần thiết. Vì thế chúng ta đã quá đà – theo kiểu trò hề – với hình thức khiêm tốn khi triển khai toàn bộ phạm vi theo thói tự mê.

Thất bại của cơ quan chức năng

Do đó, một vấn đề khác được đặt ra: đó là sự thất bại của các nhà cầm quyền tôn giáo trong vai trò chức năng điều chỉnh và bảo vệ con người. Chúng ta có nên đọc lại những sự kiện này chỉ theo nghĩa của một cơ quan quyền lực lạm dụng và không sai lầm hay không? Có một chuyện không chối cãi được trong một số hội dòng hoặc cộng đoàn, cả trong một số giáo phận và trong chính cơ cấu của Giáo hội, đó là xu hướng tự bảo vệ và tồn tại các nhóm liên đới ủng hộ lập trường của các cá nhân sai lầm. Nhưng phải đặt xu hướng này ở trọng tâm của một màu sắc đương đại, mà Giáo hội không tránh khỏi, của sự say mê những nhân vật quyền lực “có sức thu hút” theo nghĩa của nhà xã hội học Max Weber.

Cuộc điều tra lịch sử làm sáng tỏ chính xác vụ hai anh em linh mục Philippe lạm dụng thiêng liêng

Chúng ta hãy cẩn thận với những tác động quyến rũ của sức thu hút và chú ý đến những dàn xếp của thể chế tạo điều kiện thuận lợi cho chúng. Tại sao chúng ta cần phải tin vào những người này nhiều như thế, những người ngay lập tức – và quá nhanh chóng – tạo được niềm tin, vì họ khơi dậy cảm giác về một năng lực sống, về một tái sinh hay sao?

Quyền lực và thao túng

Do đó, chúng ta phải xác định sự xuất hiện, ở trọng tâm của các tổ chức cổ xưa như Giáo hội, các tình huống quyền lực liên quan đến sự bùng phát không kiểm soát của các đặc sủng cá nhân và từ đó là những ảnh hưởng thao túng. Trong một văn hóa mà chiều hướng tự mê làm mê hoặc, những người thông minh nhất, quyến rũ nhất hoặc hư hỏng nhất đều cảm thấy thoải mái ở đó, họ có thể khoác cho mình bộ mặt hợp pháp dễ dàng, khi đối diện với các người có trách nhiệm thể chế bị chinh phục bởi khả năng thu hút của họ.

Hơn nữa, một quy chiếu ngây thơ về một tầm nhìn “đáng yêu” của đời sống thiêng liêng có thể đưa đến lệch lạc cho những đòi hỏi, đơn sơ đến kinh ngạc, về những mối quan hệ khiêu dâm có thể bị các hình ảnh thiêng liêng hoặc thần thánh khơi dậy, đi theo hướng phổ biến của cảm giác này, của lực hấp dẫn này.

Trường hợp của ông Jean Vanier và anh em linh mục Philippe: gốc rễ của mù quáng

Chúng ta cũng cẩn thận để không phản ứng thái quá, điều này sẽ làm nhân lên các quy tắc và thủ tục, tiến tới một hình thức hợp pháp hóa đời sống thể chế. Hệ thống pháp luật là cần thiết, nhưng nó sẽ không thay thế luật lương tâm đã ghi khắc trong tâm trí mọi người, và sẽ chỉ tạo thành một biện pháp xoa dịu tồi tệ cho các chuẩn mực đã được nội tâm hóa. Sự cân bằng phức tạp giữa khía cạnh tình cảm của đời sống thiêng liêng và một khía cạnh thận trọng khác của tính phản xạ và chủ nghĩa khổ hạnh đạo đức chắc chắn sẽ được (tái) khám phá.

Marta An Nguyễn dịch

Bạo lực tình dục: tác dụng của sự chi phối vẫn còn là điểm mù của Vatican

Jean Vanier, nọc độc của chủ nghĩa thần nghiệm tình dục

Một giáo hoàng và ba tu sĩ Dòng Tên được vinh danh trên bầu trời

Một giáo hoàng và ba tu sĩ Dòng Tên được vinh danh trên bầu trời

cath.ch, Bernard Hallet, 2023-02-14

Bốn tiểu hành tinh hiện mang tên của một giáo hoàng và ba tu sĩ Dòng Tên. Vành đai tiểu hành tinh. Hình ảnh minh họa | ©Pixabay

Liên minh Thiên văn Quốc tế (IAU) vinh danh một giáo hoàng và ba nhà thiên văn Dòng Tên trên bầu trời. Trong bản tin tháng hai, tổ chức này đã đặt tên các vị cho bốn tiểu hành tinh nằm trong vành đai tiểu hành tinh giữa Sao Hỏa và Sao Mộc.

Trang web Katholisch cho biết, trong bản tin mới nhất, nhóm đặt tên cho các thiên thể nhỏ của Liên minh Thiên văn đã công bố tiểu hành tinh được phát hiện năm 2012 và mang số hiệu 560794 bây giờ sẽ được gọi là “Ugoboncompagni”.

Ugo Boncompagni được bầu làm giáo hoàng ngày 13 tháng 5 năm 1572 và lấy tên hiệu là Gregory XIII. Trong triều giáo hoàng của ngài, ngài đã khuyến khích các công việc khoa học và cải cách lịch. Ngày nay chúng ta vẫn còn dùng lịch Gregorian của ngài. Liên minh Thiên văn vinh danh ngài vì những đóng góp của ngài cho ngành thiên văn. Ngài đã xây dựng “Tháp gió” ở Đài thiên văn Vatican. Hoàn thành năm 1580, tháp cao 73 mét, đặc biệt được dùng như đài quan sát để thực hiện các quan sát thiên văn cần thiết cho việc cải cách lịch.

Ba tu sĩ Dòng Tên bất tử

Bên cạnh giáo hoàng Gregory XIII còn có ba tu sĩ Dòng Tên cũng được vinh hạnh được đặt tên cho tiểu hành tinh: cựu giám đốc Đài thiên văn Vatican Johann Georg Hagen (1847-1930). Các thí nghiệm của ông về vòng quay Trái đất đã xác nhận các lý thuyết của Nicolas Copernicus và Galileo. Nhà thiên văn học và thần học William Stoeger (1943-2014), người đã xác minh bằng thực nghiệm các lý thuyết toán học về vũ trụ học, và nhà vật lý và triết gia Robert Janusz (sinh năm 1964), người nghiên cứu các cụm sao và vật chất giữa các vì sao.

Các tiểu hành tinh được đặt tên để vinh danh là các tiểu hành tinh mang số 562971 của Johannhagen, số 551878 của Stoeger và số 565184 của Janusz. Bốn tiểu hành tinh nằm trong vành đai tiểu hành tinh giữa Sao Hỏa và Sao Mộc và được phát hiện tại Đài thiên văn Vatican.

Nhà thiên văn học Dòng Tên Robert Macke, người nghiên cứu khí tượng học tại Đài thiên văn Vatican, đã đếm được ít nhất 32 tiểu hành tinh mang tên các tu sĩ Dòng Tên, kể cả những tên mới. Ví dụ, kể từ năm 2000, một tiểu hành tinh mang tên “Ratzinger”, vì hồng y Joseph Ratzinger, khi đó là bộ trưởng bộ Giáo lý Đức tin đã mở kho lưu trữ của Vatican cho khoa học.

Trong nhiều thế kỷ. Dòng Tên đã kết nối chặt chẽ với ngành thiên văn. Các nhà nghiên cứu như Angelo Secchi, người sáng lập ngành vật lý thiên văn hiện đại, xuất thân từ Dòng Tên. Đài quan sát Vatican, có lịch sử bắt đầu với việc xây dựng Tháp Gió vào thế kỷ 16, được các tu sĩ Dòng Tên chỉ đạo ngay từ đầu. Ngày nay, trung tâm thiên văn ở Castel Gandolfo và các cơ sở nghiên cứu được đặt tại Đại học Arizona, Mỹ từ năm 1981. Ở Arizona, đài quan sát có nơi quan sát thiên văn riêng của mình trên núi Graham.

Đặt tên cho các tiểu hành tinh

Đặt tên cho các tiểu hành tinh là một quá trình gồm nhiều bước. Một thiên thể mới được đăng ký khi nó được một người quan sát  trong hai đêm liên tiếp. Sau đó, các trường hợp nhìn thấy phải được báo cáo cho Trung tâm hành tinh nhỏ của Liên minh UAI, nơi chỉ định một số nhận dạng tạm thời. Tiếp theo, các quan sát trước đó về các thiên thể chưa xác định trước đây được đem ra so sánh với quan sát mới, các bản đúp được nhập lại với nhau.

Ngay khi quỹ đạo chính xác có thể được xác định từ dữ liệu, tiểu hành tinh sẽ có một con số cố định. Quyền chọn tên thuộc về nhà nghiên cứu đã cung cấp đủ dữ liệu cho việc tính toán quỹ đạo, do đó không nhất thiết thuộc về người khám phá đầu tiên. Đề xuất đặt tên sau đó được nhóm làm việc xem xét để đặt tên cho các thiên thể nhỏ và cuối cùng được công bố chính thức.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Gặp nhà thiên văn của Vatican

Thầy Guy Consolmagno: Làm thế nào khoa học đã mang Chúa đến gần hơn

Trường hợp các vụ Vanier, Rupnik, Ribes… Có nên phân biệt tác phẩm với nghệ sĩ không?

Trường hợp các vụ Vanier, Rupnik, Ribes… Có nên phân biệt tác phẩm với nghệ sĩ không?

Phân tích

Ngoài vụ bê bối lạm dụng tình dục của các nhân vật trong Giáo hội trong những năm gần đây, hiện nay còn có câu hỏi gai góc về tương lai các tác phẩm của họ, khi họ đã vẽ hoặc viết như các ông Marko Rupnik, Louis Ribes hay Jean Vanier.

la-croix.com, Christopher Henning, 2023-02-15

Chi tiết cửa sổ kính màu có chữ ký của linh mục Louis Ribes ở nhà thờ Thánh Catarina, Rhône, nước Pháp. Richard Mouillaud / Le Progrès/MaxPPP

Tháng 9 năm 2020, một quyển sách Các linh mục và nghệ sĩ của giáo phận Lyon. Thế kỷ 20-21 đã vẽ chân dung huy hoàng của linh mục Louis Ribes (1920-1994), có biệt danh “Picasso của các nhà thờ”. Chưa đầy hai năm sau, các đơn tố cáo của hai nạn nhân các giáo phận Lyon, Saint-Étienne và Grenoble đã đăng trong một thông cáo báo chí về các vụ tấn công tình dục của linh mục này trong những năm 1970-1980 với khoảng 50 trẻ em.

“RIB”: bây giờ chữ ký của nghệ sĩ đã làm hoen ố tất cả các tác phẩm của ông – cửa sổ kính màu, tranh vẽ, đàng thánh giá… Linh mục ở giáo phận Lyon đã vẽ cho hàng chục nhà thờ. Để đáp ứng yêu cầu của tập thể các nạn nhân, giáo phận Lyon đang xem lại các tác phẩm của nghệ sĩ lạm dụng này.

Tác phẩm và nghệ sĩ

Trường hợp này nói lên một cách đáng kể mối liên hệ giữa tác phẩm và nghệ sĩ, còn hơn thế nữa khi nghệ sĩ tự hào về địa vị đạo đức của mình. Chúng ta có nên quay lưng lại với những bức tranh khảm của linh mục Dòng Tên, người Slovenia Marko Rupnik trang hoàng cho vương cung thánh đường Mân côi ở Lộ Đức, khi ông bị rút phép thông công vì tấn công tình dục các phụ nữ trường thành không?

Chúng ta có còn đọc tác phẩm của ông Jean Vanier, người sáng lập L’Arche khi năm 2020 các vụ lạm dụng của ông đã được tiết lộ và đã được xác nhận trong bản báo cáo cuối tháng 1 vừa qua không? Phải làm gì với những tác phẩm này sau khi các vụ lạm dụng của các tác giả được tiết lộ?

Linh mục Michel phản ứng: “Tôi nghĩ đến các nạn nhân của linh mục Ribes, đến nỗi kinh hoàng khi họ đối diện với hình ảnh em bé bị người lạm dụng phơi bày. Bản thân là linh mục và là nạn nhân của tấn công tình dục khi còn nhỏ, linh mục Michel là tác giả bức ảnh “em bé khóc” được các giám mục Pháp chọn để làm biểu tượng cho lời xin tha thứ của họ ở Lộ Đức. Linh mục hiểu phản ứng của tập thể và của các nạn nhân của linh mục Ribes, khi họ phải đối diện với những cảnh bạo lực họ đã trải qua trong thời thơ ấu khi bị linh mục lạm dụng.

Cảm xúc của anh Michel, tác giả bức ảnh em bé đang khóc

Thủ tục tố tụng pháp lý

Câu hỏi không chỉ nảy sinh trong Giáo hội. Ngoài xã hội chúng ta cũng có những trường hợp tương tự, với các phim của đạo diễn Roman Polanski, những tác phẩm văn chương của Gabriel Matzneff. Nhà xã hội học Gisèle Sapiro, giám đốc nghiên cứu tại EHESS (2) nhắc lại: “Khi tác phẩm thuộc phạm vi tội phạm ấu dâm, hoặc như trường hợp nhà văn Céline về chủ nghĩa bài do thái của ông, nó sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên, trong trường hợp không có thủ tục pháp lý, cơ quan văn hóa có trách nhiệm đánh giá tác phẩm có được công khai hay không”.

Trường hợp của ông Jean Vanier và anh em linh mục Philippe: gốc rễ của mù quáng

Việc đảm bảo không gây sốc hoặc làm tổn thương các nạn nhân dường như đã được nhất trí. Tại thị trấn Charly, vùng Rhône với 5.000 người dân cách thành phố Lyon 25 cây số, ông thị trưởng Olivier Araujo đã nghe thỉnh nguyện các nạn nhân của linh mục Ribes: chỉ che chữ ký thôi là chưa đủ. Vì thế, với sự đồng ý của chính quyền thành phố, các cửa sổ kính màu sẽ được tháo dỡ, giáo phận có trách nhiệm tài trợ việc thay thế, dự trù lên đến vài ngàn âu kim.

Chi tiết bức tranh khảm Cửa Thánh Bác ái, ở Rôma của linh mục Rupnik. / Angelo Carconi/EPA/MaxPPP

Tại làng Thánh Catarina ở Monts du Lyonnais, người dân đề nghị làm cửa sổ kính màu thay thế để tưởng nhớ các nạn nhân. Các thảo luận được tiến hành tốt ở các đô thị xung quanh Loire-sur-Rhône, Dième…

Tháo kính màu xuống

Ông Christophe Ravinet, giám đốc truyền thông của giáo phận Lyon giải thích: “Mỗi nơi xây dựng đều khác nhau. Phải tính đến việc buộc phải tháo dỡ và quyết định những gì sẽ được thực hiện sau đó. Tất cả đều phải tùy theo lịch làm việc và kinh phí.” Phải cần thời gian để tháo kính màu, hàng trăm bức có thể bị tháo rời, tài sản của các giáo phận liên hệ hiện được cất giữ trong một không gian kín, với cam kết không bao giờ được đem ra trưng bày nữa.

Tuy nhiên cũng có một số người vẫn xem đây là tấn công vào quyền tự do sáng tạo và tự do nói lên. Về vấn đề này, một tiêu chuẩn nằm ở mối liên hệ – có hoặc không – của tác phẩm với chính hành vi của người bị buộc tội. Về mặt này, trong trường hợp của linh mục Louis Ribes là tiêu biểu: vì để vẽ những bức bích họa của ông trong ca đoàn của các nhà thờ ở Rhône-Alpes, ông đã lấy cảm hứng từ những bức ảnh khỏa thân của các em bé mà ông có thể chụp được. Thậm chí ông còn bị cáo buộc hành hung trẻ vị thành niên trong quá trình hoạt động nghệ thuật của mình.

Mặt khác, với các nghệ sĩ khác, không có sự nhầm lẫn giữa tác phẩm và các hành vi đáng trách về mặt hình sự hoặc đạo đức. Nhưng làm thế nào các nạn nhân có thể chịu đựng được khi các tác phẩm của kẻ tấn công họ được đem ra trưng bày? Các bài hát của linh mục Dòng Đa Minh André Gouzes vẫn không liên quan gì đến những gì linh mục bị buộc tội – cho đến bây giờ linh mục chưa bị xét đoán và vẫn được xem là vô tội. Tuy nhiên, tháng 10 vừa qua, khi đi hành hương với kinh Mân côi, các tu sĩ Đa Minh đã loại khỏi danh mục các bài hát của linh mục André Gouzès.

Một ca đoàn trình diễn Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô theo phúc âm Thánh Gioan, nhạc của André Gouzes ở một nhà thờ Lyon. / Vincent Dagent/Ciric

Chúng ta có thể để cha Rupnik tiếp tục làm các đơn đặt hàng ở một số nhà thờ, khi ông đã bị Rôma trừng phạt vì tội tấn công tình dục không? Linh mục phải đảm bảo việc trang trí bên trong và bên ngoài nhà thờ Thánh Giuse Nhân từ sẽ xây trong tương lai ở Montigny-le-Bretonneux (Yvelines). Đối với giáo phận Île-de-France, việc hủy bỏ đơn đặt hàng đã tự áp đặt, giám mục Luc Crepy, giáo phận Versailles cho biết: “Khi đưa ra quyết định này, chúng tôi trước hết nghĩ đến những người đã phải chịu đựng những lạm dụng này.” 

Lối đi ở Lộ Đức

Nhưng phải làm gì với những gì đã tồn tại, như một dấu ấn không thể xóa nhòa? Cuộc tranh luận càng trở nên gai góc hơn, bà Gisèle Sapiro nhấn mạnh, “luôn có một phần của tác giả trong tác phẩm”. Về sách, độc giả có thể đọc một tác phẩm hoặc tránh nó khi biết lý do, nhưng các thư viện giáo phận hoặc các phòng học giáo lý chắc chắn sẽ phải loại bỏ các tác phẩm ca tụng ông Jean Vanier hoặc anh em linh mục Philippe hoặc do họ viết. Nhưng với giáo dân và người hành hương thì khó gạt qua một bên các bức khảm của linh mục lạm dụng phơi ra trước mắt họ.

Có nên loại bỏ từng mảnh khảm của linh mục Rupnik không? Liệu có cần thiết phải tháo dỡ những bức khảm trong nhà nguyện Mẹ Chúa Cứu Thế ở nhà nguyện riêng của giáo hoàng ở Vatican, được Đức Gioan-Phaolô II đặt làm không? Linh mục Rupnik đã trang trí nhiều thánh đường lớn nhất ở Fatima, Krakow, Washington và… Lộ Đức. Làm sao chúng ta có thể giữ những bức khảm rực rỡ của linh mục nghệ sĩ Slovenia Rupnik trên lối đi dạo của Lộ Đức, khi đền thánh Đức Mẹ là nơi tưởng nhớ các nạn nhân bị lạm dụng trong Giáo hội?

Nếu tác phẩm có thể gây sốc, đó không chỉ là lỗi của tác giả mà là trách nhiệm đạo đức của cơ sở. Nếu thời gian cho phép chúng ta ngắm các tác phẩm của Caravaggio, chính ông lại là tác giả của một vụ giết người, mà không bị sốc, thì sự nhạy cảm tột độ ngày nay trước nạn tấn công tình dục, trong xã hội với phong trào #MeToo cũng như trong Giáo hội, dẫn đến những câu trả lời tận căn hơn.

Các nhân vật trong Giáo hội vướng vào bê bối bạo lực tình dục

Louis Ribès. Linh mục và họa sĩ ở thành phố Lyon, qua đời năm 1994, bị cáo buộc đã hãm hiếp và tấn công tình dục hàng chục trẻ em. Các vụ tố cáo kéo dài đến năm 2022.

Marko Rupnik. Linh mục nghệ sĩ tranh khảm người Slovenia rất có ảnh hưởng, từ năm 1985, ông đã bị Giáo hội xử phạt vì tội tấn công tình dục các nữ tu khi họ đi xưng tội.

John Vanier. Người sáng lập hiệp hội L’Arche để giúp người khuyết tật, ông đã lạm dụng tình dục với những phụ nữ ông có ảnh hưởng chung quanh ông, với những lời biện minh thần bí giống như người cố vấn của ông là linh mục Thomas Philippe, theo 25 lời chứng (không toàn bộ) được một ủy ban độc lập điều tra và được công bố ngày 31 tháng 1 – 2023).

André Gouzes. Linh mục Dòng Đa Minh, 79 tuổi, nhạc sĩ sáng tác các thánh ca trong phụng vụ, là đối tượng của một báo cáo trước công lý vì bị nghi hiếp dâm trẻ vị thành niên. Các sự việc có từ cuối những năm 2000.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: “Xin tháo dỡ các tác phẩm nghệ thuật của các linh mục bị cáo buộc lạm dụng”

Vụ Rupnik: “Các nạn nhân chờ lời công nhận họ không phải là người đi dụ dỗ”

Vụ Rupnik: “Các nạn nhân chờ lời công nhận họ không phải là người đi dụ dỗ”

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo La Croix, cuộc phỏng vấn đầu tiên kể từ khi bắt đầu sự việc, giám mục Dòng Tên Daniele Libanori và là giám mục phụ tá giáo phận Rôma trả lời về vụ linh mục Marko Rupnik. Ngài xin các nhà cầm quyền Giáo hội nghe các nạn nhân của linh mục Dòng Tên người Slovenia này.

la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2023-02-16

Bức tranh khảm ở Nhà thờ Thánh Sebastian, Bratislava, Slovakia, là tác phẩm của tu sĩ Dòng Tên Marko Rupnik, có từ năm  2011. Ảnh  minh họa. RENATA SEDMÁKOVA

Cha đã biết các khiếu nại đầu tiên về linh mục Marko Rupnik khi nào?

Giám mục Daniele Libanori: Tôi biết những chuyện này vào đầu năm 2021, vì vai trò của tôi là ủy viên đặc biệt của Cộng đồng Loyola. Cuộc viếng thăm đã được quyết định vì có nhiều nữ tu cảm thấy khó chịu. Ngày 30 tháng 10 năm 2020, tôi được tổng giám mục Stanislav Zore, giáo phận Ljubljana, Slovenia, bổ nhiệm điều khiển học viện giáo phận này. Quyết định cử một ủy viên ngoại thường đã được sự đồng ý của hồng y đại diện Rôma sau chuyến thăm giáo luật của hồng y đến cộng đồng.

Thoạt nhìn, đây là sự xung đột thế hệ nghiêm trọng đòi hỏi phải cải cách hiến pháp của viện. Nhưng khi tôi gặp 45 nữ tu, trong các cuộc phỏng vấn cá nhân, họ bắt đầu nói đến những thủ đoạn của linh mục Rupnik trước năm 1993, đầu tiên là bằng những ám chỉ được che đậy, rồi sau đó là những câu chuyện được tường thuật rõ ràng. Đây là lý do thực sự cho sự chia rẽ của họ: một số đã ra khỏi dòng, một số khác còn đau khổ, họ không bao giờ có được sự giúp đỡ chuyên nghiệp để vượt qua chấn thương.

Cha có phải là người có trách nhiệm trong Giáo hội đầu tiên nghe các lời chứng này không?

Tôi không biết.

Kết luận của cha là gì?

Tôi phải đối diện với hai vấn đề đan xen nhau: sự chia rẽ nội bộ của cộng đoàn và thảm kịch mà nhiều nữ tu đã trải qua trong một thời gian dài. Các nữ tu vào dòng sau năm 1993, họ không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng họ sống theo lối sống khép kín, như thể tự bảo vệ mình khỏi bất kỳ sự xâm nhập nào.

Các tu sĩ Dòng Tên tiết lộ linh mục Marko Ivan Rupnik bị dứt phép thông công vì tha tội cho người phụ nữ cùng có hoạt động tình dục với ông

Tạ ơn Chúa, dù đau đớn như thế nào các sự việc rồi cũng được nói ra và đã giúp tôi có khả năng đặt câu chuyện dưới ánh sáng của sự thật. Các nạn nhân đã có thể đối diện với thực tế và hiểu họ không phải là người đi dụ dỗ nhưng là nạn nhân. Khi tôi biết được sự thật, tôi thấy rõ, thông tin tôi được cung cấp nên được báo cáo cho các cơ quan có thẩm quyền.

Đó là lý do tôi hỏi họ, họ có sẵn sàng cung cấp lời chứng bằng văn bản hay không. Một số nữ tu cũng như những người đã rời khỏi dòng đã chấp nhận và tôi có thể giao các lời chứng này cho ủy ban điều tra đã được thành lập và ủy thác cho tổng công tố viên Dòng Đa Minh.

Có bao nhiêu nữ tu bị lạm dụng?

Tôi không muốn tiết lộ thông tin này.

Có phải sự thật được tiết lộ, tất cả đều giống nhau?

Đúng, tất cả đều giống nhau.

Làm thế nào cha giải thích các lời chứng này lại tiết lộ sau hơn hai mươi năm sau?

Không ai có thể làm cho máu của Abel im lặng. Tiếng kêu này vượt qua thời gian, nó đến với tôi. Máu của Abel kêu lên, và để làm nó im lặng cần phải có phán xét. Các nạn nhân, thậm chí hơn ba mươi năm sau – thời gian tương đương với bản án chung thân – có quyền được nghe từ các người cầm quyền một lời dứt khoát, để dập tắt mối nghi ngờ về tội lỗi của họ và phục hồi phẩm giá của họ bằng cách tuyên bố điều đó là sự thật, cụ thể họ là nạn nhân.

Lạm dụng, các biện pháp trừng phạt nhẹ cho linh mục Dòng Tên Marko Rupnik

Những người biết các động lực của lạm dụng hiểu rằng nạn nhân thường bị đưa vào trạng thái lệ thuộc tâm lý làm cho họ dễ bị tổn thương. Những người tôi nói chuyện đều có cái nhìn chằm chằm vào trống không. Và tôi biết, một người khi họ nói với tôi một điều gì đó liên quan đến xúc cảm hoặc thảm kịch, mà họ nói như không có gì, không khóc, thì tôi hiểu vết thương đã hằn rất sâu.

Vì sao những lời khai này không được xem trọng?

Nhiệm vụ của tôi kết thúc với việc nộp đơn khiếu nại năm 2021. Nhưng tôi có lý do để tin những người làm chứng này rất đáng tin cậy. Nếu lời khai của họ không có bản án đi kèm, là vì đã hết thời hiệu. Đó không phải là tuyên bố trắng án, mà là từ bỏ quyền đưa ra lời kết tội chính thức. Ngoài ra, chúng tôi được biết từ thông cáo của Dòng Tên đã có những hạn chế đã áp đặt trong các công việc mục vụ của cha Rupnik. Những người đưa ra quyết định nghĩ rằng những biện pháp này đủ để giải quyết vấn đề.

Cha giải thích các kết luận của Bộ Giáo lý Đức tin như thế nào?

Tôi không có thông tin gì để trả lời câu hỏi này, lại còn không đủ thẩm quyền để phán xét. Tôi biết những gì báo chí đưa tin, miễn là họ làm vụ việc với các tài liệu xác thực.

Cha nghĩ vì sao Bộ từ chối dỡ bỏ thời hiệu?

Rõ ràng là các đánh giá phải được thực hiện, nhưng tôi không có bất kỳ thông tin nào về việc này.

Theo cha, linh mục Rupnik có nên tiếp tục công việc nghệ thuật của ông không?

Tôi không có tư cách để đánh giá các tác phẩm nghệ thuật của cha Rupnik. Chắc chắn cha Rupnik là người có năng khiếu đặc biệt, kỹ năng kỹ thuật của cha, của trường của cha là không thể chối cãi. Nếu có người đặt hàng, vì sao cha lại không nên tiếp tục làm việc? Hơn nữa, việc nhận ra trách nhiệm của một người không làm giảm đi sự bí ẩn và phong phú mà họ mang lại. Nó có thể là vấn đề thời gian. Gần đây tôi có đọc, một nghệ sĩ phản ánh tâm hồn mình qua tác phẩm.

Trường hợp các vụ Vanier, Rupnik, Ribes… Có nên phân biệt tác phẩm với nghệ sĩ không?

Cha nghĩ nên có những biện pháp nào để thực hiện?

Cha Rupnik là tu sĩ Dòng Tên và là một linh mục. Do đó, cha tuân theo luật nội bộ của Dòng Tên và giáo luật. Thêm nữa, nếu những người đã khiếu nại muốn chuyển sang tòa án dân sự, họ có thể tự do làm.

Nhưng theo tôi, vấn đề không thể rút gọn thành một bản án. Không loại bất cứ chuyện gì ra khỏi trách nhiệm cá nhân, nhưng tôi nghĩ nên đặt vụ này trong một khuôn khổ rộng hơn để nắm bắt những trách nhiệm khác vẫn còn trong bóng tối: đặc biệt là trách nhiệm khách quan về sự thiếu cảnh giác của các bề trên của cha Rupnik, của những người đào tạo và của những người lẽ ra phải giám sát các phương pháp và các công việc mục vụ của cha Rupnik.

Tìm hiểu vụ Rupnik qua sáu câu hỏi chính

Vụ Marko Rupnik, một tu sĩ Dòng Tên làm cả Dòng can dự theo

Làm sao trong khoảng thời gian gần ba mươi năm, không ai nghi ngờ về học thuyết cha Rupnik rao giảng và theo một số lời khai khủng khiếp, học thuyết này đã dùng để hợp pháp hóa hành vi của ông? Chúng tôi thực sự phải đối diện với sự pha trộn giữa tâm linh, thần bí và tình dục lệch lạc, đáng buồn thay lại có trong các nhóm và phong trào với sự tham dự của những nhân vật nổi tiếng.

Cai trị, chủ nghĩa độc đoán, vụ Rupnik: Đức Phanxicô trả lời các chỉ trích

Các phụ nữ đã vô cùng khó khăn để nói lên lời chứng của họ, họ không bao giờ nhận được cái gật đầu từ các nhà cầm quyền, nhưng trước sự ngỡ ngàng và phẫn nộ của họ – nhất là họ cảm thấy tổn thương tột cùng trong sâu thẳm tâm hồn – dù những gì mình đã tiết lộ, họ vẫn tiếp tục thấy cha Rupnik giảng tĩnh tâm, nói chuyện về tâm linh trên các phương tiện truyền thông. Điều này làm họ rất phẫn nộ.

Và cha cũng phẫn nộ?

Đúng, tất nhiên rồi. Khi làm những việc như vậy là không đúng. Linh mục Rupnik chưa bao giờ nói một lời nào với họ, chưa bao giờ nhận trách nhiệm của mình. Về phần tôi, tôi tin chắc đó là vấn đề của tâm thần học.

Cha đã gặp linh mục Rupnik chưa?

Tôi chưa gặp, tôi tránh gặp vì không muốn bị ảnh hưởng. Và tôi muốn tránh mọi tò mò bệnh hoạn.

Cha có nghĩ việc nạn nhân của cha Rupnik là phụ nữ đã làm cho một số người đánh giá thấp mức độ nghiêm trọng của sự thật không?

Thành thật mà nói, tôi không nghĩ như vậy. Cha Rupnik bị xử phạt về việc quản trị, nên khi họ nói thì người ta tin.

Tìm hiểu vụ Rupnik qua sáu câu hỏi chính

Cha không nghĩ các hình phạt là rất yếu khi xem xét các sự kiện bị cáo buộc?

Chúng tương ứng với những gì có thể được thực hiện ở cấp độ hành chính, vì lý do đã hết thời hiệu.

Cha vẫn còn liên lạc với các nạn nhân?

Còn. Tôi vẫn là ủy viên của viện, chịu trách nhiệm về những người vẫn còn trong cộng đồng. Tôi chưa bao giờ thấy một hận thù nào nơi họ, nhưng các phụ nữ này thấm đậm một nỗi đau rất sâu sắc.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Vụ Rupnik: Ai tố ai?

Trường hợp linh mục Marko Rupnik: thử nghiệm các biện pháp chống lạm dụng của Giáo hội

Bạo lực tình dục: tác dụng của sự chi phối vẫn còn là điểm mù của Vatican

Bạo lực tình dục: tác dụng của sự chi phối vẫn còn là điểm mù của Vatican

Ngày thứ sáu 17 tháng 2, các tu sĩ Dòng Tên kết thúc cuộc điều tra nội bộ liên quan đến vụ linh mục Marko Rupnik, bị các nữ tu tố cáo đã bạo hành tình dục trên họ. Việc xử lý vụ này chứng tỏ cho thấy Rôma gặp khó khăn khi phân tích hiện tượng “chi phối, khống chế” khi liên quan đến một người trưởng thành.

la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2023-02-17

Linh mục Marko Rupnik trong xưởng vẽ của ông ở Rôma tháng 11 năm 2007. Tu sĩ dòng Tên người Slovenia và nghệ nhân khảm bị một số nữ tu buộc tội sờ soạng và hãm hiếp. Vandeville Eric/ABC/Andia.fr

Đó là tin nhắn được đăng trên dòng thời gian của một trò chuyện trên Facebook, đôi khi rất sôi nổi. Chúng ta đang ở cuối tháng 12 năm 2022, một vài ngày sau khi một số trang web và báo chí Ý tiết lộ, về điều nhanh chóng trở thành vụ Rupnik, tên của tu sĩ Dòng Tên người Slovenia và nghệ nhân khảm bị một số nữ tu buộc tội sờ soạng và cưỡng hiếp dưới ảnh hưởng tâm lý tinh thần. Sau khi tấn công tình dục họ, linh mục giải tội cho họ. Những sự việc mà các tu sĩ Dòng Tên phải kết thúc cuộc điều tra nội bộ vào ngày thứ sáu 17 tháng 2.

Trên mạng xã hội, các cuộc tranh luận đã bùng ra giữa các nhà báo Ý về những lời buộc tội này. Một người giải thích: “Trên thực tế, nếu không có sự đồng ý thì đã không có xưng tội và tha tội cho đồng phạm.” Rõ ràng: các nữ tu tố cáo việc họ bị hãm hiếp, chỉ có thể là họ đồng ý, vì họ đã trưởng thành. Người đưa ra nhận xét này không phải bất kỳ ai: ông là cộng sự thường xuyên và được nhật báo L’Osservatore Romano, tờ báo chính thức của Vatican đánh giá cao.

Những câu hỏi rắc rối được đặt ra trong vụ Rupnik

Cách nhìn lạm dụng được cho là của người lớn này không chỉ có ở Rôma. Vì nếu bạo lực tình dục trên trẻ vị thành niên hoặc “người lớn dễ bị tổn thương” – một thể loại có những nét ngõ ngách mơ hồ – nằm trong số “những tội nghiêm trọng nhất” và do đó, được bộ Giáo lý Đức tin xử lý, thì đây không phải là trường hợp với các hồ sơ khác, thuộc trách nhiệm của các bộ phận khác của Giáo triều Rôma.

Điều này có nghĩa là các trường hợp chi phối người lớn, đàn ông và phụ nữ, bị Vatican đánh giá thấp sao? Phải nghe những phản ứng sau những tiết lộ về hành động của giám mục Michel Santier, cựu giám mục giáo phận Créteil bị trừng phạt vì đã xúi giục các thanh niên cởi quần áo khi xưng tội, người ta có thể trả lời là có, Vatican đánh giá thấp. Một nguồn tin Vatican nói: “Đó là với người lớn. Bạn có làm điều đó không, khỏa thân trước mặt ai đó, đặc biệt là trong tòa giải tội? Tôi thì không.”

Vụ giám mục Santier, sốc và kinh tởm

“Có ý kiến cho rằng người lớn, và đặc biệt là phụ nữ, luôn là những người đi cám dỗ”

Chính giáo hoàng cũng đưa ra một phân loại rất rõ ràng giữa các loại lạm dụng, không áp dụng thời hiệu một cách có hệ thống đối với bất kỳ trường hợp nào liên quan đến trẻ vị thành niên hoặc người lớn được bảo vệ, nhưng không áp dụng tiêu chuẩn này cho người lớn. Trong một phỏng vấn với hãng AP cuối tháng 1, ngài nói: “Trong trường hợp này (vụ Marko Rupnik), tôi không làm việc đó, điều này không có nghĩa là họ không nên bị truy tố.”

Trường hợp các vụ Vanier, Rupnik, Ribes… Có nên phân biệt tác phẩm với nghệ sĩ không?

Để giải thích sự khác biệt này, chúng ta phải quay ngược lại với thời gian. Sử gia người Ý, bà Lucetta Scaraffia giải thích: “Cho đến những năm 1970, khi phong trào nữ quyền quy định rằng nạn nhân bị cưỡng hiếp phải được xem là nạn nhân, thì hiếp dâm bị cho là do xáo trộn trật tự đạo đức nhiều hơn. Theo nghĩa này, cả hai người đều bị coi là trái với đạo đức. Nếu quay trở lại xa hơn, vào những năm 1800, người ta gọi “các vụ cưỡng hiếp” là các quan hệ bất hợp pháp.”

Bà Scaraffia nói tiếp: “Về cơ bản, có ý kiến cho rằng người lớn, và đặc biệt là phụ nữ, luôn là những người đi cám dỗ”, như một phát biểu trong một chỉ thị của Bộ Giáo lý Đức tin năm 1962 có tựa đề Crimen sollicitationis (Tội cám dỗ), Rôma trừng phạt nghiêm khắc các linh mục có quan hệ tình dục giải tội; nhưng trong tài liệu này, họ được cảnh báo một cách có hệ thống, phải đề phòng phụ nữ, dù đó là “thiếu nữ, phụ nữ đã có gia đình hay người làm”.

Bà Scaraffia là người dấn thân trong việc bảo vệ các nữ tu là nạn nhân của bạo lực tình dục.

Vụ Rupnik: “Các nạn nhân chờ lời công nhận họ không phải là người đi dụ dỗ”

Ngay cả một nhà giáo luật ở Rôma cũng khẳng định: “Não trạng của giáo sĩ là đồi trụy. Não trạng này cho rằng các nạn nhân cũng có trách nhiệm lớn như thủ phạm. Điều này làm cho tác động chi phối trở thành một loại không hình dung được ở Vatican.”

Khái niệm về tính dễ bị tổn thương

Theo bà Lucetta Scaraffia, vẫn còn rất nhiều việc phải làm về khái niệm dễ bị tổn thương. Bà lấy làm tiếc: “Hiện tại, chúng ta dường như quên rằng linh mục là người có quyền lực trên người khác vì vai trò của họ là lãnh đạo. Chỉ có sự xuất hiện của phụ nữ trong các vị trí ra quyết định trong Giáo hội mới có thể thay đổi nhận thức này.”

Một nhân chứng gần đây đã thảo luận về vấn đề này với Đức Phanxicô cho biết, trong riêng tư, ngài nói, tất cả các vụ lạm dụng tình dục luôn bắt đầu bằng lạm dụng quyền lực. Theo nguồn tin này, ngài cũng thường xuyên nhắc đến tình trạng “lạm dụng quyền lực” bên trong các cộng đồng tôn giáo.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Vụ Rupnik: Ai tố ai?

Trong Giáo hội, lạm dụng luôn là lạm dụng thiêng liêng

Đức Phanxicô: “Việc từ nhiệm của giáo hoàng không nên trở thành “mốt”

Đức Phanxicô: “Việc từ nhiệm của giáo hoàng không nên trở thành “mốt”

Trong một phỏng vấn dành cho các tu sĩ Dòng Tên Phi châu, Đức Phanxicô cho biết khả năng từ nhiệm của ngài sẽ là một biện pháp ngoại lệ, việc từ nhiệm của giáo hoàng không nên trở thành “mốt”. Một thay đổi so với những gì ngài vẫn thường nói vài tháng trước.

la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2023-02-16

Đức Phanxicô trong lần ngài gặp các tu sĩ Dòng Tên trong chuyến đi Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan. Ảnh Vatican Media.

Việc từ nhiệm của các giáo hoàng không được trở thành một thói quen. Về cơ bản, đây là điều Đức Phanxicô khẳng định trong lần ngài gặp các tu sĩ Dòng Tên trong chuyến đi Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 5 tháng 2 vừa qua. Bài phỏng vấn được tạp chí Dòng Tên Văn minh Công giáo đăng ngày thứ năm 16 tháng 2.

Khi được hỏi về việc từ nhiệm, ngài trả lời: “Tôi nghĩ nhiệm vụ giáo hoàng phải được thực hiện suốt đời, Tôi không thấy có lý do gì để không thực hiện được.”

“Không phải là mốt cũng không phải là điều bình thường”

Đức Phanxicô nhắc, ngài đã chuẩn bị thư từ nhiệm trong trường hợp có vấn đề sức khỏe ngăn không cho ngài thi hành sứ vụ và khi không đủ ý thức để từ nhiệm ”, ngài nhấn mạnh việc áp dụng biện pháp này không nên trở thành “mốt” hoặc “một điều bình thường”.

Ngài nói tiếp: “Đức Bênêđictô XVI đã can đảm từ nhiệm, vì sức khỏe nên ngài không muốn tiếp tục. Nhưng việc này không ở trong chương trình làm việc của tôi lúc này.” Nhân cơ hội, ngài cũng gởi thông điệp đến những người có ý định tạo áp lực để ngài từ nhiệm: “Nếu chúng ta nghe những ‘chuyện tầm phào’ thì mỗi sáu tháng chúng ta phải thay giáo hoàng một lần!

Triển khai phát biểu của giáo hoàng

Ngài triển khai ý: “Đức Piô XII đã viết thư từ nhiệm trong trường hợp Hitler đưa ngài vào trại tập trung ở Đức. Ngài nói, trong trường hợp này, họ sẽ bắt Eugenio Pacelli chứ không bắt giáo hoàng.”

Những nhận xét này đánh dấu bước tiến hóa của Đức Phanxicô khi ngài xem lại khả năng từ nhiệm. Cuối tháng 7 năm 2022 trên chuyến bay từ Canada về Rôma, ngài nói: “Đó là một trong những lựa chọn bình thường, nhưng cho đến nay tôi chưa bao giờ mở cánh cửa đó. Sau đó ngài nói tiếp: ‘Tôi không cảm thấy điều đó’”.

Trong cuộc họp báo này, ngài nói không có gì ngăn cản ngài “bắt đầu suy nghĩ lại chuyện này, nếu Chúa nói với tôi rút lui, tôi sẽ rút lui”. Nhiều lần, khi bắt đầu triều, ngài cũng đã nghĩ triều giáo hoàng của mình có thể sẽ “ngắn”, ám chỉ ngài có thể từ nhiệm như người tiền nhiệm đã làm.

Tuy nhiên, trong một phỏng vấn dành cho nhật báo ABC Tây Ban Nha tháng 12 năm 2022, vài ngày trước khi Đức Bênêđictô XVI qua đời, Đức Phanxicô lại đề cập đến các dự án cho tương lai, chẳng hạn như mong muốn bổ nhiệm một phụ nữ đứng đầu một thánh bộ trong hai năm nữa.

Trở về từ Nam Sudan ngày 5 tháng 2, ngài dự trù chương trình tông du trong 18 tháng tới, ngoài Ngày Giới trẻ Thế giới tháng 8 tại Lisbon, một chuyến đi đến Marseille và Mông Cổ tháng 9 năm nay và sau đó là Ấn Độ trong năm 2024.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Phanxicô, từ nhiệm, sức khỏe, các chuyến tông du và các chuyện khác

Bài mới nhất