Chúng ta “có” đức tin hay không thì chính đức tin đã “có” chúng ta  

92

Chúng ta “có” đức tin hay không thì chính đức tin đã “có” chúng ta

Tang lễ của nữ diễn viên kiêm ca sĩ Jane Birkin tại nhà thờ Saint-Roch (Paris), ngày thứ hai  24 tháng 7-2023 / Benoit Durand/Hans Lucas/Hans Lucas qua AFP

fr.aleteia.org, Jean Duchesne, 2023-07-25

Đám tang của nữ diễn viên kiêm ca sĩ Jane Birkin ngày thứ hai 24 tháng 7 mời gọi chúng ta tự hỏi “có hay không có đức tin” có nghĩa là gì. Câu trả lời của nhà viết tiểu luận Jean Duchesne.

Sự ra đi của ca sĩ Jane Birkin chắc chắn đã làm cho những người trong những năm 1960 đã vượt biển Manche qua Anh, khám phá “những cô gái nhỏ người Anh” quan tâm đến. Với vóc dáng mảnh mai thanh tú, nụ cười với chiếc răng khểnh và giọng nói nhỏ nhẹ, nữ diễn viên kiêm ca sĩ là hình ảnh biểu tượng một thời của họ. Tang lễ cử hành tại nhà thờ Saint-Roch ở Paris, giáo xứ của các nghệ sĩ. Điều này hơi bất ngờ, vì tôn giáo dường như không có chỗ đứng trong đời sống của cô, thậm chí cô còn nói, cô chưa bao giờ có đức tin dù được giáo dục trong trường nội trú Anh giáo. Nhưng tang lễ này, dù không rõ ràng là theo kitô giáo có thể có những yếu tố làm chúng ta suy nghĩ.

Mục vụ tang lễ

Dù xã hội chúng ta ngày càng thế tục nhưng điểm đầu tiên cần lưu ý khi gặp một dấu mốc quan trọng trong đời như cái chết, thì không gì tốt hơn là một nghi thức trong thánh đường, được một “thừa tác viên phụng tự” cử hành, nếu có thể. Chắc chắn càng ngày càng có nhiều việc chôn cất theo nghi thức “dân sự”, xã hội cố gắng mang lại phẩm giá cho các nghi thức này qua những biểu hiện cảm xúc chân thực. Nhưng sự sáng tạo trong lĩnh vực này sẽ nhanh chóng bị hụt sức, khi chúng ta loại trừ mọi ám chỉ nào về một cái chết ở thế giới bên kia không thể xác định được và rơi vào trống rỗng.

Cần lưu ý, sự khiếm khuyết này trong văn hóa đương đại thúc đẩy chúng ta không nên xem thường việc “chăm sóc mục vụ cho tang lễ”. Quả thực, một cách rõ ràng hơn hôn nhân, vốn đã trở thành tùy chọn, hay sinh con mà phép rửa tội không còn được cho là khẩn cấp nữa, thì đây là một trong những giây phút chúng ta cần đến một linh mục, hoặc ít nhất theo nghi thức, một thừa tác viên, không phải là người nghiệp dư, không phải là công chức hay người được thuê. Nhu cầu này, có thể nói là nhưng không hay có bản chất thiêng liêng, càng ít đòi hỏi hơn – nhưng không kém phần sâu đậm và cấp bách trong những trường hợp này – ở chỗ nó chỉ đòi hỏi, về phía thân nhân của người quá cố, một cam kết đúng giờ và tối thiểu.

Một chủ nghĩa theo phong tục bị đảo ngược

Vì thế, câu hỏi được đặt ra là để biết một mặt, điều quan trọng là người “được tháp tùng về nơi an nghỉ cuối cùng” (hoặc hài cốt đã thành tro) có được xem là tín hữu hay không, và mặt khác, bản thân những người có mặt, họ có xác tín tôn giáo hay không là điều rất quan trọng. Trong quá khứ, phần lớn tổ tiên chúng ta, dù họ có những nghi ngờ nhưng họ có thể nuôi dưỡng hoặc kìm nén khi đối diện với vực thẳm không thể dò được của cái chết, họ đã chọn những gì Giáo hội mang đến cho họ hơn là không có gì, nghĩa là tan biến trong hư vô. Chủ nghĩa tuân thủ theo phong tục như thế này đã bị đảo ngược.

Đức tin, ngày xưa đã từng là một phần của văn hóa chung, được tất cả mọi người chia sẻ, ngày nay là một đặc thù mà chúng ta “có” hay không có.

Sự khác biệt là bây giờ có những người “có” đức tin và những người không “có” đức tin. Trên nguyên tắc, những người có đức tin ít nhiều biết những gì họ “có”, dù họ không nắm vững tất cả, trong khi những người “không có” đức tin, họ đã biết khá đủ và không có ý định đi tìm kiếm điều quyết định. Và đó là đức tin, đức tin ngày xưa đã từng là một phần của văn hóa chung, được tất cả mọi người chia sẻ, ngày nay đức tin là đặc thù mà chúng ta “có” hay không có.

Ngày xưa và ngày nay

Tình trạng hiện tại có đáng lo ngại hơn tình trạng ngày xưa không? Chúng ta bị cám dỗ để nghĩ như vậy. Trong chừng mực có ít người tin,  thông tin sẽ ít lan truyền hơn, có nhiều tranh cãi hơn và chắc chắn sẽ có ít cơ hội đức tin được truyền tải hơn. Nhưng chỉ có Chúa mới biết được mức độ chân thành và sâu đậm của những thói quen tuân thủ thường lệ trong quá khứ, do môi trường thúc đẩy nhiều hơn, hay là do lựa chọn mật thiết và khả năng cự lại trong thử thách. Và ai sẽ dám lên án những người không có cơ hội để quan tâm đến kitô giáo hoặc bị các môi trường họ thuộc về ngăn cản? Chưa kể những người, cho đến cuối đời, vẫn dứt khoát nghi ngờ, thậm chí còn không tin (dù sao cũng chỉ là một niềm tin trong số các niềm tin khác) và vì thế không thể loại trừ việc được mong chờ ở “thiên đàng” mà sự không tồn tại của nó là không thể chứng minh được.

Nhưng liệu một người có thể “có” đức tin giống như một người “có” cằm lẹm (do bẩm sinh) hoặc bệnh cúm (do vô tình mắc phải) không? Khi đó chúng ta có thể tự hỏi về biểu hiện này, cuối cùng khá gần đây và kỳ lạ, thậm chí gây hiểu lầm. Trên thực tế, nó xuất hiện từ thời điểm mà cái “đã có” không còn cố hữu trong không khí chúng ta hít thở hay trong lòng đất dưới chân chúng ta, vấn đề lúc đó, là phải bắt lấy nó, giữ nó, lấy làm của mình – nếu không tận hưởng nó – thì ít nhất cũng lấy được lợi ích của nó.

Nô lệ hay giải thoát?

Đức tin không còn được trao ban với cuộc sống, thì chúng ta không sở hữu nó như một thứ tốt đẹp mà chúng ta có thể có được và sau đó bỏ nó vì nó trở nên cồng kềnh. Chúng ta có thể tự hỏi, liệu có thích hợp không để quay về với câu, chính đức tin “có” với những người tin vào nó. Vì những người này ý thức rõ, họ không phải là chủ nhân, người làm chủ nó, mà nó được trao cho họ, họ sẽ lạc lối và tin vào một chuyện khác, nếu họ cảm thấy họ đã đi lòng vòng với nó và không còn gì để khám phá, tiếp nhận và chia sẻ mà không giữ lại tất cả cho riêng mình, nếu không thì nó bị giảm thiểu xuống chiều kích bấp bênh của nó.

Nếu đức tin “có” nơi người tin, thì họ không bị sự việc này ràng buộc họ vào một loại nô lệ, nhưng ngược lại họ được giải phóng.

Tuy nhiên, chúng ta phải nhanh chóng làm rõ, nếu đức tin “có” nơi người tin, thì họ không bị sự việc này ràng buộc họ vào một loại nô lệ, nhưng ngược lại họ được giải phóng. Dĩ nhiên, tự do này không phải là chủ quyền cũng không phải là không thể sai lầm. Nhưng nó rất thực tế, vì nó cho phép bạn lựa chọn và cự lại – không phải tùy tiện, mù quáng, mà sau khi đã lắng nghe và cảm nhận được chân trời mở ra cả phía trước phía sau, trong gương chiếu hậu, ngay cả khi ánh mắt không thể thấy mọi thứ cùng một lúc. Và những viễn cảnh này điều chỉnh lại và định hướng khác đi không chỉ những ý định dài hạn mà còn cả những phản ứng với các tác nhân kích thích hàng ngày.

Đức tin “có” ngay cả với những người không “có” đức tin

Điều đó nói rằng, điều quan trọng là phải ngạc nhiên, đức tin đã làm thay đổi người đã lấy đức tin làm tài sản riêng của mình, đức tin với một mạo từ xác định, như thể chỉ có một và hiển nhiên đối với mọi người. Tuy nhiên, có nhiều tín ngưỡng khác (tôn giáo hay không). Nhưng chúng giả định trước việc tuân thủ các giáo lý từ đó ít nhiều tuân thủ nghiêm ngặt, vì thế phải phục tùng – và đây không phải là đức tin vốn có trong kitô giáo. Do đó điều này không bao gồm việc tỏ ra ngoan ngoãn một cách vô điều kiện, mà là nắm bắt trước hết, Chúa muốn được yêu thương chứ không phải vâng lời, và Ngài ban sự sống của Ngài một cách vô vị lợi; và sau đó việc đáp ứng đầy đủ lời mời của Ngài sẽ vượt quá sức con người nếu không luôn sẵn sàng cho mối quan hệ vốn đã trực tiếp với Ngài qua mọi hình thức trung gian.

Ngày nay, khi đức tin này – “đức tin” đến mức không còn đức tin nào khác, nói một cách chính xác – không còn được tiếp nhận khi mới sinh ra nữa, chắc chắn chúng ta phải quyết định “có” nó. Nhưng nó không phải là đơn phương, và theo một nghĩa nào đó, đức tin “có” ở cả những người tuyên bố rằng họ không “có”, cũng như những người tuyên bố “có”, vì nó nghiệm thấy nơi cả hai, và không ai trong số họ có thể tự mình tìm ra điều họ đón nhận hay không. Đó là lý do vì sao chúng ta có thể và chúng ta thậm chí phải, không hạn chế hơn chính Thiên Chúa và ngược lại, để trung thành với Ngài, hãy thể hiện tình liên đới với tất cả những người có đức tin “có” kể từ khi họ nói về đức tin và những người “có” đức tin mà không nắm nó.

Marta An Nguyễn dịch