Home Blog Page 408

Đức Phanxicô cảnh báo thái độ “tôi cóc cần” của người trẻ

Đức Phanxicô cảnh báo thái độ “tôi cóc cần” của người trẻ

cath.ch, I.Media, 2022-10-30

Đức Phanxicô nói chuyện với gần 2.000 thanh niên công giáo Ý | © tin tức Vatican

“Các con là muối của đất, nhưng cẩn thận các con đừng để muối nhạt,” Đức Phanxicô nói với khoảng 2000 thanh niên công giáo Ý tại Hội trường Phaolô VI ngày thứ bảy 29 tháng 10 năm 2022.

Các bạn trẻ tham dự cuộc họp của Thanh sinh công tại Rôma, họ chào đón Đức Phanxicô trong bầu khí lễ hội vui vẻ. Ngài đi bộ chứ không ngồi xe lăn, ngài nhắc các bạn trẻ, giáo xứ vẫn phải là “gốc rễ” của sự dấn thân của họ trong đời sống kitô. Dù có những biến đổi xã hội, khung hình giáo xứ vẫn là nhịp sống, vẫn là nơi chúng ta học cách “lắng nghe Phúc âm, nhận biết Chúa Giêsu, để cầu nguyện cùng với cộng đoàn, để chia sẻ các dự án, các sáng kiến, để phục vụ không điều kiện, để cảm thấy mình là một phần của dân Chúa”.

Căn bệnh ‘tôi cóc cần’

Trong tương tác với đời sống giáo xứ, phong trào Hành động Công giáo là nơi “người tín hữu kitô quan tâm đến thực tế xã hội và dấn thân phục vụ”, điều đặc biệt nơi người trẻ là đôi khi họ có thái độ ‘tôi cóc cần’. Đức Phanxicô lên tiếng: “Xin các con cẩn thận vì căn bệnh ‘tôi cóc cần’ này còn nguy hiểm hơn cả bệnh ung thư. Ngài xin các bạn trẻ vun đắp ‘tình huynh đệ và tinh thần cộng đồng’ vốn đã bị suy yếu vì đại dịch, đã làm cho thái độ thoái lui trở nên bình thường. Ngài thừa nhận: “Tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng một chút với nền văn hóa ích kỷ này. Tình huynh đệ không thể ngẫu hứng và không phải chỉ được xây dựng bằng cảm xúc, khẩu hiệu, sự kiện”. Ngài mời gọi các bạn trẻ khẳng định mình là tín hữu có trách nhiệm, đáng tin cậy, ngài trích dẫn các nhân vật vĩ đại của Ý như Thánh Phanxicô, Thánh Clara thành Assisi, Thánh Maria Goretti như Carlo Acutis, Chiara Badano hoặc Pier Giorgio Frassati, “người là thành viên tích cực và nhiệt tình của Hành động Công giáo Ý”.

Đức Phanxicô nhấn mạnh vào nguồn gốc thiêng liêng mà người trẻ cần vun trồng, ngài xin họ nhìn Đức Trinh Nữ Maria để trau dồi và suy ngẫm về “cuộc đời của Chúa Giêsu, về các huyền nhiệm của Ngài” để thành công trong cuộc sống bình thường cách phi thường, nghĩa là với sự mới lạ của Thánh Linh, với sự mới lạ của Tin Mừng.

Marta An Nguyễn dịch

Niềm vui của đàn chiên tận tụy trước chuyến đi thăm ‘Mẹ Giáo hội’ Bahrain của Đức Phanxicô

Niềm vui của đàn chiên tận tụy trước chuyến đi thăm ‘Mẹ Giáo hội’ Bahrain của Đức Phanxicô
Ba trong số các giáo dân công giáo lâu đời nhất kể lúc nhà thờ công giáo vùng Vịnh được xây cách đây 83 năm.
Bà Najla Uchi, 78 tuổi, tại nhà của bà ở Manama, Bahrain. Ảnh: Khushnum Bhandari / The National
thenationalnews.com, Ramola Talwar Badam, 2022-10-26
Bên trong một biệt thự ở Bahrain, bàn thờ treo đầy các bức tranh và tượng Chúa Kitô là cây thánh giá gỗ khắc tay của người đã xây nhà thờ công giáo la mã đầu tiên trong vùng.
Những ngôi nhà của các gia đình công giáo đầu tiên trong vùng Vịnh có rất nhiều vật kỷ niệm quý giá như vậy, họ đã sống ở đất nước này trong nhiều thập kỷ.
Hàng ngày, bà Najla Uchi đều cầu nguyện với các tràng chuỗi Mân Côi và nến trước bàn thờ đầy màu sắc của bà.
Khi cúi đầu cầu nguyện, bà nhớ cha của bà là ông Salman Uchi, một nhà thầu Baghdad đã sống ở Bahrain vài năm, ông được giao nhiệm vụ xây dựng Nhà thờ Thánh Tâm năm 1939.
Hơn 80 năm trôi qua, nơi thờ tự lịch sử này sẽ đón Đức Phanxicô trong chuyến tông du lịch sử tháng 11 này.
Tôi yêu nhà thờ của tôi không phải vì do cha tôi xây dựng, nhưng vì đó là nơi các linh mục, các nữ tu và giáo dân đến cầu nguyện.
Bà Najla Uchi, con gái của một công dân Bahrain, người đã xây dựng nhà thờ đầu tiên ở vùng Vịnh
Bà Najla Uchi, 78 tuổi nói với báo The National: “Cha tôi đến Bahrain khi còn là một thanh niên ở Baghdad, và chúng tôi đã sống ở đây cả đời.
“Mọi người sống gần nhau và đi bộ đến nhà thờ. Tất cả chúng tôi như một gia đình. Sau khi cha tôi xây nhà thờ, mọi người đến đây để làm lễ rửa tội, rước lễ lần đầu, tất cả các lễ kỷ niệm.
“Không còn bao nhiêu người hồi đó còn lại bây giờ.”
Bà Uchi còn nhớ câu chuyện mẹ bà kể lại, trước khi nhà thờ được xây, giáo dân cầu nguyện ở nhà của một người hàng xóm, đó cũng là nơi trẻ em học giáo lý.
Từ trái sang phải: Savion Pinto, 10 tuổi, Honan Semona, 5 tuổi, Jeff Fernandes, 5 tuổi và Evanka Sequeira, 4 tuổi, tại Nhà thờ Thánh Tâm ở Manama, Bahrain. Ảnh của Khushnum Bhandari / The National
Bà tự hào với huy chương vàng của nhà thờ tặng cho sự phục vụ của cha bà và các bức ảnh đen trắng mờ nhạt của gia đình trong trang phục đẹp nhất ngày chúa nhật của họ.
Ông Uchi và gia đình sau đó được nhập quốc tịch Bahrain.
Nhà thờ trang trọng bằng đá và gỗ với xà nhà cao, tường ốp gỗ tếch, cửa sổ kính màu hình vòm được gọi là Nhà thờ Mẹ vì đó là nhà thờ đầu tiên được xây dựng ở vùng Vịnh.
Hàng ngày chuông nhà thờ vang lên để giáo dân biết thánh lễ sắp  bắt đầu.
Khu đất được người đứng đầu Bahrain thời đó, quan Hamad bin Isa Al Khalifa tặng, ông cai trị từ năm 1932 cho đến khi ông qua đời  năm 1942.
Theo tài liệu lưu trử của nhà thờ, vào những năm 1930, có khoảng 400 người công giáo từ Ấn Độ, Iraq và Anh ở Bahrain.
Cộng đoàn đã lớn rộng với hơn 80.000 người, với một nhà thờ lớn hơn xây dựng gần nhà thờ Manama ban đầu và một nhà thờ chính tòa lớn hơn nữa, nhà thờ Đức Bà Ả rập ở Awali, thị trấn phía nam thủ đô.
Trên hòn đảo nhỏ bé Bahrain, mọi người mong chờ chuyến tông du  4 ngày của Đức Phanxicô tháng 11.
Các vương miện vàng để tạ ơn
Các giáo dân lớn tuổi tìm kiếm những kỷ vật từ những mẩu báo đến những quyển sách về những cư dân công giáo đầu tiên, để cho thấy mối quan hệ lịch sử giữa nhà thờ với khu vực.
Cộng đồng gắn bó chặt chẽ với các linh mục, họ đến thăm các giáo dân lớn tuổi và giúp đỡ những người này trong thời kỳ khó khăn.
Cầu nguyện là điều không thể thiếu trong cuộc sống của bà Uchi. Các phòng trong biệt thự của bà vang lên các bài thánh ca Ả Rập phát từ truyền hình.
Bàn thờ cầu nguyện của Najla Uchi tại nhà riêng ở Manama, Bahrain. Khushnum Bhandari / Quốc gia
Bàn thờ được trang trí bằng những vương miện bằng vàng thu nhỏ, bà cẩn thận đặt trên các tượng Đức Mẹ bằng đá cẩm thạch và trên các bức tranh của Chúa Giêsu.
Đây là truyền thống tạ ơn được các thế hệ người công giáo trong vùng tiếp tục vì lời cầu nguyện của họ được nhậm lời.
Bà nói: “Tôi cầu nguyện xin sức khỏe cho người dân khi họ bị bệnh. Và khi lời cầu nguyện được nhậm lời, tôi đặt một chiếc vương miện lên đầu Chúa Giêsu.”
“Hàng năm tôi mời các linh mục và các nữ tu đến nhà tôi dịp lễ Giáng sinh. Các con tôi luôn ở bên cạnh tôi, và khi chồng tôi qua đời, các linh mục và nữ tu trở thành gia đình của tôi.
“Tôi yêu nhà thờ của tôi không phải vì cha tôi xây, nhưng vì các linh mục, các nữ tu và giáo dân đến đó cầu nguyện.
“Giáo hoàng sắp đến thật đặc biệt. Ngài đến để mang lại hòa bình nhưng tôi cũng muốn ngài đến để xem Bahrain chúng tôi.”
Tiếng chuông nhà thờ
Ông Alex Simoes, một trong những giáo dân công giáo lâu đời nhất của Bahrain, nhớ khi còn nhỏ, ông đã chạy ba chân bốn cẳng lên cầu thang tháp chuông để rung chuông.
Chuông đã im lặng từ vài năm nay, nhưng công việc đang hoạt động trở lại để làm đẹp nhà thờ.
Đức Phanxicô sẽ nói chuyện trước các linh mục và giáo dân tại nhà thờ ngày chúa nhật 6 tháng 11 trước khi ngài về Rôma.
Ông Simoes cầm tấm hình mẹ bồng em gái năm xây nhà thờ.
Ông Alex Simoes, 79 tuổi, gia đình đến từ Ấn Độ, một trong những người công giáo lâu đời nhất Bahrain, chụp cùng em gái – khi đó là một em bé trong vòng tay mẹ – năm 1939 là năm nhà thờ đầu tiên ở vùng Vịnh được xây ở Manama, Bahrain. Khushnum Bhandari / Quốc gia
Ông nói: “Em gái tôi là người đầu tiên được rửa tội ở nhà thờ năm 1939. Tôi đi bộ đến nhà thờ, thắp nến trước thánh lễ và chạy lên tháp chuông để rung chuông.
“Mọi người đến nhà thờ buổi sáng trước khi đi làm. Thời đó còn dâng thánh lễ bằng tiếng la-tinh.
“Bây giờ chúng tôi là những giáo dân lâu đời nhất; những người khác đã chết hoặc đã di cư”.
Sau khi đi học về, ông Simoes trở lại nhà thờ để thắp nến cầu nguyện cho giờ kinh tối và ông cùng ba người chị cùng dự giờ đọc kinh.
“Việc đến nhà thờ hàng ngày có ý nghĩa rất lớn với gia đình tôi.
“Và bây giờ giáo hoàng đến đây cũng có ý nghĩa rất lớn với chúng tôi.
Các buổi cầu nguyện được tổ chức bằng nhiều ngôn ngữ, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ả Rập và tiếng Ấn Độ như Konkani, Tamil, Malaylam và Hindi để phục vụ cộng đoàn rộng lớn của nhà thờ vào cuối tuần.
Thánh địa của hòa bình
Năm 1960, cô dâu trẻ Ấn Độ Florine Mathias dọn về Bahrain. Mối quan hệ của cô với nhà thờ rất bền chặt vì cô giúp những người kém may mắn trong xã hội, những người cần được hỗ trợ.
Nhà thờ cũng là nơi tổ chức các ngày kỷ niệm kim khánh, ngân khánh cho tất cả các lễ.
 
Bà Florine Mathias, 76 tuổi, tại nhà bà ở Manama, Bahrain. Khushnum Bhandari / Quốc gia
“Nhà thờ Mẹ là tòa nhà yên bình, nơi ai đã vào, không khi nào họ đi ra mà khóc – đó là kinh nghiệm của tôi.
“Giáo xứ này đã giúp tôi trưởng thành về mặt thiêng liêng.
“Tôi nhớ những ngày chuông nhà thờ rung năm phút trước thánh lễ, tôi chạy như bay đến cầu nguyện.
“Khi có ai qua đời, có tiếng chuông đặc biệt để chúng tôi biết và cầu nguyện cho họ.
“Hồi đó có rất ít gia đình, bây giờ vùng đất này có hàng ngàn người.”
Bà Florine Mathias cần cố gắng hết sức để có thể dự thánh lễ của Đức Phanxicô dâng tháng 11, bà đang tỉnh dưỡng vì xương hông bị gãy sau chuyến đi Florida gần đây của bà.
Bà quyết tâm có mặt tại Sân vận động Quốc gia Bahrain ngày 5 tháng 11 cùng với 28.000 giáo dân để nghe Đức Phanxicô nói chuyện.
Đa số giáo dân sẽ đến từ Bahrain, với tỷ số 2.000 ngàn tín hữu từ Ả Rập Xê-út và 500 tín hữu từ Qatar, Oman và Ả rập thống nhất.
Người dân xem chuyến tông du của Đức Phanxicô là bằng chứng cho sức mạnh của cộng đồng công giáo nhỏ bé nhưng năng động ở Bahrain.
Bà Mathias nói: “Tôi không biết tôi có đứng lâu được không nhưng tôi sẽ xoay sở. Giáo hoàng đến với chúng tôi là điều phi thường.”
“Từ trái tim tôi, tôi biết, đây là nhà của tôi, tôi đã sống ở đây, đây là đất nước thân tình và nhân ái.
“Giáo hoàng đến thăm nhà của chúng tôi để gởi thông điệp hòa bình, chữa lành và hạnh phúc.
“Đó là khoảng thời gian ân phúc cho tất cả chúng tôi. Lời cầu nguyện của chúng tôi đã được nhận lời.”
Marta An Nguyễn dịch
Bài đọc thêm: Chương trình chuyến đi Bahrain của Đức Phanxicô
Vì sao Đức Phanxicô muốn đến thăm Bahrain, nước quân chủ hồi giáo

Đức Bênêđíctô XVI đau khổ rất nhiều về tình trạng Giáo hội hiện nay  

Đức Bênêđíctô XVI đau khổ rất nhiều về tình trạng Giáo hội hiện nay

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tác giả Peter Seewald và giám mục thư ký riêng Georg Gänswein của Đức Bênêđíctô XVI bên cạnh ngài ngày 22 tháng 10-2022

Ông Peter Seewald, nhà viết tiểu sử Đức Bênêđíctô XVI cho biết, ngài đau khổ rất nhiều về tình trạng của Giáo hội hiện nay. Ông tham dự cuộc Hội thảo sinh nhật 95 của ngài.

religion.elconfidencialdigital.com, Marthe Santin, 2022-10-27

Ông Peter Seewald, nhà văn, nhà báo, người viết tiểu sử của Đức Bênêđíctô XVI nói trong trong buổi Hội thảo tổ chức nhân dịp sinh nhật lần thứ 95 của giáo hoàng danh dự: “Ngài là giáo hoàng sống lâu nhất. Tôi gặp ngài cách đây 15 ngày và tôi nghĩ ngài đau khổ nhiều trước tình trạng Giáo hội hiện nay. Ngài nói với tôi. Có lẽ Chúa cho tôi còn sống ở đây để làm chứng cho thế giới. Đức Bênêđíctô XVI cho rằng nếu Giáo hội không làm những gì phải làm, thì sẽ có hậu quả cho thời chúng ta đang sống. Ngài đau khổ rất nhiều và chúng ta sẽ thấy trong những năm tới, ngài sẽ đi vào lịch sử như thế nào, nhà văn là một trong những người hiểu Đức Bênêđíctô XVI nhiều nhất.

Hình ảnh của Đức Ratzinger, bị bóp méo

Trước những câu hỏi của người điều hành buổi hội thảo, ông José Francisco Serrano, cộng tác viên của trang Religión Confidencial nói đến những bất công lớn nhất mà Đức Ratzinger phải gánh chịu, ông Seewald nói xã hội xem ngài là người phản động, nhưng lại không nói lên nhân cách thực sự của ngài, ông tố cáo cách giới truyền thông bóp méo hình ảnh của Đức Ratzinger.

Theo nhà báo, người chưa phải là người hâm mộ Đức Ratzinger khi gặp ngài lần đầu, Đức Bênêđíctô là người chân chính, vì ngài nói những gì ngài nghĩ và làm những gì ngài nghĩ. Theo Đức Ratzinger, cải cách là để soi sáng đức tin trong thời điểm hiện tại và phải có can đảm là người không-hiện đại.

Ngài rất khiêm tốn

Tác giả Seewald nói: “Rất dễ dàng để nói chuyện với ngài. Ngài rất khiêm tốn và không phải là người dò xét. Bạn có thể chỉ trích ngài, nhưng những gì ngài nói là đáng nghe.”

Theo ông, điều ngạc nhiên là mọi phân tích của ngài về Giáo hội đều thành sự thật. Ngài nói: “Khi con người xa cách Chúa thì xã hội đau khổ.”

Ngay từ năm 1970, ngài tiên đoán tương lai của Giáo hội sẽ là một nhóm rất nhỏ nhưng có đức tin vững chắc. Ngài nói đúng về nhiều chuyện, nhưng không đúng về sức khỏe của ngài, khi được bầu chọn, ngài nghĩ trong vài năm Chúa sẽ gọi ngài về, và khi ngài từ nhiệm, ngài nghĩ Chúa sẽ cho ngài sống thêm vài tháng. Và bây giờ đã hơn 8 năm, ngài đã đạt kỷ lục mới.

Đức Phanxicô ca ngợi công trình thần học của Bênêđíctô XVI

Ông Peter Seewald trong buổi hội thảo về Đức Bênêđíctô XVI Buổi Hội thảo cũng là dịp để nhắc lại, dù có sự khác biệt rõ về phong cách, nhưng Đức Phanxicô không đối nghịch với Đức Bênêđíctô XVI. Đức ông Markus Graulich, Thứ trưởng Bộ Văn bản Lập pháp và Chủ tịch Hiệp hội Thần học Giáo hội, nhắc lại lời Đức Phanxicô: “Công trình thần học của Đức Bênêđíctô XVI đã xếp ngài trong số những thần học gia vĩ đại thừa kế Thánh Phêrô. Ngài thực sự là người của đức tin và của cầu nguyện, một người của hòa bình và của Thiên Chúa.”

Đức ông Markus nói tiếp: “Vì thế những người nghĩ họ phải lập luận một cách hệ thống chống lại thần học của Đức Bênêđíctô XVI thì họ đi ngoài lề tư tưởng của Đức Phanxicô.” Ngài ca ngợi công trình của Đức Bênêđíctô XVI về: phụng vụ, thăng tiến gia đình kitô, bảo vệ chân lý và sự hiệp nhất đức tin. Mọi công việc của ngài đều dẫn đến trọng tâm Tin Mừng, đến cuộc gặp với Chúa Kitô và sự thật, và sự thật giải thoát”.

Các khủng hoảng lạm dụng và quên Chúa

Linh mục giáo sư Carlos Granados, nhà xuất bản toàn bộ tác phẩm của Joseph Ratzinger / Benedict XVI cũng tham gia buổi Hội thảo. Linh mục khẳng định giáo huấn thần học của giáo hoàng danh dự trong suốt sứ vụ của ngài: “Thần học của Bênêđíctô XVI là nói về Chúa, nói đúng về Chúa.”

Về cuộc khủng hoảng lạm dụng, nỗi khổ lớn lao của Đức Bênêđíctô XVI, ngài đã tận dụng mọi phương tiện trong tay để hành động và ngài là người đưa ra thuật ngữ Không khoan nhượng, và ngài đã không được hiểu rõ, linh mục Granados kể lại, Đức Bênêđíctô XVI đã để lại một số ghi chú về việc này nhưng hiếm khi được dùng, ngài đưa ra các chìa khóa để thanh tẩy Giáo hội. Giáo hoàng giải thích khủng hoảng lạm dụng là quên Chúa.

Đó là cốt lõi của Đức Ratzinger. Thiên Chúa mà Đức Bênêđíctô XVI nói đến là một Thiên Chúa tạo dựng, trọng tâm thần học của ngài. Linh mục Granados nói: “Đó không phải là một Thiên Chúa đáp ứng với xã hội dân chủ, một Thiên Chúa thích ứng với những nhạy cảm của một thời đại nào đó, nhưng một Thiên Chúa luôn gặp con người.”

Thiên Chúa không phải là người không có tương quan

Theo linh mục, Thiên Chúa của Đức Bênêđíctô XVI có hai đặc điểm: “Chính Chúa là biểu tượng, là nguồn gốc hợp lý của mọi thực tại, là lý do sáng tạo. Và đặc điểm thứ hai phù hợp với đức tin kitô giáo để hiểu Chúa là tình yêu. Ngài không phải là một thực thể không có các mối quan hệ chung quanh, vì chính xác Ngài là Đấng Tạo dựng bao gồm tất cả, ngài là tương quan và tình yêu. Đức tin vào nhập thể và sự thương khó của Chúa là biểu hiện cao nhất của xác tín này.”

Về phần mình, giáo sư Fernando Palacios, giáo sư giáo luật tại Giáo hoàng Học viện Salamanca nói tầm nhìn của Đức Ratzinger về phụng vụ: “Phụng vụ có trước chúng ta, phụng vụ không theo ý muốn của Giáo hội. Giáo hoàng là người canh gác, bảo đảm truyền thống và vâng lời, chúng ta không thể làm gì chúng ta muốn.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Một số suy nghĩ về sự chi phối qua vụ giám mục Santier

Một số suy nghĩ về sự chi phối qua vụ giám mục Santier

Sau vụ cựu giám mục Michel Santier, giáo phận Créteil, nữ tu Dòng Đa Minh, bác sĩ làm việc trong nhà tù, thần học gia Anne Lécu nhìn lại các cơ chế và hậu quả của những vụ tai tiếng ảnh hưởng đến Giáo hội.

lavie.fr, nữ tu Anne Lécu, 2022-10-28

 

 

 

 

 

 

 

 

Nữ tu Anne Lécu là bác sĩ làm việc trong nhà tù. Quyển sách mới nhất của sơ Để anh chị em sinh hoa kết quả (Afin que vous donniez du fruit, nxb. Du Cerf)  HANNAH ASSOULINE / OPALE. PHOTO

Triết gia do thái Hannah Arendt viết trong quyển Hệ thống Toàn trị: “Điều mà dư luận quần chúng và những người bình thường từ chối tin, đó là tất cả đều có thể xảy ra.” Lỗi đầu tiên của các giám mục trong “vụ Santier” (dù báo cáo Ciase đã được công bố, nhưng nếu họ đã đọc toàn bộ – điều mà chúng ta mong) là lỗi khinh suất, thậm chí là thư thái dẫn họ đến việc tin vào giám mục Santier khi ông đảm bảo không có nạn nhân nào khác, và do đó phải giữ im lặng. Giám mục Dominique Lebrun viết trong thông cáo báo chí ngày 20 tháng 10 năm 2022: “Những sự việc không thể tưởng tượng được.”

Bác sĩ tâm thần Thierry Baubet tham dự vào công việc của ủy ban Ciase trả lời trên Twitter, ông ngạc nhiên: “Làm thế nào, một năm sau báo cáo Ciase, chúng ta lại có thể nói một ‘sự thật không thể tưởng tượng được’? Những sự việc này đã được suy nghĩ, mô tả, nghiên cứu các cơ chế dẫn đến sự duy trì và vô hình hóa của chúng đã được mổ xẻ.”

Đừng ấu trĩ hóa giáo dân

Một hình thức khinh suất khác cho thấy khi giám mục Pierre d’Ornellas trả lời trên Vatican News ngày 21 tháng 10 năm 2022: “Làm thế nào để nói lên sự thật, đi kèm với lời sự thật này để những người bị tổn thương bởi sự thật nhận được lời giúp họ tiến tới đằng trước?” Hiểu gì đây? Hiểu rằng giáo dân sẽ không thể mang gánh nặng lỗi lầm của một trong số các mục tử của họ là cách ấu trĩ hóa giáo dân một cách lạ lùng. Từ nhiều tháng nay, giáo dân mang gánh nặng này, và nạn nhân còn mang nặng hơn.

Vụ giám mục Santier: “Giám mục chúng tôi cần những cái nhìn có hiệu năng để khuyến khích chúng tôi, ảnh hưởng đến chúng tôi, sửa chữa chúng tôi”

Khi Thánh Phaolô viết cho tín hữu Rôma: “Bổn phận của chúng ta, những người có đức tin vững mạnh, là phải nâng đỡ những người yếu đuối, không có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích của mình.” (Rm 15: 1), ai là người mạnh, ai là người yếu? Đọc những phản ứng can đảm của các nhân chứng và giáo dân giận dữ, trong đầu tôi nảy ra ý nghĩ, chính giáo dân và trong tâm hồn họ, những người bị bầm dập nhất phải gánh chịu sự yếu đuối của các mục tử của họ.

Những suy nghĩ mới về vụ giám mục Santier…

Và còn chuyện thư thái, giao cho một người làm tuyên úy một cộng đoàn, một người vừa bị phạt, mà không báo trước cho cộng đoàn về sự thật nghiêm trọng này, không nghĩ có thể có một nữ tu hay một người khác mà với họ sẽ xảy ra chuyện không thể tưởng tượng, chuyện không thể xảy ra, ngắn gọn không cho họ có một chọn lựa, một chọn lựa trưởng thành và tự nguyện, được mọi người thảo luận sao?

Hiểu và giữa nỗi sợ hãi

Một số người ngạc nhiên khi hai người báo động đầu tiên đã không phản ứng khi Michel Santier thành giám mục. Đó là lỗi thứ hai khi hiểu sai điểm này, điều gì tạo ra sự chi phối, do quyến rũ và thao túng. Khi một người quyết định báo cáo tội ác của một người có ánh hào quang gây ra cho họ, họ cần rất nhiều can đảm để đối diện với nỗi sợ. Vì đó là điều quyết định để họ lên tiếng hay im lặng, sợ hãi, vẫn còn đó sau ba mươi năm. Dĩ nhiên cần phải sống với nó để hiểu và để chấp nhận.  Nhưng sợ điều gì? Sợ không được tin. Sợ tạo sóng thần trong giới truyền thông. Sợ làm hư hình ảnh được mọi người tôn kính. Sợ hậu quả, sợ mất việc, sợ cho gia đình.

Nỗi sợ hãi này được mô tả rất rõ trong luật hình sự và đặc trưng cho “sự lạm dụng gian dối trước tình trạng yếu đuối của những người bị đặt trong tình trạng lệ thuộc”. Trong điều hai 223-15-2 nhắm cụ thể đến thực tế “người lãnh đạo sự việc hay quyền của nhóm theo đuổi các hoạt động có mục đích hoặc tác dụng là tạo ra, duy trì hoặc khai thác sự lệ thuộc tâm lý hoặc thể chất của những người tham dự vào các hoạt động này…”. Trải nghiệm và lắng nghe những người đã chịu đựng cho thấy tính dễ bị tổn thương không phải là điều kiện tiên quyết đưa đến việc chi phối nhưng là hệ quả của nó.

Vụ giám mục Santier: các giám mục Pháp công nhận những tiến bộ cần làm để minh bạch

Việc thoát y một người trong bí tích hòa giải cho thấy tính dễ bị tổn thương là vô cùng lớn, là mô hình của một hoạt động “tạo ra và khai thác sự lệ thuộc về tâm lý và thể lý“ của một người. Chi phối tự nó (chưa nói đến tấn công tình dục) ít nhất là một tội ác, và không chỉ là một lạm dụng thiêng liêng. Chi phối tạo nên nỗi sợ này, thiết đặt nó. Ba mươi năm sau, những người phải chịu đựng nó vẫn còn khóc.

Chỉ có lời chân thật, táo bạo, dũng cảm, nói thẳng mới có thể đi ra khỏi tình trạng khống chế này. Điều bất hạnh, cho đến ngày nay, với những gì được tiết lộ nhỏ giọt trong những vụ tai tiếng lớn này đã làm im bặt mọi lời nói uy tín, và từ đó là im bặt lời Tin Mừng của các mục tử có nhiệm vụ phải làm. Một nổi buồn vô hạn.

Một kỷ luật giáo hội với hình dạng biến đổi bất thường

Cuối cùng, không còn có thể tồn tại một kỷ luật Giáo hội với kiểu thay đổi tùy theo đó là giáo sĩ phạm pháp hay giáo dân ly dị. Trên báo La Croix ngày 24 tháng 10, giám mục Pascal Wintzer đã nói lên điều này: “Ngay khi một linh mục bị kết tội  hoặc phạm tội tấn công tình dục đã thụ án, thì họ không còn là mối nguy hiểm, không cất chức thánh của họ, thì giáo dân cũng không thể chịu đựng được khi thấy họ dâng thánh lễ. Không thể sang trang, đối với các nạn nhân thì không thể, bạo lực họ đã phải chịu, đã hành hạ họ không ngừng.”

Người này đã phạm tội ác, không những không bị xa bàn thánh thể mà đôi khi còn dâng thánh lễ; người kia buộc không được rước lễ, vì họ đã làm lại cuộc đời sau khi hôn nhân lần đầu thất bại, điều này không phải là tội ác cũng không phải là vi phạm. Đây là vấn đề thần học nghiêm trọng không thể giải quyết trong một vài dòng. Và cũng không còn có thể có tiếng nói có thẩm quyền với bất kỳ vấn đề nào, huống chi là về đạo đức tình dục, có lẽ phải còn trong nhiều năm nữa.

Ở Versailles, các lệnh trừng phạt liên quan đến một linh mục nghỉ hưu được tiết lộ ở linh mục đoàn… sau khi linh mục này qua đời

Không thể không nghe không nghe lệnh của Thánh Phaolô nói với các tín hữu Cô-rinh-tô phải biết phân định cơ thể: “Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình.” (1 Cr 11: 27-29).

Và đó là điều phải “phân định cơ thể.” Nhiệm thể của Chúa cũng là thân thể mà Ngài đã chọn để cư ngụ, là thân thể con người, bị phàm tục trong các vụ lạm dụng, và thân thể của giáo hội, bị xé nát vì các vụ tai tiếng đã làm cho lời thẩm quyền không còn uy tín, không còn ai muốn nghe, và vì thế không thể nghe được Tin Mừng: sự gần gũi của Chúa với mỗi người. Nhiệm thể của Chúa hiện diện trên bàn thờ, là một nhiệm thể tan nát, và đó là điều chúng ta cử hành. Vào tay chúng ta, nhiệm thể như bị khâu lại, đứng vững trong Ngài nhờ hiệp thông. Nhưng những vụ tai tiếng đã làm một số người giữ đạo nhất xa Chúa. Chúng ta, những người chậm hiểu (kể cả tôi), chúng ta sẽ phải giải thích cho sự ra đi âm thầm của họ, cho sự hiệp thông phá toang và toang hoác này, đã làm cho những người tuyệt vọng phải ra đi.

Điều 223-15-2 của bộ luật hình sự

Hình phạt ba năm tù và 375 000 âu kim cho các vụ lạm dụng gian dối về tình trạng thiếu hiểu biết hoặc tình trạng yếu ớt của trẻ vị thành niên hoặc của một người đặc biệt dễ bị tổn thương do tuổi tác, bệnh tật, khuyết tật, thiểu năng thể chất, thiểu năng tinh thần hoặc đang mang thai, khi đương sự vi phạm biết rõ tình trạng của một người ở trong tình trạng lệ thuộc tâm lý, thể lý do áp lực nặng, lặp đi lặp lại, hoặc những kỹ thuật làm suy yếu khả năng phán xét, để thực hiện một hành động hoặc không can thiệp có hại nghiêm trọng trẻ vị thành niên hoặc cho người dễ bị tổn thương.

Khi hành vi phạm tội được thực hiện bởi người lãnh đạo hoặc của một nhóm theo đuổi các hoạt động có mục đích hoặc tác động là tạo ra, duy trì, lợi dụng sự lệ thuộc về tâm lý hoặc thể lý của những người vi phạm các hoạt động này, hình phạt sẽ tăng lên năm năm tù và phạt 750.000 âu kim.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Lạm dụng trong Giáo hội: nhiều cuộc tập họp của người công giáo đã được công bố vào cuối tuần này tại Pháp

Năm 2021 có 34.000 giáo dân Thụy Sĩ rời bỏ Giáo hội công giáo

Năm 2021 có 34.000 giáo dân Thụy Sĩ rời bỏ Giáo hội công giáo

cath.ch, Bernard Hallet, 2022-10-28

Số giáo dân rời bỏ Giáo hội công giáo Thụy Sĩ phá kỷ lục mới vào năm 2021 | © Pixabay

Trong một công bố ngày 28 tháng 10-2022, Viện Xã hội học Mục vụ Saint-Gall cho biết, năm 2021 đã có 34.000 giáo dân rời bỏ Giáo hội công giáo, nhiều hơn 2.500 người so với năm 2019, năm đạt kỷ lục trước đó trong lĩnh vực này. Tuy nhiên kết quả này chưa đầy đủ vì có sự khác biệt rất lớn giữa các bang. Viện Xã hội học mở cuộc điều tra có tên “Các vụ rời bỏ Giáo hội và câu hỏi tại sao”.

Năm 2021 có 34.182 giáo dân rời bỏ Giáo hội công giáo Thụy Sĩ. Năm 2020 là 31.410 người và năm 2019 là 31.772. Vào cuối năm 2021, Giáo hội công giáo có khoảng 2,9 triệu giáo dân.

 Các bang Geneva, Vaud, Valais và Neuchâtel có it giáo dân rời bỏ hơn

Theo phân tích của Viện Xã hội học, số lượng giáo dân ra đi vẫn ở mức rất cao, năm 2021, trên cả nước tỷ lệ ra đi trung bình là 1,1%. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các vùng là rất nổi bật. Thực tế là các bang Geneva, Valais, Neuchâtel và Vaud ít có giáo dân ra đi hơn.

Ghi nhận này là do cách tổ chức khác nhau của các Giáo hội ở các bang này; trên thực tế không có cấu trúc chính thức nào cho với gắn kết với Giáo hội, thường liên hệ đến nghĩa vụ đóng thuế bắt buộc của giáo hội, một cấu trúc mà từ đó giáo dân đơn thuần ra đi. Nếu loại trừ các bang trên ra khỏi danh sách thống kê, thì con số trung bình của năm 2021 là 1,5% và năm 2020 là 1,4%.

Ngược với sự ra đi, việc gia nhập Giáo hội đã giảm ở mức thấp nhất từ nhiều năm nay, nhưng dù sao cũng có một sự gia tăng nhẹ. Năm 2021, có 910 người vào đạo công giáo, năm 2020 có  735 người và năm 2019 có 885 người.

Vì sao lại có những con số như vậy và tại sao hàng năm có hàng ngàn người rời bỏ Giáo hội?

 Không tin tưởng vào Giáo hội

Trong số các lý do ra đi, những người ra đi cho biết về cách họ nhìn Giáo hội, những bất đồng của họ với lập trường của huấn quyền: nhất là trong các vấn đề vai trò của phụ nữ, đồng tính, phá thai và độc thân của các linh mục. Một số giải thích sự ra đi của họ sau các kinh nghiệm tiêu cực với những người làm việc mục vụ hoặc với ban tuyên úy.

Nghiên cứu cũng ghi nhận sự mất lòng tin chung chung của họ với Giáo hội. Họ nói đến những đặc quyền mà Giáo hội được hưởng trong xã hội. Ngoài ra có một số người thấy các văn phòng của Giáo hội công giáo cứng nhắc, lạnh lùng, “lỗi thời” hoặc dị ứng với cách đối xử, các thực thi quyền lực của thứ bậc trong Giáo hội công giáo.

Những người ra đi còn nghi ngờ cách quản lý các quỹ được giao phó cho Giáo hội có quản lý đàng hoàng hay không. Cuối cùng, Viện Xã hội học cho biết có một số người muốn đóng thuế ít hơn, hình ảnh cũng như danh tiếng xấu của Giáo hội cũng là lý do để họ ra đi.

Nghiên cứu cũng đưa ra nhiều lý do đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau.

Ở các Giáo hội Cải cách tin lành có ít giáo dân ra đi hơn

Để có một con số so sánh, năm 2021 có 28.540 người rời bỏ Giáo hội Cải cách tin lành, năm 2020 có 27.040 người. Giáo hội tin lành có 1,96 triệu giáo dân cuối năm 2021, như thế, Giáo hội công giáo có hơn 1 triệu giáo dân so với Giáo hội tin lành.

Năm 2020, theo khảo sát của Văn phòng Thống kê Liên bang, có khoảng 33,8% dân số Thụy Sĩ thuộc Giáo hội công giáo la-mã, 30,9% nói họ không thuộc tín ngưỡng nào và 21,8% thuộc Giáo hội Cải cách tin lành.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Sáu phụ nữ công giáo Thụy Sĩ vùng nói tiếng Đức rời Giáo hội

Điều gì đã làm Đức Phanxicô mất nhiều thì giờ để thay đổi giới lãnh đạo cao cấp của Vatican?

Điều gì đã làm Đức Phanxicô mất nhiều thì giờ để thay đổi giới lãnh đạo cao cấp của Vatican?

international.la-croix.com, Robert Mickens, 2022-10-07

Họ là một nhóm nhỏ những người lớn tuổi, một số quá tuổi hưu của các giám mục công giáo.

Nhìn vào tên và số tuổi của những người đứng đầu các văn phòng quan trọng nhất Vatican, quý vị sẽ nhận ra đó là cấp điều hành cơ quan hành chính trung ương của Giáo hội.

Người ta nghĩ một khi Đức Phanxicô hoàn thành việc cải tổ Giáo triều la-mã, ngài sẽ bắt đầu phát các đồng hồ vàng cho những người thuộc cấp lão thành này – hầu hết họ là những người ngài “thừa kế” từ Đức Bênêđíctô XVI – và sẽ thay thế họ bằng những người có nghị lực và tầm nhìn để thực hiện cải cách.

Cuộc cải cách chủ yếu đã được hệ thống hóa với việc công bố tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng Praedicate Evangelium ngày 19 tháng 3 – gần bảy tháng trước. Và tông hiến có “hiệu lực trọn vẹn” ngày chúa nhật lễ Hiện Xuống 5 tháng 6 – hơn bốn tháng trước.

Tuy nhiên, cho đến nay chỉ có hai trong số 16 phân bộ và chín văn phòng chính khác đã được thay đổi. Hai trong số hai mươi lăm.

Và cũng cho đến nay, giáo hoàng chỉ đơn thuần chuyển các giám chức hiện tại của Vatican sang các chức vụ mới trong Giáo triều. Ngài đã làm ngày 26 tháng 9.

 Trò chơi đổi ghế trong ban nhạc

Hồng y Bồ Đào Nha José Tolentino de Mendonça, 56 tuổi, người đứng đầu Thư viện Tông tòa bốn năm qua, được bổ nhiệm làm bộ trưởng Bộ Văn hóa và Giáo dục. Ngài thay thế tổng giám mục Ý Angelo Vincenzo Zagi, 72 tuổi, 10 năm vừa qua tổng giám mục là thư ký (số 2) của Bộ Giáo dục Công giáo cũ.

Đức Phanxicô cũng bổ nhiệm giám mục người Ý Giovanni Cesare Pagazzi, 57 tuổi, giáo sư tại Viện Gioan-Phaolô II về Hôn nhân và Gia đình có trụ sở ở Rôma làm thư ký bộ Văn hóa và Giáo dục.

Và cho đến bây giờ, trò chơi đổi ghế trong ban nhạc này là tất cả những gì đã có.

Ngoại trừ bộ Truyền giáo Phúc âm hóa, văn phòng thừa kế ‘Propaganda Fide’ và hiện bao gồm Hội đồng Tòa Thánh ngắn hạn cổ võ Tái Loan báo Tin Mừng (được thành lập vào năm 2012).

Bộ này được liệt kê là bộ phận hàng đầu của Vatican trong việc Rao giảng Tin mừng. Và bộ có tân bộ trưởng – Đức Phanxicô. Điều này tương tự như thời tiền Công đồng Vatican II (1962-65) khi văn phòng giáo lý là quan trọng nhất và giáo hoàng là bộ trưởng của nó.

Trong tác động này, những người đứng đầu hai văn phòng vừa được kết hợp – hồng y người Philippin Luis Tagle (bộ Truyền giáo các dân tộc) và tổng giám mục Ý Rino Fisichella (bộ Tân Phúc âm hóa) – đều không có chức danh riêng.

Liệu hồng y Tagle, 65 tuổi, người được xem là có thể trở thành giáo hoàng, sẽ ở lại với tư cách là hồng y thư ký hay ngài  sẽ được chuyển đến một chức vụ khác bên trong Vatican?

Và tổng giám mục Fisichella, 71 tuổi, người từng được xem là  ngôi sao đang lên trong số các thần học gia của Giáo hội thì sao? Liệu ngài có chính thức được cho là nhân vật số 2 tại bộ Truyền giáo hay Đức Phanxicô sẽ giao cho ngài một công việc khác trong Giáo triều?

Học thuyết và các giám mục

Chúng ta không biết vì sao Đức Phanxicô lại chờ quá lâu để thay thế những người đứng đầu các cơ quan quản lý học thuyết, các giám mục, các Giáo hội Đông phương, và các dòng tu. Mỗi người trong số họ đều đã quá tuổi nghỉ hưu bình thường là 75 tuổi.

Hồng y Luis Ladaria, 78 tuổi, tu sĩ Dòng Tên người Tây Ban Nha, là bộ trưởng Bộ Tín Lý, Đức Bênêđíctô XVI đã bổ nhiệm cựu giáo sư Đại học Gregorian làm thư ký bộ từ năm 2008, như thế ngài ở Bộ Tín Lý đã 14 năm.

Đức Phanxicô bổ nhiệm hồng y Ladaria làm bộ trưởng năm 2017 để thay thế hồng y Gerhard Müller, lúc đó mới 69 tuổi. Hồng y Müller người Đức lúc đó mới phục vụ 5 năm ở chức vụ này và giáo hoàng giải thích, nhiệm kỳ ở Bộ Tín Lý chỉ 5 năm. Hồng y Ladaria đã hoàn thành năm thứ năm ngày 1 tháng bảy – tức là ba tháng trước.

Bộ Giám mục là một bộ chính khác đang chờ thay đổi ở cấp cao. Và tất cả mọi người đều mong đợi đây sẽ là một sự kiện lớn.

Hồng y người Canada gốc Pháp Marc Ouellet đã 78 tuổi và đã làm bộ trưởng 12 năm. Gần với thần học bảo thủ của Đức Bênêđíctô XVI, nhiều người thắc mắc vì sao Đức Phanxicô giữ hồng y Ouellet ở vị trí chủ chốt này hơn ba năm sau tuổi nghỉ hưu. Phụ tá hồng y là tổng giám mục Ilson de Jesus Montanari, người Brazil 63 tuổi được Đức Phanxicô bổ nhiệm chỉ vài tháng sau triều giáo hoàng của ngài. Như thế tổng giám mục đã tại vị được chín năm.

Những người làm việc ở Vatican trầm ngâm

Một người Brazil khác – hồng y João Bráz de Aviz, 75 tuổi – là một nhà lãnh đạo hàng đầu khác của Giáo triều có từ thời Đức Bênêđíctô XVI. Ngài được bổ nhiệm đứng đầu bộ các Dòng tu nam nữ năm 2011, như thế ngài đã ở đây 13 năm.

Nhân vật số 2 của ngài là tổng giám mục Tây Ban Nha Jose Rodriguez Carballo đã tại vị gần mười năm. Ngài là người đầu tiên được Đức Phanxicô bổ nhiệm sau khi ngài được bầu chọn vào tháng 3 năm 2013, là cựu bề trên Tỉnh dòng Tiểu đệ Phanxicô năm nay 69 tuổi. Liệu Đức Phanxicô có chuyển tổng giám mục lên ghế bộ trưởng không?

Và, cuối cùng là bộ các Giáo hội Đông phương được đặt dưới sự chỉ đạo của hồng y Argentina Leonardo Sandri từ 15 năm qua. Ngài là nhà ngoại giao lâu đời của Vatican, người từng là nhân vật hậu trường quan trọng của triều Đức Gioan-Phaolô II và sẽ 79 tuổi vào tháng tới.

Thư ký mục vụ của ngài là tổng giám mục Ý Giorgio Demetrio Gallaro, đã đến Hoa Kỳ và gia nhập Giáo hội Melkite Hy Lạp ở đây. Ngài được bổ nhiệm làm nhân vật số 2 cách đây chưa đầy hai năm, nhưng ngài sẽ 75 tuổi vào tháng 6 năm sau.

Cuối cùng thì khi nào Đức Phanxicô sẽ thay đổi các nhà lãnh đạo già nua này của Giáo triều la-mã? Người ta cho rằng, Đức Phanxicô đang giữ kín kế hoạch của riêng mình, vốn đã là phong cách làm việc trong thời gian gần đây của ngài.

Vì lý do này, những người làm việc tại Vatican rất trầm ngâm. Một số thực sự lo lắng. Và hầu hết đều mất tinh thần.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: “Người áo trắng ở đó”: khi giáo hoàng ra dấu

Ở Hoa Kỳ gia đình Toni và Nick tiếp nhận người vô gia cư vào nhà họ

Ở Hoa Kỳ gia đình Toni và Nick tiếp nhận người vô gia cư vào nhà họ

 

 

 

 

 

 

 

Gia đình Toni và Nick với người vô gia cư họ đón nhận. Hình của Toni Baier

fr.aleteia.org, Theresa Civantos Barber, Cécile Séveirac, 2022-10-26

Tại Hoa Kỳ, hiệp hội Lều Thiêng (Sacred Tent) mang đến cho người vô gia cư chịu cảnh cô đơn và nghèo đói mái ấm gia đình  và bầu khí sống của gia đình kitô. Toni và Nick là tấm gương cụ thể và sống động lời dạy của Chúa Kitô: “Những gì anh em làm cho người thấp bé nhất là anh em làm cho Ta”.

Câu: “Ngày tôi gặp tai ương hoạn nạn, Người che chở tôi trong lều thánh, đem giấu tôi thật kín trong nhà, đặt an toàn trên tảng đá cao” của Thánh vịnh 27 là kim chỉ nam của hiệp hội Lều Thiêng, với sứ mệnh cung cấp chỗ ở, thức ăn, cũng như tình cảm và đời sống cầu nguyện cho những người cần đến nhất. Hiệp hội cung cấp nơi ở cho người vô gia cư ở ngoại ô Chicago, và quy tụ các gia đình sẵn sàng cho người vô gia cư hội nhập vào cuộc sống hàng ngày của họ. Đó là “Nhà Công nhân Công giáo” một hiệp hội do bà Dorothy Day thành lập năm 1933. Dorothy Day là nhà báo Mỹ, có quá khứ nỗi loạn, bà trở lại đạo công giáo và trở thành Tôi tớ Chúa cho chứng nhân đức tin và công việc xã hội của bà.

Toni và Nick Baier gia nhập cộng đoàn “Công nhân Công giáo” này được gần bốn năm. Họ có bốn người con và sắp có đứa thứ năm, họ tiếp nhận tổng cộng là mười hai người từ khi họ mở cửa căn nhà cho người vô gia cư. Bà Toni, mẹ gia đình giải thích như bà Dorothy Day đã giải thích, “muốn đối xử với mọi người như chính họ là Chúa Kitô”: “Chúng tôi tự nói, nếu chúng tôi sống trọn vẹn cuộc sống gia đình này ở nhà, chúng tôi có thể mời những người sống một mình chia sẻ với chúng tôi.”

Hình của Toni Baier

Hai người đã có kinh nghiệm phục vụ nhân đạo trong ba tháng, nhanh chóng họ cảm thấy được kêu gọi “sống đời sống hiếu khách triệt để”. Họ tiếp nhận những người đang cần đến họ trong một thời gian tạm thời (tối đa hai năm) và nỗ lực đưa những người này làm lại cuộc đời, đặt ra các mục tiêu nghề nghiệp cho họ. Bà Toni giải thích với trang Aleteia: “Khi họ rời gia đình chúng tôi, họ phải độc lập, có căn hộ riêng, có xe riêng và có một công việc bền vững.”

Chúng tôi nghĩ rằng đời sống gia đình mà chúng tôi mang lại cho họ quan trọng hơn nhiều so với những thứ vật chất.

Mối quan hệ này đòi hỏi hai bên phải tin tưởng nhau. Tuy nhiên, việc hội nhập người vô gia cư đi theo một tiến trình đã thành công, nhất là khi có sự tham dự của các con: “Một khi có người nạp đơn, chúng tôi sẽ có bữa ăn đầu tiên với họ, nếu tất cả chúng tôi cảm thấy thoải mái với nhau, chúng tôi sẽ kiểm tra các sinh hoạt của họ trước đây.”

Khi người vô gia cư đặt hành lý xuống và hòa nhập vào cuộc sống gia đình, họ sẽ tham dự vào bữa ăn gia đình, các trò chơi, công việc nhà, các việc vặt, nhưng trên hết là những giây phút cầu nguyện chung… Hai người nói: “Chúng tôi nghĩ rằng đời sống gia đình mà chúng tôi mang lại cho họ quan trọng hơn nhiều so với những thứ vật chất (…) khách của chúng tôi không phải là một con số, họ là một phần không thể thiếu trong ngôi nhà của chúng tôi.”

Theo họ, đây là một sứ mệnh cần thiết và là ơn gọi phải làm, vì “Giáo hội cần nhiều căn nhà tiếp nhận cho giáo dân hoặc các thành viên của cộng đồng, những người già cả, neo đơn và thiếu thốn. Thánh Têrêxa Avila nói: “Chúa Kitô không có thân thể nào trên trái đất này ngoài thân thể của bạn, cũng không có bàn tay nào khác ngoài bàn tay của bạn, không có đôi chân nào khác ngoài đôi chân của bạn. Chính qua đôi mắt của bạn mà lòng thương xót Chúa được nói lên; nhờ đôi chân của bạn mà Ngài bước đi để làm điều tốt; và nhờ bàn tay của bạn mà Ngài sẽ ban phép lành cho nhân loại ngày nay”.

Marta An Nguyễn dịch

Ruben Östlund: “Làm lung lay quan niệm đơn giản về con người”

Ruben Östlund: “Làm lung lay quan niệm đơn giản về con người”

philomag.com, Cédric Enjalbert, 2022-09-28

Điện ảnh gia Ruben Östlund tháng 9 năm 2022. © Hervé Boutet

Điện ảnh gia Thụy điển Ruben Östlund từng đoạt giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes, từ cuốn phim này sang cuốn phim khác, ông thử nghiệm các kinh nghiệm tư duy của mình. Đạo diễn cuốn phim Không có bộ lọc, Without filter, được chiếu ở rạp trong các tuần vừa qua, ông trả lời về nguồn cảm hứng, nguồn triết học và quan niệm của ông về nghệ thuật. Đạo đức, vẻ đẹp, sự khủng hoảng của người mẫu tự do… Cuộc trò chuyện với Ruben Östlund

Cedric Enjalbert ngày 28 tháng 9 năm 2022

“Tôi sẽ làm gì nếu tôi ở địa vị người đó?” Đó là câu hỏi ông lặp đi lặp lại không ngừng với chúng tôi. Nhà làm phim Thụy Điển Ruben Östlund, hai lần đoạt giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes, lần đầu vào năm 2017 với cuốn phim The Square, trong đó ông đặt câu hỏi với óc hài hước đau đớn không chỉ về thế giới nghệ thuật đương đại mà trên hết là sự tan rã của các mối quan hệ tin tưởng trong các xã hội chủ nghĩa cá nhân. Niềm tin và nỗi sợ hãi cũng là nguồn cảm hứng của cuốn phim Snow Therapy năm 2015 khi ông theo dõi hậu quả của một sự cố đối với sự gắn kết của một gia đình, tự hỏi những nguyên tắc tốt nhất của chúng ta có giá trị gì trong trường hợp “bất khả kháng”: khi một trận tuyết lở giáng xuống trên sân thượng của một khu nghỉ mát trượt tuyết, một người cha gia đình tìm nơi trú ẩn, bỏ rơi vợ con… trước khi bị một đám mây bột đơn giản phủ. Đạo diễn, người yêu thích những nghịch lý và những chuyện khó khăn nan giải đã tâm sự với tôi trong cuộc phỏng vấn đầu tiên, ông xem mình “trước hết là người quan sát. Tôi là cậu bé với một mảnh gỗ trước tổ kiến, đang lục lọi. Tổ kiến là xã hội; mảnh gỗ là máy ảnh của tôi. Tôi không xúc động hơn nhà côn trùng học quan sát một con sư tử nuốt chửng con trâu. Tôi chỉ là người nhìn.”

Ánh mắt độc đáo, sáng suốt và thích thú này của “cậu bé” tinh nghịch, người đấu tranh để làm lay chuyển xác tín luân lý của chúng ta đã giúp ông giành được giải Cành cọ vàng thứ hai trong năm nay cho Không có bộ lọc. Bộ phim truyện sống sượng – và đôi khi tàn nhẫn – đã chia rẽ khán giả, không lùi bước trước một điều gì quá đáng, nhưng không bao giờ chìm vào đó và thường xuyên thô bạo. Khi làm như vậy, ông chuyển từ châm biếm xã hội sang ngụ ngôn triết học một cách khéo léo, trong ba đoạn: một vài người có ảnh hưởng, Carl và Yaya, tranh luận về giá trị của đồng tiền; cặp tình nhân thấy mình được bao quanh bởi những người cực kỳ giàu có trên chiếc du thuyền sang trọng do một thuyền trưởng người Mác-xít lái; một vụ đắm tàu đưa họ lên một hoang đảo, nơi các vai trò xã hội bị đảo ngược. Thích thú khi chen vào bộ phim các tài liệu tham khảo, Ruben Östlund tạo ra những tình huống tưởng tượng hoặc viễn tưởng, đôi khi cực đoan nhưng không bao giờ đơn giản. Do đó, ông thể hiện sở thích của ông với các thử nghiệm suy nghĩ, đặc biệt được sử dụng trong khoa học nhân văn để kiểm tra trực giác đạo đức của chúng ta.

Ông xác nhận thực hành “triết học và xã hội học như một sở thích”, vô cùng tò mò và thích giao tiếp với chúng. Vì thế chúng tôi gặp ông trong chuyến đi của ông đến Paris, trước khi bộ phim mới của ông phát hành.

Trong tiếng Anh, bộ phim của ông có tên là Tam giác buồn bã (Triangle of Sadness). “Tam giác buồn bã” này ám chỉ điều gì? Với mối quan hệ tam giác giữa các nhân vật của ông?

Ruben Östlund: Trước hết, với công nghiệp thời trang, bộ ba tam giác này là nếp nhăn hình thành giữa hai lông mày, còn được gọi là “mối lo âu” và có thể được “sửa chữa” bằng một giải phẫu nhỏ. Sau đó, có một mối quan hệ tam giác về ham muốn và ganh đua giữa các nhân vật chính Yaya, Carl và Abigail. Chúng ta cũng có thể nghĩ  hình tam giác gợi lên ba chương tạo nên bộ phim – cuộc tranh cãi giữa Yaya và Carl về tiền bạc, cuộc hành trình trên du thuyền và con tàu đắm trên đảo.

Ý tưởng cho câu chuyện ngụ ngôn này đến từ đâu?

Khi tôi gặp vợ tôi, cô ấy làm việc – và vẫn đang làm việc – cô là nhiếp ảnh gia thời trang. Tôi bắt đầu quan tâm đến nghề này, và cô nói chuyện với tôi từ bên trong nghề nghiệp. Các mô hình đến từ các hoàn cảnh xã hội rất khác nhau. Nhưng họ có một điểm chung: sắc đẹp đã trở thành một món hàng trao đổi. Vì họ trúng xổ số di truyền, họ “xinh đẹp”, họ có thể dùng con bài mặc cả này để vươn lên trong xã hội – một số người mẫu thực sự xuất thân từ tầng lớp lao động. Ý tưởng đến với tôi trong phong trào #metoo và tôi nghĩ có thể thú vị khi đưa khía cạnh kinh tế này vào các cuộc thảo luận về mối quan hệ giữa nam và nữ, thảo luận về vai trò nam giới là hỗ trợ kinh tế và của phụ nữ với tư cách là trao đổi giá trị trong lĩnh vực tình dục. Bởi vì giá trị trao đổi mà bay giờ bề ngoài của chúng ta thể hiện là vốn tư bản ngày nay.

 

“Khi bạn ở trong vị thế mạnh và các cá nhân tự do hay độc lập về tài chánh, bạn cũng tạo ra sự cô đơn” Ruben Östlund

 

Sự tự tin, đặc biệt là khi thiếu tự tin, là một trong những chủ đề lặp đi lặp lại trong các bộ phim của ông. Có phải nó là trò chơi trở nên không thể được khi bạn ở trong trò chơi bề ngoài này không?

 

Tôi sẽ kể cho các bạn nghe một câu chuyện mà tôi đã nghe về một chàng trai trẻ. Trước khi bức tường sụp đổ, ông sống ở Đông Berlin. Sau khi bức tường sập đổ, ông đến thế giới phương Tây, tự do và tư bản. Ông thấy bảng quảng cáo một nhãn hiệu nước hoa. Một phụ nữ xinh đẹp khỏa thân nằm bên cạnh chai nước hoa. Đột nhiên, tình dục của ông bị dập tắt vì ông hiểu, ở đây, việc đến gần phụ nữ buộc phải đi qua khía cạnh kinh tế. Có một sự trao đổi các giá trị. Lý thuyết của Mác cho rằng kiểu xã hội tư bản này làm con người tha hóa. Bạn càng theo chủ nghĩa cá nhân, độc lập về kinh tế – điều mà chủ nghĩa tư bản giúp chúng ta trở thành – bạn sẽ càng đơn độc. Nhà sử học Thụy Điển Lars Trägårdh quan tâm đến khế ước xã hội và mối quan hệ giữa xã hội dân sự và nhà nước. Ông giải thích hành vi của chúng ta thông qua lăng kính của sự tin tưởng và nó vẽ nên một kim tự tháp. Ở trên cùng, là Quốc gia. Ở một góc là cá nhân; ở góc khác là gia đình. Do đó, ông đã phân tích ba góc độ của sự tin tưởng nơi con người.

Sau đó ông vẽ mô hình này trên ba quốc gia: Đức, Thụy Điển và Hoa Kỳ, băn khoăn không biết nên đặt chúng ở đâu. Đối với ông, Hoa Kỳ là giữa cá nhân và gia đình. Đây là nơi người Mỹ đặt niềm tin. Người Đức đặt niềm tin giữa gia đình và nhà nước. Người Thụy Điển, những người cực đoan trong mô hình này, đặt niềm tin vào nhà nước và cá nhân. Không phải trong gia đình. Nhưng khi bạn ở trong một trạng thái mạnh mẽ và những cá nhân tự do hoặc độc lập về kinh tế, bạn cũng tạo ra cô đơn.

Ông là người yêu thích các thử nghiệm suy nghĩ. Chúng ta có thể nói chiếc du thuyền mà Yaya và Carl lên trong phim Không có bộ lọc là một xã hội vi mô không có Nhà nước không?

Con thuyền chắc chắn là một xã hội khép kín, nhưng vẫn tồn tại một hệ thống phân cấp rất mạnh. Người Phi Luật Tân và các thành viên thủy thủ đoàn gần như không được trả lương như những người phương Tây làm việc cho giới siêu giàu ở đó. Họ kiếm được số tiền típ cực kỳ lớn, lên tới 125.000 âu kim cho mười ngày đi trên du thuyền, được chia cho khoảng ba mươi người. Sau đó là các hành khách, người mà bạn đơn giản là không thể nói không. Nếu họ muốn có một con kỳ lân, bạn hãy tìm cho họ một con kỳ lân! Loại thừa mứa này sẽ làm cho ai cũng chán nản.

“Bằng cách thay đổi cấu trúc của hệ thống phân cấp xã hội, vấn đề là quan sát cách cân bằng quyền lực được sắp xếp lại, chiến lược mà những người tham gia áp dụng trong trò chơi cờ vua này” Ruben Östlund

 

Phần còn lại của chuyến đi chứa những điều bất ngờ… và những người bị đắm tàu thấy mình trên một hòn đảo, buộc phải tái tạo lại một xã hội không có tiền. Điều không tưởng này gợi lên những câu chuyện ngụ ngôn trong văn học, nơi người chủ và người nô lệ đảo ngược vai trò của nhau.

 

Nhiều tác giả thực sự đã tưởng tượng ra loại thiết bị có thể đảo lộn cấu trúc quyền lực trên một hòn đảo, nhưng đây cũng là trường hợp của các nhà làm phim như đạo diễn người Ý Lina Wertmüller làm trong phim Hướng đến một số phận không giống ai trên dòng sông xanh mùa hè (Vers un destin insolite sur les flots bleus de l’été, quay năm 1974 về mối quan hệ giữa một nhà tư bản giàu có và một thủy thủ cộng sản, trên một chiếc du thuyền, rồi trên một hòn đảo). Khi làm thay đổi cấu trúc của hệ thống phân cấp xã hội, vấn đề là quan sát xem cán cân quyền lực được sắp xếp lại như thế nào, chiến lược mà những người tham gia áp dụng trong trò chơi cờ vua này.

Trong số các nguồn tham khảo của ông, chúng tôi đoán có nhà sử học người Hà Lan Rutger Bregman, tác giả của Thực tế không tưởng, Realistic Utopias. Trong phim của ông, quyển sách của tác giả được treo trên một chiếc ghế xếp, trong bối cảnh của một cảnh.

Tôi rất vui vì bạn nhìn thấy chi tiết này! Đó cũng là quyển sách nhà tài phiệt Nga nói! Ông ấy truyền cảm hứng cho tôi rất nhiều trong quá trình làm phim. Rutger Bregman dẫn đến việc bỏ tầm nhìn chính trị bên phải hoặc bên trái. Chẳng hạn, thật thú vị khi cùng ông ấy tìm hiểu nước Mỹ của Nixon là nước Mỹ đã sẵn sàng kiểm tra mức thu nhập cơ bản cho hàng triệu người Mỹ.

Mối quan tâm của ông với Mác, điều này dường như cũng được tính trong số các bài đọc của ông?

Mẹ tôi và cha tôi đều đến từ phong trào cánh tả 68. Mác, Lênin là biểu tượng chính trị xuất hiện rất nhiều trong quá trình học vấn của tôi… Mẹ tôi, người vẫn tự cho mình là người cộng sản, cũng quan tâm đến xã hội học. Bản thân tôi đã mất một thời gian dài để hiểu rằng tác giả của Tuyên ngôn cũng là một trong những người phát minh ra xã hội học, nếu chúng ta xem xét các lý thuyết của ông về giai cấp, cấu trúc của xã hội và kinh tế học chính trị. Xã hội học là một môn học rất đẹp vì nó nhấn mạnh đến bối cảnh hơn là nhấn mạnh đến các cá nhân. Tuy nhiên, xã hội của chúng ta bị ám ảnh bởi sự hư cấu về con người tự do, thứ mà họ áp đảo về tất cả cho những điều xấu xa hoặc chúng trở thành anh hùng… Loại tin tưởng vào tinh thần tự do chịu trách nhiệm cho những lựa chọn của nó đến với chúng ta từ thời Reagan-Thatcher. Ở cánh tả, những người giàu được mô tả là ích kỷ và hời hợt, và những người nghèo là hào phóng và chân chính. Bộ phim cố gắng làm rung chuyển quan niệm đơn giản này về con người, nhấn mạnh rằng vị trí của chúng ta trong một cấu trúc cũng phụ thuộc vào cách chúng ta hành động.

Marta An Nguyễn dịch

Bà Danièle Hervieu-Léger: “Đạo công giáo ở Pháp đang phân mảnh”

 

Tổng giám mục Éric de Moulins-Beaufort, chủ tịch Hội đồng Giám mục Pháp tại Lộ Đức: Công giáo Pháp đang rúng động trước những tiết lộ về các vụ lạm dụng | © KEYSTONE / MAXPPP / Manuel Blondeau

cath.ch, Bernard Litzler, 2022-10-25

Trong quyển sách “Hướng tới một vụ nổ bung? Các trao đổi về hiện tại và tương lai của đạo công giáo” (Vers l’implosion? Entretiens sur le présent et l’avenir du catholicisme. nxb. Le Seuil) bà Danière Hervieu-Léger, nhà xã hội học về tôn giáo nghiên cứu đạo công giáo Pháp dưới khía cạnh đại dịch và khủng hoảng lạm dụng tình dục đã làm rúng động Giáo hội.

Tên cuốn sách Hướng tới một vụ nổ bung? của bà có ý khiêu khích phải không?

 Danièle Hervieu-Léger: Nhà xuất bản ủng hộ dấu chấm hỏi trong tiêu đề. Còn tôi, tôi sẽ bỏ qua. Tiêu đề đưa ra một quá trình có thể quan sát được, cụ thể là sự tan rã nội bộ của tổ chức. Các nhà xã hội học từ lâu đã nghiên cứu về cuộc khủng hoảng của thể chế la-mã, nêu bật sự xói mòn sự hiện diện đạo công giáo trong xã hội do các phát triển chính trị, xã hội và văn hóa gây ra.

Từ nổ bung nói lên sự sụp đổ đến từ bên trong, từ cấu trúc và hoạt động của thể chế, ngày càng không thể đáp ứng với những phát triển này. Tóm lại, tôi muốn nói Giáo hội vì hệ thống la-mã, một hệ thống giáo sĩ tổng thể được Công đồng Trent đặt ra để tự bảo khỏi mối đe dọa của ly giáo, được củng cố vào thế kỷ 19 để chống lại sự tiến bộ của tính hiện đại chính trị. Loại hệ thống bê tông cốt sắt này được dùng như biện pháp phòng thủ và khắc phục các mối đe dọa từ bên ngoài. Ngày nay, nó đã trở thành thuốc độc cho chính nó.

Có phải cách tiếp cận đồng nghị do Đức Phanxicô đưa ra gần đây là một cách để chống lại sự nổ bung này không?

Đó là một nỗ lực mà chúng ta không thể đo lường được tác động của nó vào lúc này. Nhưng rõ ràng đó là một cách mở nắp nồi để xả hơi.

Bà Danièle Hervieu-Léger đã phân tích thực tế tôn giáo trong nhiều năm | © DR

Cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục và đại dịch đã làm cho chúng ta có thể đo lường được mức độ mất ảnh hưởng của đạo công giáo. Điều này cho thấy việc bãi bỏ quy định thể chế của đạo đức, những tác động mà bà đã đo lường được, đã được xác nhận…

Trong hai năm qua, đã có sự kết hợp của hai bối cảnh khủng hoảng. Đầu tiên là lạm dụng tình dục, mức độ và tính chất hệ thống của hành vi này được phát hiện. Thứ hai là đại dịch, đã ngưng cách hoạt động xã hội bình thường của đạo công giáo, đó là đời sống giáo xứ.

“Tiến trình thượng hội đồng thời là cách mở nắp xú-báp để xả hơi.”

Bối cảnh kép đặc biệt này không tạo ra khủng hoảng mà các yếu tố đã hiện diện ở thượng nguồn, nhưng nó thúc đẩy cách hung bạo sự thức tỉnh ý thức tập thể về sự trầm trọng của nó.

Tuy nhiên, có một “sức sống công giáo từ bên dưới” như bà đã trình bày. Nó biểu hiện như thế nào?

Khi nhìn vào Giáo hội Pháp qua các hoạt động của nó, chúng ta đo lường được sự sụp đổ không thể khắc phục. Chỉ còn một số nhỏ (2%) những người đi lễ mà đời sống văn hóa trong giáo xứ, dưới sự kiểm soát của các linh mục, là cách tiêu biểu cho thấy họ thuộc về công giáo. Chúng ta không được ngăn chận ghi nhận về sự sụt giảm con số người giữ đạo, quy nhanh chóng rằng sức sống công giáo xen kẽ được thể hiện từ bên dưới qua các con đường không chính thức hơn.

Nhưng cũng cần lưu ý mối liên hệ đúp của khủng hoảng mà tôi đề cập đã làm thuận lợi cho các cách diễn tả mới, chẳng hạn trong các tranh luận giữa giữa người công giáo xung quanh địa vị của linh mục, sau báo cáo về các vụ lạm dụng tình dục của ủy ban Ciase. Và chúng ta thấy, đại dịch đã làm nổi bật các trải nghiệm cộng đồng chưa từng có, được giáo dân khởi xướng trên cơ sở tương hợp để cầu nguyện, đọc Kinh Thánh dù có hay không có sự hiện diện của linh mục.

“Công giáo Pháp không hấp hối như những con số giữ đạo cho thấy.”

Sự gia tăng của các lô-gích tương hợp này góp phần làm mạnh thêm bối cảnh tan vỡ của đạo công giáo Pháp, vốn đã rã ra từng bộ phận, từng mảnh. Trong khi các trào lưu theo chủ nghĩa truyền thống đang làm mọi cách để chôn vùi công việc kiểm kê của Ủy ban Sauvé, thì các nghiên cứu đang được triển khai theo nhiều hướng khác nhau, để suy nghĩ về sự đột biến cần thiết của chức tư tế. Căng thẳng và xung đột là không thể giải quyết được.

Theo bà, Giáo hội công giáo đang sống trong bối cảnh tản ra của thế giới hiện nay. Và bà thảo luận ý tưởng về một “nhà bảo tồn” công giáo.

Đồng nghiệp Yann Raison du Cleuziou của tôi cho rằng tinh hoa của nhà bảo tồn – những người giữ đạo – là nhóm duy nhất mà tổ chức này có thể dựa vào ngày nay vì nhóm có những điều mà những người công giáo khác không có khả năng làm được, cụ thể là trao truyền đức tin công giáo giữa các thế hệ.

Nhưng nền tảng của nhà bảo tồn này, đô thị và trưởng giả, là rất nhỏ. Hơn nữa, phải xem xét kỹ chính nhà bảo tồn này, phân biệt giữa một bên là tín hữu bảo thủ theo phong tục, họ là những người theo lô-gích giữa nhóm mình với nhau, và một bên là những người xem việc thuộc về tôn giáo của họ như dấu hiệu của phân biệt xã hội, ưu tiên là thúc đẩy một đạo công giáo công khai trong một xã hội mà đạo hồi hiện diện đa số.

Nếu đạo công giáo Pháp muốn vượt qua khủng hoảng bằng cách chỉ dựa vào cơ sở bảo tồn này, thì có rất ít cơ hội đạt được mục tiêu.

Theo bà Danièle Hervieu-Léger, cầu nguyện ở cộng đoàn Taizé là  đặc nét của linh đạo đương đại, cá nhân, di động và chọn lựa. | © Gregory Roth

Theo bà, các nhà xã hội học phải điều chỉnh những điều hiển nhiên của họ khi đối diện với bối cảnh tôn giáo hiện nay. Các khía cạnh của sự điều chỉnh này là gì?

Chúng tôi thấy có sự nổi trội các công việc của các nhà xã hội học trẻ, những người quan sát đạo công giáo nhiều hơn từ bên dưới, tập trung vào các sáng kiến của các nhóm, các mạng hay các nhóm kết nối thân hữu. Họ có xu hướng xem trọng cách diễn tả công giáo này hơn thế hệ của chúng tôi, vốn tập trung nhiều vào thể chế và mối quan hệ của nó với xã hội.

Nhưng sự điều chỉnh này phải được thực hiện một cách thận trọng, để không đánh giá quá cao một sức sống công giáo tiềm ẩn đã bị bỏ qua. Công giáo Pháp không hấp hối nặng như các con số giữ đạo cho thấy, nhưng không thể nói những xu hướng này mô tả được một cái gì cho tương lai.

“Công giáo vẫn giữ được một neo đủ trong văn hóa, dù có sự tăng trưởng nhanh của tiến trình thế tục hóa.”

 

Bà viết, lòng mộ đạo đương đại là cá nhân, di động, chọn lựa. Làm thế nào để hình thức tôn giáo mới này có thể cùng chung sống với nền tảng tôn giáo ở Pháp?

 

Các cách giữ đạo hiện nay ngày càng có ít khả năng phù hợp với hệ thống giáo sĩ cấp bậc và trong hình thức giáo xứ theo khuôn khổ vùng miền. Có một chênh lệch hoàn toàn giữa hệ thống thể chế của hệ thống la-mã và các hình thức tôn giáo đương thời. Nhưng nếu không có mối liên hệ với thể chế, các hình thức bấp bênh lỏng lẻo của tổ chức xã hội thân hữu có thể dễ dàng tan biến.

Công giáo cũng tự xem mình là một mô hình phản văn hóa. Làm thế nào đạo công giáo có thể thích nghi với các chuẩn mực xã hội mới?

Công giáo vẫn giữ chỗ đứng đủ trong văn hóa để có ảnh hưởng trên xã hội, dù tiến trình thế tục hóa tăng nhanh. Nhưng tiến trình trục xuất đạo công giáo ra khỏi văn hóa đương đại thì còn tăng nhanh hơn chúng ta nghĩ.

Xã hội cố gắng thúc đẩy một nhóm các giá trị thay thế cho các giá trị nổi trội và điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng nếu không ai hiểu hoặc nghe ngôn ngữ, thông điệp của đạo là hoài công. Không ai là tiên tri trong đất nước của mình, nhưng không phải chỉ nghe được là đủ để thành tiên tri!

Một Giáo hội đang đột biến

“Các trao đổi về hiện tại và tương lai của đạo công giáo”: phụ đề của quyển sách Hướng tới một vụ nổ bung? Của bà Danièle Hervieu-Léger xác nhận các nhận xét của bà. Là nhà xã hội học am tường, khi trao đổi với ông Jean-Louis Schlegel, đồng nghiệp của bà, bà đã vẽ lên bức tranh toàn cảnh không khoan nhượng của đạo công giáo ở Pháp.

Cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục, một ghi nhận khủng khiếp về những lệch lạc của hệ thống đã xác nhận sự rạn nứt giữa Giáo hội công giáo và xã hội. Tuy nhiên, không phải mọi thứ đều tiêu cực theo tỷ lệ được-mất: sức sống của một số tổ chức, của các trung tâm thiêng liêng và các phong trào vẽ nên một khuôn mặt mới của Giáo hội. Quyển sách của hai nhà xã hội học làm chứng cho sự đa dạng này, một hứa hẹn cho tương lai.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Giáo hội: một vụ nổ bung không thể tránh khỏi?

Ở Versailles, các lệnh trừng phạt liên quan đến một linh mục nghỉ hưu được tiết lộ ở linh mục đoàn… sau khi linh mục này qua đời

Đứng trước bí ẩn của cái ác

Đứng trước bí ẩn của cái ác

 

Hoa trước tòa nhà của cô gái trẻ Lola 12 tuổi

Các cuộc chiến tranh, bạo lực với phụ nữ, những vụ xả súng, những vụ giết người ghê rợn… Câu hỏi về cái ác luôn là một bí ẩn chưa có câu trả lời.. Người kitô hữu, dù họ không có câu trả lời nhiều hơn người khác, nhưng họ nghĩ cái ác có thể và phải được vượt lên. Và rồi, cái ác không có tiếng nói quyết định cuối cùng.

la-croix.com, Dominique Greiner, tổng biên tập, 2022-10-20

Vụ giết cô gái trẻ Lola 12 tuổi trong tình trạng không thể tưởng tượng nổi đã cho thấy một cách tàn bạo cái ác nó như thế nào. Làm thế nào để giải thích tội ác bỉ ổi này? Tại sao một người lại có những hành động đê hèn như vậy? Giết, đánh đập, hiếp một em bé 12 tuổi! Thật ra chúng ta có thể đặt câu hỏi này với tất cả các tội ác khác đầy dẫy trên tin tức: ở Thái Lan, vụ tấn công một nhà trẻ giết 37 người, trong đó có 23 trẻ em, chiến tranh Ukraine, Ethiopia hay Sudan vẫn tiếp tục, đàn áp người biểu tình ở Iran và tất cả các hình thức bạo lực gây ra cho phụ nữ, những người dễ bị tổn thương, vì tranh chấp đất đai, mọi hình thức bất công mà người nghèo là nạn nhân đầu tiên…

Đôi khi chúng ta quen với cái ác đến nỗi không còn thấy nó nữa. Thật đáng tiếc, phải có một vụ giết người như vụ em bé Lola bị giết để chúng ta rúng động: sức mạnh của cái ác trong lòng con người và trong lịch sử nhân loại là một sự thật không thể phủ nhận. Trong buổi tiếp kiến chung ngày 3 tháng 12 năm 2008, Đức Bênêđíctô XVI giải thích: “Cái ác vẫn là một bí ẩn… Chúng ta có thể đoán, nhưng chúng ta không giải thích được; chúng ta không thể kể nó như sự việc này nối tiếp sự việc kia, bởi vì nó là một thực tế sâu đậm.” Cứ quên nó, chúng ta bằng lòng trong việc đi tìm hoặc tố cáo một thủ phạm, nhưng không thực sự cảm thấy chúng ta phải đảm nhận vai trò của mình trong cuộc chiến chống lại cái ác.

Vậy mà trong đức tin kitô giáo, chúng ta tin có thể vượt lên cái ác. Thiên Chúa đến với mầu nhiệm ánh sáng vĩ đại hơn, mạnh hơn bí ẩn bóng tối của cái ác. Đức Bênêđíctô XVI nói tiếp: “Thiên Chúa mang đến sự chữa lành. Ngài đích thân đi vào lịch sử. Với nguồn gốc vĩnh viễn của cái ác, Ngài chống lại bằng nguồn của cái thiện thuần túy. Chúa Kitô bị đóng đinh và phục sinh, một A-đam mới, chống lại dòng sông ô nhiễm của cái ác bằng dòng sông ánh sáng. Và dòng sông này hiện diện trong lịch sử: chúng ta nhìn vào các thánh, các thánh vĩ đại cũng như các thánh khiêm hèn, các tín hữu đơn sơ, và chúng ta thấy dòng sông ánh sáng đến từ Chúa Kitô đang hiện diện, Đấng toàn năng.”

Thiên Chúa không bao giờ tuyệt vọng với nhân loại. Chúa  Cha đã chứng minh điều này bằng cách gởi Con Một Ngài xuống thế chia sẻ thân phận của chúng ta. Ngài tiếp tục thể hiện điều này qua Chúa Thánh Thần, Đấng không ngừng làm mới năng lực chúng ta để chống lại điều ác và làm nó đi lui. Lòng trắc ẩn mà chúng ta có với Lola, những người thân yêu của em bé và với tất cả các nạn nhân của sự ác độc của con người, đã là một cách để khẳng định rằng chúng ta tin có điều gì đó vĩ đại hơn bí ẩn của cái ác: cái ác không bao giờ có tiếng nói quyết định cuối cùng.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài mới nhất