Home Blog Page 392

 Đọc để tin. Suy nghĩ tự do về Giáo hội

 Đọc để tin. Suy nghĩ tự do về Giáo hội

Lời giới thiện quyển sách “Công giáo trong tự do” của ông Bruno Bouvet, tổng biên tập báo La Croix L’Hebdo

Tác giả René Poujol, cựu giám đốc biên tập báo Người hành hương (Le Pèlerin) hiện nay đã nghỉ hưu, bây giờ ông là người viết blog và có trang blog: www.//renepoujol.fr. Qua các suy tư, các bài viết, tác giả thể hiện xác tín với tư cách là “người công giáo tiến bộ” về một Giáo hội mà ông từng theo dõi suốt năm mươi năm qua.

 Công giáo trong tự do, René Poujol, nhà xuất bản Salvador.

Mong muốn gần như không thể kìm hãm được của tác giả để nói lên đời sống Giáo hội, về những cuộc tranh luận, về các vấn đề xã hội mà Giáo hội phải đối diện, về những diễn biến, những tắc nghẽn trong thể chế Giáo hội ở Pháp cũng như ở Rôma. Đó là những đề tài ông không ngừng viết trên trang blog của ông.

Muốn được dự phần vào đời sống Giáo hội trong tư cách là  tác nhân trong hoạt động của Giáo hội, cùng với kinh nghiệm hướng đạo, ông dựa trên cội nguồn kitô giáo từ thời niên thiếu của mình. Trong nhiệt tình của tuổi hai mươi, ông muốn kiểm kê lại tài sản kitô giáo, muốn viết một quyển sách “kiểm kê” nhưng ông thú nhận một cách hài hước, quyển sách này chưa bao giờ được viết, nhân vật chính là người con từ chối tiếp quản di sản của người cha, nếu chưa làm xong kiểm kê di sản này cả về mặt tinh thần và thiêng liêng mà mình có quyền làm! Và đã tạo một cuộc cãi vã dữ dội với người bạn thân nhất, người gắn liền với quá khứ và tình trường kỳ của nó.

Quyền kiểm kê” là quyền mà tác giả René Poujol luôn cho mình, với tư cách là người công giáo, sống thời công đồng Vatican II, lạc quan và nhiệt tình “mong muốn cởi mở, đổi mới và đòi hỏi đối thoại với thế giới.”

Năm mươi năm sau, tác giả viết quyển “Công giáo trong tự do” nói lên “quyền được kiểm kê” trong suốt quyển sách. Tựa đề “Công giáo trong tự do” tóm gọn tinh thần quyển sách. Tác giả muốn tin: “Có lẽ đây là điều mà Thiên đàng mong chờ chúng ta! Một nỗ lực đổi mới trong tự tin, chống lại cám dỗ bám vào một trật tự cũ – và sau đó là khôi phục lại – một thể chế đang sợ hãi trước chính sự táo bạo của mình.”

Giống như nhân vật trong quyển tiểu thuyết tưởng tượng của thời thơ ấu, nhà báo, sứ giả của những người từng được gọi là “cánh tả” đã và vẫn phải chống lại những người không có cùng cái nhìn với mình, nhưng các mạng xã hội có tác dụng làm sắc nét các lập trường mâu thuẫn và nhấn mạnh đến các chia rẽ.

Trong suốt các trang sách, tác giả lấy làm tiếc cho sự quá độ của cả “hai phía” trong các cuộc cãi vã vô ích. Chúng ta có nên tiếc, quyển sách luôn cố gắng dung hòa hai phía, nhưng suy cho cùng, đây có phải là chủ đề của một tác phẩm dưới hình thức tuyên ngôn không, hay chỉ là một mong ước.

Ước mong phản ánh mang tính cảnh giác, có văn hóa, có cấu trúc vững chắc và được hỗ trợ phong phú, nếu không phải là hoàn toàn mới thì cũng đặt nền tảng cho một cuộc đối thoại đích thực về tất cả các vấn đề cần giải quyết: vị trí của phụ nữ và giáo dân, nguyên tắc thẩm quyền và thẩm quyền của huấn quyền, thiên hướng Giáo hội là phân định giữa thiện và ác trong các vấn đề đạo đức tình dục, tương lai của các giáo xứ.

Cuộc đối thoại này có thể là chủ đề của một cuốn sách trong tương lai, trong đó tác giả René Poujol sẽ trao đổi với một bạn trẻ công giáo. Trong tự do hoàn toàn, của cả hai bên.

Bruno Bouvet

Marta An Nguyễn dịch

 

Ở Montréal, Canada, một giáo xứ cho người công giáo đồng tính

Ở Montréal, Canada, một giáo xứ cho người công giáo đồng tính

la-croix.com, Alexis Gacon, Montréal, 2022-11-19

Ở trung tâm của Làng, khu phố lịch sử của cộng đồng LGBT ở Montréal có nhà thờ Thánh Phêrô Tông đồ theo đuổi sứ mệnh “chào đón tín hữu không điều kiện”.

Ông Yves Côté còn nhớ chiếc bánh sandwich ông ăn ngày hôm đó, năm 1995 và những phút dẫn đến khoảnh khắc ông đặt chân vào nhà thờ một lần nữa, sau mấy chục năm trốn nơi thờ phượng này. Từ lâu ông nhớ thánh lễ: “Tôi nói chuyện tôi nhớ thánh lễ với các bạn tôi, và một trong các bạn tôi nói, ‘anh biết họ nói gì trong nhà thờ không? Họ nói, những người như chúng ta sẽ xuống hỏa ngục.’ Tôi không muốn nghe bạn tôi nói tiếp, tôi đứng dậy trả tiền rồi đi về.”

Khi ra tiệm, ông nghe tiếng chuông và ông đến gần. Trong nhà thờ, cha Claude Saint-Laurent đang làm lễ. Ông nhớ những lời cha giảng. Cha nói, cha muốn chào đón tất cả mọi người vào nhà thờ: người tái hôn, người ly hôn… hay đồng tính. Ông nói: “Tôi đã khóc suốt buổi lễ.”

Thực sự Đức Phanxicô nghĩ gì về đồng tính

Sau đó, linh mục dành cả buổi tối để nói chuyện với ông. “Tôi đã có bốn mươi năm cuộc đời để kể với cha.” Lúc đó, ông thấy đời mình là cả một vực thẳm trống rỗng. Ông lấp bằng cách dùng tiền mua ma túy và mại dâm. “Nghe xong câu chuyện, cha Claude đề nghị tôi làm người sinh hoạt mục vụ, tôi hỏi cha có điên không… cha nói, những người đến nói chuyện với cha, cha không phán xét họ, vì cha đã trải qua tất cả những gì họ đã trải qua.”  Ông Yves đã làm trong 25 năm, cho đến năm 2020.

Nơi lắng nghe cộng đồng đồng tính nam

Mới đầu việc hội nhập mọi người ở nhà thờ Thánh Phêrô Tông đồ có nhiều phản ứng khác nhau. Khi thánh lễ kết thúc, ông Yves nhớ lại lời của các giáo dân đã quen nghe các bài giảng cổ điển, khi ra ngoài sân nhà thờ họ nói rất to “họ sẽ không đi lễ với những người xấu xa”. Quá trễ. Thông điệp của cha Claude đã được nghe. Chúa nhật sau, giáo dân không còn nữa, nhưng có nhiều người khác đến. “Sau bài giảng của cha Claude có 20 tín hữu bỏ đi nhưng có 40 người khác đến. Tất cả chúng tôi đều nói có một nhà thờ mà người đồng tính có thể cảm thấy mình được đón nhận.”

Một đón nhận cũng chữa lành các vết thương của thời đại. Trong những năm 1980 và 1990, bệnh AIDS đã giáng nặng nề xuống cộng đồng đồng tính nam. Những người đàn ông trẻ chết, và những người còn lại có một số tìm an ủi ở nhà thờ. Bữa ăn trưa sau thánh lễ, tổ chức các buổi hội thảo đặc biệt là về chủ đề “Kinh thánh và đồng tính”.

Trong hai mươi lăm năm, ông Yves nghe tất cả. Các thanh niên đồng tính không vui khi đi lễ, tay chân họ bị trói vì ‘cha mẹ nói nếu không họ sẽ bị thiêu trong hỏa ngục”; một phụ nữ trẻ khóc hết nước mắt khi nghe linh mục nói ‘đồng tính nữ’, gia đình cô cấm không được nói từ này trong nhà.

Người thừa kế cha Claude Saint-Laurent

Một phần tư thế kỷ trôi qua, giáo xứ Thánh Phêrô Tông đồ làm nên lịch sử ở Làng. Mọi người đều nhớ đến ông Yves thời nhà thờ “còn đi trên vỏ trứng”. Khi cha Claude chuẩn bị tìm người kế vị, cha giao cho ông Yves phỏng vấn người thay thế cha. “Tôi hỏi họ, ‘cha có thoải mái với đa số giáo dân là người đồng tính không?’ Họ trả lời: ‘Chừng nào mọi người giữ im lặng…’ Họ không hiểu chúng tôi đang làm gì ở đây. Cho đến khi tôi tìm được người tốt.”

Thực sự Đức Phanxicô nghĩ gì về đồng tính

Cuối cùng người tốt là cha Yoland Ouellet, giám đốc quốc gia của Hiệp hội Truyền giáo Giáo hoàng ở Canada vùng nói tiếng Pháp. Là linh mục giáo xứ, cha duy trì di sản của cha Claude Saint-Laurent, nhà thờ vẫn còn rất nhiều sức sống, dù tất cả giáo dân chưa trở lại sau nhiều đợt đại dịch. Giáo dân cũ nói với giáo dân mới: “Những khuôn mặt mới cũng đã đến. Quý vị hãy đến đây vào một ngày chúa nhật. Tôi rất vui khi ở đây.”

Rời khỏi nơi này, ông Yves nhớ lại những gì ông đã cảm nhận khi lần đầu tiên ông nghe cha Claude. “Tôi nhận ra, trong suốt những năm này, tôi không bỏ Giáo hội của Chúa Kitô, nhưng bỏ Giáo hội của những người lên án tôi.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Cha mẹ của trẻ em đồng tính: “Giáo hội phải đón nhận người đồng tính”

Người công giáo đồng tính: “Giáo hội phải đón nhận tất cả con cái của mình”

Đồng tính: “Một công việc thần học cấp bách nhưng cần nhiều thời gian”

Ngoại giao Vatican

Ngoại giao Vatican

la-croix.com, Dominique Greiner, tổng biên tập báo La Croix, 2022-11-28

Hai ngày sau lễ tấn phong giám mục Gioan Bành Vệ Chiếu ở Trung Quốc, Tòa Thánh than phiền về vụ này mà theo Vatican đã không phù hợp với “tinh thần đối thoại đã có giữa Vatican và Trung quốc”.

Có phải Trung Quốc đã chống lại thỏa thuận tạm thời với Vatican về việc bổ nhiệm các giám mục, khi họ chuyển một giám mục từ giáo phận này qua giáo phận khác không? Dù sao thì ngày thứ bảy, 26 tháng 11, hai ngày sau lễ tấn phong giám mục Gioan Bành Vệ Chiếu, giám mục phụ tá Dư Giang, một giáo phận không được Tòa Thánh công nhận, Tòa Thánh than phiền về vụ này mà theo Vatican, đã không phù hợp với “tinh thần đối thoại đã có giữa Vatican và Trung quốc”.

Việc này khơi lại cuộc tranh luận về sự thích đáng của thỏa thuận Trung Quốc-Vatican trong bối cảnh vẫn còn khó khăn  cho 12 triệu người công giáo Trung Quốc, cả các giáo xứ được gọi là ‘chính thức’ hay giáo xứ hầm trú. Những người không khoan nhượng nhất – trong đó có hồng y Zen, cựu giám mục của Hồng Kông, ngày thứ sáu ngài đã bị tòa án phạt tiền vì làm quỹ nhân đạo để hỗ trợ những người biểu tình chống chế độ Bắc Kinh – cho đây là một nguy cơ cho sự sống còn của một “Giáo hội thực sự” nếu theo thỏa thuận đã được hai bên ký năm 2018 và được gia hạn vào tháng 10 vừa qua. Tòa Thánh không phải là không nhận thức bản chất không hoàn hảo của thỏa hiệp trong quá khứ. Nhưng đây là cái giá phải trả để không cắt đứt hoàn toàn với chính quyền Trung Quốc. Thông cáo báo chí công bố ngày thứ bảy vẫn trên đường hướng này. Rôma tái khẳng định “hoàn toàn sẵn sàng tiếp tục con đường đối thoại tôn trọng về tất cả các vấn đề có lợi ích chung”.

Cách đây vài tháng Đức Phanxicô giải thích khi xem lại thỏa thuận với Trung quốc: “Ngoại giao là nghệ thuật của những điều có thể và biến nó thành thực tế có thể.”

Đôi khi Tòa Thánh cũng phải chấp nhận nuốt nhục và nhất là cho thấy một sự kiên nhẫn trước mọi khó khăn.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Cha mẹ của trẻ em đồng tính: “Giáo hội phải đón nhận người đồng tính”

Cha mẹ của trẻ em đồng tính: “Giáo hội phải đón nhận người đồng tính”

la-croix.com, Marguerite de Lasa, 2022-11-20

Ngày thứ bảy 19 tháng 11, có 200 người tham dự buổi hội thảo ở  Boulogne-Billancourt của hiệp hội “Nhận biết” của các cha mẹ có con đồng tính, trong đối thoại với Hội đồng Giám mục Pháp, hiệp hội mong muốn thể chế có một tiếp cận với giới đồng tính.

Vào cuối hội thảo, câu hỏi chủ yếu của các cha mẹ có con đồng tính là: “Làm thế nào để thay đổi Giáo lý Giáo hội công giáo?” Họ muốn nói đến câu 2.357 của Sách Giáo lý của Giáo hội công giáo, trong đó cho rằng “hành vi đồng tính” là “rối loạn về bản chất”.

Trong buổi hội thảo này có khoảng 15 tu sĩ tham gia, đây là buổi hội thảo lần thứ ba kể từ ngày hiệp hội “Nhận biết” của cha mẹ có con đồng tính thành lập năm 2021, có mục đích đặt vấn đề với thể chế về việc công nhận “phẩm giá của người đồng tính” trong Giáo hội và họ đã bắt đầu đối thoại với Hội đồng Giám mục Pháp. Bằng chứng cho sự tiến hóa cá nhân trong vấn đề đồng tính, các cha mẹ mong muốn Giáo hội thay đổi cái nhìn về người đồng tính.

“Giáo hội thường ở trong thế bác bỏ”

Tháng 3 năm 2021, hiệp hội đã gởi một thư dài cho các giám mục, có chữ ký của 500 người. Kể từ đó, một đối thoại thường xuyên được thiết lập với Dịch vụ Gia đình và Xã hội Quốc gia của Hội đồng Giám mục Pháp. Theo hiệp hội, hiện nay Hội đồng Giám mục đã giao cho ba thần học gia nghiên cứu về vấn đề đồng tính, dưới cái nhìn khai sáng của ngành khoa học nhân văn và kinh nghiệm của những người đồng tính để làm một văn bản “gần như hoàn thành”. Bà Florence, thành viên sáng lập cho biết: “Chúng tôi ghi nhận quyết tâm của Hội đồng Giám mục muốn đi tới trong chủ đề này.”

Bà Nathalie de Williencourt, cũng là thành viên sáng lập tin tưởng: “Với tư cách là phụ huynh dấn thân trong các sinh hoạt Giáo hội, chúng tôi là chiếc cầu của thể chế. Một cách cụ thể, Giáo hội thường bác bỏ: vẫn còn một nỗi sợ về người đồng tính, chắc chắn liên quan đến một hiểu lầm.” Bà Florence nói: “Giáo hội nói Giáo hội đón nhận người đồng tính với điều kiện họ không nói ra họ đồng tính, không có các quan hệ yêu đương… Đây có phải là một đón nhận thực sự không?” Bà Nathalie de Williencourt nhấn mạnh: “Điều mà Giáo hội đón nhận, là tình trạng đồng tính của họ. Vì thế cần phải được tự do nói lên và được thấy.”

“Họ nghĩ rằng họ là những cha mẹ xấu xa nhất thế giới”

Dần dần công việc nhận biết này được chính các cha mẹ làm. Khi nhóm Lời được thành lập năm 2014, bà Yolande du Fayet, nhà trị liệu tiếp các cha mẹ, họ “cảm thấy họ không thể vừa sống với con cái đồng tính, vừa thuộc về Giáo hội. Họ sợ cái nhìn của xã hội, họ mang sự xấu hổ của con cái trên họ”.

Ở Montréal, Canada, một giáo xứ cho người công giáo đồng tính

Sau này các cha mẹ đã đi biểu tình Hôn nhân cho tất cả, họ vào nhóm Lời: “Họ nghĩ họ là những cha mẹ xấu xa nhất thế giới vì đã làm tổn thương con cái họ.” Việc con cái tiết lộ là đồng tính đã tác động đến niềm tin tôn giáo của họ, sau đó nhóm đã trưởng thành khi cần phải xây dựng lại nội dung về đồng tính.

Lạc quan hơn mười năm trước

Khi ông bà Irène và François (họ dùng tên giả) 68 tuổi và 72 tuổi, biết con trai của mình đồng tính, họ hiểu “con của họ đã đau khổ rất nhiều”. Bà Irène hối hận: “Con tôi bị ruồng bỏ vì địa vị xã hội và vì chúng tôi thuộc về Giáo hội.” Năm 2013, hai ông bà đã phản đối “hôn nhân cho tất cả”. Nhưng nghịch lý thay, theo họ, phong trào lại là dịp để cởi mở: “Chúng tôi hiểu, đồng tính không do mình chọn.” Kể từ đó, họ học cách để nói về vấn đề này.

Bà Irène nhận xét: “Chúng tôi ý thức, nếu chuyện này không xảy ra với chúng tôi, chúng tôi sẽ có chút kỳ thị với người đồng tính: chúng tôi có ý tưởng sai lầm, có thành kiến trong đầu.” Kể từ đó, khi nghe những lời nói sốc trong Giáo hội, ông bà mong muốn Giáo hội thay đổi học thuyết. Nhưng cũng chính trong Giáo hội, chúng tôi có thể tìm thấy sự hỗ trợ cho nhóm chúng tôi.”

Nhà báo Philippe Clanché, tác giả quyển Hôn nhân cho tất cả. Ly dị nơi người công giáo (Mariage pour tous. Divorce chez les cathos, nxb. Plon, 2013) ông ghi nhận đã có lạc quan về đồng tính trong Giáo hội nhiều hơn 10 năm trước đây nhờ Đức Phanxicô và trên thực tế đã có nhiều giáo phận có các phương cách để tiếp nhận”. Theo tác giả, toàn bộ vấn đề là làm sao để quản lý khoảng cách giữa một mục vụ ngày càng mở ra và một học thuyết bất động”.

“Không lên án đồng tính, nhưng người ta che giấu”

Ông Olivier, 55 tuổi, làm việc trong ngành giáo dục tình cảm, quan hệ và tình dục

“Tôi làm việc trong lãnh vực giáo dục tình cảm, quan hệ và tình dục ở trường học, với một hiệp hội lấy cảm hứng từ tinh thần kitô giáo. Tôi nhận ra, tôi chỉ nói chuyện với những người trẻ về lược đồ dị tính. Nếu một em tuổi vị thành niên hỏi tôi một câu hỏi về đồng tính, tôi nói với em, tôi không lên án, rằng tất cả tình yêu đều có giá trị của nó. Nhưng tôi bất lực khi nói về đồng tính. Vì thế dù không muốn, dù không lên án đồng tính, chúng ta giấu nó. Chúng ta xếp nó vào hốc tủ. Bản thân tôi, tôi đã tiến triển rất nhiều về vấn đề này, đặc biệt là nhờ các con tôi, chúng nói với tôi: ‘Đồng tính? Thì đã sao?’”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Thực sự Đức Phanxicô nghĩ gì về đồng tính

Trung quốc, bầu khí của tự do

Trung quốc, bầu khí của tự do

la-croix.com, Jérôme Chapuis, tổng biên tập báo La Croix, 2022-11-28

Từ ngày thứ sáu 25 tháng 11, các cuộc biểu tình chống các hạn chế về sức khỏe diễn ra ở Trung Quốc đã bị chính quyền đàn áp.

Thoạt nhìn, có một cái gì đó vô nghĩa trong mầm của các cuộc nổi dậy không logic này, không có mục tiêu chính trị rõ ràng, không có một ý thức nào với tương quan quyền lực. Từ vài ngày qua người Trung quốc xuống đường, họ chặn các nhà máy, phát tán trên mạng các video cho thấy một sự can đảm vượt xa mọi hiểu biết. Bởi vì không cần phải là chuyên gia thành thạo, ai cũng biết số phận của họ sẽ như thế nào dưới chế độ an ninh kỹ thuật của chủ tịch Tập Cận Bình, ông vừa được củng cố thêm ở Đại hội cuối cùng của Đảng Cộng sản. Họ có một bối cảnh nào khác hơn là bối cảnh sẽ bị nghiền nát? Năng lượng của họ, theo nghĩa đen là năng lượng của tuyệt vọng, cho chúng ta biết bản chất nguyên thủy của tự do.

Những gì người dân đi biểu tình nói với chúng ta – trong hành động nghịch lý chỉ trưng tờ giấy trắng, không có một câu khẩu hiệu nào dù nhỏ nhất – đó là tự do, trước khi là một ý tưởng thì nó là biến động, là vỡ bờ. Một xung năng bùng lên của một xác quyết mình bị cản trở, bị cưỡng bức, bị xâm phạm. Những gì người dân Trung quốc trải qua, đó là phản xạ của người bị nghẹt thở. Họ khao khát tự do. Cụ thể hơn: họ muốn thở bầu khí tự do. Họ đòi không khí, sau nhiều tháng bị giam cầm được biện minh bằng chính sách zero-covid vừa triệt để vừa không đúng.

Ở giai đoạn này ít có may mắn tia ‘lửa nhỏ sẽ làm bùng cháy’ như chủ tịch Mao thường nói. Nhưng, ngay cả khi họ sẽ cam chịu thất bại, các phong trào này nói ngược một cách ngoạn mục những lời Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ trích các nền dân chủ của chúng ta. Tuyên truyền của Đảng cộng sản Trung quốc luôn khẳng định rằng các dân tộc, trước hết gắn liền với thịnh vượng và an ninh, coi thường các quyền tự do. Dưới mắt chúng ta là lời phụ định hiển nhiên.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Phanxicô trả lời phỏng vấn về phân cực, về phong chức phụ nữ, các giám mục Hoa Kỳ và về nhiều chủ đề khác

Đức Phanxicô trả lời phỏng vấn về phân cực, về phong chức phụ nữ, các giám mục Hoa Kỳ và về nhiều chủ đề khác

americamagazine.org, 2022-11-28

Ngày thứ ba 22 tháng 11, năm đại diện của trang America Media đã phỏng vấn Đức Phanxicô tại Nhà Thánh Marta. Linh mục Dòng Tên Matt Malone sắp mãn nhiệm kỳ, linh mục Dòng Tên Sam Sawyer, tổng biên tập sắp tới; bà Kerry Weber, biên tập viên điều hành; nhà báo Gerard O’Connell, đặc phái viên của trang America tại Vatican; và bà Gloria Purvis, người dẫn chương trình “The Gloria Purvis Podcast.” Tất cả đã thảo luận nhiều chủ đề với giáo hoàng, bao gồm sự phân cực trong giáo hội Hoa Kỳ, phân biệt chủng tộc, chiến tranh ở Ukraine, quan hệ của Vatican với Trung Quốc và giáo huấn của Giáo hội về việc phong chức cho phụ nữ. Cuộc phỏng vấn được thực hiện bằng tiếng Tây Ban Nha với phần thông dịch của nhà báo Elisabetta Piqué.

Đức Phanxicô: Xin cám ơn các bạn đã đến!

Linh mục Matt Malone: Tạp chí America được các tu sĩ Dòng Tên thành lập năm 1909 và chúng tôi đã xuất bản liên tục kể từ đó. Đây là cơ hội đầu tiên chúng tôi được nói chuyện trực tiếp với giáo hoàng, và chúng tôi rất biết ơn. Điều đầu tiên trong tâm trí độc giả chúng tôi, họ rất ngạc nhiên vì cha luôn tỏ ra vui vẻ, hạnh phúc, ngay cả khi gặp rắc rối và khủng hoảng. Điều gì làm cho cha rất vui, thật bình an và hạnh phúc trong thánh chức của mình?

Đức Phanxicô: Tôi đã không biết tôi luôn như vậy. Tôi vui vẻ khi ở bên mọi người – luôn như vậy. Một trong những điều tôi cảm thấy khó khăn nhất khi làm giáo hoàng là không thể ra ngoài đi bộ với mọi người, vì ở đây là không được ra ngoài; không tự do đi ngoài đường phố. Nhưng tôi sẽ không nói tôi hạnh phúc vì tôi khỏe mạnh, tôi ăn ngon, ngủ ngon hay vì tôi cầu nguyện nhiều. Tôi hạnh phúc vì tôi cảm thấy hạnh phúc, Chúa làm cho tôi hạnh phúc. Tôi không có bất cứ điều gì để đổ lỗi cho Chúa, ngay cả khi có những chuyện không tốt xảy ra cho tôi. Không. Trong suốt cuộc đời tôi, Chúa luôn hướng dẫn con đường của tôi, đôi khi có những khoảnh khắc khó khăn, nhưng tôi luôn có  đảm bảo, tôi không đi một mình. Tôi có được đảm bảo này. Ngài luôn bên cạnh tôi. Chúng ta có những lỗi lầm, những tội lỗi; tôi đi xưng tội mỗi 15 ngày – tôi không biết, tôi là như vậy.

Linh mục Sam Sawyer: Trong bài phát biểu của cha trước Quốc hội Hoa Kỳ cách đây bảy năm, cha đã cảnh báo chống lại “chủ nghĩa giản lược chỉ xem thiện hay ác, người công chính hay người tội lỗi” và cha cũng kêu gọi “một tinh thần huynh đệ đổi mới và đoàn kết, hợp tác quảng đại vì lợi ích chung.” Tuy nhiên, kể từ bài phát biểu của cha trước Quốc hội, chúng tôi đã thấy, không chỉ sự phân cực chính trị ngày càng sâu đậm mà cả phân cực trong đời sống Giáo hội. Làm thế nào Giáo hội có thể phản ứng với sự phân cực trong cuộc sống của chính mình và giúp ứng phó với sự phân cực trong xã hội?

Phân cực không phải công giáo. Một người công giáo không thể suy nghĩ cái này hoặc cái kia, hoặc giảm mọi thứ thành phân cực. Cốt tủy của công giáo là hợp nhất điều tốt và điều không tốt. Chỉ có một dân tộc của Chúa. Khi có phân cực, tâm lý chia rẽ nảy sinh, ưu đãi một số người và bỏ lại một số khác. Người công giáo luôn dung hòa những khác biệt. Nếu chúng ta biết nhìn Chúa Thánh Thần hành động như thế nào; trước hết Ngài tạo xáo trộn: chúng ta nhìn buổi sáng lễ Hiện Xuống, những hoang mang, xáo trộn Ngài tạo ra, sau đó Ngài mang lại sự hòa hợp cho Giáo hội, Ngài không giảm mọi thứ chỉ còn một giá trị; đúng hơn, Ngài dung hòa những khác biệt đối lập. Đó là tinh thần công giáo. Càng có nhiều hòa hợp giữa những khác biệt và đối lập thì càng công giáo. Càng có phân cực, thì càng đánh mất tinh thần công giáo và rơi vào não trạng bè phái. Châm ngôn này không phải của tôi, nhưng tôi xin nhắc lại: những gì là con người không phải là người này, người kia nhưng là cả người này người kia và kết hợp những khác biệt. Và đó là cách chúng ta hiểu cách thức công giáo đối phó với tội lỗi, không phải chỉ là: thánh nhân và tội nhân, cả hai cùng nhau.

Phân cực không phải công giáo. Một người công giáo không thể suy nghĩ cái này hoặc cái kia, hoặc giảm mọi thứ thành phân cực. Cốt tủy của công giáo là hợp nhất điều tốt và điều không tốt. 

Là điều tốt lành khi tìm nguồn gốc của những gì là công giáo trong những lựa chọn Chúa Giêsu đã làm. Chúa Giêsu có bốn khả năng: hoặc là người biệt phái, người sa-đốc, người esêniô, hoặc người nhiệt thành zêlôta. Đó là bốn thành phần, bốn lựa chọn vào thời đó. Và Chúa Kitô không phải là người biệt phái, người sa-đốc, người esêniô, cũng không là người nhiệt thành zêlôta. Ngài là người khác biệt. Và nếu chúng ta nhìn những lệch lạc trong lịch sử Giáo hội, chúng ta có thể thấy họ luôn đứng về phía những người biệt phái, người sa-đốc, người esêniô hoặc người nhiệt thành zêlôta. Chúa Giêsu vượt lên tất cả, Ngài đưa ra các Mối Phúc, đó là một cái gì khác biệt.

Sự cám dỗ trong Giáo hội luôn đi theo bốn con đường này. Ở Hoa Kỳ, quý vị có một đạo công giáo đặc biệt của Hoa Kỳ – đó là điều bình thường. Nhưng quý vị cũng có một số ý thức hệ nào đó trong các nhóm Công giáo.

Bà Kerry Weber: Năm 2021, chúng tôi có một cuộc điều tra hỏi người công giáo ở Mỹ, họ có tin tưởng các nhà lãnh đạo, các nhà hướng dẫn họ về các vấn đề đức tin và đạo đức không. Trong số danh sách chúng tôi liệt kê, Hội đồng Giám mục công giáo Hoa Kỳ bị cho là ít được tin cậy nhất; chỉ 20% cho là “rất đáng tin cậy”. Họ xếp giám mục địa phương của họ cao hơn; khoảng 29% cho là “rất đáng tin cậy”. Nhưng đa số người công giáo gần như mất lòng tin vào khả năng hướng dẫn đạo đức của Hội đồng Giám mục. Làm thế nào các giám mục công giáo Hoa Kỳ có thể lấy lại lòng tin nơi tín hữu của họ?

Câu hỏi hay vì nó nói về các giám mục. Nhưng tôi nghĩ thật sai lầm khi nói về mối quan hệ giữa người công giáo và hội đồng giám mục. Hội đồng giám mục không phải là mục tử; mục tử là giám mục. Vì vậy, chúng ta có nguy cơ làm giảm thẩm quyền của giám mục khi chỉ nhìn vào hội đồng giám mục. Hội đồng giám mục ở đó để tập hợp các giám mục lại với nhau, cùng làm việc, thảo luận các vấn đề, lập các kế hoạch mục vụ. Nhưng mỗi giám mục là một mục tử. Chúng ta đừng phân tán quyền lực giám mục bằng cách giảm xuống thành quyền lực của hội đồng giám mục. Vì ở cấp độ này, các khuynh hướng cạnh tranh nhau, nhiều hơn ở cánh tả, nhiều hơn ở cánh hữu, nhiều hơn bên này, nhiều hơn bên kia và dù sao hội đồng giám mục không có trách nhiệm bằng xương bằng thịt như trách nhiệm của giám mục với giáo dân mình, mục tử với giáo dân mình. Về vấn đề này, tôi nhớ một tác giả của thế kỷ thứ 5, theo tôi, đã viết về hình ảnh giám mục rất tốt. Đó là Thánh Augutinô trong “Các mục tử, De Pastoribus” của ngài.

Chúa Giêsu không lập các hội đồng giám mục. Chúa Giêsu lập các giám mục, và mỗi giám mục là mục tử của giáo dân mình.

Vì vậy, câu hỏi đặt ra là: đâu là quan hệ của giám mục với giáo dân của mình? Cho phép tôi đề cập đến một giám mục, tôi không biết giám mục này bảo thủ hay tiến bộ, thuộc cánh tả hay cánh hữu, nhưng ngài là một mục tử tốt: giám mục Mark Seitz, của El Paso ở biên giới Mexico. Ngài là người nắm rõ các mâu thuẫn ở đây và mang chúng về phía trước trong tư cách là mục tử. Tôi không nói các giám mục khác không tốt, nhưng đây là một giám mục tốt tôi biết. Quý vị có các giám mục tốt ở cánh hữu, các giám mục tốt ở cánh tả, nhưng là các giám mục nhiều hơn là các nhà ý thức hệ; các mục tử hơn là những người làm video. Đó là chìa khóa.

Câu trả lời cho câu hỏi của bà là: Hội đồng giám mục là một tổ chức nhằm hỗ trợ và đoàn kết, là biểu tượng của sự hiệp nhất. Nhưng ơn của Chúa Giêsu Kitô ở trong quan hệ giữa giám mục và giáo dân, giáo phận của ngài.

Bà Gloria Purvis: Vấn đề phá thai bị chính trị hóa nặng nề ở Hoa Kỳ. Chúng tôi biết điều đó là sai. Và Tòa án Tối cao gần đây đã phán quyết theo hiến pháp, không có quyền phá thai. Tuy nhiên, điều này dường như vẫn còn gây tai hại cho Giáo hội theo nghĩa nó làm ngăn cách chúng ta. Các giám mục có nên thuận cho ưu tiên phá thai như với các vấn đề công bằng xã hội khác không?

Về vấn đề phá thai, tôi có thể nói những điều này như tôi đã nói trước đây. Trong bất cứ quyển sách nào về phôi học, người ta đã chứng minh một tháng sau khi thụ thai, các cơ quan và DNA đã được xác định trong bào thai nhỏ, trước khi người mẹ nhận thức được. Vì thế, có một con người sống. Tôi không nói một người, vì điều này đang được tranh luận, mà là một con người sống. Và tôi đặt ra hai câu hỏi: Có đúng là loại bỏ một con người để giải quyết một vấn đề không? Câu hỏi thứ hai: Việc thuê một “một người giết thuê” để giải quyết vấn đề có đúng không? Vấn đề nảy sinh khi thực tế giết người này được chuyển thành một câu hỏi chính trị, hoặc khi người mục tử dùng theo các phạm trù chính trị.

Linh mục Sam Sawyer, tổng biên tập sắp tới của trang America lắng nghe Đức Phanxicô. (America Media / Antonello Nusca)

Một khi vấn đề mất đi chiều kích mục vụ thì vấn đề đó trở thành chính trị hơn là mục vụ. Tôi muốn nói, đừng ai phủ nhận sự thật này, đó là sự thật phổ biến. Nó không thuộc về bên này hay bên kia. Nó là phổ quát. Khi tôi thấy vấn đề nào như vấn đề này, tôi thấy đây là tội ác, nó trở thành chính trị một cách mạnh mẽ, dữ dội, thì sự chăm sóc mục vụ đã thất bại trong việc tiếp cận. Dù trong vấn đề phá thai hay trong các vấn đề khác, chúng ta không thể đánh mất chiều kích mục vụ: giám mục là chủ chăn, giáo phận là dân thánh của Thiên Chúa cùng với chủ chăn của họ. Chúng ta không thể giải quyết vấn đề phá thai như thử đó chỉ là vấn đề dân sự.

Dù trong vấn đề phá thai hay trong các vấn đề khác, chúng ta không thể đánh mất chiều kích mục vụ.

 

Nhà báo Gerard O’Connell: Câu hỏi đặt ra là liệu hội đồng giám mục có đưa đấu tranh chống phá thai lên hàng đầu hay không, khi tất cả những vấn đề còn lại chỉ là thứ yếu.

Câu trả lời của tôi, đây là vấn đề mà hội đồng giám mục phải giải quyết trong nội bộ. Điều tôi quan tâm là quan hệ của giám mục với giáo dân, đó là bí tích. Các vấn đề khác là vấn đề tổ chức, và các hội đồng giám mục đôi khi hiểu sai (mập mờ). Chỉ cần nhìn vào Thế chiến thứ hai để thấy một số quyết định của các hội đồng giám mục đưa ra, họ có những sai lầm từ quan điểm chính trị hoặc xã hội. Đôi khi đa số thắng, nhưng có thể đa số đã không có lý.

Nói cách khác, chúng ta nên rõ ràng ở điểm này: Thông thường, một hội đồng giám mục có quyền đưa ra ý kiến của mình về đức tin và truyền thống, nhưng trên tất cả vẫn là cách

quản lý giáo phận, v.v. Phần bí tích của thừa tác mục vụ nằm trong mối quan hệ giữa chủ chăn và dân Chúa, giữa giám mục và dân của ngài. Và điều này không thể được giao cho hội đồng giám mục. Hội đồng giúp tổ chức các cuộc họp, và những cuộc họp này rất quan trọng; nhưng với một giám mục, mục tử là quan trọng nhất. Điều thiết yếu nhất tôi muốn nói, vẫn là bí tích. Chắc chắn mỗi giám mục phải tìm kiếm tình huynh đệ với các giám mục khác nhưng chủ yếu vẫn là tương quan của giám mục với giáo dân.

Linh mục Sam Sawyer: Cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục đã làm tổn thương rất nhiều đến uy tín và nỗ lực truyền giáo của Giáo hội. Những tiết lộ gần đây về hành vi lạm dụng của các giám mục, những người đã lặng lẽ về hưu đã làm gia tăng lo ngại về tính minh bạch của Giáo hội trong việc xử lý các trường hợp lạm dụng, đặc biệt khi liên quan đến các giám mục. Vatican có thể làm gì thêm để cải thiện khía cạnh minh bạch này?

Trở về lại lịch sử một chút. Cho đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng ở Boston, khi tất cả được đưa ra ánh sáng, Giáo hội thường thuyên chuyển kẻ bạo hành khỏi giáo xứ, họ bao che, như thường xảy ra trong các gia đình ngày nay. Vấn đề xâm hại tình dục đang vô cùng nghiêm trọng trong xã hội. Cách đây ba năm rưỡi, khi tôi tổ chức cuộc họp với các chủ tịch hội đồng giám mục thế giới, tôi yêu cầu thống kê chính thức và tôi được biết, có 42% đến 46% các vụ lạm dụng xảy ra trong gia đình hoặc trong khu phố. Sau đó là trong giới thể thao, giáo dục và 3% là các linh mục công giáo. Chúng ta có thể nói: “Ồ, chúng ta là số ít”. Không! Nếu chỉ có một trường hợp, là đã quá quái dị. Việc lạm dụng trẻ vị thành niên là một trong những điều quái dị nhất. Việc lạm dụng vẫn còn trong một số gia đình và cơ sở ngày nay và chung chung là che đậy. Giáo hội đã quyết định không che đậy nữa. Từ đó, đã có những tiến bộ được thực hiện trong các thủ tục tư pháp, thành lập Ủy ban Giáo hoàng Bảo vệ Trẻ vị thành niên.

Nhà báo Gerard O’Connell, bà Gloria Purvis, bà Kerry Weber, linh mục Matt Malone và linh mục Sam Sawyer

Ở đây có tấm gương của hồng y Seán O’Malley, giáo phận Boston, ngài đã có tư duy thể chế hóa việc bảo vệ trẻ vị thành niên trong Giáo hội. Khi những người trung thực thấy làm thế nào để Giáo hội đảm nhận trách nhiệm cho sự quái dị này, họ hiểu Giáo hội là một chuyện và những kẻ tấn công bị Giáo hội trừng phạt là một chuyện khác. Người đi đầu trong việc thực hiện các quyết định này là Đức Bênêđíctô XVI. Đó là một vấn đề “mới” trong biểu hiện của nó, nhưng mãi mãi nó luôn tồn tại. Trong thế giới bên ngoài, người ta thường lợi dụng trẻ em để có lạc thú. Một trong những điều làm tôi lo lắng nhất là sản phẩm khiêu dâm trẻ em. Những phim này quay trực tiếp. Quay ở nước nào? Các nhà chức trách các quốc gia sao lại để sản xuất những loại này? Đó là tội phạm. Tội phạm!

Giáo hội nhận trách nhiệm về tội lỗi của mình, và chúng ta đi tới đàng trước, là tội nhân, chúng ta tin vào lòng thương xót Chúa. Trong các chuyến đi của tôi, tôi thường tiếp các nhóm nạn nhân bị lạm dụng. Một giai thoại về điều này: Khi tôi ở Ai-len, những người bị lạm dụng xin gặp. Có sáu hoặc bảy người trong số họ. Lúc đầu, họ hơi tức giận, và họ có lý. Tôi nói với họ: “Chúng ta cùng nhau làm một cái gì. Tôi phải soạn bài giảng cho ngày mai; vì sao chúng ta không cùng nhau chuẩn bị nói về vấn đề này?” Và đó là điều tích cực vì những gì mới đầu tưởng là phản đối thì đã thành điều tích cực, và cùng nhau chúng tôi soạn bài giảng cho ngày hôm sau. Đó là điều tích cực đã xảy ra ở Ai-len, một trong những tình huống gay cấn nhất mà tôi phải đối diện. Vậy thì Giáo hội phải làm gì? Hãy tiếp tục tiến về phía trước với sự xấu hổ và nghiêm túc. Tôi có trả lời đúng câu hỏi của cha không nhỉ?

Linh mục Sam Sawyer: Một điều tôi muốn trở lại: Giáo hội Mỹ đã đạt được tiến bộ lớn trong việc giải quyết vấn đề lạm dụng của các linh mục. Tuy nhiên, có vẻ như có ít minh bạch hơn khi một giám mục bị buộc tội, và điều đó thật đáng lo ngại.

Đúng, tôi nghĩ phải có cùng một minh bạch. Nếu ít minh bạch hơn, đó là một sai lầm.

Nhà báo Gerard O’Connell: Về chiến tranh Ukraine, nhiều người ở Mỹ bối rối khi cha không chỉ trích trực tiếp nước Nga khi họ gây hấn Ukraine, thay vào đó cha nói một cách tổng quát về sự cần thiết phải chấm dứt chiến tranh, chấm dứt  đánh thuê hơn là chỉ trích các cuộc tấn công của Nga, và giúp vũ khí. Xin cha giải thích quan điểm của cha về cuộc chiến này cho người Ukraine, người Mỹ hoặc những người ủng hộ Ukraine?

Khi tôi nói về Ukraine, tôi nói về một dân tộc đã tử vì đạo. Nếu có một dân tộc tử đạo, thì phải có người làm họ tử đạo. Khi tôi nói về Ukraine, tôi nói đến sự tàn ác vì tôi có nhiều thông tin về sự tàn ác của quân đội đã đến đất nước Ukraine. Nói chung, những kẻ tàn ác nhất có lẽ là những người đến từ Nga nhưng không theo truyền thống Nga, như người Chechnya, người Buryati, v.v. Chắc chắn, kẻ xâm lược là nhà nước Nga. Rất rõ ràng. Đôi khi tôi cố gắng không nêu rõ để không xúc phạm và lên án nói chung, dù tôi biết rõ người mà tôi đang lên án. Không nhất thiết tôi phải đặt tên cho họ.

Vào ngày thứ hai của cuộc chiến, tôi đến đại sứ quán Nga, một hành động khác thường vì giáo hoàng không bao giờ đến  sứ quán nào. Và tại đó, tôi đã nói với đại sứ để ông nói lại với tổng thống Vladimir Putin, tôi sẵn sàng đi với điều kiện ông cho tôi một cửa sổ nhỏ để đàm phán. Ông Sergey Lavrov, bộ trưởng ngoại giao ở cấp cao đã trả lời một thư rất hay và tôi hiểu lúc này chưa cần thiết.

Nhóm nhân viên trang America chụp với Đức Phanxicô (America Media / Antonello Nusca).

Tôi nói chuyện qua điện thoại với tổng thống Zelensky ba lần.  Và tôi làm việc để trao trả tù nhân, cả tù dân sự và quân sự, tôi gởi danh sách này cho chính phủ Nga, và nhận được phản hồi tích cực của Nga.

Tôi cũng nghĩ đến việc đi, nhưng tôi đã quyết định: Nếu tôi đi thì tôi sẽ đi Matxcova và Kyiv, đến cả hai, không chỉ đến một nơi. Và tôi không bao giờ cho ấn tượng tôi đang che đậy sự tấn công. Trong căn phòng này tôi đã tiếp ba hoặc bốn lần một phái đoàn của chính phủ Ukraine. Chúng tôi cùng nhau làm việc.

Tại sao tôi không nêu tên Putin? Vì không cần thiết; ai cũng biết ông. Tuy nhiên đôi khi mọi người bám vào một chi tiết. Mọi người đều biết lập trường của tôi, có Putin hay không có Putin, không cần phải nêu tên ông.

Tại sao tôi không nêu tên Putin? Vì không cần thiết; ai cũng biết ông.

Một vài hồng y đã đến Ukraine: hồng y Czerny đi hai lần; tổng giám mục Gallagher, bộ trưởng quan hệ với các quốc gia, đã ở Ukraine bốn ngày, và tôi nhận được báo cáo những gì ngài chứng kiến; hồng y Krajewski đi bốn lần. Ngài đi với chiếc xe tải chất đầy đồ đạc và đã ở Ukraine trong Tuần Thánh. Sự hiện diện của Tòa Thánh qua các hồng y là rất mạnh, và tôi thường xuyên tiếp xúc với những người có trách nhiệm.

Trong những ngày này có lễ tưởng niệm Holodomor, tội ác diệt chủng mà Stalin đã gây ra với người Ukraine (năm 1932-33). Tôi nghĩ việc nhắc đến tội ác này trong bối cảnh của cuộc xung đột hiện tại là thích hợp.

Quan điểm của Tòa thánh là tìm kiếm hòa bình và tìm kiếm sự hiểu biết. Chính sách ngoại giao của Tòa thánh đang đi theo hướng này và tất nhiên, luôn sẵn sàng làm trung gian.

Bà Gloria Purvis: Trong lịch sử Giáo hội Mỹ, phần lớn người công giáo Da đen bị bỏ quên. Đó là kinh nghiệm của chúng tôi với Giáo hội, nhưng chúng tôi ở lại vì chúng tôi tin tưởng. Bây giờ, trong một thăm dò gần đây cho biết, một số lượng lớn người công giáo Da đen đang bỏ Giáo hội. Phân biệt chủng tộc là quan trọng với chúng tôi, nhưng những người công giáo khác không xem đó là ưu tiên. Sau vụ ông George Floyd bị giết, nhiều người rời Giáo hội vì họ thấy có sự bỏ quên của Giáo hội trong chủ đề phân biệt chủng tộc. Cha sẽ nói gì với người công giáo Da đen ở Hoa Kỳ, những người đã trải nghiệm nạn phân biệt chủng tộc và trong các lời kêu gọi công bằng chủng tộc, tiếng nói của họ trong Giáo hội không được lắng nghe?  Làm thế nào cha có thể nâng đỡ họ?

Tôi muốn nói với họ, tôi gần với nỗi đau họ đang trải qua, đó là nỗi đau về chủng tộc. Và trong hoàn cảnh này, một cách nào đó, các giám mục địa phương nên gần gũi với họ. Giáo hội có các giám mục người Mỹ gốc Phi.

Bà Gloria Purvis: Có, nhưng đa số chúng tôi đi nhà thờ không có các linh mục người Mỹ gốc Phi, và hầu hết những người khác không phải là linh mục người Mỹ gốc Phi, dường như họ không nhạy cảm với đau khổ của chúng tôi. Nhiều khi họ phớt lờ nỗi đau của chúng tôi. Vậy làm thế nào để có thể khuyến khích người công giáo Da đen ở lại?

Tôi tin điều quan trọng ở đây là phát triển mục vụ, các giám mục hay giáo dân có thể làm, một phát triển mục vụ trưởng thành. Có, chúng tôi thấy có phân biệt đối xử, và tôi hiểu họ không muốn đi. Đôi khi ở các quốc gia khác, điều tương tự cũng xảy ra trong hoàn cảnh này. Nhưng có một lịch sử rất cổ xưa, lâu đời hơn nhiều so với lịch sử ở Mỹ và nó vẫn chưa được giải quyết. Các giám mục và các thừa tác viên mục vụ phải giúp giải quyết vấn đề này theo tinh thần Phúc âm.

Tôi muốn nói với người công giáo người Mỹ gốc Phi, rằng giáo hoàng nhận thức được nỗi đau của họ, ngài yêu thương họ rất nhiều, và họ phải cự lại và không bỏ đi. Phân biệt chủng tộc là một tội không thể dung thứ với Chúa. Giáo hội, các mục tử và giáo dân phải tiếp tục chiến đấu để xóa bỏ, để có một thế giới công bằng hơn.

Nhân cơ hội này, tôi cũng xin nói, tôi rất yêu mến các dân tộc bản địa Hoa Kỳ. Và tôi không quên người latinô, họ ở đó rất nhiều.

Bà Kerry Weber: Như cha đã biết, phụ nữ đã đóng góp và có thể đóng góp rất nhiều cho Giáo hội. Cha đã bổ nhiệm nhiều phụ nữ làm việc ở Vatican, điều đó thật tuyệt. Tuy nhiên, nhiều phụ nữ cảm thấy đau vì họ không thể được thụ phong linh mục. Cha sẽ nói gì với một phụ nữ đã phục vụ trong đời sống Giáo hội, cảm thấy họ có ơn gọi làm linh mục?

Đó một vấn đề thần học. Tôi nghĩ chúng ta đã xén bớt sự tồn tại của Giáo hội nếu chúng ta chỉ xem xét cách thức của chiều kích thừa tác (Ministidad) trong đời sống Giáo hội. Con đường không chỉ là chức vụ được phong chức. Giáo hội là phụ nữ. Giáo hội là người người phối ngẫu. Chúng ta đã không phát triển một thần học về phụ nữ phản ánh điều này. Có thể nói, chiều kích thừa tác là của Giáo hội theo học thuyết Phêrô. Tôi dùng thuật ngữ thần học. Nguyên tắc học thuyết Phêrô là nguyên tắc thừa tác. Nhưng có một nguyên tắc khác còn quan trọng hơn, mà chúng ta không nói đến, đó là nguyên tắc Đức Mẹ, nguyên tắc của nữ tính (femineidad) trong Giáo hội, của người phụ nữ, nơi Giáo hội thấy tấm gương của chính mình, vì Giáo hội là phụ nữ, là người người phối ngẫu. Một Giáo hội chỉ có học thuyết Phêrô sẽ là một Giáo hội mà người ta nghĩ nó được thu gọn vào chiều kích thừa tác chứ không có gì khác. Nhưng Giáo hội không chỉ là thừa tác. Đó là toàn thể dân Chúa. Giáo hội là phụ nữ. Giáo hội là người người phối ngẫu. Vì vậy, phẩm giá của phụ nữ được phản chiếu theo cách này.

Có một cách thứ ba: cách quản trị. Con đường thừa tác, con đường giáo sĩ, con đường Đức Mẹ, và con đường quản trị không phải là một điều thần học, nó là một điều hành chính thông thường. Và, ở khía cạnh này, tôi tin chúng ta phải dành nhiều chỗ hơn cho phụ nữ. Ở Vatican, những nơi có phụ nữ hoạt động tốt hơn. Chẳng hạn ở Hội đồng Kinh tế, chúng tôi có sáu hồng y và sáu giáo dân. Hai năm trước, tôi bổ nhiệm năm phụ nữ trong số sáu giáo dân, và đó là một cuộc cách mạng. Phó thống đốc Vatican là phụ nữ. Khi người phụ nữ tham gia chính trị hoặc quản lý mọi thứ, nhìn chung họ làm tốt hơn. Nhiều nhà kinh tế là phụ nữ, và họ đang đổi mới nền kinh tế theo hướng xây dựng.

Vì vậy, có ba nguyên tắc, hai thần học và một hành chính. Nguyên tắc học thuyết Phêrô là chiều kích thừa tác, nhưng Giáo hội không thể chỉ hoạt động với chiều kích này. Nguyên tắc Đức Mẹ là nguyên tắc Giáo hội là phụ nữ, là người phối ngẫu. Và nguyên tắc hành chính, không phải là thần học, mà là nguyên tắc quản lý, về những gì chúng ta làm.

Và vì sao phụ nữ không ở trong thánh chức? Vì học thuyết Phêrô không có chỗ cho điều này. Đúng, phải ở trong nguyên tắc Đức Mẹ, là nguyên tắc quan trọng hơn, phụ nữ hơn, giống Giáo hội hơn, đó là người mẹ và người phối ngẫu. Tôi tin rằng chúng ta đã quá thường xuyên thất bại trong việc dạy giáo lý khi giải thích những điều này. Chúng ta đã dựa quá nhiều vào nguyên tắc hành chính để giải thích, điều này về lâu về dài không có tác dụng.

Đây là lời giải thích ngắn gọn, nhưng tôi muốn làm nổi bật hai nguyên tắc thần học; nguyên tắc học thuyết Phêrô và nguyên tắc Đức Mẹ tạo nên Giáo hội. Vì vậy, khi người phụ nữ không bước vào đời sống thừa tác thì không phải là một sự thiếu thốn. Không. Vị trí của họ quan trọng hơn nhiều và chúng tôi vẫn chưa phát triển việc dạy giáo lý về phụ nữ theo cách của nguyên tắc Đức Mẹ.

Và về điều này, về đặc sủng của phụ nữ, tôi xin phép chia sẻ một kinh nghiệm cá nhân. Để chịu chức, người ta đòi hỏi thông tin của những người biết ứng viên. Thông tin tốt nhất, chính xác nhất mà tôi nhận được là từ cha phụ tá (giám mục) của tôi, hoặc giáo dân không phải là linh mục, hoặc từ phụ nữ. Mũi của họ rất thính, họ có một giác quan về giáo sĩ để xem người này có phù hợp với chức tư tế hay không.

Một giai thoại khác: một lần tôi hỏi thông tin về một ứng viên rất sáng giá cho chức linh mục. Tôi hỏi các giáo sư, các người đồng hành và cả những người trong giáo xứ biết anh. Và một phụ nữ viết bản báo cáo rất tiêu cực, nói rằng: “Đây là một nguy hiểm, người thanh niên trẻ này sẽ không làm việc.” Tôi điện thoại hỏi bà, ‘vì sao bà nói như vậy?’ Bà trả lời: ‘Tôi không biết tại sao, nhưng nếu là con tôi, tôi sẽ không để cho người ta phong chức cho nó; anh ấy đang thiếu một cái gì đó’. Vì thế tôi nghe lời khuyên của bà, tôi nói với ứng viên, ‘năm nay anh chưa chịu chức, chúng ta chờ.’ Ba tháng sau chủng sinh này gặp khủng hoảng và bỏ đi. Người phụ nữ là người mẹ, họ nhìn thấy bí ẩn của Giáo hội rõ hơn đàn ông chúng tôi. Vì thế lời khuyên của phụ nữ là rất quan trọng, và quyết định của một phụ nữ thì  tốt hơn.

Linh mục Matt Malone: Ở Hoa Kỳ, có những người cho rằng các chỉ trích của cha về chủ nghĩa tư bản thị trường là chỉ trích Hoa Kỳ. Thậm chí có người còn cho cha là người theo xã hội chủ nghĩa, theo cộng sản, theo chủ nghĩa Marx. Dĩ nhiên cha luôn nói cha theo Phúc âm. Nhưng cha trả lời thế nào với những người nói những gì Giáo hội và cha nói về kinh tế là không quan trọng.

Tôi luôn tự hỏi việc dán nhãn này đến từ đâu? Ví dụ, khi trên máy bay từ Ai-len về, một bức thư của một giám chức người Mỹ tung ra nói đủ chuyện về tôi. Tôi cố gắng làm theo Phúc âm. Tôi được soi sáng bởi các Mối Phúc, nhưng trên hết là theo tiêu chuẩn mà chúng ta sẽ bị phán xét như trong Phúc âm Thánh Mattêô 25. “Ta khát, các con đã cho Ta uống, Ta ngồi tù, các con đến hỏi han, Ta đau yếu, các con đến thăm.” Vậy Chúa Giêsu có phải là người cộng sản không? Vấn đề đằng sau những chuyện cha đề cập là sứ điệp Phúc âm đã giảm sút về mặt chính trị xã hội. Nếu tôi chỉ nhìn Phúc âm theo cách xã hội học, thì đúng, tôi là người cộng sản, và Chúa Giêsu cũng vậy. Đằng sau các Mối phúc và đoạn Phúc âm này chính là sứ điệp của Chúa Giêsu. Và đó là điều để chúng ta là người tín hữu kitô. Cộng sản đã đánh cắp một số giá trị kitô giáo của chúng ta. (Cười.) Còn một số người khác, họ lại làm thành thảm họa.

Cộng sản đã đánh cắp một số giá trị kitô giáo của chúng ta. Còn một số người khác, họ lại làm thành thảm họa.

Nhà báo Gerard O’Connell: Nói về chủ nghĩa cộng sản, cha đã bị chỉ trích về Trung Quốc. Cha đã ký một thỏa thuận với Trung Quốc về việc bổ nhiệm các giám mục. Một số người, và chính cha cũng nói kết quả không tốt, nhưng đó là một kết quả. Một số người trong Giáo hội và trong giới chính trị nói cha đã trả một giá quá đắt để duy trì sự im lặng về nhân quyền ở Trung Quốc.

Đó không phải là vấn đề của việc nói hay im lặng. Đó không phải là thực tế. Thực tế là đối thoại hay không đối thoại. Và cho đến thời điểm này đối thoại là có thể.

Theo tôi, tấm gương cao cả nhất tôi tìm thấy trong thời kỳ hiện nay của Giáo hội là tấm gương của hồng y Casaroli. Có một quyển sách có tên là Tử đạo của Kiên nhẫn nói về công việc của ngài ở Đông Âu. Các giáo hoàng – Đức Phaolô VI và Đức Gioan-Phaolô II – đã cử hồng y đến các nước Trung Âu để cố gắng thiết lập lại quan hệ trong thời thờ chiến tranh lạnh cộng sản. Và hồng y đã đối thoại với các chính phủ một cách chậm rãi, ngài đã làm những gì có thể và dần dần ngài đã thiết lập lại hệ thống phẩm trật công giáo ở các quốc gia đó. Chẳng hạn như không phải lúc nào cũng có thể bổ nhiệm người giỏi nhất làm tổng giám mục ở thủ đô, thay vào đó có thể là người theo chính phủ.

Đối thoại là con đường ngoại giao tốt nhất. Với Trung Quốc, tôi chọn con đường đối thoại. Nó chậm, nó có thất bại và cũng có thành công của nó, nhưng tôi không thể tìm ra con đường khác. Và tôi muốn nhấn mạnh điều này: dân tộc Trung quốc là một dân tộc tộc có một minh triết cao, tôi kính trọng và ngưỡng mộ. Tôi xin ngã mũ chào. Và vì thế, tôi cố gắng đối thoại, vì không phải chúng ta đi chinh phục mọi người. Không! Có những người theo đạo ở đó. Họ phải được chăm sóc, để họ có thể là người công dân tốt, người tín hữu tốt.

Có một câu chuyện hay khác về cách Giáo hội thực hiện công việc tông đồ này. Lần cuối khi còn là tổng giám mục hồng y  Casaroli nhìn thấy Đức Gioan XXIII. Ngài đưa ra bản báo cáo về các thương thuyết ở các quốc gia này đã được làm như thế nào. Vào các ngày cuôi tuần, hồng y thường đến nhà tù trẻ vị thành niên Casal Del Marmo để thăm các em trẻ. Trong buổi tiếp kiến với Đức Gioan XXIII, họ nói về vấn đề của nước này, nước kia. Chẳng hạn phải đưa ra những quyết định khó khăn để đưa hồng y József Mindszenty đến Rôma; khi đó ngài ở sứ quán Mỹ tại Budapest. Đó là một vấn đề, một quyết định khó khăn, nhưng hồng y Casaroli đã chuẩn bị việc di chuyển này. Và khi chuẩn bị chào từ giã, Đức Gioan XXIII hỏi hồng y, ‘Xin hỏi anh một chuyện, cuối tuần anh còn đi thăm các tù nhân trẻ không?” hồng y trả lời ‘có’, giáo hoàng nói ‘anh cho tôi gởi lời chào và xin anh đừng bỏ rơi họ!’ Trong trái tim của hai vĩ nhân này, việc đi thăm các tù nhân trẻ cũng quan trọng như việc thiết lập quan hệ với Praha, Budapest hay với Vienna. Đây là những điều tuyệt vời. Điều này cho chúng ta thấy một bức tranh toàn cảnh của họ.

Nhà báo Gerard O’Connell: Xin hỏi cha một câu hỏi cuối cùng. Bây giờ cha đã là giáo hoàng được 10 năm.

Đúng! (cười)

Nhà báo Gerard O’Connell: Nếu cha nhìn lại, xin cha cho biết ba chuyện cha sẽ làm khác đi hoặc làm cha hối tiếc?

Tất cả! Tất cả! (All! All! ngài nói bằng tiếng Anh, và mọi người cười nghiêng ngả). Tất cả đều khác nhau! Nhưng tôi làm những gì Chúa Thánh Thần bảo tôi phải làm. Và khi tôi không làm điều gì đó, tôi đã phạm sai lầm.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Hậu trường cuộc phỏng vấn của trang America với Đức Phanxicô

Thầy phó tế Bruno Lachnitt, tuyên úy các nhà tù sống tình huynh đệ với các tù nhân

Thầy phó tế Bruno Lachnitt, tuyên úy các nhà tù sống tình huynh đệ với các tù nhân

Từ một năm nay, phó tế Bruno Lachnitt, giáo phận Lyon là tuyên úy nhà tù công giáo quốc gia làm việc ở nhà tù Lyon-Corbas. Tại đây thầy gặp các tù nhân trong phòng giam và sinh hoạt với một nhóm chia sẻ. Mỗi mùa hè, thầy đưa các tù nhân đi hành hương trên các con đường của Saint-Jacques. Mục đích của thầy: tạo lòng tin tưởng.

lavie.fr, Corine Chabaud, 2022-10-26

Thầy phó tế Bruno Lachnitt cùng với các tù nhân ở nhà tù Lyon-Corbas. Bruno Amsellm / Divergence-La Vie

Văn phòng của trung tâm văn hóa xã hội hơi lạnh. Hàng chục ông ở những độ tuổi khác nhau ngồi thành vòng tròn trên những chiếc ghế nhựa. Khuôn mặt trắng và đen nhưng hiếm khi họ che mặt. Họ nói chuyện tự do. Ông Florent với bộ râu muối tiêu nói: “Ở đây như một gia đình, chúng tôi cởi mở, chúng tôi lắng nghe, chúng tôi trao đổi. Và chúng tôi yên tâm, đó là nhờ tinh thần nhân từ và cảm thông.”

“Như một gia đình, để giúp đỡ nhau chịu đựng sự không thể chịu đựng”

Ông Louis tiếp lời: “Thật đáng khen công việc của tuyên úy. Tôi quý trọng những người bỏ thì giờ ra cho những người tuyệt vọng.” Ông Ness, ‘con của những nhà ngoại giao’ nói thêm: “Nhóm này như một gia đình, đã giúp chúng tôi chịu đựng điều không thể chịu đựng. Trong các cuộc họp như cuộc họp này, thời gian như ngừng trôi. Nếu không, nhà tù như sở thú, với những người sống trong phủ nhận cứ rập rình chung quanh.”

Anh Arthur, trẻ hơn ghi nhận: “Giây phút này là giây phút nghỉ ngơi trong đời sống hàng ngày có quá nhiều thù địch. Chúng tôi muốn phục vụ lại.” Ông Elvis chờ để lên tiếng, ông cho biết cuộc gặp gỡ tình cờ với tuyên úy đã xoa dịu cơn giận dữ của ông và đưa ông về với tha thứ, ông nói: “Sau khi nói chuyện thầy, tôi cảm thấy tôi như đứa trẻ sơ sinh. Ở đây, tôi hiểu không chỉ có những người xấu trong tù. Tôi đã học được rất nhiều với các tuyên úy và tôi vẫn còn nhiều điều để học.”

Ông Joao, người Brazil tâm sự, chuyến đi của thầy Bruno Lachnitt đến bệnh viện tâm thần đã nâng đỡ tinh thần ông: “Thầy muốn điều tốt cho tôi và không phán xét tôi.” Ông  Jean-Claude lớn tuổi hơn, cám ơn thầy tuyên úy: “Một tuyên úy như người bạn. Chúng tôi không quên ơn thầy.”

Khoảng mười lăm người quen thuộc trong nhóm thảo luận

Thầy Bruno Lachnitt đã lập gia đình và có ba người con gái, trước đây thầy là tu sĩ Dòng Tên và công nhân tại hãng xe Peugeot, thầy 63 tuổi và đã làm việc ở nhà tù từ chín năm nay. Thầy làm việc ở nhà tù Lyon-Corbas, nhà tù này mở cửa năm 2009 để thay thế các nhà tù cũ kỹ, gần như đổ nát của thành phố Lyon. Tháng 9 năm 2021, thầy được bổ nhiệm làm tuyên úy nhà tù công giáo quốc gia.

Khi lời của Đức Phanxicô tác động trên đức tin các tù nhân

Một ngày rưỡi một tuần, thầy làm tuyên úy ở Paris. Nhưng vì là nhân viên của giáo phận Lyon nên thầy giữ chức vụ của mình tại Corbas. Vào các ngày chúa nhật, thầy cử hành nghi thức phụng vụ ở căn phòng trống này, thầy dùng các chiếc bàn ở đây để làm bàn thờ. Ngày thứ hai, thầy gặp nhóm chia sẻ, có  khoảng mười lăm người thường xuyên đến, họ rất vui được gặp nhau.

Nhóm có năm tuyên úy, thầy, ba phụ nữ và một ông, hai phụ tá, tất cả đều là giáo dân. Trước đây có bà y tá Bénédicte Defay, 52 tuổi ở bên cạnh họ. Thường thường bà sinh hoạt với một nhóm phụ nữ ở một phòng ấm hơn. Chủ đề trong ngày? Vai trò của tuyên úy trong nhà tù. Họ chuyền nhau quyển kinh thánh màu đỏ: đó là cây gậy biết nói để điều chỉnh họ.

Tỷ lệ quá tải nhà tù là 150%

Để đến phòng này, bạn phải đi qua các cánh cửa có lưới. Cơ sở hiện đại có 690 chỗ, nhưng có đến 1.032 tù nhân, hai hoặc ba người ở một phòng. Một số ngủ trên nệm trên sàn nhà. Thầy Bruno nói: “Tình trạng quá tải ở đây là 150%. Ở nhà tù Gradignan gần Bordeaux là 212%. Nếu nhà tù quá tải như vậy là vì có những trường hợp tái phạm”, thầy mong có các bản án xen kẽ và xem lại các biện pháp an ninh.

Kể từ tháng 3 năm 2022, sau hai năm gián đoạn vì Covid, thầy  đi thăm lại tù nhân. Quen thuộc với những người canh tù, mỗi tuần thầy đi thăm từ 20 đến 30 giờ. Các ngày thứ tư, thầy đến nhà tù dành cho trẻ vị thành niên ở Meyzieu.

Đức Phanxicô, “sứ giả của Chúa Kitô” bên các tù nhân 

Khôi phục lòng tin tưởng của tù nhân

Một câu nói của nhà hàn lâm Pháp François Mauriac hướng dẫn thầy mọi nơi: “Chính lòng tin tưởng của người khác đặt vào chúng tôi đã dẫn đường cho chúng tôi.” Thầy Bruno Lachnitt biết người tù nhân có thể lấy lại lòng tự trọng nếu họ thấy được vẻ đẹp trong chính con người họ. Thầy nói: “Biên giới giữa thiện và ác không vượt qua giữa mình và người khác, nhưng ở bên trong mỗi người. Trong chín năm, tôi chưa bao giờ sợ nhà tù.”

Trong xà lim, thầy nối kết các quan hệ sâu đậm. Thầy không bao giờ hỏi tù nhân vì sao họ bị bắt, nhưng cuối cùng họ là người nói sự thật. Thầy đã chứng kiến một người đứng đầu băng đảng khóc. Lòng tin tưởng người tù nhân đặt vào thầy, không phải do thầy, với thầy đó là “thứ quý giá nhất và cũng là thứ mong manh nhất”.

Thầy nói: “Tôi khi nào cũng cảm thấy như ở nhà mình khi tôi ở trong xà-lim với tù nhân. Tôi chỉ có thể cho sự lắng nghe và hiện diện của tôi.” Nhà tù là nơi thể hiện đức tin của thầy, nhưng không có chuyện giảng phúc âm: “Chính tù nhân là người nói lên. Tôi không bao giờ nói về tôn giáo trước. Tôi không có gì để dụ. Tôi ở đây không phải để nói về Chúa Giêsu nhưng trước tiên là để có một quan hệ huynh đệ, đồng hành đưa người đó về điều tốt nhất của họ.”

Một thử thách thể lý dựa trên sự tin tưởng

Từ sáu năm nay, mỗi mùa hè thầy Bruno Lachnitt đưa năm hoặc sáu tù nhân hành hương trên đường đến Santiago de Compostela, từ Puy-en-Velay đến Conques, họ đi bộ, đeo ba lô trong 10 ngày khoảng 200 cây số. Một thử thách thể lý dựa trên lòng tin tưởng. Quy định? Không đi xe, nếu một người bỏ cuộc, mọi người đi về nhà. Ban quản lý nhà tù cho phép một dạng thử thách gần gũi với trái tim của thầy. Thầy nói: “Một phép lạ, vì những người này đi đến cùng con người của họ, tôi thấy những thay đổi ấn tượng nơi họ. Và, cuối cùng họ đã có những nụ cười rạng rỡ.”

Các tù nhân trên đường hành hương về Compostelle

Với người đi trong tinh thần gia đình chọn con đường này đã thành “chuyên gia bong chân”, những giá trị sinh ra từ cuộc phiêu lưu đặc biệt này, tinh thần đoàn kết, bền bỉ chịu đựng đã mang lại ý nghĩa. Khác xa với luật của kẻ mạnh nhất, thường thường trong tù thứ bậc rất mạnh, ghứ bậc của “giá trị tối cao của đồng tiền, lô-gích của xã hội, nơi người giàu ngày càng giàu hơn”. Với thầy, sự nhất quán là quan trọng.

Một không gian ưu tiên cho bình an

Một số người bị giam giữ, tín hữu hoặc không tín hữu được ra ngoài để tham dự vào các nhóm chia sẻ. Không gian yên bình đặc biệt ở đây, các mối quan hệ được nối kết. Vào đầu mùa thu này, cuộc họp gần cây đàn piano đóng nắp kéo dài hai tiếng rưỡi.

Chúng tôi đã đề cập đến sự khó khăn trong việc giam giữ, bạo lực, những người cai ngục lăng mạ hoặc xúc phạm, chỗ ở chật hẹp của xà-lim, đôi khi không thể sống chung giữa các bạn tù, trẻ em bị xa phòng thăm nuôi, nỗi đau chia ly, đau khổ, tức giận, những trường hợp muốn tự tử, nỗi sợ khi đi dạo, lời Chúa, êm dịu. Buổi họp có thể là lần cuối cho đến lễ Giáng Sinh vì không có phòng. Nhưng bà giám đốc Dabia Lebreton cho biết sinh hoạt có thể tiếp tục. Ông Florent nhẹ nhõm nói: “Đó là tin tốt trong ngày.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Để tránh ngồi tù, anh chấp nhận đi hành hương

Hậu trường cuộc phỏng vấn của trang America với Đức Phanxicô

Hậu trường cuộc phỏng vấn của trang America với Đức Phanxicô

americamagazine.org, Kerry Weber, 2022-11-28

Tác giả Kerry Weber cười bên cạnh Đức Phanxicô, giám mục giáo phận Rôma. (America Media / Antonello Nusca)

Một trong những việc đầu tiên khi tôi bước vào Nhà Thánh Marta là cởi giày. Trời mưa gần như cả ngày, và những tảng đá cuội ở Rôma ẩm ướt trơn trượt; làm sao tôi có thể đi bộ cho nổi với đôi giày cao gót từ khách sạn đến nhà của giáo hoàng. Tôi thay đôi giày thấp đen bằng đôi giày cao gót đỏ chót, đôi giày theo phong cách Đức Bênêđíctô XVI, chứ không phải của Đức Phanxicô. Nhưng chính Đức Phanxicô mà chúng tôi sắp đến thăm bây giờ. Và chúng tôi rất vui.

Những ngày trước khi đi chúng tôi làm đủ phân loại, phân loại những gì quan trọng, những gì không; những gì chúng tôi sẽ có thì giờ những gì không. Các đồng nghiệp của tôi và tôi thảo luận về các câu hỏi sẽ hỏi giáo hoàng và hành trình của chúng tôi. Chúng tôi thảo luận về người chụp hình, về người thông dịch, trò chuyện nhóm bằng WhatsApp và chương trình ăn tối.

Chồng tôi và tôi bàn những gì phải làm khi tôi đi vắng (mẹ hiền của tôi đóng vai trò rất lớn). Các con tôi cần đưa đón đi học. Cha mẹ chồng tôi sẽ từ Ai-len qua thăm sau nhiều năm không đi được. Những chiếc bánh nướng Lễ Tạ Ơn sẽ mua ở tiệm bánh ở trang trại.

Tôi hỏi hai con tôi xem chúng nghĩ gì về giáo hoàng và nên hỏi ngài câu gì. Đứa con 6 tuổi của tôi muốn biết ngài yêu con vật nào, đứa con 4 tuổi luôn khôn ngoan của tôi biết ngài khuyến khích việc chơi đùa, với ngài trẻ con chơi đùa là quan trọng. Chúng vẽ tranh cho ngài với màu sắc yêu thích của chúng.

Một trong những điều kỳ lạ nhất là cảm giác thật bình thường khi ngồi đối diện với Đức Phanxicô.

Vài giờ trước khi từ Hartford đi Rôma, tôi bắt đầu lo lắng, tôi không có đôi giày phù hợp, dù tôi biết đi đôi giày nào để gặp giáo hoàng là chuyện không quan trọng. Hoặc có lẽ nó quan trọng khi mình cân nhắc nên mặc thế nào cho tôn trọng, nhưng chẳng quan trọng theo nghĩa Chúa Giêsu sẽ đòi hỏi bạn cái gì vào ngày phán xét cuối cùng. Vậy mà trên đường ra phi trường, khi chồng con ngồi chờ trên xe, tôi phóng nhanh vào một tiệm DSW và lướt qua các kệ hàng. Tôi vớ lấy đôi giày cao gót màu “đỏ anh túc” rồi chạy nhanh đến quầy trả tiền. Đôi giày quan trọng như vậy nên làm cho chuyến bay càng quan trọng hơn.

Đã có quá nhiều việc xảy ra, nhiều chuyện phải lên kế hoạch, đến nỗi phải đến đêm trước ngày phỏng vấn, khi cha Sam Sawyer, bà Gloria Purvis và tôi đứng giữa Quảng trường Thánh Phêrô tôi mới thực sự nhận ra, tôi sẽ có dịp được gặp giáo hoàng Dòng Tên đầu tiên của Giáo hội chúng tôi. Khi chúng tôi ăn kem trong một đêm se lạnh, bao chung quanh là các chứng nhân bằng đá trên các bức tường gần đó, tôi hy vọng một phần nào đó cuộc trò chuyện ngày hôm sau sẽ giúp xây dựng Giáo hội chúng tôi.

Sáng hôm sau, tôi có chút hãnh diện khi đến Nhà Thánh Marta. Chúng tôi chỉ đơn giản đi ngang qua vài anh cận vệ Thụy Sĩ mặc áo mưa và một số quý ông giúp chúng tôi treo áo khoác. Sau khi thay giày, chúng tôi đi qua cánh cửa đúp để đến căn phòng chúng tôi sẽ nói chuyện với Đức Phanxicô. Một cảm giác quen thuộc kỳ lạ, giống như phòng chờ của nhà tĩnh tâm nhưng có thêm các chiếc ghế nhung. Một bức tranh cao lớn Đức Mẹ Tháo gỡ nút thắt như đang nhìn chúng tôi khi cha Sawyer sửa soạn dụng cụ âm thanh và chúng tôi xem lại tập ghi chú của mình.

Một lúc sau, cửa mở và Đức Phanxicô bước vào, ngài đi chiếc xe tập đi có bánh xe, loại có ghế ngồi nhỏ và giỏ lưới bên dưới. Trong giỏ là cây gậy có quấn cây thánh giá bằng bạc ở gần phía trên. Không ai báo trước sự xuất hiện của Ngài và Ngài dường như xuất hiện ở giữa chúng tôi như Chúa Thánh Thần đến trong căn phòng khóa kín.

Đơn giản là tôi ở bên cạnh ngài, để ý cách ngài nhìn mọi người khi họ nói chuyện với ngài. Cách ngài chú ý, tiếng cười của ngài. Thật lạ khi tôi cảm thấy như tôi hiểu ngài nhiều như thế nào, dù tôi không hiểu hết tất cả những gì ngài nói. 

Một trong những điều kỳ lạ nhất là cảm giác thật bình thường khi ngồi đối diện với Đức Phanxicô. Làm thế nào, với môi trường chung quanh, với những người khác ngày thường mà giáo hoàng lại làm cho chúng tôi cảm thấy như ở trong nhà của ngài.

Tôi đã nghĩ tôi sẽ lo lắng, tôi sẽ vấp khi nói nhiều hơn bình thường hoặc theo đúng nghĩa đen là vấp ngã trên đôi giày cao gót. Nhưng thay vào đó tôi cảm thấy bình thản. Một cảm giác tương phản với cảm giác lúc 3:30 sáng khi từ khách sạn tôi gọi cho mẹ tôi vì không ngủ được, tôi quá căng thẳng. Bà nói trước khi xem chương trình NCIS thường lệ: “Con chỉ đơn giản nói: Không phải tôi, mà là Chúa qua tôi, vì dù sao thì đó là tất cả. Chỉ cần nói, Chúa Thánh Thần ở với con rồi đi.”

Tôi hiểu các phần Đức Phanxicô nói bằng tiếng Tây Ban Nha, nhưng nên dựa vào nhà báo Elisabetta Piqué, người thông dịch của chúng tôi để có câu trả lời đầy đủ. Có một chút hụt hẫng giữa  khả năng nghe và hiểu của tôi, nhưng cũng có điều gì đó giải phóng tôi. Nó cho tôi cơ hội để quan sát một cách đơn giản. Tôi không phân tích lời của ngài hay sốt ruột chờ câu trả lời.

Đơn giản là tôi ở bên cạnh ngài, để ý cách ngài nhìn mọi người khi họ nói chuyện với ngài. Cách ngài chú ý, tiếng cười của ngài. Thật lạ khi tôi cảm thấy như tôi hiểu ngài nhiều như thế nào, dù tôi không hiểu hết tất cả những gì ngài nói.

Ở gần Đức Phanxicô làm tôi muốn yêu mọi người hơn và yêu nhiều người hơn.

Ở gần Đức Phanxicô làm tôi muốn yêu mọi người hơn và yêu nhiều người hơn. Trải nghiệm này làm tôi cảm thấy mình có một mối liên kết sâu sắc với những người bên cạnh tôi trong phòng. Ở bên cạnh ngài nảy sinh trong tôi mong muốn mở rộng quan hệ này với những người khác. Nhìn họ như cách mà Đức Phanxicô nhìn chúng tôi: cởi mở, yêu thương, vui tươi, mong manh. Sẵn sàng thể hiện sự yếu đuối và trung thực, sống trong mớ hỗn độn. Sự phấn khích mà tôi cảm nhận với Đức Phanxicô tiếp tục tăng lên khi tôi suy ngẫm về thời gian ở bên cạnh ngài.

Đức Phanxicô với các biên tập viên và nhân viên trang America. (America Media / Antonello Nusca). Nhà báo Gerard O’Connell, bà Gloria Purvis, bà Kerry Weber, linh mục Matt Malone, linh mục Sam Sawyer

Sau cuộc phỏng vấn, tôi đưa cho ngài các bức vẽ của các con, tôi ngạc nhiên thấy ngài rất vui. Ngài hỏi, mặt ngài sáng lên: “Cho cha?” “Dạ!” Tôi nói khi ngài lướt nhìn chúng và sau đó cất chúng vào giỏ của chiếc xe tập đi. Ngài không có con vật yêu thích nhưng nói đùa có thể ngài là “nơi tập trung của tất cả các con vật.”

Tôi cười, ngửa đầu ra sau. Nhưng những lời nhận xét của ngài cũng làm cho tôi nghĩ đến chúng tôi đã đặt lên ngài bao nhiêu áp lực, bao nhiêu người trong chúng tôi mong ngài là tất cả cho mọi người. Hẳn khó khăn cho ngài như thế nào và ngài phải vui giữa những chuyện này.

Ở Vatican và ở giữa tất cả vẻ đẹp của nó- Nhà nguyện Sixtine, Đền thờ Thánh Phêrô và trong chính căn nhà của ngài – đã làm cho tôi mến chuộng hơn cương vị giáo hoàng của ngài. Nhưng nó cũng giúp tôi đánh giá cao giới hạn của cơ quan. Nói chuyện với Đức Phanxicô cũng như nói chuyện với mẹ của tôi lúc 3:30 sáng. Điều này làm cho tôi cảm thấy như mọi thứ sẽ ổn, nhưng biết rằng còn rất nhiều điều phải tìm hiểu.

Tôi nghĩ có một phần trong tôi đi vào cuộc phỏng vấn để tìm  câu trả lời, không chỉ cho câu hỏi của chúng tôi mà còn cho những nghi ngờ nảy sinh từ việc chỉ là một phần của một Giáo hội đầy những người phạm tội và cả chính bản thân tôi.  Nhưng nhiều lần, Đức Phanxicô nhắc chúng tôi những vấn đề quan trọng, những vấn đề khi đọc các Mối Phúc và đoạn 25 Phúc âm Thánh Mattêô. Một phần trong tôi hy vọng qua cuộc phỏng vấn này sẽ giúp tôi học để giống hình ảnh của Đức Phanxicô hơn. Nhưng rõ ràng điều duy nhất ngài muốn là chúng ta giống giống Chúa Giêsu hơn.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Đức Phanxicô trả lời phỏng vấn về phân cực, về phong chức phụ nữ, các giám mục Hoa Kỳ và về nhiều chủ đề khác

“Con ở lại một chút”, cuốn phim về đức tin nhưng không có Chúa Kitô

“Con ở lại một chút”, cuốn phim về đức tin nhưng không có Chúa Kitô

Chúng ta nên nghĩ gì về cuốn phim “Con ở lại một chút” của nghệ sĩ Gad Elmaleh? Ý kiến nhiều sắc màu của linh mục Pascal Ide, giáo phận Paris, giám đốc trang web pascalide.fr

famillechretienne.fr, Charles-Henri d’Andigne, 2022-11-24

Đi xem Con ở lại một chút, tôi có ba nỗi sợ: các diễn viên nghiệp dư, cũng như quá nhiệt thành mà không có nghề nghiệp; cốt truyện mang tính tự truyện đến mức gần với phim tài liệu hơn là tường thuật thực sự; có ý định ngầm chinh phục tân tòng.

Gad Elmaleh: Người giáo dân vui tính

Khi đèn tắt, phòng chiếu trong bóng tối, tôi ngạc nhiên thích thú trước số lượng khán giả, bộ phim bắt đầu, những hình ảnh đầu tiên lấy từ tư liệu của gia đình Elmaleh (video nghiệp dư), sau đó là hình ảnh quay ở Casablanca trên nền lồng tiếng của Gad hôm nay chỉ làm tăng thêm nỗi sợ thất vọng của tôi. Nhưng rất nhanh chóng, tôi bị cuốn hút vào câu chuyện. Không, tôi không đang xem hồi tưởng về việc đi tìm con đường thiêng liêng của một người thiện cảm ngoài năm mươi gì đó, hay còn tệ hơn, một phim của “ông chủ”. Đúng, hồi hộp là có thật, nhịp độ nhanh, những cảnh lật ngược tình thế, những khúc quanh bất ngờ, hồi kết cũng thật bất ngờ. Đúng, một số lời thoại đánh trúng tâm điểm, như câu trả lời dường như ngẫu hứng của bà Régine, mẹ của Gad: “Con thay đổi Chúa, con thay đổi cha mẹ. Vậy con nhận con là con nuôi đi”.

Điều cấm trong phim Con ở lại một chút: người do thái và hồi giáo cấm con cái của họ vào nhà thờ công giáo

Đúng, có xúc động giữa các nhân vật, nhưng cũng có truyền cảm nơi khán giả: hơn một lần, tôi đã cười sằng sặc, cả khán giả trong phòng chiếu cũng cười; hơn một lần, tôi đã rất xúc động, nhất là những cảnh giao cảm sâu đậm giữa Gad, cha mẹ và chị Judith của anh, và còn hơn nữa khi những người này quyết định đến dự buổi lễ với anh, dù miễn cưỡng nhưng thật tâm, hoặc khi Régine chất vấn với một sự thật hiếm hoi với một bà mẹ khác cũng mất con trai của mình. Và những thảo luận sôi nổi khi đèn bật sáng cho thấy khán giả quan tâm đến cuốn phim như thế nào, tôi muốn nói những người tham dự.

Phải nói, diễn xuất của các diễn viên đôi khi còn vụng về; nhưng nhanh chóng, tôi xúc động trước tương quan cá nhân và tình cảm của họ (giống như lời thú nhận cảm động của người cha, chỉ có thể diễn tả bằng tiếng nước ngoài: “Cha là cha của con, còn con, con là người bạn thân nhất của cha” (I am your father and you are my best friend). Cũng giống như họ, họ dần dần quên máy quay phim, tôi dần dần quên họ là một phần của gia đình hay bạn bè của Gad, nhưng nghịch lý thay, tôi lại nhận thấy tôi nơi gia đình, ruột thịt và / hoặc tâm linh này. Thêm nữa, tôi có thấy hơi khó chịu khi thấy khía cạnh này mượn từ những diễn viên trong các phim của Éric Rohmer mà tôi rất yêu thích không?

Chắc chắn, một số chi tiết thiếu chặt chẽ và thật: chúng ta đã bao giờ thấy cảnh một cha xứ đóng vai thầy nhà khách và thầy nhà khách có nhiệm vụ tiếp khách lại có bộ mắt cau có không?; giờ kinh phụng vụ như “kinh chiều” có phải là thánh lễ không?; bây giờ các lễ rửa tội người lớn có làm ngoài Lễ Vọng Phục Sinh không? Nhưng, tôi xin nhắc lại, những chi tiết này mờ dần trước lời kêu gọi khẩn thiết, xin đừng nhân danh thế tục bất khả xâm phạm mà kiềm chế tôn giáo và xấu hổ tỏ ra mình là người công giáo.

Gad Elmaleh: “Trinh Nữ Maria là cú sét tình yêu đẹp nhất của tôi”

Cuối cùng, khi xem lại cuốn phim dài, tôi không bao giờ nhận ra ý định tốt đẹp và những cảm xúc tốt đẹp này, không làm thành tác phẩm văn học hay, điện ảnh hay, hơn thế nữa là một tác phẩm nghệ thuật đích thực. Phải công nhận, vì Gad không tìm cách trả lời những phản đối, nếu không là những lập luận vững mạnh, ít nhất là của người anh họ Eric (Rony Kramer) mạnh mẽ đưa ra, cũng không bảo vệ mình trước sự phân chiết tế nhị của nữ giáo sĩ do thái, trong các kịch ngắn của bà đã cho anh thấy, anh trượt vào vai người khác (người tóc vàng, v.v.) cũng như chậm nói mình là ai – chính xác vì anh là người do thái. Cũng vậy, chắc chắn vì Gad không bao giờ ở trong thế phản ứng hay cay đắng, nhưng luôn tìm cách bảo vệ mối liên kết của mình với người thân và sự liên tục với những gì anh đã nhận được từ họ, bắt đầu từ đức tin do thái – từ đó là tình cảm của anh với cố hồng y Jean-Marie Lustiger, mà anh mượn lời của ngài cho câu nói cuối cùng của phim.

Nhưng trên tất cả, vì, ở mỗi giây phút, người xem cảm nhận nhân vật chính nói từ kinh nghiệm riêng của mình, với một chân thành hiếm có, không chỉ với sự kiện nền tảng (từ nay đã được kể  hàng trăm lần và được nhiều người biết đến) về cuộc gặp gỡ yêu thương và che chở của Đức Trinh Nữ Maria, mà ngay cả với bây giờ (Mẹ đã theo tôi từ khi tôi còn nhỏ). Và cũng vì anh không bao giờ ngừng chăm chú lắng nghe từng người, từng phản ánh, từng phản đối, cho đến khi để cho mình cảm động – chẳng hạn với nghịch lý thường thấy này của giáo sĩ do thái: “Phúc thay ai không con đường của mình với người rành đường, nếu không họ mất cơ hội bị lạc đường!”. Ngoài ra, vì anh không ngần ngại tỏ ra mong manh, mà còn đi xa hơn, là tỏ ra hèn và nói dối (nhưng lời nói dối nhẹ nhàng nhất, là lời nói dối vì không muốn làm tổn thương những người anh yêu thương).

Tuy nhiên, khi xem phim xong, tôi bị hụt hẫng hai chỗ. Hụt hẫng thứ nhất, dĩ nhiên là (sự chú ý, đoạn quyết định…), vì vào cuối phim, không có lời giải thích, Gad không rửa tội. Hụt hẫng thứ hai, Gad chưa bao giờ đưa ra bất kỳ lý do nào khác cho việc trở lại đạo công giáo của anh ngoài sự che chở của Đức Mẹ mà anh luôn chứng nghiệm và không bao giờ chối cãi.

Giờ đây, hai cảm nhận về sự chưa hoàn tựu này hội tụ ở:  cái, hay đúng hơn là người thiếu một cách trầm trọng trong lịch sử thiêng liêng của Gad, đó là Chúa Kitô. Kitô giáo là sự trở lại với Chúa Kitô nhờ Chúa Kitô. Và nếu Mẹ Maria can thiệp thì vì Mẹ can thiệp như người mẹ chân thực nào, không giữ con trai mình cho riêng mình, trao con mình cho người khác. Chúng ta thấy Gad cầu nguyện nhưng không bao giờ thấy anh đọc Lời Chúa, xem xét kỹ lưỡng sự đồng nhất của Cựu Ước và Tân Ước, dự Bí tích Thánh Thể. Nếu vẫn chỉ ở “như thể, als ob” thì chưa đủ, điển hình theo kiểu triết gia Kant, “sống như Chúa tồn tại và xem điều đó có thay đổi không”, nếu Gad sai khi khẳng định: “Có đức tin, là có nghi ngờ”, thì ông đúng khi nói với Đức Mẹ: “Con biết Mẹ nói với chính Mẹ, con đã không đi đến cùng”. Gad đưa ra một đặt cược kín đáo nhưng chắc chắn: sau lời trích của cố hồng y Lustuger, tổng giám mục giáo phận Paris, ông tặng phim của mình cho một Guy Moign nào đó. Người này đồng hóa với Raymond, ông già mà Anna (Amélie Melkonian) đến thăm. Tuy nhiên, người hoài nghi này nhắc cho Gad tầm quan trọng của chất khử trùng (là giáo điều!) đã cho Gad một ví dụ điển hình về sự tiến hóa, bằng cách bứng mình ra khỏi hoang tưởng của một thuyết âm mưu. Bằng cách đưa ra sức nặng đặc biệt của hình ảnh này, anh đã không đưa ra, một cách êm ái dịu dàng và mạnh mẽ, anh cũng đã trên đường trở thành đó sao?

Bất cứ ai mong chờ được xem một phim về đức tin, về một biện hộ cho lòng khoan dung và hơn thế nữa là đối thoại giữa các tôn giáo, sẽ không thất vọng. Nhưng còn hơn thế. Bất cứ ai mong chờ để xem một phim về hoán cải sẽ thất vọng, bởi vì nó có ít hơn. Đây là, và cũng đã vô cùng lớn, là phim của một người đang trên đường đi, trên hành trình thiêng liêng. Từ một nghệ sĩ nổi tiếng và được công nhận, giản dị trong đời sống thực cũng như trên sân khấu, đã quyết định sống sát với niềm khao khát khôn nguôi dành cho Chúa, Đấng hứa ban hạnh phúc. Làm sao không chúc ông nhận ra con đường này có một cái tên, chính cái tên mà anh đã nói trong một giây phút trong phim: “Ta là Đường, là Sự thật, và là Sự sống” (Ga 14, 6)!

Nhưng có phải Chúa Kitô vắng mặt như tôi nói không? Một vài dấu vết trong số rất nhiều đã nói lên. Có phải nơi Raymond, người Gad đã quỳ xuống rửa chân đó sao? Và chính dưới chân nhà thờ Đức Bà, trong cảnh cuối cùng của phim nhắc cảnh đầu tiên của phim, người xem thấy lại Ngài trong ánh sáng xanh dịu tràn ngập. Khi, trong một cử chỉ nhân ái bất ngờ, Anna đưa cây nến cho Gad, bà nói câu của Thánh Phaolô: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau” (Ga 6,22). Và câu này kết thúc theo cách: “Và như vậy anh em chu toàn luật (Torah) của Đức Kitô”.

Con ở lại một chút”, bộ phim hài và tiểu sử của nghệ sĩ Gad Elmaleh, 2022. Với Gad Elmaleh, David Elmaleh và Régine Elmaleh (cha mẹ của nghệ sĩ).

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: “Con ở lại một chút”: không phải tất cả người do thái đều theo Gad Elmaleh trên con đường thiêng liêng của ông

Những gì còn lại trong phim của Gad Elmaleh? Còn nhiều lắm

Trong chuyến đi ad limina, các giám mục Bỉ thảo luận tất cả chủ đề với giáo hoàng

Trong chuyến đi ad limina, các giám mục Bỉ thảo luận tất cả chủ đề với giáo hoàng

Hồng y De Kesel vui mừng cho biết: “Chúng tôi đã có cơ hội để nói chính xác những gì chúng tôi muốn nói,” | © Cathobel / G.  Keprel cath.ch, I.Media, 2022-11-27

Hồng y Josef De Kesel, tổng giám mục Mechelen-Brussels cho biết: “Chúng tôi có cách làm việc của chúng tôi, chúng tôi không giống nước Đức,” ngài cho biết ngài đã nói chuyện với giáo hoàng Phanxicô về lời cầu nguyện của các giám mục Bỉ cho người đồng tính tháng 9 vừa qua. Trong cuộc họp báo được tổ chức tại sứ quán Bỉ ngày 25 tháng 11 năm 2022, ngài trình bày kết quả chuyến đi ad limina của các giám mục Bỉ từ ngày 21 đến 25 tháng 11.

Ngày 19 tháng 11, khi kết thúc chuyến đi ad limina được đánh dấu bằng sự đối lập rõ ràng giữa Giáo triều la mã và các giám mục Đức, tổng giám mục Đức Georg Bätzing, chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức tuyên bố ngài không muốn ngăn lời chúc phúc cho các cặp đồng tính trong giáo phận Limburg của ngài.

Một tuần sau, hồng y Josef De Kesel đã nêu rõ quan điểm của các giám mục Bỉ về chủ đề này: ‘hai lời cầu nguyện’ do các giám mục Bỉ đề xuất cho các cặp đồng tính tháng 9 vừa qua không phải là chúc phúc hay p

Mục vụ chăm sóc người đồng tính

Hồng y khẳng định, trong chuyến đi, vấn đề chăm sóc mục vụ cho người đồng tính đã được giải quyết trong tất cả các bộ vì nó liên quan đến tất cả. Ngài nhấn mạnh: “Nếu chúng ta không giúp, họ sẽ bị thiệt thòi. Trong suốt chuyến đi ad limina, ngài cảm thấy quan điểm của Giáo hội Bỉ đã được “lắng nghe và tôn trọng”.

Ngài nói đến tầm quan trọng của việc “sống thực tế” trong sứ mệnh mục vụ với các cặp đồng tính, nhất là khó khăn trong việc khuyến khích khiết tịnh như câu giải pháp duy nhất cho họ. Một cách rộng hơn, ngài xin Giáo hội dành thì giờ để phân định những “vấn đề mới” này, giải thích họ đang cố gắng “cấu trúc hóa” việc chăm sóc mục vụ này.

Trao đổi với giáo hoàng trong tự do

Hồng y De Kesel cũng nói về cuộc nói chuyện kéo dài hai giờ của các giám mục Bỉ với giáo hoàng ngày 25 tháng 11, về cuộc phỏng vấn thú vị với Đức ông Philippe Bordeyne, chủ tịch Giáo hoàng Học viện Gioan-Phaolô II về gia đình ngày 17 tháng 11. Đức ông nhắc lại đề xuất của các giám mục Bỉ về ‘lời cầu nguyện’ cho các cặp đồng tính và bảo vệ ý kiến, lời chúc không phải là xác nhận một lối sống, nhưng thể hiện điều tốt đẹp mà Thiên Chúa muốn dành cho con người.

Hồng y De Kesel vui mừng: “Chúng tôi đã có cơ hội để nói chính xác những gì chúng tôi muốn. Trong hai giờ, chúng tôi đã đề cập tất cả các chủ đề, không có nghĩa là vấn đề được giải quyết trong chuyến đi này. Chúng tôi không đến để giải quyết các vấn đề đằng sau hậu trường.”

Vấn đề bậc sống độc thân của linh mục và phụ nữ phó tế cũng đã được đề cập

Trong chuyến đi ad limina này, các vấn đề khác như bậc sống độc thân của linh mục hay phụ nữ phó tế cũng đã được đề cập. Về vấn đề phụ nữ phó tế, hồng y nhấn mạnh, vấn đề phát sinh tự chính nó chứ không phải để giải quyết việc việc ơn gọi bị giảm.

Ngài cho biết đã giải thích với Đức Phanxicô và những người đứng đầu các bộ về thách thức lớn lao mà theo quan điểm của ngài, đó là xã hội Âu châu đã rất đa nguyên và thế tục hóa. Ngài nhấn mạnh: “Rao giảng Tin Mừng trong một xã hội không thuần nhất khác với rao giảng Tin Mừng trong một xã hội thuần nhất, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng ở phương Tây”, một chủ đề ngài đề cập gần đây trong một khảo luận, Đức tin và Tôn giáo trong Xã hội Hiện đại, (Foi & Religion dans une société moderne, nhà xuất bản Salvator ấn hành năm 2021.)

Thay đổi bầu khí tại Giáo triều

Giống như nhiều giám mục từ các quốc gia khác đi ad limina trong những năm gần đây nhận xét, hồng y De Kesel ghi nhận có một thay đổi trong bầu khí ở Giáo triều Rôma trong chuyến thăm 18 bộ của giáo triều, là một trong những tác động của việc công bố tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng Praedicate Evangelium ngày 19 tháng 3 vừa qua. Ngài đặc biệt thấy có một khả năng lắng nghe rất cao trong công việc, hồng y Parolin đã nói với họ “tất cả chúng ta đều ở trên cùng một con thuyền”.

Hồng y Parolin điều hành cuộc họp liên bộ như ngài đã làm với các giám mục Đức, ngài điều hành “rất tốt”, phương thức thảo luận này phải được phát triển và đề xuất cho tất cả các hội đồng giám mục. Ngài cũng ghi nhận tầm quan trọng của chiều kích liên bộ này trong hoạt động nội bộ của Giáo triều.

Hồng y De Kesel cũng nêu lên một “động lực mới” qua việc có nhiều phụ nữ hơn trong Giáo triều và có nhiều người từ khắp nơi trên thế giới về, một dấu hiệu quan trọng của tính phổ quát và “đa văn hóa” của Giáo hội. Về điểm này, ngài thấy rõ trong các  cuộc họp với bộ Phát triển Nhân bản Toàn diện và bộ Giáo dân, gia đình và sự sống.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài mới nhất