Home Blog Page 381

Vì Đức Phanxicô đã nói đến một Giáng sinh buồn

Vì Đức Phanxicô đã nói đến một Giáng sinh buồn

interris.it, Richard Christian, 2022-12-24

Đức Phanxicô thăm Campidoglio ngày 26 tháng 2-2019 / ảnh lưu trữ Samantha Zucchi/Insidefoto

Chuẩn bị lễ Giáng sinh và hình dung làm sao Đức Phanxicô chuẩn bị năm 2022 với cuộc chiến tranh thế giới mới, ít nhiều từng mảnh, một cuộc chiến đặc biệt giữa các tín hữu kitô đến mức không thể có được một hưu chiến vào dịp lễ Giáng sinh, theo tôi đó là những gì thấy rõ trong những ngày chờ đợi, chuẩn bị này. Những nét giúp tôi hiểu rõ hơn vì sao ngài lại nói một Giáng sinh buồn cho những gì đang xảy ra ở Ukraine và trong rất nhiều cuộc xung đột khác.

Với tôi, điểm nhấn mạnh quan trọng đầu tiên là câu ngài nói trong buổi tiếp kiến chung thứ tư tuần trước: “Nhiều khi chúng ta có một khái niệm lệch lạc về Thiên Chúa, xem Ngài như quan tòa cáu kỉnh, một thẩm phán nghiêm khắc, sẵn sàng bắt chúng ta làm này làm kia”. Đó có phải là thẩm phán của những người cảm thấy mình có thiên chức đánh bại cái ác và áp đặt cái thiện, biến đây thành cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác, giữa những đứa con của Ánh sáng và những đứa con của Bóng tối đó không?

Ý tưởng này đã đồng hành cùng chúng ta trong nhiều thế kỷ, và có lẽ vào thời điểm đó, chúng ta có thể cảm thấy cần một Chúa như thế, tôi không biết, nhưng tôi có thể tưởng tượng như vậy. Nhưng bây giờ, tôi khá chắc chắn suy nghĩ này sẽ tạo vấn đề lớn, vì mối quan hệ thất bại giữa chúng ta và các thể chế chủ yếu dựa trên sự đảo ngược này đã diễn ra qua nhiều thế kỷ: giống như Chúa, mọi chính quyền chúng ta xây dựng đều là chính quyền thẩm phán cáu kỉnh, nghiêm khắc, sẵn sàng loại chúng ta ra ngoài. Đó là vấn đề, nhưng tại sao nó lại sai? “Chúa Giêsu trên thập giá không làm ai sợ, Ngài là hình ảnh của sự bất lực hoàn toàn và đồng thời là tình yêu trọn vẹn nhất, có khả năng đối diện với bất kỳ thử thách nào của chúng ta”. Nhìn Chúa theo cách này, với những người không tin, rõ ràng chúng ta không có một người bạn đáng tin cậy, chân thành và an toàn. Có lẽ đây là lý do vì sao chúng ta nói về phi kitô-hóa: tất cả chúng ta đều cần một người như người bạn, có khả năng đối diện với mọi thử thách của chúng ta, nhưng theo thời gian, chúng ta tin chắc điều này không tồn tại, không thể có được. Vì thế, chúng ta thiếu một điều kiện tiên quyết để hiểu được những gì đã mất khi chúng ta bỏ những gì được cho là không thể thiếu. Vậy lời loan báo Tin Mừng sẽ ở đâu nếu không có người bạn có khả năng đối diện với mọi thử thách cho chúng ta ngày nay? Việc ghi nhận phi-kitô giáo của nhiều cơ quan trong văn hóa chúng ta cũng phụ thuộc vào điều này: loan báo Tin Mừng ở đâu trên thế giới quanh chúng ta? Có nó không?

Một Giáng sinh không có loan báo sẽ đáng ngạc nhiên, nhưng lễ Giáng sinh với chủ nghĩa tiêu dùng này cũng làm chúng ta không hiểu mình tặng quà cho ai và tại sao. Để chứng tỏ mình yêu những người sẵn sàng đối diện với bất kỳ thử thách nào? Có thật không?

Câu thứ hai tạo ấn tượng cho tôi là câu ngài chúc Giáng sinh Giáo triều Rôma, tôi muốn nói đến câu ngài nhắc, “60 năm sau Công đồng, Công đồng đã mở cánh cửa cho một hoán cải để hiểu rõ hơn Tin Mừng và làm cho Tin Mừng sống động, hoạt động trong thời điểm lịch sử này. Như thế chúng ta phải ở lại đó, bất động, tin chắc chúng ta đã đến nơi vĩnh cửu ư? Suy tư hiện nay về tính đồng nghị của Giáo hội phát sinh chính xác từ xác tín rằng hành trình tìm hiểu sứ điệp của Chúa Kitô không bao giờ kết thúc và liên tục thách thức chúng ta”. Và đó là tâm trạng chúng ta trong lễ Giáng sinh này, với sự an ủi của một người bạn sẵn sàng làm mọi thứ cho chúng ta; là đi tìm, hoán cải, không bao giờ kết thúc. Tóm lại, đó là cải cách phụng vụ, Giáo hội là đồng nghị. Chủ tế không còn là người dẫn đường cho người không biết, nhưng quy tụ họ chung quanh bàn tiệc Thánh Thể, nơi họ cử hành cùng nhau. Và nếu họ cử hành cùng nhau, liệu có thể nào lại là một Giáo hội không công nghị sao?

Truyền ý tưởng về tính đồng nghị này cho các xã hội bị phân mảnh, rời rạc của chúng ta sẽ là một cách mới để hiểu ý tưởng của chúng ta về dân chủ. Không còn sự hiện diện của một quan tòa cáu kỉnh, mà là của anh em chúng ta trong hành trình xã hội để cùng nhau tiếp tục đi. Đó là lý do vì sao tôi đồng ý với điều ngài nói ngay sau đó: “Văn hóa hòa bình không chỉ được xây giữa các dân tộc và giữa các quốc gia. Nó bắt đầu từ trái tim của mỗi chúng ta. Khi chúng ta phải chịu đựng những cuộc chiến tranh khốc liệt và bạo lực, chúng ta có thể và phải đóng góp cho hòa bình bằng cách cố gắng nhổ tận gốc mọi gốc rễ hận thù và oán hận với anh chị em sống bên cạnh chúng ta”. Vì thế tính đồng nghị xã hội và giữa các dân tộc, đối với tôi như một điều không tưởng mới mà thế giới đang toàn cầu hóa các vấn đề, không trong các giải pháp cần, không cần tuyên bố xóa bỏ những khác biệt của chúng ta, mà là hài hòa chúng. “Nếu đúng là chúng ta muốn chiến tranh chấm dứt và nhường chỗ cho hòa bình, thì mọi người hãy bắt đầu từ chính mình. Thánh Phaolô cho chúng ta biết rõ lòng nhân từ, thương xót và tha thứ là liều thuốc chúng ta dùng để xây dựng hòa bình”.

Thật thú vị khi ghi nhận, một người theo chủ nghĩa tự do như Isaiah Berlin, nhiều năm trước đã thấy, bất cứ ai tuyên bố xây dựng một xã hội hoàn hảo sẽ nghĩ đến công lý hoàn hảo, không có tình tiết giảm nhẹ. Một công lý mà theo ông sẽ ngăn cản lòng khoan dung. Đó là điều mà Cha Paolo Dall’Oglio đã nói với chúng tôi nhiều năm trước: “Tôi nói với tư cách là tín hữu kitô: điều lành mạnh nhất mà hồi giáo đã mang lại cho chúng ta là đã đánh bại chúng ta trong việc thiêng liêng hóa quyền lực. Hồi giáo ngăn chận hoài bảo kitô giáo xây dựng một xã hội hoàn hảo, cuối cùng và cánh chung. Đã có trong nghệ thuật thời Trung cổ và Phục hưng, Chúa Kitô được thể hiện như một hoàng đế. Sau đó, Phản-Kitô giống Ngài trong các dấu hiệu của quyền lực. Mầu nhiệm về sự khiêm nhường của Thiên Chúa trở thành biểu tượng quyền lực”.

Đây là lý do vì  sao theo tôi, linh mục Antonio Spadaro đã cho thấy trong bài báo mới nhất của ngài về cuộc khủng hoảng và tương lai Giáo hội, chính là trọng tâm hành trình Giáng sinh mà tôi cố gắng mô tả: “Không nên xem ký ức là bất biến. Nếu quá khứ quyết định hiện tại, là vì nó lần lượt được tiếp nhận và sau đó được hiện tại tái tạo. Một ‘hoán cải’ sâu sắc chỉ có thể có được nếu quá khứ chưa quyết định và chưa bị loại bỏ hoàn toàn khỏi khả năng hành động. Quá khứ phải để ngỏ. Đó là ‘tuổi trẻ’. Không phải là tình trạng thoáng qua, cũng không phải là nỗi nhớ bị rượt đuổi một cách vụng về và vô vọng như trên thảm cuốn. Tuổi trẻ là không che đậy quá khứ, để mở cho những diễn giải (và xung đột của chúng). Vì sao? Vì ký ức về trải nghiệm sống trong quá khứ có được trong hiện tại một ý nghĩa bất ngờ, nhưng hiện tại và hiệu quả, theo hướng kỳ vọng vào tương lai. Tôn giáo cũng là việc đọc lại, đọc lại, một suy nghĩ lại về kinh nghiệm”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Vì Đức Phanxicô đã nói đến một một Giáng sinh buồn

Phép lành urbi et orbi của giáo hoàng vào dịp Giáng sinh: “5 phút khi cả thế giới bật truyền hình lên”

Phép lành urbi et orbi của giáo hoàng vào dịp Giáng sinh: “5 phút khi cả thế giới bật truyền hình lên”

la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2022-12-24

Thư Vatican. Các dịch vụ của giáo hoàng cẩn thận chuẩn bị thông điệp chúc lành urbi et orbi của lễ Giáng sinh. Mỗi thứ bảy hàng tuần, phóng viên thường trực của báo La Croix, Loup Besmond de Senneville đưa quý độc giả vào hậu trường của đất nước Vatican nhỏ nhất thế giới này.

Những hình ảnh được cho là một trong số các hình ảnh nổi tiếng nhất thế giới. Hình ảnh của người mặc áo trắng ở cửa sổ bệ Đền thờ Thánh Phêrô. Như mọi dịp lễ Giáng sinh, chúa nhật 25 tháng 12, Đức Phanxicô sẽ ban phép lành urbi et orbi cho thành phố và thế giới. Truyền thống này có từ thế kỷ 13 dưới triều giáo hoàng Gregory X, bây giờ được phát sóng khắp thế giới, trên đài phát thanh, truyền hình và ở thời buổi này là trên Internet, từ nay chúng là một phần hình ảnh của triều giáo hoàng.

Nhưng trên hết, bài phát biểu nhân dịp này là dịp để giáo hoàng mang thông điệp của ngài đến với thế giới, kể cả trên bình diện chính trị. Vào ngày Giáo hội công giáo mừng ngày sinh của “Hoàng tử Hòa bình” là Chúa Giêsu, giáo hoàng luôn nhân cơ hội này để đưa ra lời kêu gọi chấm dứt xung đột. Đó là trường hợp năm ngoái với các xung đột ở Iraq, Yemen, Thánh địa, và cả Miến Điện, Ethiopia và Nam Sudan.

Chúa nhật này, chắc chắn ngài sẽ nhắc đến cuộc chiến ở Ukraine. Từ đầu triều giáo hoàng, Đức Phanxicô đã nói về việc chấm dứt xung đột hàng chục lần, nhưng lần này sẽ rất đặc biệt. Những người ở Vatican nói: “Đây là năm phút mà cả thế giới sẽ bật máy truyền hình.” Vì thế, các từ của thông điệp này được chuẩn bị hết sức cẩn thận, mỗi từ được bộ Ngoại giao cân nhắc trên cân tiểu ly.

Nhưng lời của Đức Phanxicô có còn giá trị trước những xung đột đang diễn ra? Lời kêu gọi này sẽ không phải là một minh chứng nữa cho sự bất lực đó không? Một người am hiểu Đức Phanxicô trả lời: “Nhưng quý vị muốn ngài nói gì khác ngoài lời kêu gọi hòa bình? Và nếu ngài không nói điều này vào dịp Giáng sinh, thì ai sẽ nói?”

Từ Rôma, một Giáng sinh an lành và vui vẻ đến với quý độc giả đọc Bức thư Vatican!

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Cây thông Zaporizhia và những giọt nước mắt của Đức Phanxicô

Năm 2022 của Đức Phanxicô trong 10 con số

Năm 2022 của Đức Phanxicô trong 10 con số

Chuyến đi Canada là một trong các chuyến tông du quan trọng của Đức Phanxicô trong năm 2022. | © michael_swan/Flickr/CC BY-ND 2.0

cath.ch, I. media, 2022-12-19

Quan hệ ngoại giao, phong thánh, cải cách Giáo triều, Thượng hội đồng… Rất nhiều vấn đề chiếm trọn tâm trí Đức Phanxicô trong năm sắp kết thúc. Chúng ta cùng nhìn lại các con số này trước khi bước qua năm mới 2023, năm kỷ niệm 10 năm triều giáo hoàng của ngài.

Quốc gia đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Tòa thánh: 1

Ngày 4 tháng 11, Tòa Thánh và Vương quốc hồi giáo Oman công bố họ đồng ý “thiết lập quan hệ ngoại giao”. Một thông báo tượng trưng được đưa ra khi Đức Phanxicô đang thăm Bán đảo Ả Rập, Bahrain.

Ngoài quốc gia mới này, hiện nay Tòa Thánh có quan hệ ngoại giao với 184 Quốc gia. Các quốc gia hiện không có quan hệ ngoại giao với Tòa thánh là Ả Rập Saudi, Bhutan, Brunei, Trung quốc, Comoros, Bắc Triều Tiên, Lào, Maldives, Somalia, Tuvalu và Việt Nam. Tuy nhiên, ở Brunei, Comoros, Lào và Somalia, Tòa Thánh có các đại diện, riêng ở Việt Nam có một “đại diện của giáo hoàng”. Với Trung quốc, năm 2022 Tòa Thánh gia hạn một thỏa thuận được ký năm 2018 về việc bổ nhiệm giám mục.

Các chuyến tông du: 4 chuyến quốc tế và 4 chuyến tại Ý

Dù bị đau đầu gối ảnh hưởng đến việc đi đứng, Đức Phanxicô cũng đã có 8 chuyến tông du trong năm 2022 , 4 chuyến quốc tế và 4 chuyến trong nước Ý. Ngày 2 và 3 tháng 4, ngài đi Malta. Sau đó vào đầu tháng 7, ngài hoãn chuyến đi châu Phi vị bị đau đầu gối. Nhưng từ ngày 24 đến 30 tháng 7, ngài vượt Đại Tây Dương đi Canada hành hương sám hối, ngài xin người dân bản địa tại đây tha lỗi cho những việc Giáo hội đã làm không đúng trong quá khứ.

Sau kỳ nghỉ hè, ngài đi Aquila để thăm người dân bị trận động đất năm 2009 và mộ giáo hoàng Celestine V, người tự nguyện từ chức trước Đức Bênêđictô XVI từ nhiệm năm 2013. Ngày 13 đến 15 tháng 9, Đức Phanxicô đi Kazakhstan, Trung Á để dự đại hội liên tôn. Sau đó ngày 24 tháng 9 ngài đi Assisi để dự diễn đàn các nhà kinh tế trẻ và ngày 25 tháng 9 ngài đi Matera để dự lễ bế mạc Đại hội Thánh Thể Ý. Chuyến tông du quốc tế cuối cùng của ngài trong năm 2022: từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 11, ngài đi Bahrain, bán đảo Ả Rập. Cuối cùng, ngày 19 và 20 tháng 11, ngài đi Asti, nước Ý để dự sinh nhật lần thứ 90 của người chị họ vùng Piedmont, một chuyến đi riêng thăm gia đình.

Phỏng vấn trên các phương tiện truyền thông: 11

Năm 2022, Đức Phanxicô thực hiện 11 cuộc phỏng vấn trên các phương tiện truyền thông khác nhau, trong đó có 3 cuộc phỏng vấn trên báo viết của Ý: nhật báo Il Corriere della Sera (3 tháng 5); nhật báo Napolitan Il Mattino (18 tháng 9); và nhật báo Turin La Stampa (18 tháng 11). Ngài cũng có ba cuộc phỏng vấn trên truyền hình Ý, trên Rai Tre cho chương trình trò chuyện rất nổi tiếng Che tempo che fa (6 tháng 2), trên Rai Uno với chương trình A Sua Immagine (15 tháng 4) và trên Rai Uno the Easter Sunday (17 tháng 4). Ngài cũng trả lời trên hai phương tiện truyền thông Argentina – nhật báo La Nacion (21 tháng 4) và cơ quan quốc gia Telam (1 tháng 7) – và đài truyền hình Bồ Đào Nha TVI (4-5 tháng 9).

Ngoài cuộc phỏng vấn với các biên tập viên của tạp chí Dòng Tên Văn minh Công giáo La Civilta Cattolica ngày 14 tháng 6, ngài cũng đã có buổi nói chuyện với cơ quan Reuters của Anh (4-8 tháng 7) và với trang Dòng Tên America (28 tháng 11). Một số  phỏng vấn đã gây xôn xao vì các nhận xét của ngài, đặc biệt là khi ngài nói về nước Nga. Trong bài báo Corriere della Sera, ngài cảnh báo Thượng phụ Kyrill không nên là “chú giúp lễ cho Putin” đã làm cho tòa thượng phụ Nga tức giận, kéo theo nhiều tháng lạnh nhạt trong quan hệ hai bên. Giáo hoàng cũng đã bị Điện Kremlin phản đối dữ dội khi ngài trả lời trên báo America về sự tàn ác của người Chechnya và Buryats, hai dân tộc thiểu số tham chiến trong các cuộc xung đột ở Nga.

Ngoài ra, ngài cũng xuất bản hai quyển sách-phỏng vấn: Từ người nghèo đến giáo hoàng, từ giáo hoàng đến thế giới (Des pauvres au pape, du pape au monde, nxb. Seuil, 1 tháng 4), ngài nói chuyện với những người sống bên lề xã hội. Và Nhân danh Chúa, tôi xin bạn… 10 lời xin xem lại các quan tâm trong triều giáo hoàng của ngài (Vi chiedo in nome di Dio, nxb. Piemme, ngày 18 tháng 10).

12 vị thánh mới

Ngày 15 tháng 5 – 2022, kể từ sau đại dịch Covid, Đức Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô để phong thánh cho mười chân phước, trong đó có ba người Pháp: Charles de Foucauld (1858-1916), César de Bus (1544-1607) và Marie Rivier (1768-1838) và các thánh khác, linh mục Hà Lan Titus Brandsma (1881-1942), nhà báo tử đạo trong thời quốc xã, nữ tu người Ý Marie of Jesus (1852-1923), Louis Marie Palazzolo (1827-1886), Justin Russolillo (1891-1955), Marie François Rubatto (1844-1904), Maria Domenica Mantovani (1862-1934) và giáo dân tử đạo Ấn Độ Lazare Devasahayam Pillai (1712-1752).

Ngày 9 tháng 10, Đức Phanxicô thêm vào lịch các thánh hai thánh người Ý: Jean-Baptiste Scalabrini (1839-1905), giám mục sáng lập các tu hội giúp người di cư ngày nay mang tên ngài, “scalabrinian”, và Artemide Zatti (1880-1951), giáo dân Salêdiêng gốc Ý, bác sĩ tại Argentina.

Các bộ được Hiến chế thành lập: 16

Ngày 19 tháng 3, Đức Phanxicô công bố tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng Praedicate Evangelium cho Giáo triều Rôma, Praedicate evangelium. Thành lập 16 “bộ” thay cho các “cơ quan” hay “hội đồng giáo hoàng” cũ: bộ Truyền giáo; Bộ Tín Lý; bộ Phục vụ từ thiện; bộ Giáo hội Đông phương; bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích; bộ Phong thánh; bộ Giám mục; bộ Giáo sĩ; bộ Đời sống Thánh hiến và Đời sống Tông đồ; bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống; bộ Cổ vũ Hiệp nhất Kitô giáo; bộ Đối thoại liên tôn; bộ Văn hóa và Giáo dục; bộ Phát triển Nhân bản Toàn diện; bộ các văn bản pháp luật; bộ Truyền thông.

Văn bản có hiệu lực vào tháng 6 tương đối hóa vị trí ưu việt của Phủ Quốc vụ khanh, giảm xuống thành vị trí của một “ban thư ký của giáo hoàng” đơn giản và được đặt ngang hàng với tất cả các bộ và cơ quan khác của Giáo triều. Hiến pháp thể chế hóa một cực kinh tế, một trong những cải cách vĩ đại của triều Đức Phanxicô.

Tân hồng y: 20

Ngày 27 tháng 8, Đức Phanxicô phong 20 tân hồng y, 16 hồng y cử tri và 4 hồng y không cử tri. Trong số các tân hồng y cử tri có: ba giám chức làm việc tại Vatican (người Anh, Hàn Quốc và Tây Ban Nha), một người Pháp – Jean-Marc Aveline, 63 tuổi, tổng giám mục Marseille –, hai hồng y Ý (trong đó có một người đang truyền giáo ở Mông Cổ), hai hồng y châu Phi (Nigeria và Ghana), bốn hồng y châu Mỹ (hai Brazil, một Hoa Kỳ và một Paraguay), 5 hồng y châu Á (hai Ấn Độ, một Singapore, một Đông Timor và một Hàn Quốc đang phục vụ trong Giáo triều).

Và 4 tân hồng y trên 80 tuổi. Công nghị mùa hè – một công nghị ngoại thường – được triệu tập cùng lúc với cuộc họp thượng đỉnh để thảo luận về Hiến pháp mới của Giáo triều Rôma, đã làm mọi người ngạc nhiên. Tổng giám mục danh dự Lucas Van Looy, giáo phận Ghent (Bỉ), ban đầu có tên trong danh sách các tân hồng y, nhưng bị cáo buộc đã che đậy các hành vi lạm dụng nên tổng giám mục đã xin giáo hoàng bỏ việc bổ nhiệm này. Và tân hồng y Ghana Richard Kuuia Baawobr, bị đau tim trong thời gian đến Rôma dự công nghị đã qua đời ngày 27 tháng 11. Vắng mặt trong công nghị, nhưng ngài được nhận danh hiệu hồng y.

Phiên tòa xét xử tòa nhà ở London: 42

Kể từ phiên điều trần đầu tiên ngày 27 tháng 7 năm 2021 đến nay, phiên tòa xét xử trên quy mô lớn vụ “tòa nhà ở London”, đã có không dưới 42 phiên tòa diễn ra. Thẩm phán Giuseppe Pignatone thông báo ông sẽ phải nghe khoảng 200 nhân chứng điều trần cho phiên tòa kéo dài này, một trong những bị cáo là hồng y Angelo Becciu, bị tòa án buộc tội tham ô, lạm quyền trong một băng nhóm có tổ chức và hối lộ các nhân chứng.

Tháng 10 năm ngoái, thẩm phán bực mình cho cách đối xử của bên bị cáo cũng như nguyên cáo, chỉ trích họ đã lặp lại những gì đã có trong các hành vi. Ông quá bực tức: “Chúng ta sẽ kết thúc không phải vào năm 2050 mà là vào năm 2070,” ông than phiền tiến trình “đã quá bão hòa” do không tuân thủ các thủ tục.

Đến đền thờ Đức Bà Cả: 100 lần

Ngày 2 tháng 11, trước khi lên đường đi Bahrain, Đức Phanxicô đã đến cầu nguyện ở đền thờ Đức Bà Cả để cầu nguyện với Đức Mẹ như thường lệ trước mỗi chuyến tông du và khi về hoặc trong những dịp quan trọng. Đây là chuyến đến đây lần thứ 100 của ngài từ năm 2013.

Nhân dịp này, một vòng hoa đánh số 100 được đặt ở cửa nhà nguyện Paolina, nơi có tượng Đức Mẹ Bảo vệ Người dân Rôma.  Theo trang Il Sismografo, số lượng các lần Đức Phanxicô đến đây đã làm nơi này thành nơi có một giáo hoàng đến viếng nhiều nhất trong lịch sử.

Các Hội đồng Giám mục tham gia Thượng Hội đồng về tương lai  Giáo hội: 112

Kể từ khi Thượng Hội đồng về Tương lai Giáo hội bắt đầu tháng 10 năm 2021, ban thư ký thượng hội đồng đã nhận được 112 bản tóm tắt từ các Hội đồng Giám mục – trong tổng số 114 -, thành quả công việc của các Giáo hội địa phương trên toàn thế giới. Dựa trên những tổng hợp này, ngày 27 tháng 10 ban thư ký đã xuất bản Tài liệu làm việc cho giai đoạn lục địa.

Văn bản dài 46 trang là khuôn khổ cho giai đoạn thứ hai của quá trình chưa từng có này, nhằm làm cho Giáo hội trở nên truyền giáo, tham gia và tiếp nhận hơn, ít tập trung hóa và giáo sĩ hóa. Các báo cáo viên của chặng đầu đã vẽ nên bức tranh toàn cảnh về những điểm xấu và những hy vọng của Giáo hội ngày nay, không trốn tránh khó khăn trong các công việc: vị trí của phụ nữ và giới trẻ trong Giáo hội, nỗi khổ của các linh mục, những tranh luận xung quanh phụng vụ hay những tình huống nhạy cảm trong đời sống Giáo hội địa phương – ly hôn tái hôn, đa thê, LGBT, lạm dụng, v.v.

Chủ đề trong các buổi tiếp kiến chung: 3

Năm nay, có ba chủ đề cho các buổi tiếp kiến chung hàng tuần của Đức Phanxicô. Bắt đầu từ ngày 17 tháng 11 năm 2011 cho đến ngày 16 tháng 2 – 2022, chủ đề là Thánh Giuse, tổng cộng ngài có trên mười bài suy niệm về người cha nuôi của Chúa Giêsu. Sau đó từ ngày 23 tháng 2 đến ngày 24 tháng 8 ngài có 18 bài về tuổi già. Và từ ngày 31 tháng 8, ngài bắt đầu chủ đề phân định.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: 12 ngày đánh dấu năm 2022 tại Vatican

Năm 2022 tại Vatican năm của những biện pháp cứng rắn

Linh mục vĩnh viễn đến muôn đời

Linh mục vĩnh viễn đến muôn đời

Chương 8: sách Công giáo trong tự do

Trích sách Công giáo trong tự do (Catholique en liberté, nxb. Salvator, 2019)

renepoujol.fr, René Poujol, 2021-12-26

Linh mục vĩnh viễn đến muôn đời

Trong nhiều thế kỷ, đất Pháp đã biết “sản xuất” trong địa phương mình những linh mục mà các tín hữu cần. Cũng giống như khuôn mẫu kinh tế, với việc giảm sút các ơn gọi, việc giữ đạo hiện nay cũng phải nhờ đến các linh mục “ngoài vùng”, nhập linh mục từ các vùng đất truyền giáo cũ của mình… Nhưng thực sự không giải quyết được vấn đề. Thực tế là phải tự vấn về chỗ đứng của linh mục trong đời sống cộng đoàn.

Tên của họ: Fabien, Yvon, Paul, Gabriel, Bernard, Henri, Jacques, André, Gilles, Vincent, François, Michel, Henri-Jérôme, Jean, Daniel, Dominique, Jean-Pierre, Laurent, Yann… và nhiều người khác nữa, tôi không trích dẫn thêm vì danh sách sẽ dài như kinh cầu các thánh. Không có tên nữ! Vậy mới là vấn đề! Đây là một số linh mục đã ghi dấu ấn trong đời tôi. Tôi đã gặp bao nhiêu linh mục: một trăm, hai trăm, nhiều hơn nữa ư? Tôi không biết. Nhưng có rất nhiều người trong số họ đã gắn kết với những giây phút cụ thể trong đời sống, mà khi nhắc đến những giây phút này, tôi không thể không nhớ đến khuôn mặt của họ.

“Câu hỏi về linh mục” (chứ không phải chỗ đứng của họ) đã trở thành trọng tâm

Tại sao lại trích dẫn họ ra đây? Vì trong suy tư “trong tự do” về cuộc khủng hoảng và tương lai của Giáo hội, theo tôi gần như rất khó để bàn đến mà không nhắc đến các linh mục. Và không phải nhắc đến chỉ vì họ có thể là mục tiêu của những nghi ngờ lạm dụng trẻ em một cách bất công. Trong một thời gian dài, khi chúng ta nói đến Giáo hội, sai lầm là chúng ta chỉ nghĩ đến các linh mục và giám mục. Và thậm chí ngày nay, có nhiều người gần như chưa quen với sự tiến hóa của thế giới công giáo. Và khi đề cập đến sự suy tàn của đạo công giáo ở Pháp, chúng ta nghĩ ngay đến cuộc khủng hoảng về ơn gọi, sự già nua của hàng giáo sĩ, cùng với việc giữ đạo xuống thấp hoặc càng ngày người dân càng thờ ơ với tôn giáo. Miền quê Rouergue của tôi, một vùng mà chỉ đầu thế kỷ 20 đã có số linh mục chịu chức bằng con số của cả nước Pháp hiện nay, bây giờ cùng chịu chung số phận với tất cả giáo phận vùng nông thôn. Viễn cảnh là ngày mai, sẽ chỉ trong vòng chưa đầy mười năm, chỉ còn hai mươi linh mục dưới sáu mươi lăm tuổi bao cả một vùng lãnh thổ rộng lớn. Và có thể còn tệ hơn các nơi khác!

Có nghĩa là trong Giáo hội cần phải tái xây dựng hoặc ngăn làm sao để không bị phá hủy, vấn đề linh mục giữ một vị trí trọng tâm. Tôi nói rõ “vấn đề linh mục” chứ không phải “linh mục”. Vì tôi biết có thể có những bất đồng xảy ra về điểm này, để khỏi bị phản công nên tôi muốn loại mọi mơ hồ ngay từ đầu ở đây. Dù là người công giáo nhưng tôi không là người khoái đau khổ. Nếu không, tôi đã không ở lâu, sâu đậm, chân thành là bạn đồng hành với rất nhiều linh mục như vậy, đã không cảm thấy quý trọng và tình cảm với đa số họ. Ba mươi lăm năm làm nhà báo của một nhóm báo chí công giáo (Bayard) do các cha Dòng Mông Triệu thành lập đã thuyết phục tôi, rằng sự cộng tác đáng tin cậy và trung thực giữa giáo dân và linh mục là đã hoàn toàn có thể có được và mang lại kết quả. Nếu có nơi tôi một chút gì đó chống chủ nghĩa giáo quyền, với hết lòng khiêm tốn, chỉ vì tôi muốn tham dự vào chủ nghĩa của hồng y tương lai De Lubac, ngài đã xin cha Pierre cầu xin Chúa Thánh Thần trong ngày chịu chức khi cha nằm sấp trên sàn nhà: “Con hãy xin ơn chống chủ nghĩa giáo quyền, nhưng loại chủ nghĩa giáo quyền của các thánh!” Cả một chương trình rộng lớn…

Không phải ngẫu nhiên mà quyển sách của tôi đã viết là với và chung quanh các linh mục: Cha Jacques Delaporte, tổng giám mục Cambrai từ hai mươi năm trước, bạn tôi André Gouzes hai năm sau và cuối cùng là Cha Pierre, cũng là bạn tôi năm 2015. Cả ba, đã ghi dấu ấn sâu đậm trong đời tôi. Cha Jacques Delaporte với “sự hiện diện thực sự” mà ngài hiện thân trong giáo phận công nhân bị thảm họa của mình, Cha André Gouzes bằng lời mời khẩn thiết hít thở tinh thần thiêng liêng “thanh cao, tự do và mạnh mẽ”, Cha  Pierre bằng lời chứng liên tục về phó thác hoàn toàn cho Chúa Quan Phòng.

Một thể chế bị tê liệt vì ơn gọi bị giảm sút

Như tôi đã nói, sự sụp đổ các ơn gọi làm giám mục của chúng ta bị tê liệt. Dù sự giảm sút của tín hữu còn tạo nhiều vấn đề hơn. Liệu chúng ta có thể bỏ thánh lễ ngày chúa nhật một cách hợp pháp chỉ đơn thuần vì thiếu linh mục và thiếu chủng sinh vào bậc sống độc thân linh mục không? Ở Vatican, nỗi lo đang ở cực điểm. Tôi đã kiểm tra nhiều lần. Đó là để cho Giáo hội “có các linh mục” mà chúng ta bị kẹt vào một tầm nhìn nào đó về gia đình kitô, thuyết phục rằng chỉ những gia đình đông con mới cho ơn gọi; cũng mục đích tương tự, khi chúng ta xin các giáo xứ để cho các em bé trai giúp lễ trong hy vọng làm nảy sinh ơn gọi nơi các em muốn bắt chước vị chủ tế; cũng chính từ tầm nhìn này đã làm chúng ta có lòng nhân từ đặc biệt đối với các cộng đồng và phong trào mới “giàu ơn gọi” và nhắm mắt theo tiêu chuẩn phân định cho một số chủng sinh, trước nguy cơ thấy có nhiều trường hợp về tội phạm ấu dâm và những lệch lạc tà phái, trong thời gian mà chúng ta đòi hỏi các bề trên chủng viện phải đặc biệt cảnh giác.

Sự bảo vệ “của giáo hoàng” mà các Binh đoàn Chúa Kitô” và nhà sáng lập mạo hiểm Marcial Maciel Degollado của họ được hưởng dưới thời Đức Gioan Phaolô II, một hồng y ở giáo triều cho tôi biết, phần lớn là do số lượng các linh mục trẻ trong hàng ngũ của họ, ngay cả khi “sự ra đi sớm sủa” đặc biệt cao trong cộng đồng của họ, do đào tạo chủng sinh “ngoài lề”, họ muốn giữ cho những người này tránh xa thế giới, để có thể thích ứng với việc hoán cải hơn… trước khi bất ngờ thấy các chuyện quyến rũ và rời chức thánh! Và duy nhất chỉ vì họ có vài trăm linh mục – và ba hoặc bốn giám mục – mà dòng Lefebvre đã độc chiếm sự chú ý của Rôma, đó là cuộc ly giáo thầm lặng của hàng triệu tín hữu, luôn được hiểu theo thuật ngữ bội giáo, vì họ không đặt ưu thế sự hiện diện của các linh mục “bất đồng chính kiến” trong số họ! Như thể Giáo hội là “một cơ quan giáo sĩ được giáo dân bao quanh” (Jean Delumeau). Và người ta có thể tiếp tục mong muốn.

Mọi tín hữu đã được rửa tội: thầy tế lễ, tiên tri và nhà vua. Kể cả phụ nữ!

Đúng, dù các giám mục biết cách phân định các chỉ thị của la-mã, nhưng vấn đề vẫn còn đó. Đâu là giải pháp? Đón nhận các linh mục từ nước ngoài, đặc biệt là từ Châu Phi với một số lượng lớn, điều này làm nảy sinh nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập văn hóa. Mơ ngày mai có các ông trưởng thành đã kết hôn có thể trở thành linh mục, như đã đề cập trong cuộc họp thượng hội đồng về vùng Amazon, giáo dân chỉ gặp các linh mục, người của Chúa một hoặc hai lần trong một năm? Trong những năm hậu Công đồng, Cha Pierre đã mang từ Phi châu về ý tưởng, có thể có một con đường cần phải đào. Một giám mục đã tâm sự với Cha Pierre, tầm nhìn phương Tây về linh mục do Rôma áp đặt, đã mang âm hưởng chủ nghĩa thực dân đến mức nào. Giao cho một thanh niên hai mươi lăm tuổi có trách nhiệm với cộng đồng là chuyện trái với truyền thống của toàn châu Phi, nơi mà khôn ngoan thuộc về những người lớn tuổi. Người ta sẽ nói với tôi, trách nhiệm của cộng đồng thì ít việc hơn là “linh mục quản xứ” được lựa chọn chính xác về sự trưởng thành và kinh nghiệm của họ. Nhưng làm sao làm khi hình thức này ngày càng hiếm?

Tôi không đủ kỹ năng cũng như tính hợp pháp để trình bày ở đây phác thảo của một giải pháp. Cũng không phải để giải quyết vấn đề liệu độc thân linh mục có phải là một trở ngại cho các ơn gọi hay không. Mặc dù tôi mong muốn đây là tùy chọn. Bởi vì suy cho cùng, cũng “có những người đã tự hoạn vì Nước Trời.” Công thức tạo ra sự lựa chọn tự do, và không có nơi nào quy định rằng việc thiến, dù là tượng trưng, là việc cần thiết để quản trị một cộng đồng. Nếu chứng từ về “ơn toàn diện” là không thể thay đổi, thì trước hết, về mặt lịch sử, đó là lời chứng của các đan sĩ và tu sĩ hơn là của các linh mục.

Tôi sẽ không mạo hiểm thêm về vấn đề phụ nữ được vào chức linh mục. Ngoại trừ việc nhắc lại rằng, họ đã được rửa tội thì họ cũng được làm: “Thầy tế lễ, nhà tiên tri và nhà vua!” Nếu những lời đó có ý nghĩa… Việc Đức Gioan-Phaolô II trong một tuyên bố long trọng đã tuyên bố, việc phong chức cho phụ nữ dứt khoát khép lại, đến vô tận làm cho tôi rơi vào tình trạng bối rối nhiều hơn là ngài thuyết phục tôi về tính không thể sai lầm của ngài. Ở đó, cảm thức đức tin, sensus fidei cũng làm công việc của nó.

Nguy cơ lệch lạc về một Giáo hội trưởng giả

Tôi là người của hai giáo phận: một giáo phận thành thị nơi tôi sống ở Val-de-Marne và một giáo phận nông thôn nổi bật từ quê hương Aveyron nơi tôi vẫn gắn bó. Tôi biết các giám mục, Michel Santier và François Fonlupt.

Thuộc về hai giáo phận, buộc tôi phải tối thiểu cởi mở với thực tế của Paris, làm cho tôi thấy rõ hố ngăn cách hai thế giới này và chắc chắn có sự đa dạng lớn lao trong các phản ứng cần được thực hiện. Điều này đôi khi làm tôi khó chịu trước hình thức của chủ nghĩa trí thức tối thượng, kể cả việc ra sắc lệnh, tương lai của đức tin là ở các thành phố – như trong Giáo hội sơ khai, nó được nhấn mạnh để làm điểm tựa cho sự biểu lộ – vì họ sẽ có giáo sĩ cần thiết để duy trì một nhóm nhỏ người công giáo giữ đạo, với số lượng áp đảo từ giai cấp trưởng giả, điều này đúng, cũng cung cấp cho họ các giáo sĩ và các nguồn lực của họ. Các bạn linh mục Paris của tôi sẽ tha thứ cho tôi vì đã công khai giải câu đố này ở đây, điều mà tôi nợ họ về hồng y André Vingt-Trois:

– Bạn có biết biệt hiệu được đặt cho tổng giám mục của chúng tôi là gì không? – Không!

– Máy gia tốc hạt phân tử!

Vì thế rủi ro không phải là lý thuyết, như tổng giám mục danh dự Albert Rouet, giáo phận Poitiers thường nhấn mạnh, về sự tái tập trung của Giáo hội ở Pháp vào một giai cấp xã hội hoàn toàn đáng kính trọng, nhưng mặc định, cả ơn gọi và tiền bạc, được định hình theo “Giáo hội của họ” trong theo cách riêng của họ, nếu không muốn nói theo hình ảnh của chính họ, và cuối cùng nghĩ rằng – đây sẽ là “mô hình mẫu” cần thiết cho sự tồn tại của tất cả mọi người! Trên khắp nước Pháp!

Tôi không phải là chuyên gia, nhưng cũng như nhiều người khác, tôi có những trực giác và những xác tín, cũng được nuôi dưỡng bằng nhiều thập kỷ quan sát từ nơi đặc quyền là báo chí công giáo này. Và đó là điều tôi muốn chia sẻ. Hiển nhiên là chúng ta đang sống trong một thời kỳ thay đổi hoàn toàn trong Giáo Hội, cũng như các nơi khác trong xã hội và trên thế giới. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, chúng ta vẫn ở trong tình trạng xen kẽ, dù thiếu thốn nhưng chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể tiếp tục tái tạo giống nhau, cứu những gì có thể cứu, nhất là cứu một mô hình dù sao cũng đã thuộc về quá khứ! Nhưng ngược lại, tôi nghĩ mọi thứ phải được tái tạo lại. Rằng sứ mệnh của linh mục phải được tìm lại trong chính bản chất của nó, làm sao để họ là nơi mà thế giới mong đợi: để họ dịu dàng nói về Chúa, đặc biệt không bận tâm đến việc quản lý và tổ chức giáo xứ.

“Chúng ta đã cầu nguyện rất nhiều cho các ơn gọi và Chúa dường như chỉ cho chúng ta những con đường khác.” (Giám mục Albert Rouet)

Nếu ngày mai chúng ta chỉ có một vài linh mục, thì tôi mong muốn họ hạnh phúc trong sứ vụ của họ, rạng rỡ, có tình huynh đệ hơn là tình cha con. Và sau đó chúng ta sẽ khám phá họ không còn đau khổ vì những ham muốn bị cho là của giáo dân. Và họ sẽ không còn dành vị trí đế chế của mình nữa. Tôi ước mong họ không bị lên án là công chức cúng bái. “Chúng ta” ở đây là giáo dân đi lễ ngày chúa nhật mong chờ “những ơn ích thiêng liêng”, cũng như các giám mục, người lo lắng mang ơn ích đến cho giáo dân. Tôi hy vọng chúng ta sẽ không còn cố gắng giúp họ vượt thắng cô đơn, để gom họ lại trong cộng đồng những người độc thân, vì các gia đình sẽ biết cách mở rộng cửa chào đón họ vào bàn ăn của mình. Ngày đó, tôi tin chắc, một phần của giới trẻ ngày nay, những người không hướng về chức linh mục, cũng không muốn “thành lập một Giáo hội” không nói gì với mình, ngày họ sẽ tìm lại ước muốn phục vụ cộng đoàn của họ. Bởi vì tuổi trẻ quãng đại, như chúng ta trong quá khứ và, cũng như nhân vật trong tiểu thuyết của tôi, đòi quyền làm kiểm kê trước khi dấn thân xa hơn.

Khi đứng trước những chuyện này, tôi phải thú  nhận, dù bứt rứt, tôi hoàn toàn thờ ơ với những chiến lược quyền lực đây đó được ngụy trang trong các dự án truyền giáo. Có những giáo phận ở Pháp, nói theo kiểu chức thánh, họ cố gắng “tạo ra những con số”. Bằng cách trau dồi nơi các linh mục trẻ mới chịu chức, cũng giống như các sinh viên tốt nghiệp ở các đại  học danh tiếng, rằng họ thuộc thành phần ưu tú, những người sẽ tái tạo thế giới. Và dĩ nhiên vứt bỏ di sản của những người lớn tuổi của mình. Một kỷ niệm nhắc tôi nhớ lại… và tôi chưa bao giờ quên được! Đó là năm 2012 ở Pau. Cha Jean Casanave chịu trách nhiệm đào tạo ở giáo phận đã mời tôi tham dự một cuộc hội thảo về các mối quan hệ thường mâu thuẫn giữa Giáo hội và giới truyền thông. Khi một giáo dân chuẩn bị đưa tôi trở lại nhà ga, tôi đi ngang qua một linh mục trẻ mặc áo chùng. Linh mục biết tôi là ai. Và tôi cũng biết linh mục đó. Sau một trao đổi ngắn, anh thân tình quàng vai tôi, hỏi tuổi của tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi, cười nửa miệng: “Vậy đó, chỉ không đầy hai mươi năm nữa thế hệ của ông sẽ biến mất, và cuối cùng chúng tôi sẽ có thể xây dựng lại Giáo hội.”

Tôi không giận anh! Tôi cũng không còn trách anh! Tôi tự nhủ, nếu anh mang ngọn lửa đam mê Tin Mừng trong lòng, một ngày nào đó khi thế giới xuất hiện dưới mắt anh trong tình trạng thật của nó,  không qua mạng lưới ý thức hệ, dù tham vọng thiêng liêng hay chiêu dụ bị kiềm lại. Hoặc ít ra là từ chối chấp nhận thực tại đóng băng vĩnh viễn trong một loài phủ nhận tiệt trùng. Suy nghĩ này trở lại trong tâm trí tôi, và cũng là của giám mục Albert Rouet đã nói lên: “Chúng ta đã cầu nguyện rất nhiều cho các ơn gọi và Chúa dường như chỉ cho chúng ta những con đường khác, để mở ra những cánh cửa khác. Chúa ban cho chúng ta những phương tiện để chăm sóc mục vụ ngày nay.” Giáo hội không làm cho linh mục biến mất vào quên lãng của lịch sử. Giáo hội chỉ đơn giản làm cho chúng ta thay đổi mô hình như những người trí thức nói. Đơn giản ư? Vậy à! Ngày hôm qua, vào thời còn phong phú, người ta còn dễ dàng cho rằng, “nơi nào có linh mục, nơi đó có Giáo hội”. Như thế, một cách ít tận căn, hàng chục năm sau, ở nhiều nơi đã dẫn chúng ta đến ngõ cụt của việc tập hợp các giáo dân… đến vô tận. Trong khi lời trong các sách Phúc âm là: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ!” Tính ưu việt của cộng đoàn không đòi hỏi sự hiện diện vĩnh viễn của linh mục vì Chúa Kitô đã ở đó, đã hiện diện giữa họ!

Chỗ đứng trọng tâm của họ có phải là câu trả lời thích hợp cho các thách thức của thiên niên kỷ không?

Chúng ta hãy rõ ràng ở đây: mục đích của tôi ở đây không phải là kêu gọi bất kỳ hình thức cự lại nào trước cuộc khủng hoảng ơn gọi linh mục và dĩ nhiên là không đặt vấn đề về tính đặc thù của chức linh mục thừa tác hoặc sự cần thiết của nó. Nhưng để hình thành một vấn đề đã trở nên không thể tránh được. Chỗ đứng trọng tâm của họ có phải là câu trả lời thích hợp cho các thách thức của thiên niên kỷ  trong các nước có truyền thống kitô giáo của chúng ta không? Chúng ta biết khuynh hướng tự nhiên của mọi thể chế là tự đặt mình vào vị trí trọng tâm của một tổ chức, ngay khi được yêu cầu suy nghĩ về vấn đề này. Sự việc từ lâu thần học được cho là “công việc của các giáo sĩ” có thể dẫn đến việc Giáo hội tập trung vào hình ảnh của linh mục chứ không có điều gì khác hơn không? Có thể đây là sự nhân từ của Chúa khi Ngài để cho giáo dân tham dự vào thần học, sẽ dẫn chúng ta đến những con đường khác, mà đột nhiên, có thể giúp chúng ta tương đối hóa viễn cảnh “khủng hoảng về ơn gọi”.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Cảm thức đức tin trong di sản

Kính mừng Giáng Sinh và Năm mới 2023

Kính mừng Giáng Sinh và Năm mới 2023

Năm 2021 trôi qua cũng đã khó khăn với dịch bệnh, năm 2022 vẫn còn dịch bệnh, lại thêm chiến tranh ở Ukraine, nhiều ngày đã làm tâm hồn của chúng tôi kiệt quệ, nhìn cảnh trẻ em mồ côi, người dân không nhà không cửa đi lánh nạn, thành phố tan hoang… thật khó để giữ bình tâm.

Nhân dịp lễ Giáng Sinh về, trang Phanxicô xin được nghỉ Giáng Sinh và Tết Tây từ ngày 21 tháng 12 đến 11 tháng 1 năm 2023, tuy nghỉ nhưng còn nợ nhiều sách vở chưa xong, vẫn còn phải làm việc! Trên trang Facebook, chúng tôi duy trì các câu tweet hàng ngày của Đức Phanxicô để giữ lời cầu nguyện, để cùng với ngài luôn nhớ đến người dân Ukraine đang đau khổ.

Chúng tôi xin kính chúc quý độc giả một mùa Giáng Sinh an bình, một năm mới 2023 sức khỏe, nhiều may mắn và nhất là nhận được hồng ân Thiên Chúa dồi dào. Chúng tôi xin hết lòng cám ơn quý độc giả trong năm qua đã nhiệt tình nâng đỡ chúng tôi, nhất là các bạn trên Facebook, đã ấn nút “like” ngay sau khi bài được đăng, tấm lòng ưu ái đó chúng tôi không bao giờ quên. Chúng tôi không thể nào nhớ hết tên quý độc giả, nhưng quý độc giả biết, chúng tôi luôn nhớ tấm lòng của quý vị và trong lời cầu nguyện của chúng tôi.

Quý mến,

Giuse Nguyễn Tùng Lâm, Marta An Nguyễn, J.B. Thái Hòa

Hồng y Krajewski bên cạnh chiếc xe tải mang theo máy phát điện và áo giữ nhiệt đến Ukraine

Hồng y Krajewski bên cạnh chiếc xe tải mang theo máy phát điện và áo giữ nhiệt đến Ukraine

Nhiệm vụ mới của hồng y phụ trách từ thiện là giúp người dân Ukraine đang đối diện trước cái lạnh khắc nghiệt của mùa đông và tình trạng bị mất điện. Hôm nay hồng y đã đến Lviv, ngày mai, một mình trên chiếc xe tải, ngài sẽ đi Zaporizhzhia, Odessa, Kyiv và các vùng chiến sự khác để chuyển hàng cứu trợ của giáo hoàng. Ngài cho biết: “Phải xếp hàng dài từ 8 đến 15 tiếng ở biên giới với nhiệt độ có khi dưới 15 độ âm. Nhờ có hộ chiếu ngoại giao nên tôi có thể chuyển hàng nhanh chóng và trực tiếp.”

vaticannews.va, Salvatore Cernuzio, Vatican, 2022-12-20

Hôm nay ngài đến Lviv trên chiếc xe tải của Vatican (chiếc xe lớn nhất tôi có thể lái), với đèn nháy mượn của quân đội, trong xe chất 40 máy phát điện và rất nhiều áo giữ nhiệt mà ủy ban từ thiện đã quyên được trong những ngày gần đây cho người dân Ukraine đang qua mùa đông lạnh giá. Thêm một lần nữa, hồng y Krajewski đến Ukraine để mang sự gần gũi của Đức Phanxicô trong thời gian chuẩn bị lễ Giáng Sinh này.

Phân phối quà cứu trợ cho người dân

Một nhiệm vụ mới cho hồng y tại đất nước đang chiến tranh, bị cái lạnh của mùa đông làm cho nỗi đau càng đau thêm.

Từ Ba Lan đến Lviv

Từ Ukraine, hồng y nói chuyện điện thoại với Vatican News, giọng bị hụt hơi vì quá lạnh, từ vài giờ nay ngài ở thành phố biên giới Ba Lan Przemyśl, nơi hai chiếc xe tải đã đến với máy phát điện và áo giữ nhiệt. Hàng hóa được giao cho Caritas địa phương, trong hơn chín tháng qua, Caritas đã hoạt động hết mình để đón nhận và cứu trợ người tị nạn, đặc biệt là phụ nữ có con dại, nhiều người trong số họ đã chạy trốn khỏi các vùng Donbass.

Một trong những chiếc xe tải của Vatican chở hàng cứu trợ đến Ukraine

Đường phố bị chặn và dãy hàng chờ rất dài

Hôm nay hồng y Krajewski qua biên giới, ngài nói: “Không dễ chút nào vì có những hàng chờ dài từ 8 đến 15 giờ. Thủ tục kéo dài, nhưng chủ yếu là do tuyết chưa được dọn sạch, đường vào và ra thành phố đều bị kẹt. Có một hàng dài 30 cây số xe tải dừng lại và các xe này chặn hết ba phần tư đường.” Nhờ có thông hành ngoại giao và xe mang biển số Vatican SCV nên hồng y Krajewski qua biên giới nhanh chóng: “Năm phút ở Ba Lan, năm phút ở Ukraine, thời gian để kiểm tra… Họ rất tử tế khi nhìn xe cứu trợ của Vatican”.

Một ngôi nhà sau nỗi kinh hoàng. Chăm sóc và tiếp nhận người tị nạn và con cái họ

Cứu sống kịp thời

Theo hồng y, yếu tố thời gian là yếu tố cơ bản: đến vùng chiến sự nhanh chóng với áo giữ nhiệt và máy phát điện có thể “cứu sống” được người dân. Cái lạnh và không có điện để sưởi ấm, nấu ăn và thắp sáng là thử thách đau đớn mà người dân phải đối diện trong những tháng mùa đông khi nhiều cơ sở hạ tầng bị phá hủy. Gần đây nhất, ngày thứ sáu tuần trước, một cơ sở hạ tầng đã bị tên lửa. Hôm qua, tổng thống Volodymyr Zelensky tuyên bố, trong 24 giờ qua, 6 triệu người dân Ukraine đã có điện lại, nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm để đáp ứng nhu cầu của người dân.

Ngài cho biết: “Việc cứu trợ của Tòa Thánh đảm bảo mọi thứ đến được với người dân và chúng tôi cũng có thể khắc phục được vấn đề ở biên giới Ukraine.”

Máy phát điện là quà cho người dân Ukraine

Đi một mình

Ngày mai, ngài sẽ đi “một mình” đến nhiều thành phố bị ảnh hưởng, Zaporizhzhia, Odessa và thủ đô Kyiv. “Tôi sẽ đi 4-5 chuyến, cốt để mang máy phát điện vì từ Lviv, chúng tôi có thể đến những nơi khác bằng xe nhỏ. Chúng tôi tiếp tục giúp người dân Ukraine. Trên thực tế, có áo giữ nhiệt, có máy phát điện cũng chưa đủ, nhưng đem quà đến những nơi cần thì không dễ chút nào. Đặc biệt là với nhiệt độ này”.

Sẽ có nhiều xe tải đến

Ngày mai sẽ có nhiều xe tải khác đến, ngài nói: “Tôi lo việc này. Tôi sẽ lái xe tải xuống càng sớm càng tốt. Có những khó khăn chúng ta không lường được, nhưng khi chúng ta muốn thì mọi thứ đều có thể. Tôi xin cám ơn các nhà tài trợ và đảm bảo tất cả quà tặng của họ sẽ đến nhanh chóng và trực tiếp.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Đức Phanxicô gởi hồng y tuyên úy Krajewski trở lại Ukraine

Năm 2022 tại Vatican năm của những biện pháp cứng rắn

Năm 2022 tại Vatican năm của những biện pháp cứng rắn

cath.ch, I.Media, 2022-12-19

Một số người cho rằng cách quản lý của Đức Phanxicô là độc đoán | © Ảnh AP/Domenico Stinellis/Keystone

Dù đó là với Caritas Quốc tế, Dòng Malta hay Opus Dei, trong năm 2022 Đức Phanxicô đã không ngần ngại hành động với thẩm quyền. Chúng ta cùng nhìn lại các can thiệp này và qua các can thiệp này là hành động của ngài.

Năm 2022 sẽ được ghi nhớ ở Vatican là năm công bố tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng Praedicate Evangelium, định hình cấu trúc mới của Giáo triều Rôma, cơ quan quản lý trung ương của Giáo hội công giáo. Nhưng Đức Phanxicô đã không giới hạn hành động của ngài ở Rôma, ngài đã can thiệp trực tiếp để cải cách hoạt động của nhiều cơ quan ‘vệ tinh’ của Giáo hội công giáo, những tổ chức này mặc định hưởng một quyền tự trị nào đó với Tòa thánh mà vẫn giữ cấu trúc của mình.

 Cấu trúc lại Dòng Malta

Trường hợp đầu tiên là với Dòng Malta, tuy hiệp nhất với Rôma nhưng vẫn là một thực thể có chủ quyền và chính thức độc lập với Vatican. Cách đây 5 năm, giáo hoàng đã xin họ cải cách, một quyết định ngài đưa ra sau khi phế truất người đứng đầu là Thầy Matthew Festing năm 2017 trong bối cảnh căng thẳng nội bộ. Cuối cùng ngài đã quyết định. Ngài nhắc lại Dòng có chủ quyền nhưng ngài áp đặt một hiến pháp mới cho Dòng, được một nhóm nhỏ đặc phái viên riêng của ngài do hồng y Tomasi đứng đầu soạn. Để thực hiện sự thay đổi cách quản lý áp đặt lên Dòng, ngài  thay thế toàn bộ ‘Hội đồng chỉ đạo’ và bổ nhiệm một lãnh đạo mới.

Dòng Malta hiện đang trải qua một cuộc khủng hoảng nội bộ | Ảnh: Villa Malta, ở Rome: © Giorgio Minguzzi/Flickr/CC BY-SA 2.0)

Chuẩn mực hóa Opus Dei

Đức Phanxicô cũng can thiệp với hội dòng Opus Dei, một hội dòng công giáo có từ năm 1968 được hưởng tư cách pháp nhân riêng, ngài rút lại một số đặc điểm mà Dòng đã được hưởng từ khi thành lập. Sau khi công bố hiến pháp mới của Giáo triều, lần đầu tiên Đức Phanxicô đặt chức vụ giám chức dưới quyền kiểm soát của bộ Giáo sĩ chứ không còn thuộc bộ Giám mục. Cuối cùng, người đại diện cao nhất của Dòng không còn mặc nhiên là giám mục nữa. Các biện pháp này đi theo hướng chuẩn mực hóa vị trí Opus Dei có trong Giáo hội và ở Rôma.

Đặt Caritas Quốc tế dưới quyền quản lý

Sau một cuộc kiểm toán, ngày 22 tháng 11 Đức Phanxicô đã giải tán ban quản trị Caritas Quốc tế, cơ quan trung ương điều hành 162 tổ chức nhân đạo của Giáo hội công giáo, trong bối cảnh các vấn đề quản lý nội bộ. Để giải quyết, Đức Phanxicô chỉ định một ủy ban đặc biệt, đặt tổ chức dưới sự giám sát và tuyên bố ngài muốn cải thiện các tiêu chuẩn và thủ tục quản lý hiện có. Quyết định được công bố trước sự choáng váng của các đại diện Caritas của khoảng 60 quốc gia đang về Rôma họp. Một thành viên tham dự thì thầm: “Chúng tôi tưởng như đang ở trong công ty Twitter”, ý muốn ám chỉ đến ông Elon Musk mua lại Twitter và đã sa thải hàng trăm nhân viên theo kiểu quân đội.

Một quản lý độc đoán?

Ba “việc dàn xếp” của giáo hoàng có điểm chung là chúng được công bố mà ban quản lý của các tổ chức liên quan không được thông báo trước. Mỗi lần như vậy, tất cả đều ngạc nhiên, cả trong nội bộ cũng như bên ngoài. Vì thế các nhà ngoại giao ở Tòa Thánh – được hãng tin I.Media phỏng vấn – cho biết họ cảm thấy bối rối trước phong cách “độc đoán” hoặc “bạo lực” mà giáo hoàng áp dụng.

Một số người tương đối hóa phản ứng này. Linh mục Cristian Mendoza nhìn thấy đằng sau những can thiệp này là “phong cách cai trị thông thường của ngài”. Linh mục là giáo sư học thuyết xã hội người Mexico, giảng dạy tại Giáo hoàng Học viện Santa Croce ở Rôma cho biết ngài đã làm như thế từ khi ngài là tổng giám mục  Buenos Aires, một phần vì ngài sợ những “lệch lạc” có thể xảy ra trong các tổ chức này và mong muốn mang lại nhiều “minh bạch” hơn.

Kín đáo được đặc biệt nhấn mạnh

Trong một phỏng vấn trên trang America năm 2013, Đức Phanxicô thừa nhận đã có tính độc đoán này khi ngài làm giám tỉnh Dòng Tên ở Argentina trong những năm 1970. Tuy nhiên, ngài cho biết ngài đã thay đổi. Ngài tham khảo ý kiến người khác trước khi quyết định, thay vì đơn độc quyết định.

Bây giờ khi tham khảo, ngài ưu tiên cho một quyết định kín đáo, cho đến khi ngài quyết định. Ngoài ra, ngài thường chọn không nói chuyện với một số quan chức tại chỗ. Linh mục Mendoza cho biết, vì ngài không tin tưởng họ: “Khi họ đến gặp ngài, họ thường  trình bày cho ngài một sự thật đã được thêu dệt. Vì thế ngài nhờ đến các người bên ngoài.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: 12 ngày đánh dấu năm 2022 tại Vatican

Năm 2022 của Đức Phanxicô trong 10 con số

Vụ Rupnik: Dòng Tên xin bất cứ ai bị lạm dụng liên hệ với Dòng

Vụ Rupnik: Dòng Tên xin bất cứ ai bị lạm dụng liên hệ với Dòng

jesuits.global, 2022-12-18

Vụ Rupnik: Dòng Tên xin bất cứ ai bị lạm dụng liên hệ với Dòng . Linh mục Bề trên Tổng quyền Sosa tuyên bố: “Dòng xử lý các vụ khiếu nại”

Tuyên bố của linh mục Dòng Tên Johan Verschueren, đại diện linh mục Bề trên Tổng quyền

Tuần trước Dòng đưa ra hai cuộc điều tra liên quan đến vụ linh mục Marko Rupnik. Một liên quan đến bí tích hòa giải; một liên quan đến việc linh mục Rupnik lạm dụng một phụ nữ. Thông tin đưa ra đặt nhiều câu hỏi và tôi chia sẻ theo thứ tự thời gian các sự việc với hy vọng cung cấp một số thông tin rõ ràng.

Mối quan tâm chính của tôi trong tất cả những việc này là với những người đã phải chịu đựng và tôi xin mời bất kỳ ai muốn khiếu nại các vụ mới hoặc muốn thảo luận về những khiếu nại đã được đưa ra hãy liên hệ với tôi. Tôi xin đảm bảo, quý vị sẽ được lắng nghe với sự thấu hiểu và đồng cảm. Cách đây vài tháng, chúng tôi đã thành lập một nhóm gồm những người thuộc nhiều lĩnh vực và chuyên ngành khác nhau để giải quyết các tình huống này. Họ luôn sẵn sàng lắng nghe, hỗ trợ và giúp đỡ. Email của dịch vụ là: teamreferente.dir@gmail.com và quý vị có thể viết bằng tiếng Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan và Đức.

Tôi xin nhắc lại những gì linh mục Bề trên Tổng quyền đã nói ngày thứ tư 14 tháng 12:

“Trường hợp của linh mục Marko Rupnik được đưa ra công khai tuần trước là ví dụ điển hình cho thấy chúng ta còn phải học hỏi nhiều điều, đặc biệt là về nỗi đau của con người. Vụ này, cũng như những vụ khác đã làm chúng tôi bàng hoàng và đau lòng; nó buộc chúng tôi phải hiểu và thông cảm với nỗi đau khổ của tất cả những người liên quan dưới hình thức này hay hình thức khác. Nó làm cho chúng tôi phải đối diện với thách thức tôn trọng nỗi đau này đồng thời chúng ta cẩn thận bắt đầu các thủ tục theo yêu cầu của luật dân sự hoặc giáo luật. Chúng tôi tìm cách truyền đạt điều này theo cách không che giấu sự thật và được Tin Mừng soi sáng, cùng với những kinh nghiệm khác của con người, chúng tôi cố gắng mở ra những con đường hướng tới việc chữa lành những tổn thương đã gây ra.”

Kết luận, tôi xin đảm bảo với quý vị, Dòng Tên, theo yêu cầu của Đại hội đồng 36 muốn tạo một văn hóa bảo vệ và chúng tôi cam kết tuân theo các tiêu chuẩn cao nhất trong chức vụ của mình. Chúng tôi cố gắng loại trừ khả năng bất kỳ ai có nguy cơ bị tổn hại trong bất cứ sứ vụ nào của chúng tôi.

Johan Verschueren SJ

Đại diện Bề trên Tổng quyền cho các Nhà Quốc tế tại Rôma

Ngôn ngữ gốc: tiếng Anh

Biên niên các điều tra về các cáo buộc chống linh mục Marko Rupnik

Giải tội cho đồng lõa phạm tội điều răn thứ 6

– Tháng 10 năm 2018: Cáo buộc tha tội cho đồng phạm của mình. Linh mục Rupnik trong tội chống lại điều răn thứ sáu đã được đại biểu Giáo triều Dòng Tên cho các Nhà Quốc tế ở Rôma tiếp. Dòng thiết lập một cuộc điều tra sơ bộ

– Tháng 5 năm 2019: Cuộc điều tra cho rằng các cáo buộc là đáng tin cậy. Một hồ sơ đã được gởi đến Bộ Tín Lý.

– Tháng 6 năm 2019: Các hạn chế được linh mục Verschueren đưa ra.

– Tháng 7 năm 2019: Bộ Tín Lý yêu cầu Dòng làm quy trình xử lý hình sự

– Tháng 1 năm 2020: các thẩm phán (tất cả đều ở bên ngoài Dòng Tên) đều nhất trí cho rằng linh mục Rupnik đã xóa tội cho người đồng phạm

– Tháng 5 năm 2020: Bộ Tín Lý ban hành Sắc lệnh dứt phép thông công; cuối tháng vạ tuyệt thông được dỡ bỏ theo một sắc lệnh của Bộ Tín Lý.

Các cáo buộc liên quan đến các thành viên của Cộng đồng Loyola

– Tháng 6 năm 2021: Bộ Tín Lý liên hệ với linh mục Bề trên Tổng quyền Dòng Tên về những cáo buộc liên quan đến linh mục Rupnik và một số thành viên của cộng đồng Loyola

– Tháng 7 năm 2021: Linh mục Bề trên Tổng quyền mở cuộc điều tra sơ bộ do một người bên ngoài Dòng làm. Các hạn chế được linh mục Verschueren áp đặt.

– Tháng 1 năm 2022: Cuộc điều tra kết luận có một vụ phải trả lời. Các kết quả được gởi về Bộ Tín Lý với đề nghị quy trình xử phạt.

– Tháng 10 năm 2022: Bộ Tín Lý cho biết các sự kiện bị cấm; không có vụ án nào có thể tiến hành

– Những hạn chế mục vụ của linh mục Rupnik vẫn tiếp tục.

Ghi chú về Vai trò của Đại diện các Nhà Quốc tế tại Rôma – Ghi chú giải thích:

Đại diện cho các nhà Rôma cấp trên chính của các cộng đồng và tổ chức sau:

– Viện Gesù

– Viện Bellarmino

– Trung tâm Aletti

– Đại học Gregoriana

– Viện Kinh thánh Giáo hoàng Rôma

– Học Viện Kinh Thánh Giáo Hoàng Giêrusalem

– Học Viện Giáo Hoàng Phương Đông

– Nhà thường trú Dòng Tên Peter Canisius

– Observatoire du Vatican

– La Civilta Cattolica

– Collegio Russicum

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Linh mục Dòng Tên Hans Zollner: “Cách xử lý vụ Rupnik nghiêm trọng đến mức phải rút ra bài học cho tương lai’’

Trường hợp linh mục Marko Rupnik: thử nghiệm các biện pháp chống lạm dụng của Giáo hội

Linh mục Dòng Tên Hans Zollner: “Cách xử lý vụ Rupnik nghiêm trọng đến mức phải rút ra bài học cho tương lai’’

Linh mục Dòng Tên Hans Zollner: “Cách xử lý vụ Rupnik nghiêm trọng đến mức phải rút ra bài học cho tương lai’’

Linh mục Dòng Tên Hans Zollner, một trong các chuyên gia hàng đầu về vấn đề lạm dụng trong Giáo hội, đề xuất thành lập một cơ quan độc lập để các nạn nhân có thể đến để được giúp đỡ.

cope.es, Eva Fernández, 2022-12-19

Qua ngày tháng, với các dữ liệu mới về linh mục Dòng Tên người Slovenia Marko Rupnik đã làm cho dư luận ngày càng chú ý. Dòng Tên đã đưa ra một tuyên bố trong đó họ mời các nạn nhân gởi đơn khiếu nại để được lắng nghe và tham dư, linh mục Johan Verschueren, bề trên Nhà Quốc tế Dòng Tên viết trên trang web của Dòng: “Tôi đảm bảo với quý vị, quý vị sẽ được lắng nghe với sự thông hiểu và đồng cảm.”

Trong những ngày gần đây, những lời chỉ trích ngày càng nhiều, đặt nghi vấn về hành động của Dòng Tên và Bộ Tín Lý trong việc quản lý một việc có tầm mức truyền thông cao như vậy, vì đây là một nghệ sĩ nổi tiếng, với hơn 200 tác phẩm trên khắp thế giới. Thời gian càng trôi qua càng có nhiều phụ nữ chỉ định linh mục Rupnik là thủ phạm của các vụ lạm dụng, không chỉ trong những năm 1990 ở cộng đồng công giáo Loyola ở Ljubljana, mà còn ở Trung tâm Aletti Rôma, điều này dường như khẳng định bản chất tái phạm của bị cáo.

Từ khi vụ này bùng nổ, đã có rất nhiều tiếng nói tố cáo sự thiếu minh bạch trong việc Dòng Tên xử lý vụ này. Một trong số người tố cáo là cựu giám tỉnh Dòng Tên Tỉnh dòng Châu Âu-Địa Trung Hải, Gianfranco Mattarazzo, cha đã mời linh mục Hans Zollner, một trong các chuyên gia hàng đầu về vấn đề lạm dụng trong Giáo hội phát biểu về sự việc. Linh mục Zollner, trong các phát biểu với hãng tin Reuters cho biết ngài có thể hiểu các nạn nhân cảm nhận mình bị phản bội như thế nào qua việc này. Gần đây, nhật báo Ý Domani đăng chứng từ của một nữ tu khác cho biết sơ đã bị linh mục Rupnik lạm dụng tình dục nhiều lần và kéo dài kể từ năm 1994, điều mà sơ đã báo cáo một trong số các thư gởi cho linh mục Zollner, giám đốc Viện Nhân chủng học, trung tâm nghiên cứu về lạm dụng của Đại học Gregorian ở Rôma. Linh mục Hans Zollner có bài phỏng vấn dành cho báo COPE và ECCLESIA.

Vì sao có quá ít minh bạch trong cách truyền thông? Cha nghĩ gì về lý do này?

Linh mục Hans Zollner. Tôi không biết nguyên nhân hay lý do của việc thiếu minh bạch. Tôi chỉ có thể đưa ra giả thuyết. Có thể bắt đầu do việc hiểu sai về tầm quan trọng của việc bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư của một người, đến việc người nào đó muốn giúp một người. Thật là uẩn ức khi nhận ra, dù có rất nhiều chuyện đã xảy ra, đã thảo luận, tranh luận và suy nghĩ về lạm dụng và cách ngăn chặn nó, chúng ta vẫn chưa có tiến bộ.

Cơ quan cha điều hành ở Đại học Gregorian đã làm việc tích cực trong việc ngăn ngừa và đặc biệt là nâng cao nhận thức về vấn đề lạm dụng. Điều gì đã xảy ra làm cho các tu sĩ Dòng Tên không có được minh bạch cần thiết trong trường hợp này?

Tôi rất đau lòng khi nhận ra sự thiếu minh bạch và nhất quán không những chỉ có ở bên ngoài mà còn ở bên trong Dòng Tên mà tôi là thành viên. Tôi chỉ có thể suy đoán về những lý do bên trong và bên ngoài đã làm cho Dòng đã hành động như vậy.

Linh mục Marcko Ivan Rupnik

Các vụ lạm dụng của linh mục Rupnik liên quan đến phụ nữ thánh hiến trưởng thành dễ bị tổn thương. Theo giáo luật, có vẻ như loại lạm dụng này bị cho là “loại thứ hai” (chỉ giải quyết tha bổng cho đồng phạm và bỏ qua việc lạm dụng thể chất, tâm lý và thiêng liêng mà những phụ nữ này phải gánh chịu). Tất cả cho thấy cần phải chú ý nhiều hơn đến các trường hợp lạm dụng phụ nữ trưởng thành dễ bị tổn thương…

Bà nhận thức được việc này và nó thật kinh khủng. Theo một nghĩa nào đó, dường như nó đang lặp lại điều đã xảy ra khi các trường hợp lạm dụng trẻ vị thành niên được phát hiện: dần dần Giáo hội hiểu được tổn thương có thể sâu đậm đến như thế nào và không chỉ khi đương sự còn là trẻ vị thành niên.

Cha nghĩ Bộ Tín Lý là cơ quan sẽ làm sáng tỏ những gì đã xảy ra. Chúng tôi biết Bộ Tín Lý không bao giờ tuyên bố mình là tòa án. Từ những gì đã xảy ra cho đến nay, có thể suy ra Dòng Tên mới là bên nên thực hiện bước này. Chúng ta có thể học được bài học gì từ vụ này để có được sự minh bạch rất cần thiết này?

Theo tôi, cách xử lý vụ Rupnik từ những năm 1990 đã nghiêm trọng đến mức cần rút ra những bài học và kết luận thích đáng cho tương lai.

Thứ nhất: từ nhiều năm, nhiều người đã hỏi lý do dẫn đến các phán quyết mà Bộ Tín Lý đưa ra: Nếu không có luật học thì không thể biết tiêu chuẩn nào được chấp nhận và người ta có ấn tượng – cả về phía các giám mục và giám tỉnh – là không có sự so sánh giữa các phán quyết.

Thứ hai: cần có một cơ quan độc lập mà nạn nhân có thể tìm đến và cơ quan đó có đầy đủ nhân sự được đào tạo. Họ phải có kỹ năng để bắt đầu và thực hiện những thay đổi cơ bản, sâu rộng trong quản lý hồ sơ như hồ sơ của linh mục Rupnik.

Thứ ba, và điều này cũng áp dụng trực tiếp cho tôi: Làm sao các nạn nhân nghĩ rằng họ chắc chắn được xem trọng và lắng nghe? Vào giữa tháng 6 năm 2022, một “thư ngỏ” của một nạn nhân gởi cho tôi qua e-mail, nói về thủ tục pháp lý đang diễn ra trong Giáo hội. Bức thư được gửi trực tiếp cho Cha Sosa, Bề trên Tổng quyền Dòng Tên. Ngoài tôi ra, còn có 17 người khác: hồng y, tổng giám mục, giám mục, giám tỉnh và bề trên với các chức vụ trách nhiệm giáo luật liên quan đến linh mục Rupnik cũng nhận thư.

Như nhiều nạn nhân bị lạm dụng trên khắp thế giới biết, tôi luôn trả lời các thông tin gởi trực tiếp cho cá nhân tôi, dù ở vị trí của tôi và với những yêu cầu hàng ngày, tôi thường không thể làm gì ngoài việc xác nhận đã nhận thư, lắng nghe trong chừng mực có thể và chuyển thư đến các cơ quan có thẩm quyền. Nhưng trường hợp này cho tôi thấy tôi phải chú ý và nhạy cảm hơn nữa.

Linh mục Marcko Ivan Rupnik

Khi nói về các nạn nhân, trong trường hợp linh mục Rubnik người ta ít nói về họ. Đó có phải thêm một lần nữa làm cho cha đau lòng hơn không?

Các nạn nhân bị tác động, bị tổn thương vì linh mục Rupnik cần câu trả lời rõ ràng cho lời kêu gọi đòi công lý, bồi thường và nếu có thể là chữa lành cho họ. Thông báo gần đây của linh mục Verschueren mời các nạn nhân gởi khiếu nại là một bước tiến trên con đường hướng tới minh bạch và lắng nghe.

Các tội phạm của linh mục Rupnik năm 2021 được cho là hết thời hiệu. Vì sao không bỏ thời hiệu khi hai năm trước đó linh mục đã bị kết án (hơi nhẹ) về tội tương tự? Làm thế nào nạn nhân có thể nhận được công lý với những quyết định này?

Tôi không biết. Tôi chỉ biết sự thiếu minh bạch và những câu hỏi còn để mở, sự thiếu chính xác và mâu thuẫn kéo dài sự đau khổ của các nạn nhân. Không thể và không nên tiếp tục như vậy.

Nhiều người cho rằng áp lực của truyền thông là nguyên nhân làm cho Giáo hội can thiệp nhiều hơn để chấm dứt vấn đề lạm dụng. Có lẽ tất cả chúng ta sẽ chiến thắng nếu các nhà báo không còn bị xem là mối nguy hiểm, để họ trở thành người giúp chấm dứt tai họa này.

Các phương tiện truyền thông đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo các vụ lạm dụng trong Giáo hội sẽ được giải quyết thỏa đáng. Nếu không có áp lực của dư luận, sẽ có nguy cơ là các tổ chức, chẳng hạn như Giáo hội, sẽ tránh né vấn đề khó khăn này và cố gắng tầm thường hóa nó. Vì tình yêu cho sự minh bạch và công lý, chúng tôi cần những người mang đến cho chúng tôi tiếng nói của những người bị tổn thương do lạm dụng.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Vụ Rupnik: Dòng Tên xin bất cứ ai bị lạm dụng liên hệ với Dòng

Linh mục Dòng Tên David McCallum đào tạo các linh mục thành các nhà lãnh đạo

Linh mục Dòng Tên David McCallum đào tạo các linh mục thành các nhà lãnh đạo

cath.ch, Ban biên tập, 2022-12-18

Linh mục Dòng Tên David McCallum điều khiển Học viện Lãnh đạo Phân định tại Rôma từ năm 2021 | © Severina Bartonitschek/KNA

Linh mục Dòng Tên người Mỹ David McCallum điều khiển Viện Lãnh đạo Phân định ở Rôma, một ‘start-up’ khởi động đang phát triển nhanh chóng. Linh mục và các cộng sự của ngài đang giúp các nhà lãnh đạo Giáo hội thành những nhà lãnh đạo hiện đại và hiệu quả hơn. Ngài thảo luận về những điểm yếu của các nhà lãnh đạo thiêng liêng, khả năng thay đổi trong Giáo hội và phẩm chất lãnh đạo của Đức Phanxicô.

Học viện Lãnh đạo Phân định là một dự án dưới sự bảo trợ của Hiệp hội Quốc tế các trường Đại học Dòng Tên (IAJU). Linh mục David McCallum được bổ nhiệm làm giám đốc của viện tháng 1 năm 2021.

Các nhà lãnh đạo Giáo hội không nhất thiết phải có tiếng là những nhà lãnh đạo xuất sắc…

Linh mục David McCallum: Thường khi họ được bổ vào các vị trí lãnh đạo trong Giáo hội, họ không được đào tạo trước trong lãnh vực này. Họ là các nhà thần học hay triết gia giỏi, nhưng đột nhiên họ phải điều hành một cơ quan. Trong lãnh vực nào xã hội cũng điều hành tương tự? Tuy nhiên, đó là điều chúng ta làm trong Giáo Hội, và không có gì ngạc nhiên khi điều đó làm thất vọng.

Khi một linh mục hay tu sĩ được bổ nhiệm làm giám mục, hay ở một vị trí lãnh đạo trong hệ thống phẩm trật Vatican hoặc một dòng tu, thì người đó thấy mình phải đối diện với những trách nhiệm lớn lao và nhiều mong chờ. Đôi khi họ cảm thấy khó đáp ứng được.

“Các thành viên của hàng giáo phẩm thường cảm thấy họ không có gì để học hỏi từ người khác.”

Như thế, đặc biệt có thể dẫn đến nhu cầu kiểm soát để ấn định lại một loại thứ trật. Chuyện này xảy ra không phải vì người đó xấu hay ác ý, mà vì họ được thăng chức vượt quá khả năng của họ.

Có sự khác biệt nào ở cấp độ này giữa giáo sĩ và giáo dân không?

Điều đáng chú ý là các giáo sĩ thường cảm thấy họ không có gì để học hỏi từ người khác. Thậm chí, một số còn xem việc thường huấn là tấn công cá nhân. Sự phản kháng lại việc bị những người bên ngoài không phải là giáo sĩ dạy là phản ứng phụ trong quá trình đào tạo của họ.

Cha muốn thay đổi điều này như thế nào?

Trong chương trình lãnh đạo của chúng tôi, không có đào tạo cá nhân. Chúng tôi có các nhóm gồm khoảng 25 đến 30 giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ, đến từ khắp nơi trên thế giới. Sự đa dạng này làm phong phú thêm cho những người tham dự trong tầm nhìn của họ về thế giới và do đó, trong cách họ giữ các vị trí lãnh đạo của mình.

Kinh nghiệm của các giáo sĩ là cực kỳ tích cực, tôi có thể nói là 90%. Họ thường trải qua một loại biến đổi hoặc hoán cải, nhận ra tất cả những gì họ có thể học, chẳng hạn từ các nữ tu, những người có thể là các nhà truyền giáo, hoặc từ các giáo dân, thường có trình độ cao hơn họ rất nhiều.

Làm thế nào để những điều này có thể thực hiện một cách cụ thể?

Trong số những người tham dự, có nhiều người nhận ra lòng dũng cảm và đào tạo là rất quan trọng để trở thành nhà lãnh đạo giỏi. Điều này đồng thời đòi hỏi một sự sẵn sàng nhận thấy mình dễ bị tổn thương. Có nghĩa, thừa nhận mình không phải là câu trả lời cho tất cả và đáp ứng được nhu cầu của người khác. Đó là thừa nhận điểm yếu và sai lầm của mình, để xin tha thứ và rút kinh nghiệm. Hãy mạo hiểm, làm điều gì đó mới mẻ và để một số thứ chết đi để sinh ra những thứ khác.

“Chúng tôi liên kết sự phát triển thiêng liêng của con người với sự phát triển các kỹ năng lãnh đạo và quản lý của chính họ.”

Nhu cầu rõ ràng là rất lớn vì chương trình không ngừng phát triển. Bây giờ các khóa học bằng ba ngôn ngữ và cha đang hướng đến quốc tế.

Chúng tôi đã nhận ra các nhà lãnh đạo cần loại đào tạo này, họ muốn một cái gì đó không theo thứ trật các nghiên cứu quản trị giáo hội. Họ mong chờ một hình thành bắt nguồn từ truyền thống công giáo của chúng ta. Vì thế chúng tôi liên kết sự phát triển thiêng liêng của con người với sự phát triển các kỹ năng lãnh đạo và quản lý của chính họ.

Quá trình đào tạo diễn ra như thế nào?

Khóa học của chúng tôi bao gồm ba giai đoạn. Trước hết là nhìn lại bản thân, xác định điểm mạnh và điểm yếu của chính mình. Các bài tập cung cấp các công cụ và hiểu biết sâu sắc từ các lãnh vực lãnh đạo và quản lý khác nhau.

Bước thứ nhì chúng tôi chuyển từ tính cách cá nhân sang các mối quan hệ giữa các cá nhân: xây dựng nhóm, giao tiếp hiệu quả, kể cả trong các tình huống xung đột. Để làm điều này, các người tham gia phát triển các giải pháp lấy cảm hứng từ phúc âm nói lên hòa giải, tha thứ, hòa hợp và đa dạng. Giai đoạn thứ ba liên quan đến cấp độ tổ chức. Làm thế nào để chẩn đoán các vấn đề hệ thống? Làm thế nào để có được các giải pháp nội bộ dẫn đến thay đổi? Làm thế nào để thực hiện một chiến lược hiệu quả? Chúng tôi kết nối người tham gia với huấn luyện viên và cố vấn tinh thần. Chúng tôi cũng có cố vấn trong nhiều lãnh vực liên hệ đến các tổ chức.

Các quan chức cấp cao của Vatican có tham gia chương trình không?

Chúng tôi có các quan chức cấp cao của Vatican ở các vị trí quản lý và lãnh đạo, cũng như các nhà lãnh đạo các dòng tu và giáo dân làm việc trong các tổ chức công giáo. Chẳng hạn linh mục Juan Antonio Guerrero Alves đã tham gia chương trình của chúng tôi trước khi ngài được bổ nhiệm làm người đứng đầu Ban Thư ký Kinh tế của Vatican (ngày 30 tháng 11 Đức Phanxicô đã chấp nhận đơn từ chức vì lý do sức khỏe của ngài).

“Khi Đức Phanxicô sai lầm, ngài xin lỗi và cố gắng giải quyết những gì đã xảy ra”

Trên nguyên tắc, những người tham gia từ Vatican thường là những nhà quản lý cấp trung hoặc cấp cao. Họ có sự nghiệp trước mắt họ hơn là các hồng y cầm quyền, những người thường giữ chức vụ trong một nhiệm kỳ hạn chế.

Cha nghĩ gì về phẩm chất lãnh đạo của Đức Phanxicô?

(Cười) Rất khó để nói với tư cách là đồng hữu Dòng Tên. Nhưng theo tôi, Đức Phanxicô là nhà lãnh đạo xuất sắc. Bản thân ngài đã ở vị trí lãnh đạo trong nhiều giai đoạn, ngài thừa nhận ngày xưa ngài rất độc tài.

Khi về Rôma, nhiệm vụ của ngài rất rõ ràng: cải tổ Giáo triều. Ngài làm việc này với lòng tín thác vào Thiên Chúa, đó là nét đặc trưng của ngài và ngài không sợ bị chỉ trích. Ngài thực sự không muốn phân cực – dù ngài bị cho là một nhân vật phân cực – nhưng muốn phục vụ Tin Mừng, phục vụ cho sứ mệnh của Giáo hội. Tôi nghĩ ngài có thể nắm bắt được sự phức tạp của thế giới, cũng như những khó khăn thực sự của người công giáo.

Như vậy phải làm mọi thứ cho đúng không?

Ngài có hoàn hảo không? Không, tôi không nghĩ vậy. Và chắc chắn chính ngài cũng không nghĩ vậy. Theo tôi, đôi khi ngài tấn công hơi gay gắt một số khía cạnh của Giáo hội như với chủ nghĩa giáo quyền. Tôi tự hỏi liệu ngài có đẩy người khác đến giới hạn của họ và làm cho họ chống lại ngài nhiều hơn không. Tôi tự hỏi không biết ngài có muốn có một cách tiếp cận khác thích ứng hơn không.

Nhưng tôi nghĩ ngài biết việc ngài làm. Về cơ bản, ngài luôn cho thấy mình chính trực. Khi phạm sai lầm, ngài xin lỗi và cố gắng giải quyết những gì đã xảy ra.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài mới nhất