Home Blog Page 348

Động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ: chú chó Aleks sống sót sau 23 ngày trong đống đổ nát

Động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ: chú chó Aleks sống sót sau 23 ngày trong đống đổ nát

Chú chó Aleks có vẻ khỏe mạnh dù đã 23 ngày nằm dưới đống đổ nát. © TIN TỨC DEMIROREN AAGENCYDHA (Thông tấn xã Demiroren) / AFP

parismatch.com, Ban biên tập với, 2023-03-02

23 ngày sau trận động đất kinh hoàng, chú chó Aleks được giải cứu khỏi đống đổ nát.

 

Ngày thứ năm 2 tháng 3, báo chí địa phương đưa tin, chú chó Aleks, một giống lai to lớn với đôi mắt sáng, đã được giải thoát khỏi đống đổ nát 23 ngày sau trận động đất tàn phá thành phố Antakya ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ.

Qua các hình ảnh về cuộc giải cứu do hãng thông tấn DHA của Thổ Nhĩ Kỳ đăng tải, người xem thấy chú chó Aleks bị kẹt trong những tấm bê tông đan xen như cái giếng bị sập dưới tác động của trận động đất mạnh 7,8 độ richter xảy ra 4 giờ sáng ngày 6 tháng 2.

Đọc thêm Syria: tương lai

Ông Murat Arici, người chủ của chú cho nghe tiếng rên của nó và báo cho đội cứu hộ của chính quyền thành phố Konya (giữa). Đội cứu cấp nói trong video: “Aleks, con chó của tôi, ra đây với chúng tôi.” Họ thốt lên khi tóm được con chó to lớn, lông xù còn khỏe mạnh: “Ồ, con giỏi lắm con!”

Aleks được giao cho hội bảo vệ động vật Haytap chăm sóc để được kiểm tra trước khi trả lại cho chủ nhân của nó.

Các đội cứu cấp đã cứu được hàng trăm thú vật

Các đội cứu cấp đã cứu được hàng trăm con mèo, chó, chim, thỏ và cả bò, cừu bị mắc kẹt trong các tòa nhà đổ nát ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ.

Những người sống sót cuối cùng là một cặp vợ chồng đã được cứu ở Antakya ngày 18 tháng 2.

Kể từ đó, các cuộc tìm kiếm đã chính thức đình chỉ tại 9 trong số 11 tỉnh bị ảnh hưởng, ngoại trừ hai tỉnh Hatay và Kahramanmaras, nơi có tâm chấn.

Trận động đất, được cho là thảm họa lớn nhất xảy ra ở Thổ Nhĩ Kỳ đương đại, đã giết chết hơn 45.000 người và hơn 5.000 người khác ở nước láng giềng Syria, đồng thời tàn phá hàng trăm ngàn tòa nhà của người dân.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Trong thảm kịch, có hy vọng

Tương lai nào cho hai em Jinan và Abdel được cứu như phép lạ trong trận động đất ở Syria?

Tương lai nào cho hai em Jinan và Abdel được cứu như phép lạ trong trận động đất ở Syria?

parismatch.com, Flore Olive, 2023-02-17

Đoạn video về Jinan, một bé gái 6 tuổi người Syria bị mắc kẹt dưới đống đổ nát, bảo vệ em trai Abdel đã lan truyền khắp thế giới. Chúng tôi đã nói chuyện với bác sĩ chăm sóc hai em ở Harem, Syria. Ông yên tâm về tình trạng sức khỏe của hai em nhưng lo lắng cho hậu quả tâm lý của các em.

 Video đau lòng của hai em Jinan và Abdel

Bác sĩ Yassin Ahmed ở bệnh viện Harem cho biết: “Jinan không nói, không cười, và em trai Abdel không cử động, em ở đó, không khóc, không phản ứng. Các em bị sốc nặng, bị tác động tâm lý nặng nhưng không may, chúng tôi không có khoa tâm thần nào có thể theo dõi các em, chúng tôi lo sức khỏe cho các em.” Bệnh viện Harem ở cách gia đình các em 50 cây số.

Tôi vô cùng ngưỡng mộ em bé dũng cảm này – Ông Tedros Adhanom Ghebreyesus, tổng giám Tổ chức Y tế Thế giới WHO

Em Jinan bị thương hở ở chân, em Abdel bị phỏng ở mức độ 2. Bác sĩ cho biết, tình trạng chung của hai em tốt, ông không biết chính xác Jinan và Abdel Junaid bị chôn vùi bao nhiêu giờ, chỉ biết các em đến bệnh viện khuya ngày đầu tiên 6 tháng 2.

Đoạn video ngắn về em Jinan 6 tuổi bị mắc kẹt dưới đống đổ nát nhưng vẫn bảo vệ được em trai Abdel 20 tháng tuổi của em đã lan khắp thế giới. Tôi vô cùng ngưỡng mộ em bé dũng cảm này, ông Tedros Adhanom Ghebreyesus, tổng giám đốc WHO, Tổ chức Y tế Thế giới viết trên Twitter.

Chỉ còn cánh tay mặt là còn có thể nhúc nhích, em Jinan che và vuốt ve nhẹ đầu em Abdel. Đầu Jinan gối lên tấm chăn, trong khi toàn cơ thể bị kẹt dưới lớp bê tông, Jinan nói với người cứu cấp: “Xin ông đưa tôi ra khỏi đây, tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông muốn, tôi sẽ làm người giúp việc cho ông, nhưng xin đưa tôi ra khỏi đây.”

Abdel đang nằm trên tấm nệm. Chúng tôi hình dung căn phòng, đống gạch vụn rơi xuống đầu các em lúc nửa đêm khi các em còn ngủ. Các em chưa biết tin, nhưng các em là những người sống sót duy nhất trong gia đình. Cha mẹ và bốn chị em của các em đã chết. Họ ở đâu đó, rất gần các em, dưới đống đổ nát.

Em Jinan ở bệnh viện

Trong khẩn cấp và bối rối của những giờ đầu, mới đầu các phóng viên gọi Jinan là Mariam và nghĩ cha của em còn sống. Nhưng danh tính của Jinan và của Abdel đã được bác sĩ và người cậu Hassan Yassin của hai em xác nhận với chúng tôi.

Mariam, 7 tuổi, bảo vệ em dưới đống đổ nát trong khi chờ được cứu

Sau trận động đất, các cuộc bắn phá vẫn tiếp tục

Ông Mahmoud Mohamed Junaid, cha của hai em sinh ở Atarib. Cho đến năm 2018, thành phố phụ thuộc vào tỉnh Aleppo dưới sự kiểm soát của chế độ Syria, sau đó thành phố này bị người Hồi giáo của Hayat Tahrir al-Sham (Tổ chức Giải phóng Levant, HTS) chiếm đóng.

Ngày nay, Atarib là trạm kiểm soát cuối cùng của phe nổi dậy trước khi tiến vào khu vực của chính phủ. Ở lại đó có nghĩa là phải hứng chịu các cuộc tấn công liên tục của quân đội Syria và các cuộc bắn phá vẫn tiếp tục sau trận động đất. Trong năm năm, người dân sống ở đó không có điện, vì không còn dịch vụ nào hoạt động, và vì một tia sáng nhỏ nhất nào cũng biến mình thành mục tiêu bắn phá.

Địa ngục này, người cha Mahmoud Mohamed Junaid muốn trốn thoát. Là thợ sửa xe hơi, ông đến định cư ở làng Besnaya-Bseineh, gần Harem. Dù khu vực này cũng nằm dưới sự kiểm soát của lực lượng hồi giáo HTS, nhưng an toàn hơn. Mẹ của Jinan và Abdel lớn lên ở đó. Jinan được sinh ra ở đó ngay sau khi họ đến.

Kể từ khi bắt đầu cuộc xung đột, Họ ở trong số hàng ngàn người đổ về từ khắp nơi trên đất nước để tìm một chút an toàn. Họ sống sót trong những trại tạm bợ đông đúc.

Mahmoud và vợ thuê được một căn hộ ở tầng hai của một tòa nhà sáu tầng, nơi họ ở cùng sáu đứa con khi tòa nhà chôn vùi họ.

Trẻ em chiến tranh mồ côi vì thiên tai

Trong những ngày gần đây, người tị nạn từ Besnaya-Bseineh và Harem đã phải đón những người tị nạn khác, đó là những người sống sót sau trận động đất đã phá hủy hoàn toàn tỉnh Atarib. Trong lều, trong lán bằng tôn, có mười hoặc hai mươi người sống ở đó. Không thể cầm cự được lâu giữa mùa đông, trong điều kiện nghèo đói và bừa bãi như vậy, đến mức một số gia đình muốn đi về, dù đi về là phải sống dưới bom đạn và trong những ngôi nhà bị phá hủy của họ.

Và Jinan và Abdel sẽ sống như thế nào? Chú của các em hoặc một người trong gia đình sẽ chăm lo các em. Các em là trẻ mồ côi vì thiên tai. Và chiến tranh vẫn đang chờ các em. Tất cả sẽ phải đối diện với nghịch cảnh, không biết lần này là lần thứ bao nhiêu, một nghịch cảnh vượt quá khả năng của họ. Chỉ có một điều chắc chắn cho em Abdel: Jinan sẽ ở đó để bảo vệ em.

Omar Rahal, chú của hai em ở bên cạnh Jinan trong bệnh viện dã chiến. Ảnh: Alessio Mamo/The Guardian

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Trong thảm kịch, có hy vọng

Hồng y Walter Kasper tròn 90 tuổi, ngài nhìn lại Công đồng, Giáo hội và Con đường Công nghị Đức  

Hồng y Walter Kasper tròn 90 tuổi, ngài nhìn lại Công đồng, Giáo hội và Con đường Công nghị Đức

cath.ch, Ludwig Ring-Eifel, 2023-03-01

Hồng y Walter Kasper | Flickr CC BY-NC-SA 2.0

Năm nay hồng y người Đức Walter Kasper 90 tuổi, ngài có cái nhìn sáng suốt về Giáo hội của đất nước ngài và Giáo hội hoàn vũ. Từ lâu ngài đã được xem là nhà cải cách, bây giờ ngài cảnh báo về nguy cơ lệch lạc của Con đường Công nghị ở Đức, ngài lưu ý: “Giáo hội đang ở trong cuộc khủng hoảng rất sâu đậm. Nếu không nhìn thấy nó sẽ là mất trí.”

Sinh ngày 5 tháng 3 năm 1933 tại Hedenheim, Würtemberg, Walter Kasper là giáo sư thần học ở Münster, sau đó ở Tübingen trước khi được bổ nhiệm làm giám mục Rottenburg-Stuttgart năm 1989. Năm 1999, Đức Gioan-Phaolô II xin ngài về Rôma để đứng đầu Hội đồng Tòa Thánh về Hiệp nhất các Kitô hữu, một vị trí ngài giữ cho đến khi ngài về hưu năm 2010. Mặc dù không còn giữ chức vụ chính thức, nhưng ngài vẫn là giám mục được lắng nghe ở Rôma và ở Đức. Ngài cũng là tác giả của nhiều quyển sách.

Nhìn lại hơn 90 năm cuộc đời, điều gì đặc biệt làm cho cha xúc động?

Hồng y Walter Kasper: Trên hết là lòng biết ơn. Vì tôi vẫn còn tương đối khỏe mạnh, tôi vẫn có thể tự mình làm mọi việc, điều này không dễ dàng ở tuổi tôi. Và biết ơn cho tất cả những gì tôi đã sống trong những năm tháng này.

Cha đã sống qua thời Công đồng Vatican II cách đây 60 năm, cha còn nhớ gì không?

Đó là thời điểm đổi mới! Thật là một ngạc nhiên lớn khi chúng tôi nghe tin Đức Gioan XXIII công bố tổ chức công đồng đại kết. Khi đó tôi đang học ở Đại học Tübingen, tôi vừa xong tiến sĩ và sau đó là chính thức. Công đồng đã khơi dậy một nhiệt tình lớn lao, đó cũng là thời gian tuyệt vời với tôi. Rất nhiều thứ đã thay đổi. Những người cho rằng Giáo hội không thể cải cách, họ nên nhớ sự thay đổi sâu sắc này! Tôi đã sống kinh nghiệm này.

Vào thời đó, người ta thích được là người công giáo, mọi cánh cửa mở ra. Bỗng nhiên, các nhà thần học công giáo và tin lành có thể gặp gỡ và thảo luận với nhau, điều chưa từng có trước đây. Chúng tôi trau dồi điều này rất nhiều ở Tübingen, mỗi tháng một lần chúng tôi gặp nhau, Hans Küng, Jürgen Moltmann, Eberhard Jüngel và tôi (hai người công giáo và hai người tin lành), trước tiên chúng tôi ăn với nhau, sau đó uống rượu vang và thảo luận sôi nổi cho đến quá nửa đêm. Đó là thời gian không thể nào quên.

 

“Tôi không thích cách thần học gia Hans Küng hành động và tranh luận nơi công cộng. Người ta nói đây là người Thụy Sĩ cứng đầu”

 

Nhưng không vì thế mà cha không lên tiếng ủng hộ việc loại thần học gia Hans Küng ra khỏi phân khoa thần học.

Những tuần đó là thời gian khó khăn nhất trong sự nghiệp học vị của tôi. Tôi có quan hệ ở trường học với ngài và đã học rất nhiều từ ngài. Nhưng sau đó tôi không đồng ý với ngài về những quan điểm lớn. Trước khi bị rút giấy phép giảng dạy, các giảng viên đã chia rẽ, một số phản đối quyết định này, một số cho rằng quyết định đó là hợp lý. Tôi là một trong số những người cho đó là quyết định hợp lý. Nhưng những người khác quyết định. Điều làm cho tôi đặc biệt không hài lòng là cách Küng hành động và tranh luận trước công chúng, ngài là người Thụy Sĩ cứng đầu.

Chúng ta trở lại với Công đồng: 60 năm sau, dường như những vấn đề quan trọng, mang tính thời sự ngày nay, vẫn chưa được giải quyết vào thời điểm đó.

Những vấn đề rất quan trọng đã được giải quyết, nhưng tất nhiên không phải tất cả. Chẳng hạn, Công đồng đã đặt sự tương tác giữa các giám mục và giáo hoàng, cũng như giữa giáo dân và giáo sĩ trên cơ sở thần học mới. Nhưng cụ thể công việc này như thế nào thì vẫn chưa được làm rõ. Đây là điều mà bây giờ Đức Phanxicô muốn làm sáng tỏ với Thượng hội đồng về tính đồng nghị.

“Vấn đề phụ nữ trong Giáo hội vào thời điểm đó vẫn chưa được giải quyết, và bây giờ nó rơi vào chân chúng ta”

Hơn nữa, trên thực tế, đây là cuộc cải cách rất bảo thủ, bởi vì các thượng hội đồng luôn là một phần của đời sống Giáo hội. Sau thời Trung cổ, nó đã bị mất đi một chút và bây giờ nó đang được hồi sinh theo một cách mới. Mặt khác, giáo dân, cũng như các ông hoàng, ngày đó có ảnh hưởng lớn trong các thượng hội đồng.

Và các vấn đề mới nào đã xuất hiện? Vấn đề phụ nữ, chủ đề của bản sắc và khuynh hướng tình dục?

Công Đồng đã nói rất nhiều về vấn đề phụ nữ, nhất là về địa vị của họ trong xã hội. Nhưng vấn đề phụ nữ trong Giáo hội đã bị bỏ ngỏ vào thời điểm đó, và bây giờ nó rơi vào chân chúng ta. Điều tương tự cũng xảy ra với các vấn đề khác. Mối quan hệ đồng giới vẫn còn là điều cấm kỵ vào thời đó. Tất cả những điều này chỉ xuất hiện sau năm 1968, tức là sau Công đồng.

Sau này một trong những người tiếp nhận những vấn đề này là học trò của cha, thần học gia luân lý Eberhard Schockenhoff, đã qua đời năm 2020. Đối với Con đường Công nghị ở Đức, ông là người đi trước về những chủ đề này. Mối quan hệ của cha với học trò của cha là gì?

Chúng tôi là bạn bè. Mỗi lần ông về Rôma, chúng tôi có những cuộc trao đổi rất sâu đậm. Không phải lúc nào chúng tôi cũng hoàn toàn đồng ý với nhau. Nhưng khi ông đi xa, khi nào lập luận của ông cũng rất vững chắc. Tôi đã đọc nhiều đoạn trích từ quyển sách đạo đức tình dục xuất bản sau khi ông qua đời. Rõ ràng đây là cả một thay đổi não trạng – nhưng nó không đi xa như những gì hiện đang xảy ra trên Con đường Công nghị. Đó là những phần mở đầu, nhưng luôn dựa trên Kinh thánh và truyền thống. Điều này hiện đang thiếu, đặc biệt là để cung cấp cho Con đường Công nghị một nền tảng thần học tốt.

Điều dẫn chúng ta đến Con đường Thượng hội đồng. Cha nghĩ sao? Nó dẫn đến đâu?

Tôi sợ chúng ta đang có một số ảo tưởng. Tôi nghĩ hoàn toàn loại ra việc chúng ta có thể áp đặt mình vào Giáo hội hoàn vũ với các quyết định của Con đường Công nghị. Tất nhiên, cũng có những người ở các quốc gia khác cũng nghĩ như vậy. Nhưng không phải đa số. Chẳng hạn vấn đề liên quan đến việc phong chức cho phụ nữ. Hay tư tưởng dân chủ tham gia quản lý Giáo hội. Giáo hội không phải là một nền dân chủ! Về chủ đề này nói riêng, nhiều điều chưa được nghĩ ra về mặt thần học hay truyền thống. Chúng ta không thể tái tạo lại Giáo hội.

Hồng y Kasper: “Con đường Công nghị Đức mắc phải một lỗi từ khi phát sinh”

“Đức không nên cư xử như thể mình nắm sự thật”

Các giám mục và hồng y khác cảnh báo về một cuộc ly giáo. Đây có phải là nỗi sợ của cha không?

Con đường Công nghị tiếp tục nhấn mạnh họ không muốn ly giáo, và tôi tin điều đó. Nhưng chúng ta cũng có thể rơi vào tình trạng ly giáo. Kiểu như các cường quốc vấp phải trong Thế chiến thứ nhất, trong khi không ai thực sự muốn. Họ nên thực hiện điều này một cách nghiêm túc. Các câu hỏi đến từ các hội đồng giám mục khác cũng nên được xem xét một cách nghiêm túc ở Đức và không nên cư xử như thử mình nắm sự thật. Vì thế người Đức luôn làm cho họ không được yêu chuộng ở nước ngoài. Khi tôi gặp các hồng y Đức ở Rôma, người Đức lắc đầu. Vì vậy, tôi cũng cố gắng giải thích một số điều.

Một tuần sau sinh nhật lần thứ 90 của cha, sẽ tròn mười năm Đức Phanxicô được bầu chọn. Tôi nghĩ cha đã bầu cho ngài lúc đó. Có khi nào cha hối hận không?

Tôi ủng hộ ngài, nhưng không có nghĩa tôi thấy mỗi lời hay mỗi hành động của ngài là đúng. Nhưng khi một giáo hoàng được bầu, nguyên tắc trung thành được áp dụng, đặc biệt là với Giáo triều, nếu không thì công việc không chạy. Hiện tại, tôi không còn gặp ngài thường xuyên như trước nhưng mỗi khi ngài gọi điện cho tôi, tôi đều đến và có lời khuyên nếu ngài yêu cầu.

Ngài đang chịu áp lực từ hai phía: trước hết là với những người bảo thủ, ngay từ đầu họ đã từ chối phong cách của ngài, và bây giờ, ở phương Tây, chẳng hạn như ở Đức, cũng có người chỉ trích ngược lại, họ muốn thúc đẩy cải cách. Nhưng ngài là người đến từ Nam bán cầu, ngài có những mối quan tâm khác quan trọng với ngài, chúng ta phải hiểu điều này. Những gì ngài đã đặt ra sẽ cần một hoặc hai triều giáo hoàng để hoàn thành đầy đủ. Tôi hy vọng sau ngài sẽ có người thực hiện những thôi thúc này theo cách riêng của họ.

 

“Giáo hội đang ở trong một cuộc khủng hoảng sâu đậm. Nếu không nhìn thấy nó thì sẽ là mất trí”

 

Một số nhà cải cách tin rằng thay đổi sẽ là câu trả lời tốt nhất cho cuộc khủng hoảng lớn trong Giáo hội thời chúng ta. Cha nhìn thấy nó như thế nào?

Giáo hội đang ở trong cuộc khủng hoảng rất sâu đậm. Nếu không nhìn thấy nó sẽ là mất trí. Và nguyên nhân không chỉ là vụ tai tiếng lạm dụng. Cuộc khủng hoảng rộng hơn và sâu hơn nhiều. Nó ảnh hưởng đến toàn bộ thế giới phương Tây. Giáo hội đang trong thời kỳ biến động. Chúng ta không thể tiếp tục như không có chuyện gì xảy ra, đó là điều không thể chối cãi.

Nhưng tương lai của Giáo hội sẽ diễn ra cụ thể như thế nào thì không ai trong chúng ta biết được. Điều tôi biết là nếu thời đó tôi không sống qua sự đổi mới do Công đồng mang lại, thì tôi sẽ gặp khó khăn khi đương đầu với cuộc khủng hoảng này. Nhưng tôi nghĩ nhiệm vụ của một thế hệ mới trong Giáo hội là đưa ra câu trả lời.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Hồng y Kasper: “Chúng tôi hy vọng giữ Đức Phanxicô thêm vài năm nữa, những người kế vị ngài sẽ hoàn tất các cải cách của ngài” 

Đức Phanxicô là mục tử của thế giới

Đức Phanxicô là mục tử của thế giới

Loạt bài kỷ niệm 10 năm triều giáo hoàng của Đức Phanxicô, 13-3-2013 & 13-3-2023

Đức Phanxicô chào một bà lớn tuổi ở khu dân cư nghèo ở Asuncion, Paraguay ngày 12 tháng 7 năm 2015. Ảnh CNS/Paul Haring

ncroline.org, Michael Sean Winters, 2023-02-13

Một tháng kể từ hôm nay sẽ là ngày đánh dấu kỷ niệm 10 năm bầu chọn Đức Phanxicô. Trong những tuần sắp tới, tôi sẽ viết một số bài để suy ngẫm về thập kỷ đáng kể này trong lịch sử giáo hoàng. Đây không phải là một bài cáo phó sớm. Tôi cũng sẽ giải thích trong 10 năm qua lịch sử đã vẽ như thế nào về những gì chúng ta có thể mong chờ ở giáo hoàng khi ngài bắt đầu thập kỷ thứ hai lèo lái chiếc thuyền Phêrô.

Điểm nổi bật đầu tiên là cách tiếp xúc của Đức Phanxicô trong chức vụ giáo hoàng là tính nhạy cảm mục vụ của ngài. Đây là điều làm cho ngài nổi bật vào đêm đầu tiên khi ngài được bầu năm 2013. Sau khi chào đám đông bằng câu “chào buổi chiều, buona sera” và nói các hồng y đã đi “tận cùng thế giới” để tìm một giám mục mới cho Rôma, ngài xin mọi người cầu nguyện cho ngài, cho giáo hoàng danh dự Bênêđictô XVI tiền nhiệm của ngài. Sau đó, ngài xướng Kinh Lạy Cha, Kính Mừng và Sáng Danh ở Quảng trường Thánh Phêrô, những kinh mà cả trẻ em cũng thuộc. Trước khi ban phép lành, ngài xin mọi người cầu nguyện cho tân giám mục của họ, ngài nghiêng mình cúi đầu và để thinh lặng bao phủ đám đông khổng lồ ở đây. Tiếp theo ngài nói lời chúc phúc và chúc mọi người ngủ ngon.

Ngày hôm sau, chúng ta biết ngài sẽ không ở dinh tông tòa mà về ở Nhà trọ Thánh Marta, nhà khách dành cho các giáo sĩ vãng lai khi họ có việc về Vatican. Điều này nói lên tinh thần khó nghèo của ngài. Căn hộ của giáo hoàng ở dinh tông tòa thật sự không đặc biệt sang trọng. Bức họa Raphael và các căn hộ Borgia mà khách du lịch có thể ghé thăm trong chuyến thăm bảo tàng Vatican đều sang trọng, nhưng căn hộ của giáo hoàng thì không. Và Đức Phanxicô cho biết, việc ngài dọn về ở Nhà trọ Thánh Marta là ngài muốn được ở gần mọi người.

Ngay từ đầu triều giáo hoàng, ngài đã tạo xôn xao khi, trong cuộc họp báo trên chuyến bay từ Brazil về Rôma, ngài nói về các linh mục đồng tính. “Nếu ai đó là người đồng tính và họ có thiện tâm đi tìm Chúa thì tôi là ai để phán xét?” Đầu óc nổ tung, mọi người ngạc nhiên! Làm sao một giáo hoàng lại có thể nói như vậy? Những nhà phê bình bảo thủ tỏ ra “bối rối”, nhưng phần còn lại của chúng tôi, chúng tôi nhận ra đây là một mục tử thực sự quan tâm đến việc khuyến khích mọi người hơn là phán xét họ.

Sau đó ngài giảng lễ mỗi ngày ở Nhà nguyện Thánh Marta và Vatican đăng bài giảng tóm tắt. Các bài giảng là nồng ấm, dễ đọc. Có một mức độ dày đặc trong bài giảng của Đức Bênêđictô XVI, nhưng với Đức Phanxicô thì không. Điều đó không có nghĩa các bài giảng của ngài nhẹ nhàng. Nhưng ngược lại nó có một mức độ triệt để. Sở trường của ngài là đi vào trọng tâm vấn đề và vì thế tạo được tiếng vang nơi người ngồi nghe.

Một trong những bài giảng tôi yêu thích là bài giảng ngày 15 tháng 12 năm 2014, khi ngài giảng về các thầy cả chất vấn Chúa Giêsu về thẩm quyền nào mà Chúa Giêsu giảng dạy. Ngài nói về sự quá thận trọng của mỗi thời: “Đây là vở kịch đạo đức giả của dân tộc này. Chúa Giêsu không bao giờ nhân nhượng với trái tim Con Thiên Chúa của mình, nhưng Ngài cởi mở với dân chúng, luôn tìm con đường để giúp họ. Họ: “Nhưng điều này không thể làm được; kỷ luật của chúng tôi, học thuyết của chúng tôi nói rằng điều này không thể làm được! Tại sao các môn đệ của ông ăn lúa trên cánh đồng ngày sa-bát, không thể được!” Kỷ luật của họ quá cứng nhắc: “Không, không được đụng vào kỷ luật, kỷ luật là thiêng liêng.” Ngài thú nhận: “Khi tôi thấy một tín hữu kitô thuộc loại này, với một trái tim mềm yếu, không vững vàng, không bám trên đá là Chúa Giêsu, với sự cứng nhắc bên ngoài của họ như vậy, tôi xin Chúa: ‘Nhưng lạy Chúa, xin xin Chúa để vỏ chuối trước mặt họ, để họ ngã, họ xấu hổ vì mình là kẻ tội lỗi, làm cho họ đi tìm Chúa, nhận ra Chúa là Đấng Cứu Rỗi’. Thường thường tội lỗi làm chúng ta cảm thấy xấu hổ, và làm chúng ta đi tìm Chúa, Đấng tha thứ cho chúng ta, như những người bệnh đã ở đó, họ đến xin Chúa chữa lành.”

Tôi nhớ tôi đã bật cười thành tiếng khi ngồi trước máy tính và đọc đoạn vỏ chuối này!

Đôi khi, phong cách mục vụ của giáo hoàng làm cho những người theo chủ nghĩa tự do cảm thấy khó chịu. Ngay từ đầu triều, rõ ràng ngài thường đề cập đến ma quỷ nhiều hơn là các tiền nhiệm sau công đồng của ngài. Xem sự dữ như một điều gì đó được nhân cách hóa không phải là cách mà hầu hết những người hiện đại nghĩ về sự dữ, nhưng Chúa Giêsu không có cùng đắn đo như vậy. Lòng đạo đức bình dân, đặc biệt là nơi những người thực sự bị gạt ra bên lề luôn có ý tưởng, cái ác hiện diện theo cách gợi ý về một nhân cách hóa mạnh mẽ siêu việt.

Chúng ta không còn thấy ngài ở giữa đám đông như những năm đầu tiên. Đầu gối đau của ngài làm cho ngài đi đứng khó khăn. Nhưng hình ảnh ngài dừng xe giáo hoàng để các cha mẹ bồng con cho ngài ban phép lành, hoặc bước ra khỏi xe để gần gũi thăm hỏi người bị biến dạng nghiêm trọng, những hình ảnh này cho thấy ngài đã dấn thân vào thế giới bằng con mắt của Chúa Giêsu. Khó có thể tìm ra một định nghĩa nào tốt hơn về một mục tử hơn là định nghĩa đó, đến với mọi người bằng con mắt của Chúa Giêsu.

Đức Phanxicô dừng lại để hôn một em bé khi ngài đi trên xe giáo hoàng ở Hội trường Độc lập ngày 26 tháng 9 năm 2015 ở Philadelphia. (CNS/Reuters/Jim Bourg)

Một phẩm chất đáng lưu ý của ngài là ngài chỉ dành những lời cay nghiệt cho những người đạo đức giả và những chiếc áo nhồi bông, hay nói đúng hơn là những chiếc áo chùng nhồi bông. Với dân Chúa, ngài quảng đại và thông cảm. Còn với âm mưu của Giáo triều la-mã thì không.

Sự bất công cũng làm cho ngài nổi giận, nhưng nó không bắt nguồn từ một cam kết cao cả nào để có một trật tự xã hội khác, nhưng từ kinh nghiệm của ngài với tình trạng nghèo đói cùng cực, đầu tiên là ở các khu ổ chuột ở Buenos Aires và bây giờ là ở các khu ổ chuột khác nhau trên toàn thế giới, gần đây nhất là ở châu Phi. Ngài tố cáo kinh tế học tân tự do không phải từ quan điểm kinh tế mà từ quan điểm con người, từ những gì con người làm, chứ không từ các lý thuyết của nó. Ngài hiểu và yêu thương những người bị bỏ rơi bên lề đường sau khi gặp những tên cướp Giêricô tân tự do. Có phải chỉ có tôi nghĩ thế, hay dường như ngài có vẻ thoải mái hơn khi ở nhà giữa những người nghèo cùng cực hơn là ở các buổi lễ chào đón ở sân bay khi xung quanh ngài là những người có quyền lực và các người cầm quyền của họ không?

Trong hầu hết hai thế kỷ qua, các hồng y đã bầu các nhà ngoại giao hoặc các ứng cử viên có kinh nghiệm mục vụ làm giáo hoàng. Trớ trêu thay, các nhà mục vụ như Đức Piô IX và Đức Piô X lại có khuynh hướng phản đối sự thay đổi hơn, và các nhà ngoại giao như Đức Piô VII, Đức Bênêđictô XV và Đức Gioan XXIII lại có khuynh hướng mục vụ hơn. Vào thời chúng ta, Đức Gioan-Phaolô II không phản động, nhưng ngài đưa ra một cách giải thích Công đồng Vatican II bảo thủ hơn so với nhiều giám mục anh em của ngài. Đức Bênêđictô XVI đã ngồi bàn giấy ở Giáo triều 24 năm khi ngài được bầu chọn. Đức Phanxicô, người con của Châu Mỹ Latinh hưởng lợi từ việc lục địa này đón nhận Công đồng Vatican II với quyết tâm không ngừng đặt ra câu hỏi: Lựa chọn ưu tiên cho người nghèo có nghĩa là gì? Cuộc đấu tranh để trả lời câu hỏi đó đã định hình phong cách mục vụ của ngài rất nhiều.

Mục tử. Đó là từ đầu tiên đến trong đầu chúng ta khi chúng ta cố gắng hiểu Đức Phanxicô. Chắc chắn ngài sắc sảo về mặt thần học, nhưng ngài được đào tạo về thần học mục vụ cũng như nghiên cứu về tín lý hoặc đạo đức. Ngài không ngại tiếp xúc với các chính trị gia trên thế giới, nhưng ngài thiếu sự thận trọng của một nhà ngoại giao. Ngài bước vào thế giới với vòng tay rộng mở và thế giới yêu mến ngài vì điều này. Giáo hoàng Phanxicô là cha xứ của thế giới, và phẩm chất này tạo cơ sở và định hình mọi khía cạnh khác trong triều giáo hoàng của ngài.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Sau 10 năm kiên nhẫn, Đức Phanxicô có quyền ít kiên nhẫn hơn

Vì sao Đức Phanxicô xem người Samari nhân hậu là dụ ngôn cho thời đại chúng ta

Vì sao Đức Phanxicô xem người Samari nhân hậu là dụ ngôn cho thời đại chúng ta

Loạt bài kỷ niệm 10 năm triều giáo hoàng của Đức Phanxicô, 13-3-2013 & 13-3-2023


americamagazine.org, Peter Phan Đình Cho, 2023-02-09

Người Samari nhân hậu chăm sóc vết thương cho người lữ hành bị thương” (1647), Balthasar van Cortbemde (Wikimedia Commons)

Giống như các vị tiền nhiệm Bênêđictô XVI và Gioan Phaolô II, Đức Phanxicô thường giới thiệu các chủ đề các bài viết của ngài bằng lối chú giải thiêng liêng về một sự kiện trong sứ vụ của Chúa Giêsu, hoặc trong một bản văn Kinh thánh. Trong các tông huấn Niềm vui Tin mừng Evangelii Gaudium, Querida Amazonia và Thông điệp Chúc tụng Chúa Laudato Si, Đức Phanxicô trích Kinh Thánh nhiều nhưng tản mạn, nhưng ngài tập trung Kinh Thánh vào các bản văn cụ thể trong tông huấn Niềm vui Tình yêu, Amoris Laetitia (Thánh vịnh 129:1-6) và đặc biệt trong Thông điệp Tất cả anh em Fratelli Tutti là Tin Mừng Thánh Luca  10:25-37, ngài trình bày các bản văn này như chủ đề chính trong lời dạy cơ bản về tình yêu trong gia đình và tình bạn trong xã hội của ngài.

Ở đây, tôi muốn xem cách ngài chú giải dụ ngôn về người Samari nhân hậu, “người khách lạ trên đường”. Trong thông điệp Fratelli Tutti, dụ ngôn này là “tia sáng” cho cuộc sống đương đại của chúng ta mà Đức Phanxicô xem đó là nơi có “những đám mây đen bao trùm một thế giới khép kín,” ngài nêu tấm gương người Samari cho tình huynh đệ và tình bạn xã hội, tạo nên nền “văn hóa gặp gỡ” và xây dựng nhịp cầu yêu thương giữa tất cả mọi người (Fratelli Tutti, số 2).

Đức Phanxicô giới thiệu người Samari nhân hậu là gương mẫu của tình huynh đệ và tình bạn xã hội tạo nên “nền văn hóa gặp gỡ” và xây dựng những nhịp cầu yêu thương giữa tất cả mọi người.

Bối cảnh của dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân lành

Thánh Luca kể câu chuyện người Samari nhân hậu trong bối cảnh Chúa Giêsu đi từ Galilê lên Giêrusalem để hoàn thành sứ mệnh Thiên Chúa giao phó. Trong “hành trình” này (9:51-19:27), ngài ghi lại nhiều phép lạ và chỉ dẫn khác nhau của Chúa Giêsu, thường dưới hình thức dụ ngôn. Phúc âm nói về những vấn đề khác liên quan đến đời sống người tín hữu kitô như các hành trình truyền giáo, việc dùng của cải và cầu nguyện. Một sự cố xảy ra trên hành trình đi về Giêrusalem của Chúa Giêsu là cuộc gặp của Ngài với một luật sĩ muốn thử Ngài bằng câu hỏi về điều gì phải làm “để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (10:25).

Tin Mừng Thánh Luca trong đoạn 10:25-37 có hai phần. Phần thứ nhất (10:25-28) có câu hỏi của luật sĩ làm sao để có sự sống đời đời, câu hỏi ngược lại của Chúa Giêsu là trong Kinh Torah dạy gì về vấn đề này, câu trả lời của luật sĩ trích dẫn hai điều răn về tình yêu cho Chúa và cho người anh em, trong Đệ Nhị Luật 6:5 và trong sách Lêvi 19:18, Chúa Giêsu công nhận luật sĩ đã trả lời đúng. Ngụ ý trong phần đầu tiên này là sự xác định định của Chúa Giêsu về tính hợp lệ của Kinh Torah và khả năng dẫn đến sự cứu rỗi của nó.

Phần thứ hai (10:29-37) có thêm câu hỏi của luật sĩ về ai là người anh em, câu trả lời của Chúa Giêsu qua dụ ngôn người lữ hành từ Giêrusalem đi xuống Giêricô, bị cướp và sau đó được người Samari nhân hậu chăm sóc. Qua đó Chúa Giêsu hỏi người luật sĩ ai là người anh em của người lữ hành bị thương, người luật sĩ trả lời và Chúa Giêsu nhân đó khuyên nên bắt chước hành vi của người Samari nhân hậu. Bài chú giải của Đức Phanxicô về dụ ngôn này đặt trong bối cảnh rộng lớn hơn về các mối quan hệ của con người nói chung, mà ngài gọi là “tình huynh đệ” và “tình bạn xã hội”.

Về tình yêu với người khách lạ, Đức Phanxicô nhắc trong Kinh thánh Do Thái, nền tảng tình yêu này là ký ức của người Do Thái, vì chính họ đã từng là người khách lạ ở Ai Cập.

Để mở đầu lời chú giải, Đức Phanxicô trích câu hỏi Chúa hỏi Ca-in em trai Abel của ông ở đâu, Ca-in trả lời: “Con không biết. Con là người giữ em con sao?” (St 4: 9). Đức Phanxicô lập luận, chính câu hỏi của Chúa không dành chỗ cho sự thờ ơ về mặt đạo đức trước đau khổ của người anh em, nhưng thay vào đó “khuyến khích chúng ta tạo một văn hóa khác, trong đó chúng ta giải quyết những xung đột của mình và quan tâm đến nhau” (“Fratelli Tutti,” số 57). Ngài tiếp tục trích dẫn lời khẳng định của ông Gióp về một số quyền chung của chúng ta, xuất phát từ việc chúng ta được tạo dựng bởi một Thiên Chúa duy nhất, và đó là nền tảng của tình huynh đệ và tình bạn xã hội của chúng ta (G 31:15). Để nhấn mạnh sự hiệp nhất này, ngài nhắc lại ẩn dụ của Thánh Irenaeus, nhân loại như một giai điệu của những nốt nhạc khác nhau, trong đó mỗi người không được xem mình tách biệt với người khác mà là một phần của toàn bộ giai điệu (số 58).

Ngài lưu ý trong các truyền thống Do thái sơ khai, nghĩa vụ yêu thương và chăm sóc người khác chỉ giới hạn cho đồng bào Do thái, nhưng sau đó được mở rộng ra để bao gồm tất cả mọi người, theo gương lòng trắc ẩn của Thiên Chúa với mọi sinh vật (số 59). Trong Tân Ước, công thức tiêu cực trong sách Talmudic của giáo sĩ Hillel về mệnh lệnh “Đừng làm cho người khác những gì mình không muốn họ làm cho mình” đã được biến thành một mệnh lệnh tích cực: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7:12). Đức Phanxicô bình luận: “Mệnh lệnh này mang phạm vi phổ quát, bao gồm tất cả mọi người trên bình diện nhân loại, vì Đấng ngự trên trời làm cho mặt trời mọc trên kẻ xấu cũng như trên người tốt” (Mt 5:45) (số 60).

Về tình yêu với người khách lạ, Đức Phanxicô nhắc trong Kinh thánh Do Thái, nền tảng tình yêu này là ký ức của người Do Thái, vì chính họ đã từng là người khách lạ ở Ai Cập.  (Xh 23:9). Theo Đức Phanxicô, tình yêu không nệ ở chỗ anh chị em túng thiếu đến từ đâu” (số 62).

Theo ngài, một người anh em thật sự phải hành động về mặt xã hội và ngay cả về mặt chính trị. Cùng nhau, người anh em phải “tham dự tích cực vào việc đổi mới và hỗ trợ cho các xã hội đang gặp khó khăn của chúng ta.”

Những người qua đường và người lữ hành bị bỏ rơi

Trong bài chú giải dụ ngôn người Samari nhân hậu, Đức Phanxicô mô tả các nhân vật của câu chuyện: những tên cướp, ba người qua đường và nạn nhân bị thương. Ngày nay, kẻ cướp không chỉ là những cá nhân xấu nhưng còn gồm cả “bóng tối của thờ ơ, của bạo lực phục vụ cho tư lợi, cho lợi ích, cho chia rẽ nhỏ nhen” (số 72). Hai người qua đường phớt lờ người lữ hành bị thương, họ tránh qua bên kia đường, đó là những người theo đạo, đại diện trong câu chuyện này là các thầy tư tế và thầy Lêvi, những người nghĩ rằng họ gần gũi với Chúa ngay cả khi họ bỏ rơi những người khốn khổ.

Nạn nhân bị tổn thương ngày nay không chỉ là nạn nhân của cướp bóc và bạo lực thể xác mà tất cả những ai trong xã hội toàn cầu hóa “bất lực vì các thể chế của chúng ta bỏ mặc họ, thiếu nguồn lực, hoặc chỉ phục vụ lợi ích của một số ít người, bên ngoài và bên trong” (số 76).

Để hiểu đầy đủ tính chất cách mạng của dụ ngôn này, chúng ta cần lưu ý bối cảnh đằng sau câu hỏi của luật sĩ về “người anh em” mà Kinh thánh tiếng Hê-bơ-rơ dạy phải yêu như mình vậy. Câu hỏi bắt nguồn từ những cuộc tranh luận vào thời Chúa Giêsu về việc ai thuộc dân Israel, dân Thiên Chúa, và từ đó mới là đối tượng của tình yêu tha nhân.

Khi Chúa Giêsu trả lời câu hỏi của luật sĩ, Ngài đã phá vỡ khuôn khổ thần học và pháp lý của nó. Ngài đặt câu hỏi ngược lại cho luật sĩ: “Theo ông, ai trong ba người này là người anh em của người bị rơi vào tay kẻ cướp?” (Lc 10:36). Chúa Giêsu lật ngược câu hỏi của luật sĩ, đừng hỏi ai là người thuộc về dân Chúa – để từ đó mới là đối tượng cho tình yêu người anh em – nhưng hãy hỏi về cách cư xử của những người được Chúa chọn.

Điều mang tính lật đổ hơn nữa – và gây khó chịu cho những người Do thái ngoan đạo – là Chúa Giêsu xem cách cư xử của người Samari là gương mẫu tình yêu thương cho người anh em, hoặc (theo cách nói yêu thích của Đức Phanxicô) là “tình huynh đệ” và “tình bạn xã hội” với người Do thái. Như Đức Phanxicô đã lưu ý sau đó (số 82), người Do thái không đếm xỉa đến người Samari, xem họ là người lai chủng tộc, “không trong sạch, đáng ghê tởm, nguy hiểm”, giữ đạo nửa vời, nửa ngoại giáo, ít chính thống. Trong khi người Do thái cho rằng núi Si-on ở Giêrusalem là nơi thờ phượng chính thống, thì người Samari tin Chúa chọn núi Ga-ri-xim, gần Si-chem. Đức Phanxicô nêu bật Chúa Giêsu đã vặn lại: “Nghịch lý thay, những người tự cho mình là người không tin đôi khi lại thực hành ý Chúa tốt hơn người tin” (số 74).

Chúa Giêsu có đủ mọi lý do để lên án và trừng phạt người Samari, nhưng Ngài xem người Samari là anh hùng của tình bạn xã hội. 

Người Samari là người anh em không biên giới

Đức Phanxicô không xem hành vi tốt lành của người Samari đơn giản là hành vi bác ái riêng tư. Trước câu hỏi ngược lại của Chúa Giêsu về việc ai là người anh em thực sự của nạn nhân bị cướp, là người Do thái, luật sĩ trả lời: “Người tỏ lòng thương xót” (Lc 10:37). Thánh Luca không ghi lại câu trả lời của Chúa Giêsu cho luật sĩ lần này để ghi nhận tính đúng đắn của câu trả lời như ngài đã kể trong phần đầu câu chuyện khi trả lời câu hỏi làm thế nào để được cứu rỗi. Chúa Giêsu chỉ nói: “Hãy đi và làm theo như vậy”. Niềm tin chân chính (chính thống) phải được chuyển thành hành động chân chính (orthopraxis).

Theo Đức Phanxicô, một người anh em thật sự phải hành động về mặt xã hội và cả về mặt chính trị. Cùng nhau, người anh em phải “tham dự tích cực vào việc đổi mới và hỗ trợ cho các xã hội đang gặp khó khăn của chúng ta (số 77). Hành động này bắt đầu từ một ước muốn giản dị: “Chúng ta chỉ cần một ước muốn trong sáng và giản dị là trở thành một dân tộc, một cộng đồng, liên lỉ và không mệt mỏi trong nỗ lực không loại trừ, hội nhập và nâng đỡ những người bị gạt ra bên lề” (số 77). Đức Phanxicô nói, chúng ta có thể bắt đầu “từ bên dưới, từng trường hợp một, hành động ở cấp địa phương và cụ thể nhất, sau đó mở rộng đến những vùng xa nhất của các quốc gia và thế giới của chúng ta” (số 77). Hành động yêu thương người anh em của người Samari làm gương cho người chủ quán trọ, ông cũng hành động như vậy; vì thế hành động này mở rộng ngày càng càng xa hơn, tạo hiệu ứng kéo theo.

Đức Phanxicô gọi động lực tình yêu tha nhân này là “văn hóa gặp gỡ”, mà mẫu mực là người Samari. Trong văn hóa này, tất cả là “người anh em không biên giới”. Như Đức Phanxicô viết, “Chúa Giêsu xin chúng ta đừng quyết định ai đủ thân cận để là người thân cận của mình, nhưng chính chúng ta hãy là người thân cận của mọi người” (số 80).

Hãy lưu ý, sẽ có một khúc quanh kỳ lạ trong luận lý của dụ ngôn người Samari nhân hậu. Sẽ hợp lý hơn nếu Chúa Giêsu trả lời câu hỏi của luật sĩ về việc ai là người anh em của chúng ta khi Ngài để người Samari là nạn nhân của vụ cướp và người Do thái là người chăm sóc quảng đại. Nếu thế, người Do thái vốn coi thường và ghét bỏ người Samari, sẽ học để thành người anh em của người Samari, thể hiện tình huynh đệ và tình bạn xã hội với họ.

Nhưng Chúa Giêsu sẽ sai khi để người Do thái là nạn nhân và người Samari là người chăm sóc quảng đại. Người Samari, nạn nhân của kỳ thị sắc tộc và tôn giáo, có đủ mọi lý do để phớt lờ người Do thái, như thầy tế lễ và thầy Lêvi đã làm. Tuy nhiên, ông biết quan tâm và vì thế ông là gương mẫu của nền văn hóa gặp gỡ. Người Samari “thách thức chúng ta gạt bỏ mọi dị biệt sang một bên và, trước đau khổ, đến gần người khác mà không thắc mắc” (số 81).

Hơn nữa, Thánh Luca làm cho chân dung của Chúa Giêsu về người Samari như mẫu mực của tình bạn và lòng hiếu khách càng nổi bật hơn khi đưa dụ ngôn này vào Phúc âm của ngài ngay sau câu chuyện về một làng Samari từ chối đón Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài (9:51-56). Vì sự thù nghịch và thiếu hiếu khách của người Samari, hai tông đồ Giacôbê và Gioan đã hỏi Chúa Giêsu xem ngài có muốn ra lệnh cho lửa từ trời xuống thiêu đốt họ không. Thánh Luca kể, Chúa Giêsu đã quay lại quở trách họ.

Chúa Giêsu, nạn nhân đầu tiên của sự thù nghịch của người Samari, trở thành chính người Samari nhân hậu, hiện thân thiêng liêng của lòng thương xót. Ngài có đủ mọi lý do để lên án và trừng phạt người Samari, nhưng Ngài xem người Samari là anh hùng của tình bạn xã hội. Đó thực sự là điều kỳ diệu bất ngờ của nền văn hóa gặp gỡ: biến nạn nhân của bất công thành người bảo vệ những kẻ bách hại họ.

Linh mục Peter Phan Đình Cho là chủ tịch Ignacio Ellacuría về Tư tưởng Xã hội Công giáo thuộc khoa thần học và nghiên cứu tôn giáo tại Đại học Georgetown, ở Washington, D.C

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Ukraine đây là kế hoạch hòa bình đã được giáo hoàng ký và sẽ được công bố ở Nga. Leonid Sevastianov: “Một nỗ lực cực độ để ngăn chặn sự trệch hướng này”

Ukraine đây là kế hoạch hòa bình đã được giáo hoàng ký và sẽ được công bố ở Nga. Leonid Sevastianov: “Một nỗ lực cực độ để ngăn chặn sự trệch hướng này”

Svetlan Kasyan và Leonid Sevastianov cùng với Đức Phanxicô | Vatican Media

Ông Leonid Sevastianov, chủ tịch Liên minh Thế giới các Tín hữu cổ tuyên bố: “Một nỗ lực cực độ để ngăn chặn sự trệch hướng này.”

ilmessaggero.it, Franca Giansoldati, 2023-03-01

Chúng tôi đã liên lạc được với ông Leonid Sevastianov ở Matxcova qua điện thoại, ông sống ở đây cùng vợ và hai con. Trong những ngày gần đây, người ta nói nhiều về một kế hoạch hòa bình cho Ukraine mà Đức Phanxicô đã ủy thác cho ông để phổ biến ở Nga.

Ông là người quản trị và cũng là chủ tịch Liên minh Thế giới các Tín hữu cổ. Ông được cho là người thân cận với giáo hoàng và đồng thời với Điện Kremlin. Điều gì là sự thật?

Leonid Sevastianov. Tôi xác nhận với bà, dự án hòa bình mà Đức Phanxicô ủy thác cho tôi để phổ biến rộng rãi nhất có thể cho người dân Nga: gồm năm điểm và dĩ nhiên được ngài ký, tôi có một thời gian quan hệ thường xuyên với ngài. Một tình bạn gắn bó: đối với tôi, ngài như người cha tinh thần dù tôi theo chính thống giáo. Tuy nhiên, tôi muốn làm rõ, việc tôi thân với Điện Kremlin và Putin là không đúng. Dĩ nhiên họ nổi tiếng nhưng tôi không còn quan hệ với họ nữa. Tháng trước tôi được mời đến hạ viện Quốc hội nhưng tôi từ chối đi qua ngưỡng cửa này. Khi tôi phát biểu qua các phương tiện truyền thông với tư cách là người đứng đầu Liên minh Thế giới các Tín hữu cổ, tôi có tiếng nói lớn.

Như vậy ông không còn liên lạc với thượng phụ Kyrill nữa?

 Chính xác. Đối với tôi, điều quan trọng là phải cổ động thực tế, các Tín hữu cổ có lịch sử song song với lịch sử của Tổ phụ nhưng đã phát triển trên các giá trị khác nhau. Ở một khía cạnh nào đó, có thể mô tả đây là một hiện thực của văn hóa Nga nhưng mang những giá trị dân chủ, gần gũi hơn với châu Âu. Các tín hữu cổ gần với phương Tây hơn. Trong khuôn khổ này, dĩ nhiên tôi cố gắng làm mọi thứ có thể, trong giới hạn khả năng của tôi để thúc đẩy hòa bình. Cuộc chiến này thật khủng khiếp cho nhiều người trong chúng ta. Chúng ta nên phân biệt người dân Nga với chính phủ. Họ là hai thực thể khác nhau. Đặc biệt là trong lịch sử Nga.

Dự án hòa bình Đức Phanxicô ủy thác cho ông gồm những gì?

Chung chung đó là một dự án không quá mang tính chất chính trị. Nó không đề cập đến vấn đề quân sự. Nó dựa trên suy nghĩ thiêng liêng. Người ta nói hòa bình không tồn tại nếu không có công lý, rằng các thỏa thuận đạt được từ từ, nhưng trước tiên các bên phải ngồi vào bàn để thảo luận. Rằng nếu không có xen kẽ, người ta trượt vào một vòng xoáy mà từ đó không có đường quay lại. Tất nhiên, kế hoạch không đi vào chi tiết quân sự hay chính trị vì chắc chắn đó không phải là nhiệm vụ của giáo hoàng, mà là của các nhà lãnh đạo chính phủ. Đây là một nỗ lực cực độ để ngăn chặn sự trệch hường này.

Trung Quốc và Nga, nguy cơ vũ khí từ Ukraine đến Đài Loan: đây là những gì mà hợp đồng giữa Matxcova và Bắc Kinh nói.

Tôi xin lỗi, nhưng ở đây chúng ta đang phải đối diện với cuộc chiến tranh xâm lược, Nga tấn công và chiếm đóng các lãnh thổ của Ukraine…

Trước hết chúng ta phải ngồi vào bàn và sau đó thỏa thuận sẽ đến. Chính người Ukraine sẽ quyết định điều gì phù hợp với họ. Dự án của giáo hoàng phải được phổ biến rộng rãi nhất có thể với người dân Nga để hình thành và thông tin cho dư luận. Tôi không muốn đến điện Kremlin vì mục tiêu của chúng tôi là thu hút người dân và càng nhiều người biết về nó, thì quyền lực chính trị sẽ không thể cho rằng không có ý kiến phản đối chiến tranh của người dân. Điện Kremlin sẽ không thể từ chối trả lời. Người Trung Quốc đã có một kế hoạch chính trị, giáo hoàng có một kế hoạch tâm linh. Đức Phanxicô liên tục lặp lại, không có một chiến thắng quân sự nào trên thực địa  tạo ra hòa bình lâu dài trong lịch sử.

Ông có nghĩ Đức Phanxicô sẽ có vị trí để hành động cho vai trò trung gian hòa giải, dù trong những tháng gần đây, nhiều người ở Ukraine và ở Nga đã chỉ trích ngài không?

Ở Nga, Đức Phanxicô được xem trọng, ngài có thẩm quyền và đã có một thay đổi lớn trong hình ảnh về giáo hoàng. Hình ảnh này ngày xưa chủ yếu là biểu tượng của phương Tây. Bây giờ hình ảnh này biểu tượng cho đối thoại. Ngài là nhân vật tâm linh. Ngài không làm phép cho vũ khí. Ngài cố gắng là người điều hành và hòa giải. Đó là sức mạnh của ngài dù điều này trở với nhiều người là rất khó chấp nhận. Ngài phải trung lập như Chúa Giêsu.

Vậy, các bước nào ông đang thực hiện ở Nga để công khai kế hoạch đã được thống nhất với Đức Phanxicô?

Tất nhiên tôi luôn kiểm tra với ngài trước. Điều quan trọng là ngăn chặn cuộc chiến và tìm một tia sáng cho cơn ác mộng huynh đệ tương tàn này. Khi chiến tranh bắt đầu, trong những ngày sau đó, tôi đã nói với ngài, đây là một điều gì rất thảm khốc. Ngài nhắc lại với tôi, ngài sẵn sàng làm bất cứ điều gì để mang lại hòa bình. Ngài cho phép tôi để tôi có thể thay mặt ngài nói chuyện ở Nga, về những điều đã được thỏa thuận trước.

 Ông không sợ bị kết thúc như nhà báo Anna Politovsky bị sát hại năm 2006 ư?

Đây là thời kỳ đen tối. Mới đầu tôi đã nghĩ đến việc cùng gia đình trốn khỏi Matxcova, đi nơi khác, nhưng làm sao tôi có thể đi được: lương tâm tôi không cho phép. Tôi không giấu với bà, tình huống hơi nguy hiểm, thỉnh thoảng tôi nhận những lời đe dọa. Bây giờ tôi cũng đang bị điều tra. Ở lại đây tôi có nhiều nguy cơ, dĩ nhiên tôi biết, nhưng bây giờ, với những gì tôi thấy và với mối nguy hiểm vũ khí hạt nhân đang rình rập, tôi nghĩ tốt hơn là chết cho một chính nghĩa. Nhiều người chết ở Ukraine và nhiều người cũng đã chết ở Nga. Kể từ khi chiến tranh bắt đầu, tôi có một cách nhìn khác với nỗi sợ hãi, nhưng không có giá trị nào lớn hơn giá trị của tình yêu. Đối với tôi đó là một việc tốt. Tôi cố gắng theo cách nhỏ bé của tôi để có một tầm nhìn toàn diện và công bằng hơn về thế giới.

Và Vatican phải làm gì với tất cả những điều này?

Tôi tin chắc Vatican phải trở thành một diễn đàn đối thoại giữa các dân tộc và các nền văn hóa. Đó là một thành phố trung lập, hướng về thiêng liêng. Tôi hy vọng sau cuộc chiến này, Rôma sẽ trở thành thành phố của hòa bình.

Một dự án đầy tham vọng…

Chúng ta cần nhìn về các chân trời bằng con mắt mới nếu không chúng ta sẽ không thoát ra khỏi vũng lầy này.

Ông nghĩ gì ngày 24 tháng 2 năm ngoái khi Nga xâm chiếm Ukraine?

Hầu hết mọi người, kể cả tôi, đều cảm thấy đau khổ và chán nản, và tâm trạng này lớn dần với thời gian. Ban đầu tôi không tin vào chiến tranh, tôi nghĩ sẽ không bao giờ có chiến tranh. Tôi đã mất một phần lớn tài sản vì trước tháng 2, khi thị trường chứng khoán bắt đầu xuống, tôi đã mua nhiều cổ phiếu với hy vọng nó sẽ tăng trở lại. Tôi đã làm vì tôi nghĩ sẽ không có xung đột. Và vì thế, những gì đã xảy ra, kể cả về mặt kinh tế, đã tác động mạnh đến tôi.

Có rất nhiều tuyên truyền ở Nga, làm thế nào ông có thể nghĩ đến việc truyền bá kế hoạch hòa bình của giáo hoàng cho người dân?

Tuyên truyền thì có trên truyền hình, nhưng bên ngoài thì không. Ở Mátxcơva, mọi thứ vẫn tiếp tục hoạt động như trước, giá cả đã tăng lên, nhưng chúng tôi biết nguy hiểm của vũ khí hạt nhân vẫn ở đó và đó là điều xấu nhất có thể xảy ra. Chúng ta phải dừng lại trước khi quá muộn. Một hòa bình xấu vẫn tốt hơn chiến tranh hạt nhân. Giáo hoàng có một giá trị lớn trong việc lập kế hoạch cho hòa bình. Kế hoạch phải được phổ biến cho người dân, chúng ta cần hành động từ bên dưới, từ cơ sở.

Ông đã gặp giáo hoàng như thế nào?

Tôi đã cộng tác lâu dài với Tòa Thượng Phụ, với Sở Ngoại Vụ.  Năm 2010, chúng tôi tổ chức một buổi hòa nhạc tại Vatican để vinh danh Đức Bênêđictô XVI và năm 2013 cho hòa bình ở Syria. Đó là vào tháng 11, Đức Phanxicô đã không đến buổi hòa nhạc của vợ tôi hát, nhưng ngày hôm sau, ngài đích thân mời chúng tôi đến dự thánh lễ buổi sáng. Kể từ đó, mỗi lần đến Rôma, chúng tôi đều đến thăm ngài và mối quan hệ ngày càng khắng khít, cho đến khi nó trở thành mốc thiêng liêng của tôi. Tôi là người chính thống giáo nhưng những trao đổi giữa tôi với ngài là nguồn suy tư vô hạn và sự tăng trưởng của con người. Tôi đặt tên cho đứa con trai út của tôi là Phanxicô, như tên của ngài.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm:Leonid Sevastyanov: “Đức Phanxicô muốn chúng tôi là những đại sứ của hòa bình”

Đức Phanxicô nói với nhà đối thoại người Nga Leonid Sebastianov: “Chúng ta cùng làm việc cho hòa bình”

 

Có một phong trào tỉnh thức mới bắt đầu ở Hoa Kỳ?

Có một phong trào tỉnh thức mới bắt đầu ở Hoa Kỳ?

Trong 15 ngày, hàng chục ngàn sinh viên thay phiên nhau 24/24 để cầu nguyện và ngợi khen Chúa tại Đại học Asbury ở bang Kentucky. Một hiện tượng tự phát và dường như đang lan sang các trường đại học khác. Với nhiều người, đây là một “hồi sinh mới” đang diễn ra.

lavie.fr, Henrik Lindell, 2023-02-24

Các sinh viên hướng dẫn buổi thờ phượng tại nhà nguyện Hughes trong khuôn viên Đại học Asbury ở Wilmore, Kentucky ngày 17 tháng 2 năm 2023. Trong hai tuần, hơn 50.000 sinh viên đã đến một nhà nguyện nhỏ ở đây để sống kinh nghiệm thức tỉnh thiêng liêng vĩ đại đầu tiên của quốc gia trong nhiều thập kỷ – một sự thức tỉnh do thế hệ Z lãnh đạo. JESSE BARBER/NYT-REDUX-REA

Một sự kiện tâm linh đáng kinh ngạc vừa diễn ra trong 15 ngày ở  bang Kentucky, Mỹ đã lan khắp hành tinh nhờ mạng xã hội. Nhắc lại các sự kiện. Tất cả bắt đầu ngày 8 tháng 2 với giây phút cầu nguyện bình thường ở Thính phòng Hughes của đại học tin lành Asbury. Như mỗi thứ tư, lúc 10 giờ sáng, các sinh viên tụ tập để có buổi đọc Tin Mừng. Mục sư truyền giáo Zach Meerkreebs, cũng là huấn luyện viên bóng đá, tiếp tục loạt bài giảng chủ đề “tình yêu trong hành động”, dựa trên thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma, 12, 9-21.

Một bài giảng “thật nghèo nàn”

Sau đó, mục sư thấy việc rao giảng của mình thật “nghèo nàn” và chẳng có tác động gì. Nhưng thật ra qua đoạn video dài 25 phút, bài giảng của mục sư rất mạnh và mang tính cá nhân. Ngài nhấn mạnh đến vai trò tình yêu Chúa Kitô trong đời sống của tín hữu, ngược với một “tình yêu đạo đức giả, ô uế, ích kỷ” của thời buổi này.

Mục sư cũng nói về thảm kịch mà các nạn nhân bị lạm dụng trong cộng đồng đã trải qua. Mục sư cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, có những người ở đây đã sống một tình yêu đạo đức giả trong Giáo hội này. Xin Chúa Thánh Thần đi qua hàng ngũ chúng con và làm cho nó biến mất. Lạy Chúa Giêsu, xin chữa lành cho họ. Họ xin được chữa lành. Xin cho họ sống kinh nghiệm tình yêu của Chúa. Lạy Chúa Thánh Thần, con xin Chúa sinh hoa trái. Xin hồi sinh chúng con với tình yêu của Chúa.”

Như thường lệ, cuối buổi thờ phượng, ca đoàn hát bài hát kết thúc. Nhưng có 18 sinh viên ở lại. Được nhóm thờ phượng hỗ trợ, họ tiếp tục cầu nguyện, ca hát, một số quỳ xuống. Mục sư Zach Meerkreebs ở lại để đồng hành với họ, ông bỏ một cuộc hẹn. Khoảng giữa trưa có một nhóm người trẻ khác đến tham gia, họ ngạc nhiên thấy có “người có mặt” trong thính phòng, còn được gọi là “nhà nguyện”.

“Tỉnh thức đã đến với chúng ta!”

Khoảng một giờ trưa, có một số sinh viên ra ngoài loan tin. “Tỉnh thức đã đến với chúng ta! Hãy đến nhà nguyện!” Họ la hét, họ đi từng lớp học đập cửa. Theo một số giáo sư cho biết, lập tức các sinh viên đứng dậy để xem chuyện gì xảy ra. Các giáo sư cũng tham gia với sinh viên.

Thomas H. McCall, giáo sư thần học của chủng viện Asbury viết trong tạp chí Christian Today (bản tiếng Pháp): “Khi tôi đến, tôi thấy hàng trăm sinh viên đang hát. Họ thành tâm ca ngợi và cầu nguyện cho chính họ, cho người anh em và cho thế giới chúng ta, họ ăn năn hối cải tội lỗi, họ xin chữa lành, xin được trọn vẹn, hòa bình và công lý.”

Chẳng mấy chốc, tất cả 1.500 chỗ trong thính phòng đầy sinh viên

Hai tuần sau, ngày 22 tháng 2, nhà nguyện vẫn còn đầy sinh viên nhưng cũng có các người khác. Trong mười lăm ngày, hàng vạn người già và trẻ (theo ban quản lý trường có khoảng 50.000 người tham dự) đã thay phiên nhau 24/24 cầu nguyện và ngợi khen Chúa. Tin tức về một “sự sống lại” lan truyền trên mạng xã hội, thu hút sinh viên từ các cơ sở tin lành khác. Chẳng mấy chốc, các tín hữu khắp nơi trên nước Mỹ và có cả người từ nước ngoài bắt đầu đổ xô đến đại học Asbury, họ tràn ngập thị trấn nhỏ Wilmore. Nhờ phát trực tiếp (live streaming) và vô số statut đăng trên mạng xã hội nên có cả hàng triệu người trên thế giới cùng tham gia.

Tình hình trở nên không thể giải quyết được về mặt tổ chức, cảnh sát không còn khả năng quản lý giao thông, cuối cùng ban quản lý nhà trường chấm dứt tình trạng tụ tập tự phát này. Thính phòng Hughes vẫn mở cửa cho đến ngày 23 tháng 2, ngày cầu nguyện trên toàn quốc cho sinh viên được tổ chức. Các lớp học trở lại ngày hôm đó. Nhưng ở những nơi khác trên nước Mỹ, hiện tượng thờ phượng vẫn còn kéo dài trong nhiều ngày ở hàng chục khuôn viên đại học khác, theo mẫu của Asbury.

“Phong trào này chưa kết thúc”

Giáo sư Kevin Brown giám đốc nhà trường cho biết, dù sinh hoạt đã bình thường ở đại học Asbury, nhưng phong trào chưa thực sự chấm dứt. Trong một tuyên bố ngày 21 tháng 2, ông viết: “Dù chúng tôi chọn từ nào để mô tả những gì chúng tôi đã thấy và trải qua trong những tuần vừa qua (hồi sinh, đổi mới, thức tỉnh hay tuôn trào), thì phong trào này vẫn chưa kết thúc. Các trường đại học và các nhà thờ khác đang thử nghiệm những buổi nhóm tương tự. Chúng tôi khuyến khích một phong trào liên tục đến với Chúa qua những người, những nơi và các sứ vụ khác.”

Đây có thực sự là một phong trào thức tỉnh không?

Vậy chuyện gì đã xảy ra ở Kentucky? Và những gì đang xảy ra bây giờ trên các khuôn viên đại học hác? Từ ngữ nào để dùng, ngoài sự đổi mới rõ ràng về đức tin của những người tham gia? Vì  thuận tiện hoặc làm theo phản xạ, nhiều nhà quan sát dùng từ ngữ “tỉnh thức” hoặc “phong trào tỉnh thức”, từ ngữ này thường gặp trong lịch sử đạo tin lành.

Từ ngữ này có thể làm liên tưởng đến các phong trào kitô giáo phổ biến đã thay đổi bối cảnh tôn giáo, thậm chí cả xã hội nói chung. Sinh ra ở Âu châu vào thế kỷ 16 sau cuộc Cải cách, các phong trào đã đóng một vai trò đáng kể ở cả Lục địa già và Hoa Kỳ từ giữa thế kỷ 18 cho đến ngày nay. Ông Raymond Pfister, nhà thần học người Pháp chuyên về thuyết Ngũ tuần và là giáo sư thần học tại Đại học Kinh thánh Trinity, nhớ lại: “Trong số các tác động trung hạn hoặc dài hạn mà chúng ta thấy, các phong trào này đổi mới các Giáo hội, nhưng cũng có thể dẫn đến sự chia rẽ và thành lập các cộng đồng mới.”

Asbury, một trường đại học đã chứng kiến sự hồi sinh

Asbury tiêu biểu cho một trong những nhánh lớn của đạo tin lành, của giáo phái mêthôđista, sinh ra từ sự ly giáo trong Giáo hội anh giáo ở thế kỷ 18 sau khi nhà thuyết giáo người anh John Wesley bắt đầu tổ chức “các cuộc họp phục hưng” thu hút một đám đông khổng lồ, nhấn mạnh đức tin cá nhân và nhu cầu cam kết xã hội.

Đại học Asbury có nguồn gốc của giáo phái mêthôđista và đã trải qua một số thời điểm “tỉnh thức” hoặc “sống lại”, (các từ ngữ thường được dùng thay thế cho nhau) kể từ khi thành lập vào năm 1890. Cuộc tập hợp lớn cuối cùng của phong trào này bắt đầu từ những năm 1970, khi các sinh viên tự động thay phiên nhau cầu nguyện không ngừng trong sáu ngày tại Thính phòng Hughes. Sự kiện này rõ ràng gợi lên sự kiện mà chúng ta vừa thấy năm nay. Nhưng năm nay dài hơn, tác dụng của nó có thể kéo dài hơn. Một cách tổng quát hơn, chúng ta phải tính đến nền văn hóa “tỉnh thức” hoặc “sống lại” hiện có ở Mỹ.

Chúa Thánh Thần tuôn trào

Tại đại học Asbury năm nay, từ được sử dụng thường xuyên nhất là “tuôn trào”. Chúng ta thường nghe từ này trong giới Ngũ tuần. Với người Pháp, từ này gợi lên thành ngữ “ơn Chúa Thánh Thần tuôn trào”, nổi tiếng trong phong trào Canh tân đặc sủng. Nhưng cuộc tụ tập này không thể xem là của giáo phái “Ngũ tuần” hay “canh tân” theo nghĩa thông thường.

Không ai nghi ngờ về tác động của Chúa Thánh Thần, nhưng cách những người trẻ tuổi cầu nguyện và thờ phượng Chúa ở Kentucky, thường quỳ trước bàn thờ hoặc sấp mình, theo những người chứng kiến kể hoặc qua các video trực tuyến, làm chúng ta liên tưởng đến các buổi cầu nguyện Taizé, các buổi này hướng người tham dự hướng nội, hơn là các cuộc họp của giáo phái Ngũ tuần, họ thường nói tiếng lạ và có các biểu hiện ngoạn mục hoặc siêu nhiên khác.

Ở Thính phòng Hughes, ban tổ chức xin những người bắt đầu ồn ào nói tiếng lạ giữ yên tĩnh. Cũng vậy, các người có trách nhiệm của trường đại học đã cẩn thận để tránh bất kỳ sự xâm chiếm nào của những nhà thuyết giáo nổi tiếng từ nơi khác đến và sự ủng hộ của những cá nhân có diễn từ chính trị gây chia rẽ. Một cách hệ thống, họ luôn nhắc các diễn giả không đặt mình lên trên mà phải quy chiếu về Chúa Giêsu, Đấng là trọng tâm.

Trên thực tế, không có ngôi sao truyền giáo nào được đặt lên cao ở Asbury. Và những người đến cách riêng tư cũng không được nhắc đến  như ca sĩ Kari Jobe. Cũng cần lưu ý, cuộc tụ họp dường như khơi dậy sự đồng lòng và đón nhận thuận lợi của tất cả các Giáo hội lớn và ngay cả các giới chính trị, tả cũng như hữu.

Khiêm tốn, thánh thiện, hiếu khách…

Theo nhà thần học Jennifer Miskov, người chuyên nghiên cứu về lịch sử của “thuyết sống lại”, các người tham dự gần như không đặt cho mình mục tiêu nào khác hơn ngoài mục tiêu đến gần Chúa. Có mặt tại chỗ khi bắt đầu sự kiện, bà ấn tượng qua bốn khía cạnh khác biệt bà tóm tắt như sau: “khiêm tốn”, điều dễ thấy trong các buổi tụ tập nếu không có quảng cáo cho kitô giáo; “thánh thiện”, trong tinh thần xem nhà nguyện là không gian thiêng liêng; “hiếu khách” qua tinh thần đón tiếp niềm nở và phục vụ; “Chúa Thánh Thần” có cơ hội làm việc trong lòng mỗi người. Cuối cùng, chắc chắn sự kiện này gợi lên và ít nhất là điều mà một số giáo sư đại học thích gọi, đó là “đổi mới”.

“Một trải nghiệm bất ngờ về Chúa”

Trên thực tế, ít các chuyên gia nào dám quyết định, ngay cả dùng một tính từ nào để nói trong giai đoạn này. Sự thận trọng tương đối này càng phù hợp hơn vì đây cũng là vấn đề đánh giá khả năng can thiệp của Chúa. Ông Raymond Pfister nhận xét: “Chúng ta đang nói về tỉnh thức hay sống lại. Trên thực tế, đây là trải nghiệm bất ngờ của Thiên Chúa. Không có mô hình để làm theo, đặc biệt là vì không có gì được sắp xếp. Về các tác động, chúng chỉ có thể được đánh giá rất lâu sau này.” Với tư cách là người quan sát, ông cũng nói lên khó khăn trong việc phân tích tác động của một sự kiện được biết đến trên toàn thế giới nhờ phát trực tiếp: “Chắc chắn, đây là lần đầu tiên chúng tôi trải nghiệm sự thức tỉnh trực tiếp, nhưng từ xa.”

Theo nhà thần học, một yếu tố khác cũng cần phải tính đến: tầm quan trọng của sự việc đã không ngay lập tức đặt sự kiện này là của tin lành, như các nhà sử học hoặc các nhà báo thường làm về vấn đề này… Ông nhắc lại, Giáo hội công giáo cũng như chính thống giáo đã có một số hiện tượng như vậy: cuộc canh tân Gregorian, năng lực thúc đẩy của Thánh Phanxicô và Thánh Clara thành Assisi đã canh tân sâu đậm Giáo hội công giáo, cũng như phong trào canh tân đặc sủng trong những năm 1970.

Theo ông Raymond Pfister, chắc chắn phong trào Canh tân đặc sủng được cảm hứng từ những người theo Ngũ tuần ở Mỹ, nhưng về bản chất, xu hướng Ngũ tuần là đại kết và do đó không chỉ dành riêng cho tin lành. Ông thắc mắc: “Vì sao Chúa lại theo thể loại của chúng ta?”, ông nhắc đến người bạn Craig Keener của ông, người dạy Tân ước tại đại học Asbury và là người đã viết một bài báo dài (bằng tiếng Anh) để nhớ lại khó khăn thực sự trong việc định giá một sự kiện có nguồn gốc thiêng liêng đã thay đổi cuộc đời của ông.

Một cuộc tụ họp cũng chạm đến người công giáo

Buổi họp mặt thực sự cũng đã thu hút nhiều người công giáo. Một số linh mục đã làm chứng về điều này trên mạng xã hội. Ở Pháp, có sự quan tâm đáng kể đến cái thường được gọi ở đây là “Sự thức tỉnh của Asbury”. Nhiều người công giáo Pháp đã theo dõi qua video phát trực tiếp. Trong số đó này có ông Benjamin Pouzin, thành viên kiêm nhà soạn nhạc của nhóm thờ phượng Glorious, ông cũng là người truyền giáo trên mạng xã hội, ông nói với báo La Vie: “Tôi theo dõi những gì xảy ra ở Kentucky. Tôi cầu nguyện với họ và cho họ. Tôi cảm thấy như Asbury đang đưa chúng ta trở lại tinh hoa của kitô giáo. Nó giống như ngày Lễ Ngũ Tuần. Con người được Chúa Thánh Thần đến thăm. Chúa đang làm một cái gì ở đó.”

Ông ngạc nhiên khi thấy tiếng vang đáng kể của các bài báo và dòng tweet của ông trên mạng xã hội trong giới công giáo. Khi được hỏi làm thế nào ông giải thích sự nhiệt tình này, ông trang trọng nói: “Nhiều người nghĩ chúng ta cần một tỉnh thức như vậy ở Pháp. Bản thân tôi cũng nghĩ như vậy. Một số linh mục công giáo không ngần ngại mong ước được như thế. Linh mục Louis-Marie Guitton, thuộc giáo phận Fréjus-Toulon đăng trên Facebook của cha link nối kết buổi phát trực tiếp Asbury, cha viết: “Kể từ ngày 8 tháng 2, ở một trường đại học Mỹ, các sinh viên thay phiên nhau không ngừng nghỉ ca ngợi Chúa. Bắt đầu từ một buổi cầu nguyện hàng tuần của họ, ngọn lửa bùng lên và không tắt. Vui mừng vì ân huệ của Chúa không cạn kiệt! Chúng ta cần những buổi này ngay bây giờ, khi nhiều người băn khoăn không biết dựa vào đâu, không biết tin vào ai! Khi nào chúng ta sẽ thức tỉnh?”

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Điều gì đã làm cho 50.000 sinh viên ở Asbury, Kentucky tụ họp để cầu nguyện: Chúa Thánh Thần đã thổi sức sống cho họ

Hậu trường cuộc phỏng vấn của tạp chí Tertio với Đức Phanxicô  

Hậu trường cuộc phỏng vấn của tạp chí Tertio với Đức Phanxicô

Giám mục Luc Văn Looy và nhà báo Emmanuel Van Lierd trong cuộc phỏng vấn với Đức Phanxicô | © Truyền thông Vatican

cathobel.be, Ban biên tập, 2023-02-28

Mười năm qua kể từ ngày 13 tháng 3 năm 2013 đến nay, cả một hành trình Đức Phanxicô đã đi qua! Và đây là cơ hội hiếm có để hỏi ngài đâu là những công việc ưu tiên của ngài và điều gì làm cho ngài phản ứng: tiến trình công nghị, chăm sóc người nghèo… Nhà báo Emmanuel Van Lierde kể cho chúng tôi biết hậu trường của cuộc phỏng vấn này với tạp chí Tertio Dimanche.

Khi chủ đề càng nghiêm trọng thì giọng của ngài càng nhẹ hơn. Đặc biệt khi ngài nói đến cuộc chiến ở Ukraine: quý vị sẽ thấy ngài bị tác động như thế nào trong cuộc chiến này. Rõ ràng ngài đã phải chịu đựng nỗi kinh hoàng không ngừng của chiến tranh ở rất nhiều nơi trên thế giới. Ngài xem đây là một thất bại cá nhân vì đã không thể ngăn đổ máu, lời kêu gọi đối thoại của ngài vẫn chưa được đáp ứng. Ngài nói: “Cuối cùng, tất cả chúng ta đều là nạn nhân. Vì thế chúng ta phải chọn hòa bình!”

“Ngài không quên bạn của ngài”

Tạp chí Tertio đã có đặc quyền phỏng vấn ngài từ ngày 17 tháng 11 năm 2016. Cơ hội để có cuộc phỏng vấn, một mặt là kỷ niệm 100 năm Thế chiến thứ nhất và mặt khác là các cuộc tấn công khủng bố ở Paris tháng 11 năm 2015 và ở Brussels ngày 22 tháng 3 năm 2016. Bây giờ, sáu năm sau là dịp kỷ niệm 10 năm triều của ngài, ngày 13 tháng 3 năm 2023. Quá trình này cũng như quá trình 7 năm trước, chúng tôi nhờ giám mục Luc Văn Looy, giáo phận Ghent chuyển lời đến giáo hoàng. Ngài đã nhận lời ngay. Các người bạn thân của ngài nói: “Dù đã là giáo hoàng, ngài không quên các bạn cũ của ngài.”

Cựu giám mục giáo phận Ghent là một trong những người bạn mà chắc chắn cánh cửa ở Rôma sẽ mở ra. Nhưng ngoài tình bạn này, nước Bỉ gần gũi với trái tim của giáo hoàng Argentina. Năm 2016 ngài đã nói như vậy và bây giờ ngài lặp lại. Khi còn là bề trên giám tỉnh Dòng Tên ở Argentina, Jorge Mario Bergoglio giữ chức linh mục chưởng ấn Đại học Córdoba. Một nhóm bạn bè người Bỉ tập trung xung quanh giáo sư Dòng Tên và giáo sư Jean Sonet để giúp trường đại học công giáo này phát triển. Để cảm ơn các nhà hảo tâm và để duy trì mối quan hệ, trong những năm 1970, ngài đã đến Bỉ nhiều lần khi ngài có dịp đi, ngài nói: “Tôi thích Bruges nhất. Các tác phẩm nghệ thuật của Hans Memling… thì thật ấn tượng!”

Tặng thêm 15 phút!

Cuộc phỏng vấn lần này là ngày 19 tháng 12 năm 2022, hai ngày sau sinh nhật lần thứ 86 của ngài và một ngày sau khi Argentina thắng giải vô địch World Cup. Chúng tôi chúc ngài gấp đôi và chúng tôi có 15 phút nói chuyện thêm với ngài – bằng tiếng Tây Ban Nha – kéo dài ba phần tư giờ thay vì nửa giờ như đã ấn định. Chúng tôi giải thích, chúng tôi sẽ đăng bài phỏng vấn trên tạp chí Tertio Dimanche và sẽ viết trong một quyển sách. Quyển sách thì còn chờ và chưa xuất bản ngay. Điều này làm ngài lo lắng, ngài nhíu mày nói: “Nếu có chuyện gì xảy ra cho tôi trong thời gian chờ đợi thì sao?”. Rồi ngài nói thêm, nếu in sau khi ngài qua đời thì ngài sẽ cho chúng tôi viết thêm lời cuối “từ ngôi mộ, desde la tumba”. Không tránh đi được tính hài hước của ngài, đặc trưng cho một bầu khí thân thiện, không nghi thức nghi lễ.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Đức Phanxicô trên tạp chí Tertio: cuộc chiến nào cũng là một thất bại, chúng ta phải học bài học từ nó

Bây giờ các hồng y sẽ phải trả… tiền thuê nhà!

Bây giờ các hồng y sẽ phải trả… tiền thuê nhà!

cath.ch, I.Media, 2023-03-01

Đức Phanxicô cắt các trợ cấp ưu tiên cho những người có trách nhiệm trong Giáo triều, ngài chủ trương một hình thức nêu gương cho các nhà lãnh đạo Giáo triều | © Antoine Mekary, I.Media

Sẽ không còn miễn phí hoặc hưởng giá thuê ưu tiên cho các hồng y, các người đứng đầu Giáo triều ở Vatican. Đây là quyết định của Đức Phanxicô trong chỉ dụ ngày 13 tháng 2, được truyền thông Vatican công bố ngày 1 tháng 3 năm 2023.

Văn bản, được Trưởng ban Thư ký Kinh tế Maximino Caballero Ledo ký, bãi bỏ tất cả các điều khoản “đã được ban hành bởi bất cứ ai và vào bất cứ lúc nào” cho phép các hồng y, các người đứng đầu các bộ, các thư ký, phó thư ký và giám đốc điều hành được hưởng các bất động sản của Tòa thánh “miễn phí hoặc theo các điều kiện đặc biệt thuận lợi”.

Giáo hoàng cũng nghiêm cấm họ nhận bất kỳ hỗ trợ thuê nhà nào từ Tòa thánh, “với bất cứ giá cả nào hoặc bất kỳ hình thức nào”. Do đó, các thực thể sở hữu nhà cửa sẽ phải áp dụng giá thông thường cho tất cả. Và bất kỳ ngoại lệ nào đối với quy tắc đều phải được giáo hoàng cho phép.

Quy định mới này có hiệu lực ngay lập tức cũng liên quan đến các giám mục của tòa Thượng thẩm la-mã, các nơi cư trú của các linh mục do Domus Vaticanae quản lý (Nhà trọ Thánh Marta, Domus Romana Sacerdotalis – được gọi là “Traspontina” – Domus Internationalis Paul VI, và Casa San Benedetto).

Tuy nhiên, chỉ dụ không áp dụng hồi tố: các hợp đồng đã ký trước ngày có hiệu lực sẽ tiếp tục cho đến khi hết hạn và việc gia hạn sẽ tuân theo các chỉ thị mới. Các đơn xin thuê nhà và trợ cấp gởi sau ngày 31 tháng 12 năm 2022 và chưa được cứu xét sẽ phải theo chỉ dụ mới.

Chỉ dụ được đăng ở sân Thánh Damase, Vatican, cho biết, với tình hình kinh tế đặc biệt nghiêm trọng, giáo hoàng xin các người liên hệ có một hy sinh đặc biệt để cải thiện thu nhập từ tài sản bất động sản và dành nhiều nguồn lực hơn cho sứ mệnh của Tòa Thánh.

Càng ngày các hồng y càng có ít đặc quyền

Biện pháp này được đưa ra sau một quyết định khác của Đức Phanxicô tháng 3 năm 2021. Vì đại dịch, tình hình tài chính của Vatican thiếu hụt nên ngài đã cắt giảm 10% lương của các hồng y và 8% lương của các cấp trên và những người đứng đầu các bộ.

Trong một bài báo năm 2016, nhà báo Ines San Martin viết, một hồng y ở Rôma nhận 5.000 âu kim mỗi tháng. Sau cải cách năm 2021, các hồng y sẽ nhận 4.500 âu kim suốt đời. Hiện ở Rôma có 22 hồng y làm việc cho Vatican.

Chỉ dụ này tham gia rộng rãi hơn vào sự thay đổi văn hóa chậm chạp đã diễn ra kể từ Công đồng Vatican II – đặc biệt là hành động của Đức Phaolô VI – liên quan đến chức vị của các hồng y. Hiệp định Lateran ký năm 1929 với Ý quy định tất cả hồng y phải được hưởng ở Ý “những vinh dự dành cho các hoàng tử có huyết thống”.

Ngược lại, khi quyết định sống ở căn hộ 70 mét vuông ở Nhà trọ Thánh Marta, Đức Phanxicô là tấm gương cho các nhà lãnh đạo Giáo triều về lối sống.

Năm 2014, một cuộc tranh cãi đã bùng ra về quy mô căn hộ và chi phí sửa nhà của cựu hồng y Quốc vụ khanh Tarcisio Bertone. Theo các báo Ý, vụ này đã cho Đức Phanxicô rất giận.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Phanxicô trên tạp chí Tertio: cuộc chiến nào cũng là một thất bại, chúng ta phải học bài học từ nó

Đức Phanxicô trên tạp chí Tertio: cuộc chiến nào cũng là một thất bại, chúng ta phải học bài học từ nó

Đức Phanxicô và ông Emmanuel Van Lierde trong buổi tiếp kiến dành cho tạp chí Tertio, ngày 18 tháng 9 năm 2020. (Vatican Media)

vaticannews.va, Delphine Allaire, 2023-02-28

Đức Phanxicô trả lời phỏng vấn tạp chí kitô giáo Bỉ nói tiếng Hà Lan Tertio được đăng ngày thứ ba 28 tháng 2, nhân kỷ niệm 10 năm triều giáo hoàng của ngài. Trong cuộc phỏng vấn do nhà báo Emmanuel Van Lierde thực hiện ngày 19 tháng 12 năm 2022, Đức Phanxicô đề cập đến nhiều chủ đề, từ cuộc chiến Ukraine, Thượng hội đồng hiệp hành đến đối thoại giữa các thế hệ.

Trả lời câu hỏi về việc kế thừa Công đồng Vatican II, được tổ chức cách đây 60 năm, Đức Phanxicô trích lời tu sĩ người Pháp Vincent de Lérins (thế kỷ thứ 5), các tín điều phải tiếp tục phát triển nhưng theo phương pháp luận: “Cầu xin chúng được củng cố theo năm tháng, mở rộng theo thời gian, nâng cao theo tuổi tác” (Ut annis scilicet consolidetur, dilatetur tempore, sublimetur aetate).

Đức Phanxicô nói, Công đồng là tiếng nói của Giáo hội trong thời đại chúng ta, và lúc này – trong một thế kỷ – chúng ta đang đưa nó vào thực tế. Tóm lại, đó là hình ảnh của Giáo hội đang trẻ hóa mà không mất đi sự khôn ngoan thế tục của nó, ngài nhắc lại một số sự kiện lịch sử khi phát huy việc khuyến khích tính đồng nghị.

“Đó là Giáo hội đang trẻ hóa mà không mất sự khôn ngoan thế tục của nó.”

 

Thượng hội đồng không phải là nghị viện, nhân vật chính của thượng hội đồng là Chúa Thánh Thần

Đức Phanxicô giải thích: “Có một điểm không nên bỏ qua. Vào cuối công đồng, Đức Phaolô VI đã rất sửng sốt khi thấy Giáo hội Tây phương hầu như đã đánh mất chiều kích đồng nghị của mình, trong khi các Giáo hội công giáo Đông phương đã biết cách bảo tồn. Vì thế ngài công bố việc thành lập Văn phòng Thư ký của Thượng Hội đồng Giám mục, với mục đích thúc đẩy tính đồng nghị trong Giáo hội thêm một lần nữa. Trong hơn 60 năm qua, công đồng ngày càng phát triển. Dần dần mọi thứ trở nên rõ ràng hơn. Ví dụ khi đó chỉ có các giám mục có quyền bỏ phiếu. Đôi khi không rõ liệu phụ nữ có thể bỏ phiếu hay không…”, thêm một lần nữa, ngài nhấn mạnh thượng hội đồng không phải là một quốc hội.

Đức Phanxicô: “Chiến tranh phá hủy mọi thứ, chúng ta nhìn Ukraine và đừng xấu hổ vì đau khổ”

Đức Phanxicô triển khai: “Thượng hội đồng không phải là một cuộc thăm dò ý kiến bên tả bên hữu. Không. Nhân vật chính của một thượng hội đồng là Chúa Thánh Thần. Nếu không có Chúa Thánh Thần, thì không thể có công nghị. Một công nghị là một kinh nghiệm giáo hội mà chủ tịch và tác nhân chính là Chúa Thánh Thần. Không phải ngẫu nhiên mà Thánh Basil Caesarea (330-379) viết trong chuyên luận về Chúa Thánh Thần, khi ngài định nghĩa Thần Khí: Ngài là sự hài hòa (Ipse harmonia). Và đây chính xác là những gì chúng ta trải nghiệm trong một công đồng”, đồng thời ngài nhắc lại với tư cách là một hội đồng đức tin, công đồng cũng có thể bị “ác thần” cám dỗ và dụ dỗ.

“Thượng hội đồng là một tập hợp các tín hữu, đó là một tập hợp đức tin được Chúa Thánh Thần hướng dẫn nhưng cũng bị ma quỷ cám dỗ và dụ dỗ”.

 Vatican trong cuộc chiến ở Ukraine

Trong chương về địa chính trị và Ukraine, Đức Phanxicô nhắc đến sự tham gia của cá nhân ngài và hành động ngoại giao của Vatican trong cuộc chiến: một ngày sau khi Nga xâm lược Ukraine, ngài đến sứ quán Nga tại Tòa thánh, ngài giải thích: “Điều chưa bao giờ làm và điều mà một giáo hoàng thường không làm. Tôi sẵn sàng đi Matxcova và đảm bảo cuộc xung đột này sẽ không tiếp diễn,” ngài nhắc đến sáu chuyến đi Ukraine của hồng y Krajewski tuyên úy từ thiện của ngài.

Ngài nói: “Chúng tôi liên tục nói chuyện với người dân Nga để làm một cái gì đó”, ngài kể chi tiết về thực tế tàn khốc của cuộc chiến: “Có rất nhiều lính đánh thuê đang chiến đấu. Một số rất độc ác, họ quá tàn ác. Có tra tấn; trẻ em bị hành hạ. Nhiều em bé sống với mẹ, tị nạn ở Ý đến gặp tôi. Tôi chưa bao giờ thấy một em bé Ukraine cười. Vì sao các em bé này không cười? Các em đã thấy gì? Thật đáng sợ, quả thực đáng sợ. Những người này đang đau khổ, họ đau khổ vì bị xâm lược. Tôi cũng liên lạc với người Ukraine. Tổng thống Volodymyr Zelensky đã cử một số phái đoàn đến nói chuyện với tôi.”

Kể từ Cain và Abel, mọi cuộc chiến đều thất bại

Đức Phanxicô đề cập đến những cuộc chiến khác đang diễn ra trên thế giới, mà chúng ta không chú ý đến: ở Miến Điện, ở Syria – đã trải qua 13 năm chiến tranh -, ở Yemen, nơi trẻ em không được đến trường, không có bánh mì, các em phải chịu đau khổ, chịu đói… Ngài nhắc lại, thế giới thực sự vẫn còn chiến tranh. Một lần nữa, ngài tố cáo kỹ nghệ vĩ đại của chiến tranh và việc buôn bán vũ khí. Ngài nói thêm: “Mọi cuộc chiến đều là một thất bại. Nhưng chúng ta không học được bài học. Bây giờ chúng ta sống gần một hy vọng khác, nếu Chúa muốn, cuối cùng chúng ta sẽ học được bài học…  Bắt đầu bằng bài học Cain và Abel, và cứ thế nó tiếp tục. Với tôi, điều này rất đau đớn, quá đau đớn và tôi không thể chọn bên nào, bản thân chiến tranh là xấu. Tôi cầu xin hòa bình.”

Một Giáo hội không thể thuần tuý là xã hội

Trả lời câu hỏi về sự tiến triển từ một Giáo hội đa số thành một Giáo hội lựa chọn – với ít giáo sĩ và tín hữu hơn – như ở châu Âu, ngài nhắc lại một Giáo hội không cử hành bí tích Thánh Thể thì không phải là Giáo hội; một Giáo hội ẩn mình trong phòng thánh cũng không phải là Giáo hội. Ngài nói: “Thu mình trong phòng thánh không phải là một thờ phượng đúng đắn. Việc cử hành Thánh Thể có những hệ quả. Có bẻ bánh. Điều này ngụ ý một nghĩa vụ xã hội, nghĩa vụ chăm sóc người khác. Vì thế cầu nguyện và dấn thân đi đôi với nhau. Dấn thân xã hội của Giáo hội là một phản ứng, một hệ quả của việc thờ phượng. Ví thế không nên nhầm lẫn cam kết này với hành động từ thiện mà một người ngoại đạo cũng có thể làm. Hoạt động xã hội của Giáo hội bắt nguồn từ con người của Giáo hội vì Giáo hội nhận ra Chúa Giêsu nơi mình”. Các hành động xã hội, không nên thực hiện do ràng buộc xã hội hay bổn phận, nhưng do Chúa Giêsu hiện diện ở đó. Tuy nhiên, tôi sẽ không bao giờ nhận ra Chúa Giêsu ở đó nếu tôi không nhận ra Ngài trong thờ phượng và phụng vụ. Cả hai cùng đi với nhau. Chúng phải kết hiệp với nhau.

Người lớn tuổi của chúng ta là những viên đá quý

Về cuộc đối thoại giữa các thế hệ, ngài nhắc lại chúng ta phải chăm sóc người già như những viên ngọc quý: “Cho dù ông bà không còn sức khỏe hay không còn tỉnh táo, chúng ta phải nâng niu họ như viên ngọc quý vì trong suốt cuộc đời, họ đã gieo mầm sống, đã cho chúng ta sự sống.”

Năm 2022, ngài đã dành một chương trình giáo lý cho người lớn tuổi trong các buổi tiếp kiến chung, theo ngài, ông bà là ký ức truyền đạt kiến thức cho chúng ta: “Những người trẻ tiếp xúc với ông bà để họ gieo sự sống, gieo tương lai. Chúng ta phải quý trọng họ, họ không phải là hàng hóa dùng một lần.”

Liên quan đến các giới hạn của thị trường tân tự do mà nhà báo đề cập, ngài cho biết, kinh tế phải là nền kinh tế xã hội: “Khi nói về ‘kinh tế thị trường’ Đức Gioan-Phaolô II đã thêm từ ‘xã hội’:  kinh tế thị trường xã hội. Chúng ta phải giữ trong đầu chữ xã hội!”

Bốn tội của nhà báo

Cuối cùng, khi được hỏi liệu có thể phong thánh cho Titus Brandsma, vị thánh tử đạo người Flemish (1881-1942), bổn mạng các nhà báo, Đức Phanxicô ca ngợi phẩm chất của một nhà báo đúng đắn: “Tôi cũng muốn nhân cơ hội này, qua ông, để cám ơn công việc của các nhà báo. Đó là một nghề cao quý: truyền tải sự thật. Nhưng đồng thời, tôi xin các bạn cẩn thận với bốn tội của nhà báo. Ông có biết bốn tội này là bốn tội nào không?”. Chúng

là: “Thông tin sai lệch – chỉ nói một phần chứ không nói tất cả -, vu khống, phỉ báng – hai chuyện khác nhau – và sống trong bùn, coprophilia, đi tìm những chuyện kinh tởm gây tai tiếng để thu hút chú ý”.

Ngài nói: “Phẩm chất của nhà báo là lắng nghe, phiên dịch và truyền tải, vì lúc nào cũng phải dịch, đúng không? Nhưng trước hết hãy nghe… Có những nhà báo xuất sắc vì họ nói rõ: ‘Tôi nghe như thế này, nhưng tôi nghĩ ngược lại’. Đó là một cách để phản biện, chứ không phải: ‘Họ nói như vậy’, dù có khi đó không phải là điều họ đã nói. Hãy lắng nghe, chuyển tiếp thông điệp và sau đó là phê phán.”

Tạp chí công giáo Hà Lan Tertio ra đời năm 2000 trong bối cảnh tiếng Flemish về sự phát triển của các ý tưởng theo chủ nghĩa tự do trong cuộc tranh luận công khai ở Bỉ. Tên của tờ báo dựa theo bức thư của Giáo hoàng John Paul II, “Khi đến thiên niên kỷ thứ ba” (Tertio Millennio Adveniente). Được in khoảng 6.000 bản và được phân phối ở Flanders và Brussel.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Hậu trường cuộc phỏng vấn của tạp chí Tertio với Đức Phanxicô

Đức Phanxicô là mục tử của thế giới

 

Bài mới nhất