Home Blog Page 109

Việc chuyển giao đức tin trong những năm đầu đời của Chân phước Carlo Acutis

Việc chuyển giao đức tin trong những năm đầu đời của Chân phước Carlo Acutis

Trích sách “Chuyển giao đức tin theo cách Carlo Acutis, con chúng tôi”, Antonia Salzano và Andrea Acutis  (Transmettre la foi à l’école de notre fils Carlo Acutis, Antonia Salzano et Andrea Acutis, nxb. Salvator). Linh mục Giorgio Maria Carbone phỏng vấn ông bà Andrea Acutis và Antonia Salzano.

Nhưng nếu, trong những năm đầu đời  của Carlo, bà, Antonia bà có một đức tin rất chập chững, và ông, Andrea, ông không đi nhà thờ thì ai là người truyền cho Carlo những điều cơ bản đầu tiên về đức tin?

Sự hiện diện của cô gái trẻ Ba Lan Beata trong nhà chúng tôi mang một ý nghĩa quyết định. Cô là người giữ Carlo từ năm 1992 đến năm 1996, cô mang đến cho Carlo đời sống đức tin với những việc làm đơn giản như lần hạt Mân Côi và cầu nguyện cho người quá cố. Khi đến nhà chúng tôi, cô mang theo một  vali đầy ảnh tượng Đức Mẹ Czestochowa. Beata đã kết nối đời sống hằng ngày với đời sống thiêng liêng, đời sống hiệp thông với Chúa Giêsu. Beata cũng giúp tôi về mặt thiêng liêng khi cha tôi (Antonia) đột ngột qua đời. Cô đã sống những năm cuối cùng của chế độ cộng sản ở Ba Lan, khi đó đời sống của tín hữu rất khó khăn, vì thế cô được rèn luyện mạnh mẽ để vượt qua khó khăn. Beata thường chia sẻ những cảm nghĩ của cô về Carlo với chúng tôi. Cô cho chúng tôi biết, Carlo phát triển rất sớm, Carlo hỏi những câu hỏi của một người khôn ngoan, trưởng thành, Carlo khao khát sống đời sống thiêng liêng. Carlo xin cô kể về Chúa Giêsu. Và khi chúng tôi đi lễ, Carlo rất buồn vì không được rước lễ.

Cô nhận thấy Carlo quá ngoan ngoãn. Dĩ nhiên Carlo rất năng động, hòa đồng, nghịch ngợm như các em bé ở tuổi của Carlo. Carlo rất nghe lời chúng tôi, Carlo không bao giờ làm phiền chúng tôi, Carlo luôn làm những gì chúng tôi yêu cầu. Beata cho biết Carlo không bao giờ nổi loạn dù các bạn cùng lớp chơi khăm hoặc phá Carlo một chút. Beata muốn Carlo phản ứng lại và không để người khác chế giễu mình. Nhưng Carlo trả lời một cách đơn giản đến bất ngờ: “Chúa Giêsu sẽ không vui nếu con phản ứng bằng bạo lực.”

Tôi còn nhớ rõ câu chuyện khi Carlo khoảng 4 tuổi. Beata và mẹ tôi vào siêu thị mua sắm, tôi và Carlo đợi bên ngoài. Một cô bé có mái tóc hung đến gần Carlo và ném cho Carlo một quả bóng bay màu xanh. Có lẽ cô muốn làm quen hoặc chọc Carlo. Carlo vẫn thản nhiên, vì thế cô làm mặt nhăn nhó và lè lưỡi trêu Carlo. Nhưng Carlo không phản ứng, Carlo dịu dàng nhìn cô, mỉm cười với cô. Nụ cười này làm cô bé ngạc nhiên và cô bé cũng mỉm cười lại với Carlo. Carlo có một cá tính mạnh, Carlo biết mình muốn gì. Cuộc sống của Carlo dựa trên tình bạn với Chúa Giêsu. Carlo được Chúa truyền cảm hứng vì Carlo biết nhờ ơn thánh hóa, Chúa Giêsu ở trong lòng mình.

Vì thế chắc chắn Beata đã có một vai trò quan trọng trong việc giáo dục đời sống đức tin của Carlo qua những cử chỉ đơn giản. Nhưng với nhận thức muộn màng, chúng tôi phải công nhận nếu Carlo ngoan ngoãn, vâng lời cha mẹ thì Carlo còn ngoan ngoãn, siêng năng hơn, đáp ứng một cách thông minh và nhanh chóng trước ân sủng thiêng liêng, trước những soi sáng của Chúa Thánh Thần và noi gương Chúa Giêsu. Trong những năm đầu đời của Carlo, chúng tôi chưa hiểu đầy đủ tầm quan trọng của việc cầu nguyện trong gia đình, của đi lễ, của cố gắng tương ứng với tình bạn với Chúa trong mọi lúc. Vì thế chúng tôi hoàn toàn không thể hướng dẫn Carlo. Nhưng chúng tôi không cản trở, chúng tôi khuyến khích theo những gì chúng tôi có thể hiểu được. Chúng tôi biết, Carlo muốn chúng tôi hướng về Chúa. Qua những cử chỉ, những ước muốn, những câu hỏi tò mò, đôi khi khiêu khích Carlo đã dẫn chúng tôi khám phá bản chất của đức tin kitô giáo: đi theo Chúa Kitô, sống hiệp thông với Ngài, luôn hành động trước sự chứng kiến của Ngài.

Marta An Nguyễn dịch

Làm thế nào để đối phó với tình trạng mất ý chí của trẻ vị thành niên?

Làm thế nào để đối phó với tình trạng mất ý chí của trẻ vị thành niên?

Con cái các bạn có bị mất ý chí không? Tính lười biếng có chiếm trọn sức sống của chúng không? Khi dán mắt vào điện thoại, trẻ vị thành niên thường không kiểm soát được thời gian. Một số yếu tố giúp cha mẹ hiểu các con đang ở trong tình trạng này.

famillechretienne.fr, Nathalie Mihailovich, 2024-07-03

Tuổi vị thành niên là giai đoạn thường có những thay đổi đáng lo ngại. Đôi khi rất khó để thấy đứa con dễ thương của mình bây giờ là thanh niên cao lớn có nhiều râu tóc đang đứng trước mặt mình. Nhưng chúng ta đừng quên, đây chỉ là giai đoạn mất quân bình khi trẻ vị thành niên có những thay đổi về thể chất và tâm lý dẫn đến thái độ phản đối. Khi lớn lên, trẻ em muốn tránh quyền lực và quy tắc người lớn áp đặt. Chúng muốn tạo cho mình một bản sắc. Giữa một bên muốn duy trì quyền lực, một bên muốn thoát ra, dĩ nhiên sẽ có xung đột. Đứa bé nổi loạn với chiếc điện thoại trong tay làm cha mẹ bực mình, cha mẹ chỉ muốn con đàng hoàng ngay. Mâu thuẫn giữa hai bên làm cha mẹ căng thẳng.

Làm sao đây?

Hai thế kỷ trước, nhà văn Nga Goncharov đã nói, không có gì mới dưới ánh sáng mặt trời, ông mô tả vấn đề này qua nhân vật phản anh hùng Oblomov. Oblomov là người thuê nhà, ông nằm trên chiếc ghế dài cả ngày. Ông không làm gì hết, kỷ luật bản thân không có. Sự thụ động làm ông kiệt sức, ông không nhấc tay nhấc chân làm một cái gì cho gia đình. Gia đình ông bực tức. Nhưng đứa bé mất ý chí là tự nó sao? Rất có thể sự thụ động này là do trẻ em thiếu tự tin. Nếu ý chí là khả năng để làm những việc có mục tiêu thì vì sao một số người không có? Nói cách khác, người bị cho là vô dụng, lười biếng, họ không có cách nào làm cho ý chí hoạt động sao? Đây không phải là vấn đề vì họ là nạn nhân, nhưng chúng ta phải đặt câu hỏi cho chính mình. Khi bực mình chúng ta có nói với trẻ những lời tiêu cực chỉ làm cho các em thêm lười không? Chúng có nghĩ mình lười vì mình… đã như vậy không? Mình có phải là người vô dụng, người không có khả năng không?

Một giai đoạn chuyển tiếp

Khi không kìm nén được thôi thúc, chúng ta nói những lời không nên nói, khi đó chúng ta nên nhớ lại, chúng ta cũng từng là đứa bé lười biếng. Lòng tự hào của chúng ta cũng từng bị tổn thương vì chúng ta cũng đã đấu tranh để được chấp nhận mà không được. Tuổi thiếu niên là tuổi chuyển tiếp, vì thế chúng ta đừng để mình phải luyến tiếc khi con cái rời khỏi nhà mới nhận ra. Trong những lúc bực mình, chúng ta kềm mình, lấy dịu dàng làm sức mạnh. Thánh Phaolô đã khuyên: “Tình yêu cần kiên nhẫn, tình yêu là phục vụ.”

Marta An Nguyễn dịch

Đức tin, “hiện hữu” và “sở hữu”

Đức tin, “hiện hữu” và “sở hữu”

Trích sách “Chuyển giao đức tin theo cách Carlo Acutis, con chúng tôi”, Antonia Salzano và Andrea Acutis  (Transmettre la foi à l’école de notre fils Carlo Acutis, Antonia Salzano et Andrea Acutis, nxb. Salvator). Linh mục Giorgio Maria Carbone phỏng vấn ông bà Andrea Acutis và Antonia Salzano.

Carlo thường nói: “Bước một bước trong đức tin là thêm một bước tiến tới hiện hữu và bớt một bước hướng tới sở hữu.” Bà có nhớ ý nghĩa này khi Carlo nói câu này không?

Tôi (bà Antonia) nghĩ tôi có thể tìm được ý nghĩa câu này khi nhớ lại những gì đã xảy ra vào buổi tối tháng 8 năm 2006. Chúng tôi đi ăn tối ở Portofino. Khi chúng tôi vừa rời nhà hàng, Carlo đứng sang một bên, vẻ mặt trầm tư và buồn buồn. Thỉnh thoảng Carlo vẫn như thế. Tôi không nói gì. Tôi không muốn mình thiếu thận trọng. Tôi đợi cuối cùng Carlo sẽ nói chuyện này với tôi. Và đúng vậy. Trước khi đi ngủ, Carlo nói cho tôi biết: “Khi rời nhà hàng, Carlo nghe lời Chúa Giêsu vang vọng trong tâm hồn: Ta khát (Ga 19:28), lời Ngài nói trước khi tắt thở.” Với Carlo, qua lời này Chúa muốn Carlo hiểu được ý Ngài: không màng đến sự giàu có xa hoa Carlo có thể có ở Portofino – đó là những thứ không đáng kể – mục đích của Chúa là muốn cứu rỗi những người sống ở đây, chính họ mới đáng kể.

“Sở hữu” không mang cho mình một hạnh phúc ổn định. Nhưng hiện hữu xuất phát từ đức tin sẽ đưa chúng ta đến hạnh phúc mãi mãi. Không phải sự giàu có làm chúng ta hạnh phúc. Mối quan tâm chính của chúng ta là phải cứu rỗi linh hồn mình và linh hồn của những người mình gặp. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu đã nói: “Vì nếu được cả thế gian mà phải mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16:26). Carlo luôn nói: “Nếu Chúa chiếm hữu trái tim thì chúng ta sẽ có được cái vô hạn. Ai chỉ dựa vào của cải vật chất mà không dựa vào Chúa thì sống lối sống ngược lại. Giống như người lái xe, thay vì đi nhanh để đến mục tiêu thì lại đi sai hướng, ngược chiều với đích đến sẽ liên tục có nguy cơ đụng người khác.”

Marta An Nguyễn dịch

Đức Bà Cả và tuyết rơi, “biểu tượng của ân sủng”

Đức Bà Cả và tuyết rơi, “biểu tượng của ân sủng”

Trong bài giảng nhân lễ cung hiến đền thờ Đức Bà Cả, Đức Phanxicô chia sẻ một suy tư ngắn dựa trên hai dấu hiệu đặc trưng của lễ kỷ niệm này: truyền thống tuyết rơi và tượng Đức Mẹ bảo vệ người dân La-mã.

vaticannews.va, Myriam Sandouno, 2024-08-05

Ngày thứ hai 5 tháng 8, Đức Phanxicô dự lễ cung hiến đền thờ Đức Bà Cả do Đức ông Rolandas Makrickas, linh mục phó của Đền thờ cử hành. Trong bài giảng Đức Phanxicô nhắc lại giấc mơ “tuyết rơi” của Giáo hoàng Liberius để xây Đền thờ và đặt tượng Đức Mẹ bảo vệ người dân Rôma trong nhà nguyện Pauline gần 410 năm.

Đức Phanxicô gắn bó với biểu tượng này, trước mỗi chuyến tông du ngài đến đây dâng chuyến đi cho Đức Mẹ và sau chuyến đi, ngài đến tạ ơn Mẹ.

“Tuyết rơi”

Huyền thoại “tuyết rơi” có từ thế kỷ thứ 4. Huyền thoại kể, trong giấc mơ hiện ra với Giáo hoàng Liberius và nhà quý tộc la-mã John, Đức Mẹ xin họ xây một đền thờ để vinh danh Mẹ, nơi họ sẽ thấy tuyết. Vì thế ngày 5 tháng 8 năm 358, giữa mùa hè, một lớp tuyết mỏng bao phủ ngọn đồi Esquiline.

Lễ Đức Mẹ Tuyết

Đức Phanxicô giảng: “Huyền thoại tuyết rơi chỉ là huyền thoại dân gian hay có giá trị biểu tượng? Nó tùy thuộc cách chúng ta nhìn nhận và ý nghĩa chúng ta gán cho nó. Việc giải thích dấu hiệu tuyết rơi có thể được xem như một ơn, một thực tại kết hợp vẻ đẹp với ân sủng. Đó là thứ không thể kiếm được, không thể mua được, chỉ có thể được nhận như một ơn và như vậy là hoàn toàn không thể đoán trước được: tuyết rơi giữa mùa hè Rôma! Ân sủng làm chúng ta kinh ngạc và ngưỡng mộ. Ở đây ân sủng mang tính chất cụ thể, lột bỏ mọi vỏ bọc thần thoại, ma thuật, tâm linh, những thứ chúng ta phải đề phòng trong lãnh vực tôn giáo.”

Đức Phanxicô trước ảnh Đức Mẹ bảo vệ người dân La-mã

Trong biểu tượng Người Phụ nữ và Hài nhi nói lên điều cốt yếu: “Người Phụ nữ đầy ân sủng, được thụ thai mà vô nhiễm, tinh tuyền như tuyết vừa rơi. Mẹ là Mẹ của Chúa từ trước thời gian và mãi mãi sau thời gian. Mẹ đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Mẹ, Mẹ có phúc lạ hơn mọi người nữ. Áo choàng đen của Mẹ làm nổi bật chiếc áo vàng của Con Mẹ: chỉ nơi Ngài mới chứa trọn vẹn thần tính; khuôn mặt lộ ra của Mẹ phản ánh vinh quang của Chúa.”

Mẹ là trung gian cầu bàu cho hòa bình

Cùng với 600 giáo dân hiện diện trong buổi lễ, Đức Phanxicô xin Đức Mẹ cầu bàu cho thành phố Rôma, cho tất cả các thành phố trên thế giới, cho hòa bình: hòa bình chỉ chân thực và lâu dài nếu bắt đầu từ những tấm lòng sám hối và được tha thứ; bình an đến từ Thập giá Chúa Kitô, từ Máu Người đã đổ ra để cứu chuộc. Ngài đọc Kinh Kính Mừng, xin Mẹ là ánh sáng không hề tắt, Mẹ đã sinh ra mặt trời công lý.

Lạy Mẹ Thiên Chúa, xin cầu bàu cho chúng con.

Marta An Nguyễn dịch

Didier Grandjean, cựu cận vệ Thụy Sĩ muốn làm linh mục

Didier Grandjean, cựu cận vệ Thụy Sĩ muốn làm linh mục

Với 500 năm tuổi, sứ mệnh của đội cận vệ Thụy Sĩ là bảo đảm an ninh cho Giáo hoàng. Được đào tạo về cận chiến, bắn súng và bảo vệ cá nhân, sau khi làm việc ở Rôma, nhiều cận vệ Thụy Sĩ phục vụ trong ngành cảnh sát, canh gác biên phòng hoặc quân đội. Nhưng không phải tất cả: cựu cận vệ Thụy Sĩ Didier Grandjean, 34 tuổi muốn đi tu! Didier Grandjean bây giờ là chủng sinh.

vaticannews.va, Romano Pelosi, Vatican, 2024-08-06

Didier Grandjean nói đùa, anh mặc lại đồng phục nhưng đồng phục bây giờ không sặc sỡ bằng! Mùa hè này chủng sinh Didier ở giáo phận Fribourg, Thụy Sĩ về lại Vatican để làm một số việc trong Đội cận vệ huy hoàng này.

Anh học ngành làm vườn, anh vào Đội cận vệ từ năm 2011 đến năm 2019, bây giờ anh vào chủng viện.

Phỏng vấn chủng sinh Didier Grandjean

Cận vệ Thụy Sĩ: con đường đi đến ơn gọi

Môi trường gia đình và thành phố Fribourg anh ở thấm đậm kitô giáo. Thành phố Fribourg là nơi có trụ sở của một trong bốn khoa thần học Công giáo Thụy Sĩ (Lucerne, Chur, Lugano) đôi khi được gọi là “Rôma của Thụy Sĩ”.

Nhân dịp kỷ niệm 500 năm thành lập Đội cận vệ Thụy Sĩ năm 2006, anh Grandjean nhận được tờ quảng cáo sinh hoạt của Đội cận vệ: “Tôi luôn giữ tờ quảng cáo này ở tủ đầu giường vì nó luôn ở trong ký ức của tôi. Ký ức này này đồng hành với tôi trong suốt  hành trình, chưa bao giờ tôi rời bỏ nó. Buổi họp thông tin này là yếu tố thúc đẩy tôi vào đội cận vệ.”

Anh học xong khóa tuyển quân của đội cận vệ Thụy Sĩ, tiêu chuẩn để được nhận vào quân đội lâu đời nhất thế giới, nhưng trên hết động lực phục vụ Giáo hoàng và Giáo hội của anh vẫn là  tôn giáo.

Tiếp xúc với khách hành hương là động lực xúc tác cho đức tin

Năm 2011, anh vào Đội Cận vệ khi anh 21 tuổi, anh khám phá thế giới Vatican, sự hòa nhập này đã giúp anh phát triển đức tin. Công việc đa diện của Đội, đặc biệt ở các nơi kiểm soát ra vào như ở cổng Thánh Annà hoặc Dinh Tông tòa là những nơi tiếp xúc với khách hành hương từ khắp thế giới đổ về: “Trong thời gian phục vụ, việc tiếp xúc với khách hành hương đã làm tôi suy nghĩ về đức tin sâu đậm của họ, họ thể hiện một cách rõ ràng. Mặt khác, cô đơn và cô lập là đặc điểm chung của tất cả các cơ quan an ninh trên thế giới lại nổi bật: có những lúc chúng tôi chỉ có một mình trong các vị trí phục vụ ở Vatican. Tôi đã tận dụng những giây phút này để cầu nguyện, tĩnh tâm và suy ngẫm.”

Didier Grandjean trong bộ đồng phục Grand Gala: “Phục vụ trong Đội Cận vệ và với tư cách là linh mục phải thấm nhuần đức khiêm nhường”

Đáp trả ơn gọi

Cầu nguyện, suy niệm, suy tư gắn liền với những cuộc gặp đầy ấn tượng chung quanh vòm Đền thờ Thánh Phêrô đã mài giũa ơn gọi của Didier và đưa anh đến con đường làm linh mục. Một khám phá từ từ, anh giải thích: “Thuật ngữ ‘ơn gọi’ xuất phát từ chữ la-tinh ‘vocare’ có nghĩa là gọi. Đó là cuộc gọi, một cái gì đó tôi cảm thấy trong nội tâm. Với tôi, lời kêu gọi này phát triển từ từ, không phải là một tỉnh thức đột ngột. Điều này khác nhau ở mỗi người, nhưng với tôi đó là tiến trình tôi dần dần nhận ra Chúa đang gọi tôi làm một cái gì khác.”

Trên thực tế, ý tưởng làm linh mục đã nảy sinh trước khi anh vào Đội, nhưng khi đó anh còn quá trẻ. Anh cần thời gian để nhận ra bước quan trọng của ơn gọi: nhận ra tiếng gọi, chấp nhận và cuối cùng dấn thân. Anh giải thích: “Với tôi, làm cận vệ là con đường để được công nhận và trưởng thành, cả về mặt nhân bản lẫn tinh thần. Tôi cần thời gian để trưởng thành về mặt nhân bản, để nhận ra tiếng gọi, chấp nhận và dấn thân.”

“Đi, đó là con đường của con”

Sau khi quyết định vào chủng viện, anh được gia đình, bạn bè ủng hộ rất mạnh. Anh xúc động kể: “Là một ân sủng lớn lao khi tôi được mọi người ủng hộ, không ai ngăn cản tôi đi con đường này.” Điều làm anh xúc động mạnh là anh còn kịp thông báo tin này cho cha của anh, ông qua đời năm 2018: “Tôi rất xúc động vì cha tôi khuyến khích tôi rất nhiều, bà tôi cũng vậy. Tôi rất gần với bà, bà tôi qua đời một năm sau. Tôi biết bây giờ từ thiên đàng, họ đang theo dõi tôi. Tôi vẫn còn nhớ lời cha tôi dặn: ‘Con đi đi, đó là con đường của con’.”

Dù có một số người e ngại, nhưng chủ yếu tích cực đã mang lại cho anh tự tin và sức mạnh để đi trên con đường này. Anh làm chứng: “Tôi có cảm giác Chúa đang kêu gọi tôi làm một việc khác, theo một cách khác để tiếp tục phục vụ Ngài.”

Didier Grandjean chào Đức Phanxicô

Một thế giới thu nhỏ bao quanh sức sống của sự vĩnh hằng

Trong Vatican, Đội cận vệ bảo đảm an ninh cho Giáo hoàng. Hơi thở vĩnh cửu này tạo nên những khoảnh khắc đặc biệt, những khoảnh khắc quyết định trong đời của một cận vệ, định hình cho cuộc đời tương lai của họ. Với anh Didier cũng vậy: “Trong thời gian tôi phục vụ, thời điểm mang tính bước ngoặt cho tôi, đó là mật nghị năm 2013. Thật xúc động khi thấy sự kiện này quan trọng như thế nào về mặt lịch sử và tinh thần. Những điều phi thường đã xảy ra. Chúng tôi ở đó để phục vụ và đồng hành trong tiến trình này và thật ấn tượng khi thấy sự vĩ đại và bản chất siêu nhiên của Giáo hội vượt lên những điểm yếu của con người. Điều này đã tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi và làm tôi xúc động. Việc được gần với hai Giáo hoàng, Giáo hoàng Bênêđíctô XVI và giáo hoàng Phanxicô mang một ý nghĩa rất lớn với tôi. Thật là ấn tượng khi thấy họ dấn thân phục vụ Giáo hội, họ không tiếc công tiếc sức, luôn sẵn sàng phục vụ. Họ mang lại cho tôi mong muốn và sức mạnh để đến lượt tôi, tôi phục vụ.”

Ý thức phục vụ

Chúng ta có thể thiết lập mối liên hệ giữa việc phục vụ trong Đội cận vệ Thụy Sĩ cà cuộc sống của một chủng sinh không?

Trước hết, nhận thức việc phục vụ là điều quan trọng, dù trong Đội cận vệ, trong chủng viện hay với tư cách là linh mục. Phục vụ là trọng tâm. Đó là thông điệp mang tính quyết định.” Nhưng theo anh Didier, không nên bỏ qua một yếu tố quyết định khác của Đội, đó là tình bạn thân thiết.

Anh đã phát triển tình bạn này trong suốt 8 năm làm việc trong Đội. Là linh mục tương lai, có được nhiều bạn là một kho báu, vì cô độc là thách thức rất lớn cho các linh mục.

Cuối cùng, ý thức phục vụ, dấn thân cho người khác không phải là tất cả. Anh giải thích: “Còn có kỷ luật. Kỷ luật không chỉ đóng vai trò trong bối cảnh quân sự của một cận vệ, mà còn trong đời sống cầu nguyện của một linh mục. Một linh mục đọc các Giờ Kinh Phụng vụ, và đôi khi lời cầu nguyện như một cuộc chiến. Thật không dễ dàng để dành thì giờ cầu nguyện mỗi ngày.

Anh Didier Grandjean tại văn phòng của Đài phát thanh Vatican.

Tầm quan trọng của kỷ luật

Cuộc sống của một cận vệ đòi hỏi phải có một kỷ luật liên tục: áo quần sạch sẽ, cạo râu mỗi ngày, đồng phục hoàn hảo, thái độ thân thiện. Nhưng bản chất thực sự của kỷ luật là vị tha phục vụ, đi đôi giữa đồng phục và áo chùng.

Để kết luận, anh muốn nhắc lại khẩu hiệu của Giáo hoàng: Servus servorum Dei, tôi tớ của các tôi tớ Chúa. Và đúng vậy, phục vụ như một linh mục cũng là tiếp tục phục vụ trong tư cách cận vệ Thụy Sĩ.

Anh kết luận: “Trong Đội Cận vệ, chúng tôi phục vụ Giáo hoàng, Giáo hội và giáo dân. Chúng tôi thường nói chúng tôi là tôi tớ của các tôi tớ Chúa. Chính xác đó là điều quan trọng: chúng tôi phải khiêm tốn phục vụ hết mình.”

Didier Grandjean đã cho đời mình một món quà: hôm qua là người cận vệ, hôm nay là linh mục tương lai.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bầu cử tổng thống Mỹ: ông Tim Walz đứng liên danh với bà Kamala Harris

Bầu cử tổng thống Mỹ: ông Tim Walz đứng liên danh với bà Kamala Harris

lepelerin.com, Loic Isabelle, 2024-08-06

Ông Tim Walz, ngày 1 tháng 8 – 2024, ở Bloomington, Minnesota © Stephen Maturen / Getty Images

Ngày 6 tháng 8 năm 2024, bà Kamala Harris đã chọn ông Tim Waltz, chính trị gia giàu kinh nghiệm đứng chung liên danh với bà, ông có một quá trình không điển hình.

Sự chọn lựa của bà Kamala Harris ở ngoài mong đợi: củng cố được động lực tranh cử cho Đảng Dân chủ, một thăm dò mới nhất cho thấy bà đã bắt kịp Donald Trump của Đảng Cộng hòa, hay đây là bước đi sai lầm đầu tiên? Ông Ethan, 67 tuổi, người làm và bán huy hiệu trên vỉa hè trên Đại lộ Columbus ở trung tâm New York cho biết: “Đây là quyết định đầu tiên của bà, vì thế quyết định này rất quan trọng.”

Khi chọn ông Tim Waltz, có vẻ như bà Kamala Harris tránh được cạm bẫy đầu tiên, trong khi ông Donald Trump chọn Thượng nghị sĩ J.D. Vance, bản sao “ý thức hệ của ông” trái với lời khuyên của một số người. Bà Kamala Harris chọn một người để bổ sung vào hàng ngũ của bà.

Ông Tim Waltz, 60 tuổi được cho là người tiến bộ trong bang của ông, đặc biệt với quyền phá thai. Ông là người nông thôn bình thường so với bà Kamala Harris, cựu công tố viên của bang California tự do và là phó tổng thống trong bảy năm.

Ít được biết đến bên ngoài tiểu bang Minnesota nằm ở biên giới Canada có biệt danh “xứ của 10.000 cái hồ”, quê hương vợ ông, bà cũng là giáo viên như ông. Ông có một sự nghiệp không điển hình: cựu giáo viên địa lý và huấn luyện viên bóng rổ, ông còn phục vụ trong Lực lượng Vệ binh Quốc gia (lực lượng dự bị của Quân đội Mỹ). Ông có vóc dáng nhân hậu và khiếu hài hước châm biếm nhưng không ác ý, ông đã được bầu vào Hạ viện 5 lần và 2 lần vào chức thống đốc.

Có kỹ năng và tự do về mặt xã hội, nhiệm vụ của ông là áp dụng một loạt các biện pháp tiến bộ bà Kamala Harris sẽ đưa ra trong chiến dịch tranh cử: hợp pháp hóa việc sử dụng cần sa để giải trí, tăng cường kiểm tra lý lịch khi mua súng, bữa ăn miễn phí cho sinh viên, đăng ký thanh niên vào danh sách bầu cử…

Cô Ellen ở gần Đại học Columbia ở New York tán thành sự lựa chọn này: “Ông là hiện thân của trung tâm và điều độ.” “Tấm vé” của đảng Dân chủ sẽ được xác nhận ngày 19 tháng 8 tại đại hội đảng.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bầu cử tổng thống Mỹ 2024: bà Kamala Harris, từ bóng tối ra ánh sáng

Bầu cử tổng thống Mỹ 2024: bà Kamala Harris, từ bóng tối ra ánh sáng

Bầu cử tổng thống Mỹ 2024: bà Kamala Harris, từ bóng tối ra ánh sáng

Ngày chúa nhật 21 tháng 7, sau khi Tổng thống Joe Biden cho biết ông sẽ không tranh cử tổng thống, ông tuyên bố ủng hộ bà Kamala Harris. Từ lâu bị cho là quá lu mờ, bây giờ Phó Tổng thống được cho là ứng viên tốt nhất của Đảng Dân chủ để đánh bạt ông Donald Trump.

la-croix.com, Alexis Buisson, phóng viên ở New York, 2024-07-22

Bà Kamala Harris tại Viện Khoa học & Hàng không Vũ trụ ở Portage, Michigan, ngày 17 tháng 7 năm 2024. JEFF KOWALSKY / AFP

Sự nồng nhiệt có thể thấy trong giọng nói của ông Chet Whye, nhà hoạt động người Mỹ gốc Phi năm 2008 đã huy động đội quân tình nguyện viên bầu ra người mà ông gọi là “Barack”. Với thông báo ông Joe Biden rút lui ngày chúa nhật 21 tháng 7, ông Whye dồn hết sức để phục vụ bà Kamala Harris, người mà tổng thống Đảng Dân chủ muốn thay ông cầm đuốc tranh cử.

Ngày chúa nhật ông Whye đã thuê xe chở thiện nguyện viên từ New York đến Pennsylvania, “Bang chủ chốt” gần nhất để đi vận động từng nhà. Cuộc bầu cử tổng thống diễn ra theo từng bang, những bang chủ chốt với kết quả sít sao sẽ quyết định kết quả. Ông Whye nói: “Chúng ta đang tham dự một cuộc chiến vì dân chủ. Đây là điều đang bị đe dọa. Nếu chúng ta thua cuộc bầu cử, phần còn lại sẽ không đáng kể.” Ông là người theo dõi sự nghiệp của bà Kamala Harris từ nhiều năm nay.

Hướng tới cuộc đọ sức giữa hai ứng cử viên hoàn toàn trái ngược nhau

Việc bà được bổ nhiệm làm ứng viên sẽ được xác định vào tháng 8 qua cuộc bỏ phiếu của gần 4.000 đại biểu, mở đường cho một cuộc đọ sức chưa từng có giữa hai ứng viên hoàn toàn đối lập nhau. Donald Trump là người da trắng 78 tuổi, lớn lên trong giới đặc quyền ở New York. Bà là người thuộc chủng tộc hỗn hợp, 59 tuổi có cha mẹ là người nhập cư (mẹ làø khoa học gia Ấn Độ, cha là người Jamaica theo chủ nghĩa Mác), lớn lên ở San Francisco, cái nôi của phản văn hóa, của những tài năng dân chủ.

Bà Kamala Harris thách thức ông Donald Trump và các giám mục công giáo

Được bà mẹ bà-la-môn đơn thân theo dân quyền nuôi dưỡng, Kamala Harris tốt nghiệp Đại học Howard, “Harvard da đen” danh tiếng ở Washington, bà là thành viên “hội nữ sinh” AKA (Alpha Kappa Alpha) của một nhóm phụ nữ da đen mang sứ mệnh phục vụ cộng đồng của mình. Dấn thân này giúp bà bước vào thế giới pháp lý để cải thiện cho các chủng tộc thiểu số.

Năm 2003 bà về lại San Francisco, bà quyết định tranh cử lần đầu tiên. Với sự giúp đỡ của các nhà tài trợ quyền lực qua người bạn trai thị trưởng Willie Brown thời đó của San Francisco, bà đánh bại ông chủ cũ Terence Hallinan, đảng viên Đảng Dân chủ địa phương rất mạnh để trở thành người phụ nữ đầu tiên nắm chức vụ luật sư quận San Francisco. Sau đó bà là chưởng lý của California sau một cuộc bầu cử rất sát sao, rồi thành thượng nghị sĩ của bang Cali đông dân nhất nước Mỹ.

Một phó tổng thống khiêm tốn tìm được chỗ đứng cho mình

Được mô tả là người làm việc có chiến lược và tỉ mỉ – chắc chắn bà thừa hưởng những đức tính này từ quá khứ làm luật sư và từ người mẹ khoa học gia. Bà không phải là người thích phô trương. Bà đã nổi tiếng khi thương lượng lại một thỏa thuận vào phút cuối để bồi thường cho các chủ nhà bị mất nhà trong cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2009. Được bầu làm thượng nghị sĩ năm 2016, bà dẫn đầu cáo buộc chống ông Donald Trump, đặc biệt khi thẩm phán Đảng Bảo thủ Brett Kavanaugh được đề cử vào Tòa án Tối cao.

Nhưng ngôi sao quốc gia của bà không được tỏa sáng lâu. Là ứng  viên trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ năm 2019, bà buộc phải rút lui khi đụng phải những lời chỉ trích cho rằng bà là một “công tố viên cấp tiến”. Tại San Francisco, bà đe dọa bỏ tù phụ huynh của những học sinh trốn học trong bối cảnh vắng mặt nghiêm trọng. Điều này làm cho bà có biệt danh “cảnh sát Kamala”.

Với tư cách là phó tổng thống, bà bắt đầu nhiệm kỳ bằng chuyến đi Trung Mỹ bị chỉ trích nhiều. Năm 2021 bà được Nhà Trắng giao nhiệm vụ giải quyết “nguồn gốc” tình trạng nhập cư bất hợp pháp trong khu vực, một vấn đề bà không mong muốn, bà đã tận dụng chuyến đi này để kêu gọi những người sắp rời đi “đừng đến Hoa Kỳ”, bà là con gái của người nhập cư.

Ban đầu bà bị cho là “lu mờ” nhưng bà đã tìm được chỗ đứng, bà tổ chức các cuộc họp với các nhà lãnh đạo quốc tế và tiếp xúc với các nhà hoạt động thuộc nhiều thành phần khác nhau cho quyền công dân, dân tộc thiểu số, người khuyết tật, v.v.. Năm 2022, sau khi thu hồi quyết định “Roe v. Wade”, bà là người bảo vệ quyền phá thai, một chủ đề vận động của các đảng viên Đảng Dân chủ. Ngoài việc đến các trường đại học ở các Bang có xung đột để huy động giới trẻ, năm nay bà là Phó Tổng thống đầu tiên đến thăm một dưỡng đường phá thai.

Đầy tham vọng, liệu bà có thể trở thành nữ tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ không? Ông Chet Whye lạc quan: “Năm 2008, chúng tôi có một thượng nghị sĩ trẻ, gầy gò, da đen người châu Phi và chúng tôi đã giành chiến thắng.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bầu cử tổng thống Mỹ: ông Tim Walz đứng liên danh với bà Kamala Harris

Điều gì định hình nên tâm hồn con người?

Điều gì định hình nên tâm hồn con người?

Ronald Rolheiser, 2024-08-05

Trong một phần bài thơ Chiếc lá và đám mây, bà Mary Oliver mô tả cảm xúc của bà khi ở bên mộ cha mẹ. Bà suy nghĩ về cách vừa tính tốt vừa lỗi lầm của họ đã ảnh hưởng đến cuộc sống của bà. Bà kết thúc bài suy ngẫm bằng những từ này:

Tôi trao cho họ – một, hai, ba, bốn – nụ hôn lịch sự,

Của lời cám ơn ngọt ngào.

Tôi mong họ ngủ ngon. Mong họ dịu lại.

Nhưng tôi sẽ không cho họ nụ hôn đồng tình.

Tôi sẽ không cho họ trách nhiệm về cuộc đời của tôi.

Điều gì định hình nên tâm hồn chúng ta? Đâu là phần của bí ẩn? Đâu là phần của di truyền? Đâu là ảnh hưởng của người khác? Đâu là trách nhiệm của chính tôi? Khi tôi suy ngẫm về những gì đã định hình nên tâm hồn tôi, ảnh hưởng của cha mẹ tôi hiện lên rất lớn.

Một phần trong tôi là mẹ tôi. Bà là người nhạy cảm, người đôi khi không thể từ chối khi thấy cần làm. Vì vậy, bà thường cảm thấy quá căng thẳng và mệt mỏi. Ngày nay, một số người sẽ cho bà đã không giữ đúng ranh giới. Bà có mười sáu người con. Nên không có lý gì để chỉ trích bà.

Bà là người hào phóng, luôn cho đi mọi thứ. Khi còn nhỏ, đôi khi tôi giận bà vì chuyện này. Tôi không muốn một người mẹ hào phóng. Tôi muốn mọi thứ. Điều bà muốn là sự hòa thuận trong gia đình. Tôi nhớ một sáng thứ bảy bà đã chảy nước mắt khi bà dọn dẹp nhà cửa và cố gắng giữ hòa bình ổn định trong gia đình, vì gia đình đang hỗn loạn cãi vã nhau. Bà nói với chúng tôi bà thất vọng như thế nào vì gia đình không giống như Thánh Gia.

Chúng tôi không phải là gia đình Thánh Gia, đôi khi tôi thấy bà thất vọng, không phải với chúng tôi mà với sự bất cập của cuộc sống. Nhưng bà là người vui vẻ, có tinh thần lạc quan tự nhiên hơn cha tôi. Bà thích khiêu vũ hơn cha tôi, cười tự nhiên hơn và là người dễ gần gũi với chúng tôi khi chúng tôi còn nhỏ. Bà ít suy nghĩ về cuộc sống hơn cha tôi, dù không đến mức thiếu suy nghĩ như chúng tôi ngây thơ nghĩ. Trong một giai đoạn cuộc đời, bà đã viết nhật ký và bà cho thấy bà đã suy nghĩ sâu sắc hơn về mọi thứ so với những gì chúng tôi nghĩ.

Niềm khao khát sâu xa nhất của bà là một mái ấm thực sự và bà đã may mắn ở đây. Bà đã gặp cha tôi. Ngay sau khi họ gặp nhau cho đến ngày ông mất, cha mẹ tôi là bạn tâm giao theo đúng nghĩa của nó. Bà không cần phải kể cho cha tôi nghe các bí mật của bà hay chia sẻ với ông các thất vọng của bà, ngược lại, ông cũng vậy. Họ hiểu nhau mà không cần phải giải thích. Trong suốt những năm tháng lớn lên, tôi chưa bao giờ thấy họ hiểu lầm hay giận nhau.

Cha tôi mất vì ung thư, bà vẫn mạnh cho đến khi mất, ba tháng sau bà qua đời vì viêm tụy và vì nỗi cô đơn không thể chữa khỏi. Ngày nay, sẽ có người cho rằng hai người sống lệ thuộc nhau. Nhưng bà sẽ cười và nói với họ, bà đã có những gì bà muốn trong cuộc sống. Bà mất vì nhớ cha tôi, bà chết trong hạnh phúc. Có điều gì đó đáng ganh tị trong việc này.

Tôi là con trai của bà và khi tôi suy nghĩ nhiều về chuyện này, tâm hồn tôi trở nên ít bí ẩn hơn với những đấu tranh, lỗi lầm, khao khát và điểm mạnh của tôi. Tôi hiểu vì sao tôi mệt mỏi nhiều như vậy!

Và rồi một phần lớn trong tôi là cha tôi. Có rất nhiều điều trong tôi có thể giải thích bằng gen của tôi. Cha tôi không dễ dàng khiêu vũ dù ông là người giàu tình cảm. Khiêu vũ là quá trình diễn với ông. Ông thích thể hiện tình cảm nơi riêng tư. Ông yêu mẹ tôi, gia đình và tất cả mọi người trong gia đình, nhưng cách của ông là không công khai ở nơi công cộng. Ông có sự kín đáo đôi khi bị cho là lạnh lùng, nhưng phải đọc hành động nơi đôi mắt của ông. Đôi mắt nói lên một chuyện gì khác. Ông không thích phô trương, ghét những nghi lễ dài dòng, ghét những màn phô trương rẻ tiền nơi công cộng. Ông cũng không thích thái quá trong mọi thứ. Ông là người có phong cách điều độ, kiềm chế đúng mực trong mọi thứ. Gia đình chúng tôi thích nói đùa sự điều độ là sự thái quá duy nhất của ông.

Ông không khoan nhượng trong quá trình nuôi dạy chúng tôi. Ông đau khổ vì tất cả những gì không đúng trên thế giới và kiên nhẫn của ông không phải lúc nào cũng vượt qua được thử thách. Tôi sợ đôi mắt của ông những lúc tôi làm ông thất vọng. Tôi cũng sợ, và vẫn sợ, làm ông thất vọng. Ông là một trong những người đạo đức nhất mà tôi biết, ông có giác quan thứ sáu gần như không thể sai. Ông biết đúng sai theo cách tôi không thể nghi ngờ. Ông đã chỉ bảo tôi về chuyện này – bất chấp tôi phản đối. Nếu tôi phải xuống địa ngục, tôi không thể biện hộ rằng mình không biết. Cha tôi đã trang bị cho tôi về mặt đức tin và đạo đức cho cuộc sống. Nhưng tôi cũng có những lỗi lầm đi kèm với điều này, lỗi lầm của ông cọng thêm lỗi lầm của chính tôi.

Rất nhiều người trong chúng ta, điểm mạnh và điểm yếu bắt nguồn từ cách nuôi dạy chúng ta, nhưng dù sao, chúng ta vẫn phải chịu trách nhiệm cho cuộc sống của chính mình.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Phỏng vấn nhà báo Gerard O’Connell về tình bạn của ông với Đức Phanxicô và các bài phóng sự của ông

Phỏng vấn nhà báo Gerard O’Connell về tình bạn của ông với Đức Phanxicô và các bài phóng sự của ông

americamagazine.org, Connor Hartigan, 2024-08-05

 

Đức Phanxicô chào ông Gerard O’Connell, phóng viên tại Vatican của tạp chí America, trong buổi tiếp kiến các thành viên của Hiệp hội Nhà báo Quốc tế được công nhận tại Vatican ở Phòng Clementine của Dinh Tông tòa ngày 22 tháng 1 năm 2024. (Ảnh CNS/Vatican Media)

Bài tiểu luận này là một bài của Cover Story, chuyên mục hàng tuần của những bài được lựa chọn hàng đầu của các giám đốc biên tập của America Media.

Từ năm 2014, nhà báo Gerard O’Connell là phóng viên Vatican cho tạp chí America, trước đây ông viết các bài tường thuật cho nhiều báo công giáo khác nhau. Ông là người Ai-len, sống ở Rôma từ hàng chục năm nay, ông đưa tin về ba triều giáo hoàng, ông có mối quan hệ cá nhân thân thiết với Giáo hoàng Phanxicô. Ông là tác giả quyển Bầu chọn Đức Phanxicô: Bên trong Mật nghị làm thay đổi lịch sử (The Election of Pope Francis: An Inside Account of the Conclave That Changed History, 2019).

Tôi vừa có cuộc nói chuyện với ông O’Connell để tìm hiểu thêm về mục vụ truyền thông của ông tại thành phố trung tâm của đức tin công giáo.

Connor Hartigan: Ông có thể cho chúng tôi biết đôi chút về lý lịch của ông và làm thế nào ông là phóng viên Vatican cho America Media?

Gerard O’Connell: Tôi bắt đầu làm phóng viên Vatican cho tạp chí America trên chuyến bay Alitalia đưa Đức Phanxicô đi Đất Thánh tháng 5 năm 2014. Vài tháng trước đó, linh mục Dòng Tên Matt Malone tiếp xúc với tôi, ngài hỏi tôi có muốn là phóng viên ở Vatican cho tạp chí America không – tạp chí đầu tiên trong lịch sử ra đời năm 1909.

Lần đầu tiên tôi gặp linh mục Matt là trong mật nghị năm 2013, khi đó linh mục ở Rôma, là chủ tịch kiêm tổng biên tập vừa được tạp chí America bổ nhiệm, linh mục ở Rôma để đưa tin về sự kiện lịch sử này. Linh mục hỏi tôi ai có thể là giáo hoàng tiếp theo và rất ngạc nhiên khi tôi dự đoán Hồng y Jorge Mario Bergoglio, vì không ai nhắc đến tên hồng y này.

Lúc chúng tôi gặp nhau, tôi đang làm cho nhật báo Ý La Stampa và trang web Vatican Insider của tờ báo này. Tôi cũng là nhà phân tích Vatican cho CTV, kênh truyền hình tiếng Anh của Canada. Trước đó, tôi làm việc trong 10 năm cho The Tablet, tuần báo công giáo quốc tế xuất bản tại London, và 10 năm cho UCAN, hãng thông tấn công giáo chính tại châu Á. Kể từ năm 1985, tôi đưa tin về các sự kiện chính tại Vatican, gồm tất cả các thượng hội đồng, các chuyến tông du nước ngoài của Đức Gioan-Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI, sự kiện Đức Gioan-Phaolô II qua đời, Đức Bênêđíctô XVI từ nhiệm và các mật nghị năm 2005 và năm 2013.

Tôi chấp nhận đề nghị của linh mục Matt để làm việc cho tạp chí America vì từ lâu tôi ngưỡng phục sự dấn thân của Dòng Tên trong lãnh vực đức tin và công lý, phản ánh mạnh mẽ trong ban biên tập của tạp chí.

Việc đưa tin về Đức Phanxicô khác với việc đưa tin về các giáo hoàng khác như thế nào?

Sau khi đưa tin về ba giáo hoàng – Ba Lan, Đức và Argentina – tôi khám phá đây thực sự là một nhiệm vụ đầy thử thách và hấp dẫn, một nhiệm vụ không chỉ đòi hỏi hiểu biết sâu sắc về đức tin và lịch sử Giáo hội mà còn về kỹ năng ngôn ngữ. Thêm nữa, công việc này còn liên quan đến việc xây dựng mối quan hệ tin cậy với các giám chức chủ chốt của Vatican, các nguồn tin thân cận với giáo hoàng.

Trong trường hợp của Đức Phanxicô, tôi có lợi thế hiếm có là đã quen biết ngài gần 20 năm. Vợ tôi (Elisabetta Piqué cũng là nhà báo) và tôi đã biết ngài và là bạn của ngài từ rất lâu trước khi ngài được bầu làm giáo hoàng, tình bạn này vẫn kéo dài cho đến ngày nay. Tất nhiên, điều này đã tạo một khác biệt to lớn, giúp chúng tôi hiểu rõ ngài khi ngài nói và trong việc đưa tin chính xác cho các cơ quan truyền thông chúng tôi làm việc.

Rôma và Vatican đã thay đổi như thế nào trong thời gian ông làm việc ở đây?

Tôi sống ở thành phố này gần 40 năm nay, trong thời gian này tôi đã chứng kiến những thay đổi to lớn. Trước hết là thay đổi trong công nghệ ngành báo, thay đổi rất nhiều so với khi tôi bắt đầu viết.

Tôi chứng kiến an ninh được thắt chặt, đặc biệt chung quanh Vatican. Hệ thống giao thông công cộng được cải thiện, nhưng vẫn còn nhiều điều đáng mong đợi vì xe cá nhân vẫn tiếp tục lấn chiếm đường phố.

Rôma tiếp tục thu hút càng ngày càng nhiều khách hành hương và khách du lịch, hiện tại thành phố đang được sửa sang để chuẩn bị  cho Năm Thánh 2025, dự kiến sẽ có hơn 30 triệu khách hành hương đến thành phố gần 2.800 năm tuổi này.

Các bảo tàng Vatican đã được nâng cấp và tiếp tục thu hút hàng triệu du khách mỗi năm. Các quán bar, đặc biệt là các nhà hàng xung quanh Vatican và ở trung tâm thành phố tăng giá rất cao để bù đắp lỗ lã trong thời đại dịch. Giá phòng khách sạn cũng tăng cao.

Nhiều giám mục trong các chuyến thăm ad limina cho biết, dưới thời Đức Phanxicô Vatican đã trở thành nơi thân thiện hơn nhiều so với trước đây. Các quan chức Vatican nồng nhiệt chào đón và lắng nghe du khách, dù họ kà giám mục hay giáo dân. Tóm lại, thành phố đã thay đổi và Vatican đã thay đổi, cũng như cách tôi làm việc.

Cảm nhận của ông về Đức Phanxicô trong những ngày này như thế nào?

Ngoài vấn đề đi đứng, Đức Phanxicô có sức khỏe rất tốt, ngài không có vấn đề sức khỏe nghiêm trọng nào. Ngài thích công việc của ngài, ngài thích gặp gỡ mọi người. Ngài vẫn tiếp tục làm việc ngay cả trong thời gian nghỉ hè, ngài chuẩn bị chuyến đi Á châu dài ngày đến Indonesia, Papua Tân Ghinê, Đông Timor và Singapore vào đầu tháng 9. Cuối tháng 9, ngài đi các chuyến đi ngắn đến Luxembourg và Bỉ. Ngài đang có kế hoạch tổ chức công nghị để phong các tân hồng y trước cuối năm. Ngài sẽ họp phiên họp cuối cùng Thượng hội đồng vào tháng 10 và khai mạc Năm Thánh ngày 24 tháng 12, một tuần sau khi ngài mừng sinh nhật thứ 88. Không có dấu hiệu nào cho thấy ngài sẽ dừng lại, ngài tiếp tục sứ mệnh của ngài khi Chúa còn ban cho ngài sức khỏe.

Cảm nhận của ông khi đi máy bay với ngài và kinh nghiệm của ông về các cuộc họp báo trên máy bay như thế nào?

Là một vinh dự lớn lao khi được đi máy bay với ngài, chúng tôi có dịp để chào ngài riêng. Ngoài đoàn tùy tùng gồm đội an ninh và nhân viên y tế khoảng 20 người, sẽ có khoảng 75 nhà báo trên chuyến đi Á châu, chuyến đi nước ngoài dài nhất của ngài. Bây giờ ngài đã biết gần hết các nhà báo và đời sống của họ, vì khi chào các nhà báo, nhiều người đã kể cho ngài nghe câu chuyện của họ, họ gởi thư hoặc quà cho ngài. Với chúng tôi, gặp Đức Phanxicô là khoảnh khắc đặc biệt, ngài dành nhiều thì giờ cho từng người.

Các cuộc họp báo trên chuyến bay về Rôma là những khoảnh khắc rất được mong chờ. Đức Phanxicô không biết trước các câu hỏi và người hỏi phải sẵn sàng cho những điều bất ngờ khi ngài trả lời. Khi kết thúc phỏng vấn, chúng tôi bắt đầu làm việc, nhưng không dễ để tổng hợp những gì ngài nói. Đây là công việc rất bận rộn nếu thời gian hạ cánh ngắn.

Một ngày bình thường trong cuộc sống của ông ở Rôma như thế nào?

Là phóng viên của tờ America tại Vatican, tôi phải ứng trực 7/7 và 24/24, đặc biệt là dưới triều Đức Phanxicô. Bạn không được bỏ lỡ một tin tức quan trọng hoặc phạm một sai lầm lớn. Không ít lần, những câu chuyện quan trọng xuất hiện vào cuối tuần và đôi khi vào buổi tối khuya.

Một ngày bình thường của tôi bắt đầu với việc xem lại các báo chính của Ý để kiểm tra xem có câu chuyện nào liên quan đến Vatican không. Bạn phải xem qua chương trình nghị sự của giáo hoàng trong ngày. Bạn có thể phải dự một cuộc họp báo lớn. Bạn có thể phải sắp xếp hoặc thực hiện một phỏng vấn với một viên chức Vatican hoặc hồng y đến thăm, hoặc các chủ đề mà bạn quan tâm. Bạn thường phải đọc sách hoặc đọc các phỏng vấn có liên quan, nhận thông tin tóm tắt từ các nguồn đáng tin cậy và nói chuyện với đồng nghiệp. Nhiều lúc bạn nghĩ mình có một ngày rảnh rỗi nhưng rồi bạn ngạc nhiên khi vài giờ sau, Vatican công bố một số tin tức bất ngờ bắt bạn phải chăm chỉ làm việc trên máy tính.

Không ít lần, các phương tiện truyền thông khác trong lĩnh vực phát thanh hoặc truyền hình liên hệ với tôi để phỏng vấn hoặc để biết thông tin căn bản về các chủ đề liên quan đến Đức Phanxicô  hoặc Vatican. Đôi khi các nhà ngoại giao, các nhà báo, các nhà nghiên cứu hoặc sinh viên trong lãnh vực truyền thông liên hệ với tôi để xin thông tin hoặc lời khuyên, và đó là một đóng góp tôi rất vui khi làm.

Ngoài tất cả những điều trên, là phóng viên của Vatican là xây dựng lòng tin, phát triển mối quan hệ tốt với các quan chức trong Giáo triều la-mã và các nguồn thông tin khác. Điều này đòi hỏi chúng tôi phải dành nhiều thì giờ cho mọi người, mời các nguồn tin đi ăn hoặc uống nước và tôn trọng sự riêng tư. Mặc dù tốc độ được đánh giá cao và quan trọng trong phương tiện truyền thông ngày nay, nhưng tôi thường xem trọng sự chính xác hơn tốc độ bất cứ khi nào cần thiết.

Với Thượng hội đồng sắp tới, ông nghĩ Thượng hội đồng sẽ như thế nào và ông nghĩ gì về hướng đi mà Giáo hội đang hướng tới?

Từ lâu tôi nghĩ Thượng hội đồng này sẽ là một trong những sự kiện mang tính chuyển đổi quan trọng của Giáo hội công giáo kể từ Công đồng Vatican II. Tôi mong đợi Thượng hội đồng tháng 10 sẽ tiến triển vững chắc theo chiều hướng này, không phải bằng cách giải quyết một trong những câu hỏi nóng hổi, mà là về việc thúc đẩy tinh thần đồng trách nhiệm lớn hơn của tất cả các thành viên trong Giáo hội, đặc biệt là giao cho phụ nữ nhiều trách nhiệm hơn. Tôi mong đợi Thượng hội đồng sẽ định hình lại cách Giáo hội giải quyết các vấn đề trong tương lai theo cách đồng nghị ở cả cấp độ địa phương và quốc tế, vượt lên sự phân cực, duy trì sự thống nhất và trọng tâm truyền giáo.

Ông đang theo dõi những nhân vật nào trong Giáo hội?

Đây là câu hỏi dẫn đầu! Tôi luôn theo dõi những gì Đức Phanxicô đang làm và cách những người ở các vị trí cao trong Giáo triều Rôma và các giáo phận quan trọng trên toàn thế giới đang thực hiện sứ mệnh của họ. Tôi mong chờ xem ai là người Đức Phanxicô chọn làm hồng y trong công nghị cuối năm nay.

Làm việc trong một gia đình làm báo là như thế nào, cùng vợ đưa tin về các xung đột ở những nơi khác nhau trên thế giới? Công việc của ông có trùng với công việc của bà không?

Vừa thú vị vừa đầy thử thách. Thú vị, vì chúng tôi chia sẻ thông tin và thường có thể cùng nhau làm việc về các chuyện, và không ít lần kiểm tra những gì người kia viết. Thật là thử thách, đặc biệt là khi Elisabetta xa nhà để đưa tin về các cuộc xung đột, tôi vừa cố gắng theo dõi sát sao những gì vợ tôi làm, vừa chăm sóc hai đứa con tuổi teen của chúng tôi, tập trung vào công việc tôi phải làm cho tạp chí America.

Khi nhà tôi đưa tin về các cuộc xung đột, tôi học rất nhiều về chính trị và nỗi đau của những người ở các vùng chiến sự, gần đây nhất là ở Ukraine và Đất Thánh. Như Đức Phanxicô tiết lộ trước công chúng, tôi luôn ấn tượng về cách ngài thường xuyên gọi điện cho nhà tôi để hỏi thăm tình hình của bà và tìm hiểu những gì đang diễn ra ở tuyến đầu.

Marta An Nguyễn dịch

Chân phước Carlo Acutis: Đức tin và tình bạn, cầu nguyện cho bạn bè

Chân phước Carlo Acutis: Đức tin và tình bạn, cầu nguyện cho bạn bè

Trích sách “Chuyển giao đức tin theo cách Carlo Acutis, con chúng tôi”, Antonia Salzano và Andrea Acutis  (Transmettre la foi à l’école de notre fils Carlo Acutis, Antonia Salzano et Andrea Acutis, nxb. Salvator). Linh mục Giorgio Maria Carbone phỏng vấn ông bà Andrea Acutis và Antonia Salzano.

 

Carlo, vui vẻ năng động và có nhiều bạn bè. Carlo dành nhiều thì giờ cho các bạn, cầu nguyện cho họ, làm những việc hy sinh nhỏ cho các bạn. Với Carlo, tình bạn là đức tính vô cùng quan trọng của con người. Quyển sách  Hoàng tử bé của tác giả Pháp St-Exupéry mang tính quyết định với Carlo, Carlo cảm kích trước lời con cáo nói: “Chính thời gian bạn dành cho bông hồng của mình đã làm cho bông hồng trở nên quan trọng với bạn”. Carlo hiểu thì giờ chúng ta dành cho bạn sẽ làm cho người bạn đó trở nên đặc biệt, độc đáo và quan trọng. Và, ở trọng tâm tình bạn phải có lòng bác ái, đó là tình yêu mà chính Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Thời gian này dù ngắn hay dài cũng sẽ trở thành thời gian có phẩm chất.

Vì vậy, Carlo thường có mặt với các bạn và quan tâm đến họ, điện thoại, trao đổi với họ qua internet là chuyện thường ngày, cả khi chúng tôi không ở Milan. Carlo lắng nghe các bạn, chia sẻ sở thích của các bạn. Chúng tôi thấy mạng lưới tình bạn này trong tang lễ của Carlo ở nhà thờ giáo xứ Santa Maria Segreta ở Milan, nhà thờ đông nghẹt những người chúng tôi chưa từng gặp. Họ rất đa dạng, không phân biệt tuổi tác, nơi ở hoặc nghề nghiệp. Chúng tôi cảm thấy một điều gì đó rất đẹp, rất tích cực, gần như chúng tôi không dự đám tang mà dự đám tiệc. Thực tế với Carlo, đó là chặng đường từ cuộc sống này đến cuộc sống hạnh phúc. Niềm vui của chúng tôi đến từ lòng biết ơn của đám đông này dành cho Carlo. Chúng ta đừng nghĩ đây là những chuyện phi thường, đây là những chuyện nhỏ bé bình thường Carlo làm cho bạn bè.

Chẳng hạn với Neel, người Sri Lanka, trước đây Neel phụ trách giáo xứ. Neel cảm động với cách sống khác với các bạn trẻ cùng tuổi của Carlo. Neel nhận thấy Carlo không chỉ tôn trọng mà còn nhân hậu và thân thiện với mọi người. Carlo không bao giờ cao giọng, luôn tử tế và nhất là đón nhận Neel với nụ cười rạng rỡ. Sau khi Carlo qua đời, Neel mang đến cho chúng tôi bài thơ anh làm tặng Carlo khi Carlo còn sống. Chúng tôi nghĩ Carlo là một trong những người bạn thân của anh. Chúng tôi rất ngạc nhiên khi biết Carlo và anh chưa bao giờ nói chuyện trực tiếp với nhau. Con trai chúng tôi chỉ mỉm cười chào khi đi ngang qua Neel. Một lời chào đơn giản, một nụ cười tỏa nắng giống như mũi tên vàng chạm vào trái tim Neel.

Qua những cử chỉ mà tất cả mọi người đều có khi giao tiếp, Carlo cho chúng tôi bài học cao quý: mọi giây phút đều có thể sẽ khác đi nếu chúng ta sống một cách sâu đậm, chú ý đến người khác trong những cử chỉ nhỏ không bao giờ là nhỏ nhặt. Một nụ cười, một lời chào thân ái, những lời nói tế nhị luôn để lại dấu ấn. Mẹ Têrêxa Calcutta thường nói: “Chúng ta sẽ không bao giờ biết được tất cả những điều tốt đẹp mà một nụ cười đơn sơ có thể mang lại. Không có giây phút nào là giây phút tốt nhất để hạnh phúc.”

Trên đường đến trường, Carlo dừng lại chào các người gác cổng các tòa nhà trên đường phố. Thông thường, họ không phải là người châu Âu. Khi lớn lên, Carlo hoàn toàn xa lạ với bất kỳ hình thức phân biệt đối xử hay hợm người. Với Carlo, mọi bức tường ngờ vực, hận thù hay thờ ơ đều sụp đổ. Carlo vui vẻ chào hỏi, nói chuyện với mọi người, Carlo thấy nơi họ hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô, vì mọi người đều được tạo dựng theo hình ảnh Chúa Kitô, hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha.

Marta An Nguyễn dịch

Bài mới nhất