Hồng y Radcliffe, diễn giả lôi cuốn và “ngôi sao” của Thượng Hội đồng
Linh mục Timothy Radcliffe, Dòng Đa Minh người Anh là một trong 21 tân hồng y được Đức Phanxicô bổ nhiệm trong công nghị ngày 7 tháng 12-2024| © Grégory Roth
cath.ch, I.Media, 2024-12-13
Được phong hồng y ngày 7 tháng 12 năm 2024, Linh mục Timothy Radcliffe, 79 tuổi, vào Dòng Đa Minh cách đây 60 năm trước, ngài là hiện thân của Dòng. Với các sách được xuất bản trong 24 ngôn ngữ và với các hội nghị trên khắp thế giới, ngài nổi tiếng là diễn giả uy tín được kính trọng.
Tại Vatican, trong những năm gần đây, tiếng nói của ngài mang tinh thần Thượng Hội đồng về tính đồng nghị, dự án của Đức Phanxicô muốn có một Giáo hội ít giáo sĩ hơn, có tính tham gia nhiều hơn và toàn diện hơn. Cựu Giám tỉnh Dòng Đa Minh, ngài vẫn là linh mục và không phong giám mục như các hồng y khác. Ngài sẽ tiếp tục mặc áo trắng Dòng Đa Minh chứ không mặc màu tím hồng y.
Ngài cho biết ngài “bị sốc” khi nghe tin này. Ngày sẽ là cử tri nếu có mật nghị cho đến sinh nhật thứ 80 của ngài tháng 8 năm 2025. Dù sao, ngài có thể có ảnh hưởng trong việc chọn giáo hoàng tiếp theo, ngài là nhân vật được công nhận và đánh giá cao vì ý thức thỏa hiệp của ngài.
Tình trạng hỗn loạn của những năm 1960
Sinh ngày 22 tháng 8 năm 1945, năm 1965 ngài vào Dòng Đa Minh khi 20 tuổi. Ngài học thần học ở Paris với thần học gia Yves Congar, sau đó ngài học tại Oxford. Ngài chịu chức ngày 2 tháng 10 năm 1971. Ngài cho biết: “Tôi đã sống qua những năm 1960 đầy khó khăn, khi đó nhiều tu sĩ rời bỏ dòng. Đó là thời kỳ hỗn loạn”, nhưng ngài khẳng định ngài “bám chặt” vào con đường tu hành của mình, vì ngài đã nhận được “những lời dạy cao cả và tốt đẹp”.
Tinh thần hài hước người Anh
Khi bắt đầu công việc mục vụ, ngài giảng dạy Kinh thánh ở trường đại học Blackfriars Hall Oxford và ngài vẫn ở Oxford cho đến nay. Ngài làm bề trên tu viện Oxford từ năm 1982 đến năm 1988, rồi giám tỉnh Dòng Đa Minh từ năm 1988 đến năm 1992.
Qua năm tháng, ngài nổi tiếng quốc tế với các sách nói về cuộc gặp với đức tin. Ngài bác bỏ thuật ngữ “linh đạo” mà giới phê bình thường dùng để nói về các tác phẩm của ngài, ngài xem đó là một tư tưởng thần học. Ngài nổi tiếng đến mức các phương tiện truyền thông cho ngài là “giáo hoàng” trong mật nghị năm 2005 dù ngài không phải là hồng y.
Trong các bài giảng, ngài trích nhiều tác giả, thi ca và văn học thế tục làm độc giả ngạc nhiên khi họ thấy được những điểm khác nhau. Nhưng nhất là trong các bài giảng của ngài, ngài chêm vào những câu chuyện hài hước của truyền thống nước Anh: “Tôi ý thức, khi nói chuyện với khán giả, nếu tôi không giữ chân họ bằng chuyện cười hoặc bằng giọt nước mắt thì sau vài phút họ sẽ ngủ gục.”
Giám tỉnh Dòng Đa Minh
Được bầu làm Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh năm 1992, ngài là người kế vị thứ 84 của Thánh Đôminicô. Ngài ở chức vụ này cho đến năm 2001, ngài đã đi mọi châu lục (trừ Nam Cực) để thăm nhiều cộng đồng khác nhau, tổ chức hội nghị và hướng dẫn các khóa tĩnh tâm. Ngài thành lập mạng lưới Giáo dân Tình nguyện Đa Minh Quốc tế để đi truyền giáo và góp phần thành lập văn phòng đại diện của các tu sĩ Dòng Phanxicô và Đa Minh tại Liên Hiệp Quốc.
Ngài là giám đốc Viện Las Casas tại Blackfriars Hall, cơ quan thúc đẩy công bằng xã hội và nhân quyền từ năm 2014 đến năm 2016. Năm 2015, ngài được bổ nhiệm làm cố vấn cho Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình tại Giao triều Rôma, bây giờ thuộc bộ Phát triển Nhân bản Toàn diện. Ngài có chân trong Hội đồng về các phương pháp tiếp cận của kitô giáo trong việc phòng thủ và giải trừ quân bị.
Vượt lên các chia cắt
Ngài là diễn giả nhận được nhiều tưởng thưởng. Quyển sách Ý nghĩa nào trong việc trở thành người tín hữu kitô? (What Is the Point of Being a Christian) được Giải thưởng Michael Ramsey năm 2007, ngài nhận bằng tiến sĩ danh dự của 13 trường đại học trong đó có các trường Oxford, Fribourg và Angelicum ở Rôma. Ngài có chân trong hội “Freeman” của Thành phố Luân Đôn, một hiệp hội thúc đẩy các hoạt động từ thiện ở thủ đô Anh quốc.
Ngài vừa khỏi bệnh ung thư hàm nặng làm ngài bị suy giảm khả năng nói. Ngài được Đức Phanxicô bổ nhiệm làm phụ tá thiêng liêng cho Thượng Hội đồng về tính đồng nghị, các suy ngẫm của ngài được chú ý và được đánh giá cao. Trong các bài can thiệp, ngài không ngừng kêu gọi vượt lên chia rẽ “giữa cấp tiến và bảo thủ”.
Gần gũi với bệnh nhân AIDS
Trong những năm 1980, ngài giúp đỡ các bệnh nhân AIDS – ngài là một trong những linh mục người Anh đầu tiên làm mục vụ cho họ, và đã làm ngài nổi tiếng là người “ủng hộ LGBT”. Ngài không ngần ngại bảo vệ điều tốt đẹp trong mối quan hệ giữa hai người cùng giới, nhưng ngài vẫn là người bảo vệ học thuyết của Giáo hội về hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Vào thời điểm xuất bản tài liệu Fiducia supplicans (tháng 12 năm 2023) cho phép chúc phúc cho các cặp đồng tính, một lần nữa ngài thể hiện quyền tự do ngôn luận của ngài, ngài chỉ trích những tâm trí bất an cũng như việc thiếu tham khảo ý kiến, đặc trưng của văn bản này của bộ Giáo lý Đức tin.
Nghệ thuật của nghịch lý
Ngài thường hay nói: “Ai cũng nghĩ học thuyết là giáo điều, nó không cho phép mình tự suy nghĩ. Tôi có thể nói đó là hoàn toàn sai.” Ngài nhìn thấy trong việc nghiên cứu học thuyết “một hành trình khám phá vô tận, một hành trình giải phóng”. Ngài không ngần ngại áp dụng nghệ thuật nghịch lý của ngài: “Tôi nghĩ niềm vui lớn nhất là phát hiện ra rằng bạn đã sai lầm trong suốt cuộc đời về một chủ đề nào đó. Nó rất tự do.”
Sẽ còn một thời gian ngắn nữa là đến sinh nhật 80 của ngài, ngài là một ba hồng y cử tri người Anh Vincent Nichols và Arthur Roche. Ngài là một trong hai tân hồng y Đa Minh cùng với Tổng Giám mục Alger Jean-Paul Vesco.
Marta An Nguyễn dịch
Timothy Radcliffe: “Tương lai càng nguy hiểm thì việc cùng nhau đi tìm lợi ích chung càng cấp bách”