Trong 19 năm truyền giáo ở Mông Cổ, linh mục Viscardi chứng kiến một Giáo hội nhỏ phát triển
Nhà truyền giáo hoạt động Hội dòng Consolata mô tả sự phát triển của cộng đồng người Mông Cổ, được tái sinh sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, nhờ những nhà truyền giáo đầu tiên nói chuyện với trẻ em ở miệng cống. Nói về chuyến đi đặc biệt của Đức Phanxicô đến Mông Cổ, linh mục cho biết: “Đây sẽ là giây phút đặc biệt… Trong nhà thờ chính tòa, chúng tôi sẽ chụp tấm hình chung, lần đầu tiên toàn Giáo hội sẽ có trong một bức ảnh”.
Đức Phanxicô và các giáo sĩ ở nhà thờ chính tòa Thánh Phêrô Phaolô sáng thứ bảy 2 tháng 9-2023
vaticannews.va, Salvatore Cernuzio, đặc phái viên tại Oulan-Bator, 2023-09-02
Linh mục Ernesto Viscardi, người Ý đã sống 19 năm ở Mông Cổ. Mười sáu năm khác ở Châu Phi, linh mục thuộc Dòng Thừa sai Consolata, dòng đầu tiên chứng kiến sự hồi sinh của Giáo hội Mông Cổ sau quá trình sụp đổ của chế độ cộng sản trong những năm 1990 và bước qua chế độ dân chủ. Linh mục Ernesto là một trong số các nhà truyền giáo người Ý đầu tiên đến Mông Cổ năm 2003, đáp lời mời gọi của tổng giám mục Wenceslao Padilla, giám quản Tông tòa đầu tiên của Oulan-Bator, một “Giáo hội nhỏ”. Một Giáo hội ngày nay tuy giới hạn về số lượng nhưng lại vĩ đại về công việc, Đức Phanxicô sẽ chứng kiến trong chuyến tông du của ngài ở Mông Cổ.
Một ngôi nhà nguyện nhỏ trong chiếc lều của người Mông Cổ
Trong một phỏng vấn với Vatican News, linh mục Ernesto suy nghĩ về những thách thức trong tương lai: bây giờ chúng tôi cần một “thay đổi” và sẽ chuyển từ cam kết xã hội sang cam kết mục vụ. Sẽ không còn là Giáo hội của những người truyền giáo, nhưng là Giáo hội của người Mông Cổ hoàn toàn.
Cha đã thấy những bước đầu tiên của Giáo hội này. Đâu là sự tiến triển kể từ khi các nhà truyền giáo đầu tiên đến đây, và sự đóng góp của Giáo hội cho cơ cấu xã hội của Mông Cổ trong ba mươi năm qua là gì?
Linh mục Ernesto Viscardi: Các nhà truyền giáo đầu tiên đến đây năm 1992, khi đất nước mở cửa ra với dân chủ sau 70 năm dưới chế độ cộng sản. Đó là thời gian xã hội còn “bình thản”, rất yên tĩnh, một dân tộc sống ngày qua ngày với lịch sử của họ, với tất cả những gì mình có. Và rồi, đột nhiên, những năm đó chứng kiến sự phát hiện các mỏ nổi tiếng ở sa mạc Gobi và nhờ đó có được khối tài sản khổng lồ. Vì thế đã đẩy nhanh phong trào kinh tế và tiến bộ của đất nước, đất nước bắt đầu tự tổ chức để độc lập hơn về kinh tế và chính trị. Điều này đòi hỏi một nỗ lực vì việc chuyển từ hệ thống xã hội chủ nghĩa sang hệ thống dân chủ và kinh tế thị trường là một bước tiến rất lớn. Đó là những năm tháng khó khăn, song song với thời kết thúc của nước Nga, khi mọi người nghĩ mọi thứ ở đây cũng sắp sụp đổ. Nhưng thay vào đó lại có một cuộc phục hưng và chính trong những năm này, ba nhà truyền giáo đầu tiên đã đến, trong đó có giám mục Padilla, người khai sinh ra Giáo hội Mông Cổ. Đó là bước đầu của Giáo hội, hay đúng hơn là bước đầu của một Giáo hội sắp được khai sinh. Một cách nào đó, Giáo hội Mông Cổ đã đi vào thế giới.
Nhóm truyền giáo đầu tiên này đã làm gì?
Họ đã tự hỏi: phải làm gì bây giờ? Bắt đầu từ đâu? Làm việc với ai? Ai ở đây? Không có ai cả. Họ bắt đầu bằng cách nhìn xung quanh, và khi đi thăm thành phố, họ thấy các người trẻ sống ngoài đường, các em bé sống ở các miệng cống gần đường ống sưởi ấm của thành phố, để có thể sống sót trong mùa đông. Họ tự nhủ: tại sao không bắt đầu với những em bé này? Đó là nơi mọi chuyện bắt đầu, từ cống rãnh.
Sau đó, các hội dòng khác đến….
Đúng vậy, và hoạt động xã hội đầu tiên của Giáo hội bắt đầu phát triển. Các tu sĩ dòng Salêdiêng đến, các nữ tu Hàn quốc, các trường học, nhà trẻ và trung tâm trẻ em được mở cửa, các nữ tu dòng Mẹ Têrêxa chăm sóc người lớn tuổi, v.v. Như thế, hoạt động của Giáo hội đã phát triển đến ngày hôm nay, trong số 77 nhà truyền giáo có mặt ở Mông Cổ, hai phần ba tham gia toàn thời gian vào công việc mục vụ xã hội. Tuy nhiên, hồng y giám quản Tông tòa Giorgio Marengo, cùng dòng Thừa sai Consolata với chúng tôi nhấn mạnh ở điểm căn bản: chúng tôi cam kết làm việc bác ái, điều này quan trọng với chúng tôi. Nhưng điều quan trọng hơn bây giờ là phải cởi mở với công việc mục vụ cụ thể của mình, đó là loan báo Tin Mừng, làm cho mình được biết đến như một cộng đồng giáo dân gắn bó với Chúa và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Tôi nghĩ đây sẽ là ưu tiên hàng đầu trong những năm tới.
Cha mô tả Giáo hội này “đang đi vào thế gian”, liệu 31 năm sau, chúng ta có thể còn nói như vậy được không?
Đã có thay đổi, nhưng chắc chắn đây vẫn là một cộng đồng rất nhỏ chỉ có khoảng 1.500 người được rửa tội. Tuy nhiên, chúng tôi không nhìn vào số lượng nhưng vào chất lượng. Và về điểm này, đã có những tiến bộ quan trọng, trước tiên là chúng tôi đã có hai linh mục địa phương, sau đó là có sự gia tăng số lượng người được Giáo hội đào tạo, số dự tòng được rửa tội, số các thừa tác viên làm toàn thời gian tại 9 giáo xứ trong và ngoài thành phố. Tôi làm công việc đào tạo người Mông Cổ, ngày nay chúng tôi có một số lượng lớn các kitô hữu công giáo được rửa tội, họ dấn thân và được đào tạo, một số được đào tạo ở Phi Luật Tân, ở Hàn quốc và ngay cả ở Ý.
Trong tương lai gần triển vọng của Giáo hội Mông Cổ là gì?
Như hồng y Marengo luôn nhắc lại, chúng tôi phải phục hồi phần thiêng liêng trong mục vụ của chúng tôi. Chúng tôi đã thực hiện rất nhiều công tác xã hội và chúng tôi là những nhà tổ chức rất giỏi, giống như tất cả các nhà truyền giáo, nhưng tôi nghĩ châu Á, về bản chất, đòi hỏi chúng tôi phải là chuyên gia về Chúa, hơn là nhà tổ chức giỏi. Đây cũng là điều mà Đức Phanxicô thường nói, có nghĩa là chúng tôi phải nhấn mạnh đến con người hơn là những gì mình làm. Vì thế, tương lai chắc chắn sẽ được đánh dấu bằng việc tiếp tục công việc rao giảng, đồng hành thiêng liêng và đào tạo các cộng đồng giáo dân. Khi đó chúng tôi sẽ phải chuẩn bị nhân sự địa phương, như đã từng làm ở châu Phi. Ai đã truyền giáo cho châu Phi? Dĩ nhiên là các nhà truyền giáo cũng như các giáo lý viên, giáo dân địa phương và chúng tôi cũng sẽ phải làm như vậy ở đây. Muốn thiết lập một Giáo hội mang ý nghĩa Mông Cổ thì phải do người Mông Cổ làm. Tóm lại, ít nhà truyền giáo hơn và nhiều người Mông Cổ hơn.
Trung tâm chăm sóc Verbist ở Oulan-Bator, niềm hy vọng của các trẻ em nghèo
Chúng ta nhìn về tương lai nhưng không quên quá khứ, những năm tháng sống dưới sự cai trị của cộng sản, hoặc quay về thời xa xưa hơn, từ đế chế Thành Cát Tư Hãn. Hành trang này có ảnh hưởng gì đến việc xây dựng bản sắc tôn giáo ở Mông Cổ không?
Bảy mươi năm chủ nghĩa cộng sản, một chủ nghĩa cố gắng xóa bỏ ký ức lịch sử và tôn giáo, nhưng không bao giờ thành công, lịch sử này vẫn tồn tại trong một thời gian dài. Khi lịch sử Mông Cổ mới bắt đầu vào những năm 1990, chúng tôi phải tìm kiếm những yếu tố để có căn tính. Và đó là gì? Trước hết phải kể đến Thành Cát Tư Hãn, người đã lập nên tổ quốc và có tạo một ít vinh quang cho đất nước này. Khía cạnh thứ hai là tôn giáo, do đó sự phục hồi của phật giáo là một yếu tố của bản sắc dân tộc. Thứ ba là lãnh thổ và thứ tư là tất cả các truyền thống: từ đơn giản nhất đến các lễ kỷ niệm lớn, các nghi thức phụng vụ cho ngày sinh, ngày tử, các ngày lễ quốc gia, v.v. Do đó, đất nước này đã cố gắng tìm lại bản sắc của mình qua các biểu tượng đã từng định nghĩa và tiếp tục định nghĩa nó cho đến ngày nay.
Trong bối cảnh này, việc giáo hoàng đến hôm nay có ý nghĩa gì?
Trên hết đó là một bất ngờ lớn. Ai có thể tưởng tượng giáo hoàng, mục tử của cả tỷ người công giáo lại đến thăm một Giáo hội chỉ có 1.500 tín hữu? Cả một ngạc nhiên, niềm vui và lòng biết ơn. Tôi nghĩ đó là những từ định nghĩa cho chuyến đi này. Tất cả chúng tôi đều phấn khích… Bây giờ giáo hoàng mang đến cho chúng tôi điều gì? Ngài mang đến cho chúng tôi con người của ngài, con người của Phanxicô, đó là phong cách sống, một phong cách đơn giản, gần gũi với người dân ở các vùng ngoại vi – và chúng tôi là Giáo hội của các vùng ngoại vi – một cam kết cho hòa bình. Với người công giáo Mông Cổ chúng tôi, ngài mang thông điệp: số lượng của anh chị em rất ít, nhưng chứng từ của anh chị em, cuộc sống của anh chị em rất quan trọng, vì đó là dấu chỉ sự hiện diện của Giáo hội. Dĩ nhiên ngài cũng sẽ nói về đối thoại liên tôn giáo, vì chúng tôi là thiểu số trong truyền thống phật giáo Mật tông Tây Tạng. Cuối cùng, Đức Phanxicô cũng sẽ không quên – vì đây là điều ngài khắc ghi trong lòng – xin chúng tôi cầu nguyện và dấn thân cho hòa bình.
Đây là chuyến thăm rất “gia đình”, không có đám đông lớn trên đường phố như thường thấy khi ngài đến thăm một quốc gia nào. Có những nhóm nhỏ đứng rải rác đây đó chào ngài. Nhưng tôi xin nhắc lại, đây là chuyến thăm rất gia đình: chiều thứ bảy 2 tháng 9, khi chúng tôi đến nhà thờ chính tòa, tất cả chúng tôi sẽ chụp ảnh với ngài. Toàn bộ Giáo hội Mông Cổ sẽ ở trong một bức ảnh. Thật phi thường!
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Giáo hội rất nhỏ, chuyến thăm rất gia đình nên xe giáo hoàng cũng rất nhỏ.
Bà trao đổi với Đức Phanxicô ở chiếc lều nhỏ trước nhà thờ chính tòa Thánh Phêrô Phaolô sáng thứ bảy 2 tháng 9-2023