Lễ hội Khuree Tsam – Đạo saman vẫn còn rất lớn ở Mông Cổ. ALAMY STOCK PHOTO
lemonde.fr, Gaetan Supertino, 2023-08-27
Nhân chuyến tông du của Đức Phanxicô đến Mông Cổ từ ngày 31 tháng 8 đến ngày 4 tháng 9, trong một phỏng vấn với báo Le Monde (Thế giới), nhà nhân chủng học Grégory Delaplace phân tích tầm quan trọng của chuyến đi này với tình hình tôn giáo của đất nước, nơi tôn giáo có một vị trí ưu việt. Phật giáo và đạo saman không ngăn cản các tôn giáo khác tồn tại, thậm chí còn được phát triển.
Đức Phanxicô sẽ đi Mông Cổ từ ngày thứ năm 31 tháng 8 và ở lại đây đến ngày thứ hai 4 tháng 9. Đây là chuyến tông du đầu tiên của một giáo hoàng đến quốc gia Đông Á, nơi có một trong những cộng đồng công giáo nhỏ nhất thế giới, chỉ có 1.500 giáo dân trong tổng số 3 triệu dân. Nằm giữa Nga – Mông Cổ là vệ tinh của thời Liên Xô – và Trung Quốc – đối tác thương mại chính của Mông Cổ – Mông Cổ là đối tác ngoại giao quan trọng của Tòa thánh.
Nhưng đất nước thuộc cựu Liên Xô này đại diện cho vùng đất truyền giáo có tiềm năng to lớn đối với Đức Phanxicô, ngài có ý làm nổi bật các vùng ngoại vi của Giáo hội. Tháng 8 năm 2022, ngài phong hồng y cho nhà truyền giáo người Ý Giorgio Marengo, giám quản Tông tòa Oulan-Bator, thủ đô Mông Cổ, hồng y Marengo 48 tuổi, là hồng y trẻ nhất thế giới.
Nhưng liệu thực sự có chỗ cho sự phát triển của đạo công giáo ở Mông Cổ không? Trong cuộc phỏng vấn với Le Monde, nhà nhân chủng học Grégory Delaplace phân tích bối cảnh tôn giáo của đất nước, một đất nước đang tiếp tục định hình theo những biến động của lịch sử.
Xin ông cho biết tôn giáo chính ở Mông Cổ là tôn giáo nào?
Grégory Delaplace – Chắc chắn tôn giáo hiện tại và có ảnh hưởng nhất vẫn là phật giáo của trường phái Gelugpa (tông của những hiền nhân) còn được gọi là “phái mũ vàng” – vì màu y phục của các nhà sư và chức sắc. Đây là trường phái mà Đức Đạt Lai Lạt Ma là đại diện cao nhất, và vì thế không phải là không tạo căng thẳng liên tục với Trung Quốc.
Từ năm 1921 đến năm 1924, trước khi thành lập một nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô Viết, Mông Cổ thực sự đã có vài năm ở chế độ thần quyền, được một chức sắc cao cấp của phật giáo Gelugpa lãnh đạo. Lúc đó ảnh hưởng của giới tăng lữ phật giáo rất quan trọng. Được hưởng lợi từ những khoản đóng góp lớn, các tu viện là những tổ chức giàu có và quyền lực nhưng cũng là nơi có tầm mức đào tạo trí tuệ cao. Ngoài ra, mỗi gia đình phải gởi một đứa con vào tu viện. Người ta có thể nói, có một Quốc gia trong một Quốc gia, điều mà chế độ xã hội chủ nghĩa không thể chấp nhận. Vì thế năm 1930, giới tăng lữ đã bị đàn áp rất nặng.
Ngày nay, các nhà sư ít hơn và quyền lực ít hơn nhưng sự hiện diện của họ vẫn còn rất lớn trong xã hội. Toàn bộ đời sống tôn giáo của đất nước được cấu trúc qua các nghi thức phụng vụ phật giáo. Chẳng hạn, trong dịp Tết Nguyên đán, đông đảo tín hữu đến các tu viện, các chùa để xin lộc, xin xăm đầu năm để suốt năm làm ăn may mắn thịnh vượng, không xui xẻo, tránh những gì phải tránh, để tạ ơn cho năm qua, để xem bói cho năm tới, v.v.
Theo thống kê, có hơn 50% người dân tuyên bố mình theo đạo phật, tuy vậy việc tuyên bố này không có ý nghĩa gì nhiều, vì nhiều người không cho mình là phật tử nhưng họ vẫn đến chùa, đến tu viện dự tang lễ hoặc giải quyết các vấn đề liên quan đến chiêm tinh chẳng hạn.
Còn đạo saman là gì và vẫn còn rất hiện hữu ở Mông Cổ?
Rất khó để thiết lập và định lượng vì người dân có thể nói mình thuộc một tôn giáo khác, nhưng lại giữ một niềm tin nào đó liên quan đến đạo saman. Hầu hết người Mông Cổ mà tôi biết, từ học giả thành thị đến nhà sư du mục, vào một lúc nào đó trong cuộc đời, họ đều đã từng đến gặp một thầy pháp.
Ở Mông Cổ, khi có điều gì không ổn, bản năng đầu tiên của người dân là đến tu viện phật giáo. Ở đó tất cả đến rất chuẩn mực: có quầy tính tiền với danh mục các lời cầu nguyện mà hầu hết mọi người đều đã biết; người dân chọn lời cầu nguyện; hỏi ý kiến một nhà sư, nhà sư sẽ đưa ra một số nghi thức nào đó để giải quyết vấn đề hoặc để cho lời khuyên.
Nhưng nếu vấn đề vẫn còn hoặc nặng hơn, chẳng hạn họ vẫn còn mơ đến những người đã chết hoặc những người chết chung quanh họ thì chắc chắn họ sẽ gặp một người khuyên họ nên đi gặp một thầy cúng. Các thầy cúng này vẫn còn rất nhiều ở Mông Cổ. Kể từ khoảng năm 2010, ở Oulan-Bator ai cũng biết có người nào đó chung quanh mình, nam hay nữ là thầy cúng hoặc muốn học làm thầy cúng.
Ở một số trường hợp nào đó, thầy cúng sẽ cho họ biết vấn đề của họ liên quan đến một tổ tiên nào đó bất bình, họ phải trở lại đạo saman và một người trong gia đình họ sẽ phải thành thầy cúng.
Đề nghị đưa lại cho đạo saman một chỗ đứng trong xã hội được lưu truyền rất nhiều trong giới trẻ thành thị ngày nay. Tuy nhiên có nhiều người bắt đầu theo sáng kiến này nhưng họ không đi trọn đường, vì đòi hỏi nguồn sức và dấn thân lâu dài, đồng thời đương sự phải có một số khuynh hướng mà các thầy cúng xác định xem họ có khả năng linh cảm, cảm nhận được sự hiện diện của người chết, v.v., điều mà không phải ai cũng có.
Ngoài ra còn có một số người theo đạo saman có giáo điều hơn. Họ tố cáo phật giáo, xem phật giáo là tôn giáo của người Trung quốc áp bức ngày xưa, họ kêu gọi người dân quay về với đạo saman nguyên thủy, tôn giáo được cho là của Thành Cát Tư Hãn (khoảng 1155-1227).
Tuy nhiên, đề nghị này thực sự không có một lối thoát chính trị nào. Liên minh ngai vàng và bàn thờ giữa phật giáo và quyền lực ở Mông Cổ đã quá cố thủ và không một chính trị gia nào có thể thực sự tán thành một diễn từ dân tộc chủ nghĩa như vậy. Tình hình địa chính trị không cho phép chính phủ có thái độ bài Trung quốc, trong khi sự ngờ vực, thậm chí căm ghét người Trung Quốc đang lan rộng trong dân chúng.
Kitô giáo có được chấp nhận tốt ở đất nước này không?
Kitô giáo đã hiện diện rất lâu ở đây. Vào thế kỷ 13, triều đình của Thành Cát Tư Hãn đã có những người lạc giáo nestôriô, họ là các tín hữu kitô phương Đông. Vì thế khi nhà truyền giáo dòng Phanxicô Guillaume de Rubrouck đến vào khoảng năm 1253 để rao giảng Tin Mừng và giữ một đại sứ quán nhân danh Thánh Lu-i, ông đã rất ngạc nhiên trước ảnh hưởng của người nestôriô tại triều đình. Thành Cát Tư Hãn được biết đến là người có tất cả các tôn giáo bao chung quanh, ông để các tôn giáo này cạnh tranh với nhau. Cháu nội của ông là Hốt Tất Liệt (1215-1294) theo phật giáo. Ông này đưa phật giáo vào triều đình và loại các tôn giáo khác.
Sau đó người ta không nghe nhiều về kitô giáo ở Mông Cổ, cho đến năm 1911 (ngày triều đại Mãn Châu sụp đổ và Mông Cổ cố gắng dành độc lập trước Trung Quốc); từ đó đất nước mở cửa với thế giới bên ngoài. Nhưng quyền lực của giới tăng lữ phật giáo vẫn rất mạnh, và việc thành lập Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ năm 1924, theo mô hình Liên Xô, đã nhanh chóng tạo ra một lực cản mới cho kitô giáo ở đất nước này. Phải chờ Hiến pháp năm 1992 để Mông Cổ mới thực sự mở rộng sang các tôn giáo khác và bảo đảm tự do tôn giáo.
Ngày nay, kitô giáo đã được thiết lập vững chắc, đặc biệt là với đạo tin lành Hàn quốc. Nhiều người Mông Cổ qua làm việc ở Nam Hàn và một số trở lại kitô giáo ở đây, dù đây là hiện tượng của người dân ở thành thị. Đó là một kitô giáo rất sùng đạo, dẫn đến những thay đổi căn bản và hữu hình trong cuộc sống – như việc ngừng uống rượu và hút thuốc lá.
Còn công giáo thì sao?
Công giáo vẫn còn thiểu số, cả về tiền bạc lẫn ảnh hưởng. Có lẽ cũng do thái độ của các linh mục tại chỗ, họ ít chiêu dụ hơn các mục sư tin lành Hàn quốc. Các linh mục công giáo Pháp mà tôi gặp vào cuối những năm 2000 kể cho tôi nghe những trao đổi của họ với người dân. Họ mong các linh mục sẽ thay thế chỗ của các nhà sư phật giáo, họ xin các linh mục phải quyết định giống họ về các câu hỏi rất cụ thể mà họ không mong phải đối diện: khi nào tôi nên cắt tóc? Làm cách nào để chôn cất các người chết của tôi? Tôi nên làm gì vào ngày Tết?
Các linh mục trả lời người dân phải giữ truyền thống của mình, các linh mục chỉ ở đây để loan báo Tin Mừng và ơn cứu chuộc. Tuy nhiên, đối với các tín hữu, mọi việc không hề suôn sẻ: họ mong đợi những chỉ thị rất cụ thể.
Còn chủ nghĩa vô thần thì sao? Mông Cổ có phải là một xã hội đang trong quá trình thế tục hóa?
Từ những năm 1920 đến những năm 1980, chủ nghĩa vô thần được chính quyền cộng sản thúc đẩy mạnh mẽ. Sự tiếp xúc lâu dài với hệ tư tưởng chống tôn giáo theo chủ nghĩa Mác-Lênin chắc chắn không phải là không liên quan đến ý tưởng thường được gợi lên ở Mông Cổ, rằng các tôn giáo là “dối trá”, và những người theo đạo (đặc biệt là các nhà sư và pháp sư phật giáo) đều là những lang băm. Nhưng không vì thế mà ngăn họ dùng dịch vụ của các nhà sư, thậm chí của các pháp sư, khi họ cần như tổ chức tang lễ cho người thân. Kịch bản này cũng khá hiếm: nhiều người nói họ theo phật giáo, nhưng họ đi theo pháp sư, đồng thời buộc tội một số pháp sư và một số nhà sư là kém cỏi và không trung thực.
Mặc dù Hiến pháp đảm bảo quyền tự do tôn giáo ở Mông Cổ nhưng ông lại đề cập đến “một hình thức liên minh giữa ngai vàng và bàn thờ”, giữa phật giáo và quyền lực của chính quyền Mông Cổ. Trong thực tế, điều này xảy ra như thế nào?
Ở Mông Cổ thực sự có tự do tôn giáo. Kể từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa kết thúc, không còn bất kỳ sự đàn áp hay phân biệt đối xử nào vì lý do tôn giáo. Ngoài ra còn có sự phân chia chính thức, được quy định trong Hiến pháp, giữa tôn giáo và Nhà nước, không còn là một chế độ thần quyền như trong thời gian ngắn giữa năm 1921 và 1924. Nhưng trên thực tế, phật giáo có một số ưu việt nào đó.
Điều này đã được xác nhận, chẳng hạn, khi chính phủ giao cho các tu sĩ phật giáo xử lý hài cốt của hai nhân vật vĩ đại của cuộc cách mạng Mông Cổ, ông Choybalsan, “Stalin người Mông Cổ” qua đời năm 1952, và ông Sükhbaatar, một anh hùng khác của cách mạng độc lập qua đời năm 1923, năm 2005 hài cốt của ông được chuyển đến một nghĩa trang sau khi lăng mộ của ông bị phá hủy.
Hơn nữa, Hoa Kỳ thường xuyên gây áp lực lên chính phủ Mông Cổ để tính ưu việt được công nhận này của phật giáo bị suy giảm và Nhà nước có nhiều động lực hơn trong việc khuyến khích cởi mở ra với các tôn giáo khác, nhất là nới lỏng luật pháp chống lại việc trở lại, buộc bất kỳ nhóm tôn giáo mới nào, hoặc bất kỳ Giáo hội mới nào phải được phép chính thức mới được thiết lập. Đó là phương tiện rất cụ thể được dùng để hạn chế sự truyền bá của một số tôn giáo nào đó ở Mông Cổ như kitô giáo hoặc hồi giáo.
Đức Phanxicô biện minh cho chuyến đi của ngài khi ngài mong đặt “các vùng ngoại vi vào trung tâm Giáo hội”, chuyển hướng sự chú ý từ phương Tây sang các khu vực mà người công giáo thường bị lãng quên. Theo ông, những thách thức khác của chuyến đi này là gì?
Đây là một câu hỏi khó có thể đưa ra câu trả lời rõ ràng. Đức Phanxicô là giáo hoàng đầu tiên đến Mông Cổ và chuyến đi này như một phần trong mong muốn của ngài để hướng tới những “người bên lề” của Giáo hội. Các thành phố của Mông Cổ có số lượng người bị gạt ra ngoài lề xã hội rất lớn, việc làm giàu ở đây rất không đồng đều và chúng ta biết Đức Phanxicô xem trọng cuộc chiến chống nghèo đói.
Có lẽ ngài cũng thấy tiềm năng trở lại của các sứ mệnh truyền giáo ở đất nước cựu cộng sản này. Đây là một đất nước chưa theo đạo tin lành (dù đã có sự hiện diện của họ như chúng tôi đã nói) cũng chưa theo chính thống giáo (dù ở đây đã có một liên hệ nào đó với nước Nga), và vì thế có một nơi dành cho công giáo. Đặc biệt là vì phật giáo Mông Cổ không chiêu dụ cũng không phòng thủ: giới tăng lữ tin tưởng vào cội nguồn sâu xa của phật giáo trong đất nước họ, họ thấy không thể thay thế phật giáo trong đời sống hàng ngày của người dân – có lẽ đúng -, điều này làm cho họ có một thụ động nào đó trước sự lan rộng của các tôn giáo khác.
Ở cấp độ địa chính trị, cần phải phân biệt lợi ích của Mông Cổ và lợi ích của Vatican trong sự kiện này, cả bên này lẫn bên kia, các lợi ích này không nhất thiết phải giống nhau, mối quan hệ với Trung Quốc là một yếu tố rất quan trọng. Theo quan điểm của Mông Cổ, việc xích lại gần Vatican hơn chắc chắn là một phần trong chiến lược tăng cường quan hệ với các đối tác khác để không chỉ phụ thuộc vào các nước láng giềng khổng lồ là Nga và Trung Quốc.
Ngày càng khó có được tầm nhìn toàn cầu về các vấn đề địa chính trị ở Mông Cổ. Ít nhất trong hai mươi năm qua, Mông Cổ đã xây dựng quan hệ ngoại giao khá khéo léo với nhiều nước, điều này làm cho việc đánh giá tình hình ở đây thành phức tạp. Về phần mình, Vatican có lẽ hy vọng tiến gần hơn đến Mông Cổ để khẳng định sự hiện diện của mình trong khu vực và thiết lập mối quan hệ riêng với Trung Quốc, vốn cũng đặc biệt phức tạp.
Nhà nhân chủng học, Grégory Delaplace, chuyên gia về tôn giáo ở Mông Cổ tại Trường Nghiên cứu Thực hành Cao cấp (EPHE) cũng là tổng biên tập của tạp chí L’Homme (Tạp chí nhân chủng học của Pháp) từ năm 2020.
Marta An Nguyễn dịch