Hành khất của thế giới bên kia

507

 

Trích sách “Lời hay ý đẹp của Cha Piô”, Pascal Cataneo, Nxb Médiaspaul

Để đến với Chúa, cùng đích đời sống của tín hữu kitô, họ biết họ phải chuẩn bị từ đời này, để khi ngày đến, họ xứng đáng với Ngài.

Nhưng không phải ai cũng nghĩ khi họ còn sống, hoặc họ không có thì giờ và đời sống kết thúc khi họ không ngờ tới. Đến “bên kia”, họ còn đi một quảng đường để đến với sự tuyệt đối của Chúa.

Đôi khi Chúa cho phép một vài người trong số họ xin sự giúp đỡ của những người còn sống trên thế gian này. Cha Piô nhận rất nhiều lời xin của các vị hành khất phía bên kia này, dù cha ít nói đến chuyện này. Chúng tôi xin kể một vài câu chuyện lạ lùng này. 

Bốn người chết sưởi ấm gần lò sưởi

San Giovanni Rotondo, một buổi chiều tháng 2 năm 1922, Cha Piô kể câu chuyện này cho các “fratini” (nam học sinh được các tu sĩ Dòng Capuxinô dạy dỗ): “Bây giờ các con hãy nghe câu chuyện vừa xảy ra cho cha cách đây vài ngày: chiều hôm đó, cha xuống gần lò sưởi của Cộng đoàn để sưởi ấm, cha ngạc nhiên thấy ở đó có bốn tu sĩ mà cha chưa bao giờ thấy, họ ngồi thinh lặng bên cạnh lò sưởi, mũ sụp xuống. Cha đến chào họ với câu chào thường lệ: ‘Ngợi khen Chúa Kitô!’; không ai chào lại cha. Ngạc nhiên, cha nhìn kỹ để biết họ là ai, nhưng cha không nhận ra ai quen. Cha đứng nhìn họ vài phút, có vẻ như họ đang đau khổ. Cha chào lại nhưng họ cũng không trả lời.

“Khi đó cha đi hỏi xem có phải các tu sĩ khách có đi qua đây không. Cha Bề trên trả lời: “Cha Piô, ai đến đây vào thời tiết xấu này? – Thưa cha, ở dưới kia, gần lò sưởi có bốn tu sĩ Dòng Capuxinô ngồi trên băng ghế, mũ sụp xuống, họ sưởi ấm. Tôi chào nhưng họ không trả lời. Tôi nhìn kỹ nhưng không nhận ra một ai. Tôi không biết họ là ai”.

Cha Bề trên nói: “Có thể họ là Anh em khách đến đây mà tôi không biết chăng. Chúng ta cùng đi xem!”

“Nhưng khi xuống lò sưởi thì chúng tôi không thấy ai. Khi đó cha hiểu đây là bốn tu sĩ đang ở Lò Luyện Tội, trước họ ở đây, có 148 người đã xúc phạm Chúa. Cha đã ở lại suốt đêm trước Thánh Thể để cầu nguyện cho họ được giải thoát”. 

Ông già bị thiêu sống

Một buổi chiều tháng 5 năm 1922, Cha Piô kể câu chuyện sau cho Giám mục Costa, giáo phận Melfi:

“Chúng tôi đang ở trong thời kỳ chiến tranh thế giới. Giống như tất cả tu viện của Tỉnh bang, tu viện San Giovanni Rotondo không còn ai vì tất cả tu sĩ phải nhập ngũ. Tu viện dành cho Trường Seraphin do cha Paolino da Casacalenda và tôi phụ trách.

“Một chiều mùa đông, em gái của cha Paolino là Assunta di Tommaso đến tu viện. Cô đến thăm anh mình vài ngày. Khi tối đến, cha Paolino khuyên em mình xuống làng và đến trọ nhà bà Rachelina Russo, một ân nhân của tu viện.

“Cô Assunta không muốn đi một mình: về làng dưới trời tuyết này thì chỉ làm mồi cho mấy con chó sói lang thang đói ăn hoặc bị quân vô lại tấn công. Khi đó cha Paolino nói: “Assunta à, em biết đó, đây là dòng nhặt, phụ nữ không được vào. Vậy bây giờ phải làm gì? – Anh cho em tấm nệm nhỏ ngủ ở phòng này qua đêm nay là được rồi, ngày mai em sẽ về nhà bà Rachelina. – Được, nếu em ngủ đêm nay ở phòng khách, anh sẽ làm cho em cái giường tạm, em sẽ ngủ ngon”.

“Cha Paolino nhờ vài em học sinh kê cái giường xếp và đốt lò sưởi cho ấm. Sau khi ăn tối và sau khi đưa các học sinh về phòng ngủ, chúng tôi xuống phòng khách xem Assunta. Một ít phút sau, cha  Paolino nói với em gái mình: “Anh sẽ vào nhà thờ lần chuỗi. Em ở đây nói chuyện với Cha Piô. – Không, em cũng vào nhà thờ với anh”.

“Khi đi ra, họ đóng cửa và tôi ở một mình gần lò sưởi. Tôi đang nhắm mắt cầu nguyện thì cánh cửa mở. Tôi thấy một ông cụ mặc áo dạ đi vào, loại áo dạ các nông dân ở San Giovanni Rotondo hay mặc. Ông đến ngồi gần tôi. Tôi nhìn ông nhưng không tự hỏi vì sao ông vào được tu viện giờ này. Tôi hỏi ông: ‘Ông là ai, ông muốn gì? – Thưa Cha Piô, tôi là Pietro Di Mauro, con của ông Nicolas, tôi chết trong tu viện này ngày 18 tháng 9 năm 1908 ở phòng số 4, khi đó ở đây có phòng cứu tế cho người hành khất. Một buổi tối nọ, tôi đi ngủ mà còn nằm hút thuốc. Lửa bắt nệm rơm cháy, tôi chết phỏng và ngộp. Tôi vẫn còn ở Lò Luyện Tội. Tôi cần một thánh lễ để được giải thoát. Chúa cho phép tôi đến đây để xin cha. – Ông yên tâm, ngày mai tôi sẽ dâng thánh lễ để giải thoát cho ông.’

“Tôi đứng dậy và đưa ông ra cổng tu viện. Lúc đó tôi nhận ra cổng đã đóng và khóa lại. Tôi mở cửa và tiễn ông. Mặt trăng chiếu sáng như ban ngày trên vùng đất phủ tuyết trắng xóa. Khi tôi không thấy ông trước mặt tôi nữa, tôi sợ và đóng cửa lại, tôi về phòng khách và cảm thấy mình yếu đi.

“Sau khi lần chuỗi xong, cha Paolino và em gái về. Thấy tôi xanh lè, mặt biến sắc, họ nghĩ tôi bị choáng. Sau khi chúc cô Assunta ngủ ngon, cha Paolino đưa tôi về phòng nhưng tôi không nói gì về chuyện người hành khát hiện ra.

“Sau khi cô Assunta về, Cha Paolino muốn biết vì sao tối hôm đó tôi bị xanh. Tôi kể từng chi tiết  câu chuyện và nói: ‘Chiều hôm đó vì có em gái của cha nên tôi không kể chuyện này, sợ cô không muốn ngủ trong phòng đó…’”

Cha Paolino muốn kiểm lại câu chuyện. Sau khi cẩn thận ghi lại các chi tiết, cha ra văn phòng thị xã và họ xác nhận câu chuyện Cha Piô đã kể.

Ở nhà thờ, trong bóng tối 

Cha Piô kể câu chuyện hiện ra của một tập sinh. Một buổi tối nọ, Cha Piô đang cầu nguyện ở một khoảng trống chung quanh bàn thờ thì nghe như có sự di chuyển chung quanh bàn thờ. Tưởng có ai vào nhà thờ với ý xấu, cha hỏi: “Ai đó?” Không ai trả lời. Cha tiếp tục cầu nguyện, nghĩ rằng đó là tiếng gió thổi, nhưng cha lại nghe tiếng động. Cha đến gần song chắn, nhìn chung quanh bàn thờ chính thì thấy có bóng một tập sinh trẻ đang chùi dọn. Cha hỏi: “Con làm gì đó? – Con đang chùi dọn. – Nhưng làm sao con lại làm trong bóng tối?” Chú tập sinh trả lời: “Con là tập sinh Dòng Capuxinô, con đang ở Lò Luyện Tội. Con cần được giúp đỡ”. Rồi anh biến mất.

Ngày hôm sau, Cha Piô dâng thánh lễ cầu nguyện cho anh.

“Bây giờ các bệnh tật của cha đã hết!”

Cha Piô kể cho cha Bernardino d’Apicella sự kiện sau:

Ngày 29 tháng 12 năm 1936, cha Giacinto de Sant’ Elia ở Pianisi đến San Giovanni Rotondo để xin Cha Piô cầu nguyện cho cha Giuseppantonio de San Marco ở Lamis sắp chết.

Cha Piô hứa mình sẽ cầu nguyện cho người sắp chết. Nhưng cả ngày hôm đó và ngày hôm sau, 30 tháng 12, cha lo các hoạt động mục vụ. Vào cuối ngày 30, cha về phòng. Khoảng hai giờ sáng, cha sửa soạn đi ngũ thì thấy cha Giuseppantonio ở trước mặt. Ngạc nhiên, cha hỏi: “Ủa! Người ta vừa nói với tôi cha bị bệnh nặng mà sao bây giờ cha ở đây?…” Cha Giuseppantonio làm dấu cho biết mình đã chết, Cha Piô cũng làm dấu lại cho cha Giuseppantonio hiểu, các bệnh tật của cha cũng đã hết!

Một cô bạn từ bên kia về

Ngày 7 tháng 3 năm 1988, khi đi qua gần Trévi, nơi bà bá tước Giovanna Boschi đang ở, tôi ghé thăm để hỏi thêm vài chi tiết về việc bà bạn Marguerite Hamilton của bà hiện ra với bà sau khi qua đời được ba ngày.

Bà bá tước kể câu chuyện sau: bạn của bà cho biết, lần cuối khi xưng tội với Cha Piô, cha nói cha sẽ đến trong giờ chết của bà và sẽ ban phép lành cho bà ba lần.

Năm 1974, có một ngày bà Marguerite nói với bà bá tước: “Cha Piô thường hay hiện ra trong giấc mơ với nhiều người, nhưng với tôi thì cha chưa bao giờ hiện!” Nhưng ngày 29 tháng 4 năm 1974, bà nói với bà Giovanna: “Đêm vừa qua, Cha Piô hiện ra với tôi trong giấc mơ, cha ban phép lành cho tôi ba lần. Như thế giờ chết của tôi sắp đến!”

Bà bá tước trả lời, đó chỉ là giấc mơ đừng lấy làm quan trọng. Nhưng hai bà bạn hứa với nhau: ai chết trước và nếu Chúa cho phép thì người đó hiện về nói cho người kia biết mình sống bên kia như thế nào. Cũng chiều hôm đó, bà bá tước đến nhà bà Marguerite để nói về chuyện giấc mơ và để an ủi bạn. Trong khi nói chuyện, thì bỗng bà Marguerite bị xanh lè và sụm xuống, bà bị nhồi máu cơ tim. Bà Giovanna quá đau đớn và xúc động.

Ba ngày sau khi chôn, khi bà bá tước còn vừa nằm nghỉ trên giường vừa lần chuỗi thì bà thấy bà Marguerite ngồi ở chiếc ghế bành của chồng mình. Bà nghĩ đó là ảo giác, bà dụi mắt và nhìn nhiều lần. Nhưng bạn của bà luôn ở đó, một ánh sáng tỏa ra từ ngực của bạn. Cuối cùng bà bá tước lấy hết can đảm hỏi có phải đó là bạn Marguerite không. “Phải!”, bà ngồi trên ghế trả lời.

Đúng là bà Marguerite, bà đến để nói Cha Piô có đến khi bà qua đời. Bà được cứu và rất hạnh phúc. Xong bà biến mất.

Marta An Nguyễn dịch