Home Blog Page 371

Một cựu linh mục bị tố hiếp dâm lao mình xuống xe lửa cùng với mẹ

Một cựu linh mục bị tố hiếp dâm lao mình xuống xe lửa cùng với mẹ

 

cath.ch, Maurice Page, 2023-01-12

Một cựu linh mục ở Alsace, nước Pháp từng là đối tượng của cuộc điều tra về tội hiếp dâm và tấn công tình dục trẻ vị thành niên đã tự tử vào ngày đầu năm dương lịch. Đức tổng giám mục Luc Ravel, giáo phận Strasbourg cho biết, Giáo hội và pháp luật đã không phản ứng đúng với người bị cáo buộc là kẻ săn mồi tình dục này.

Ngày 7 tháng 1 năm 2023, tờ báo Tin tức mới nhất của Alsace đưa tin, cựu linh mục ngoài 50 tuổi và người mẹ 83 tuổi đã lao mình xuống xe lửa gần Bernoldsheim vào ngày đầu năm. Linh mục sống với mẹ từ nhiều năm nay.

Bị tố vì tội hiếp dâm

Từ sáu tháng nay, linh mục bị truy tố vì tội hiếp dâm và tấn công tình dục trẻ vị thành niên. Sự việc xảy ra năm 2008, khi cựu linh mục là tuyên úy của trường giáo phận Saint-Etienne ở Strasbourg từ năm 2003 đến năm 2009. Mùa hè năm 2022, một cựu học sinh đã đệ đơn tố cáo. Cựu linh mục thú nhận có quan hệ tình cảm với người khiếu nại, nhưng ông nói đây là mối quan hệ đồng thuận, vào thời điểm xảy ra sự việc học sinh này 15 tuổi.

Cựu linh mục đã có tiền án. Năm 2013, tòa án hình sự Colmar đã kết án ông sáu tháng tù treo vì tội tàng trữ nội dung khiêu dâm trẻ em. Ông bị ra khỏi hàng ngũ giáo sĩ năm 2014.

Thiết lập trách nhiệm công lý giáo hội và dân sự

Một tuần sau cái chết, tổng giám mục Luc Ravel “không thể im lặng trước sự ngạc nhiên và một số câu hỏi” đặc biệt là về “trách nhiệm hình sự và đạo đức” của Giáo hội trong việc xử lý hồ sơ này.

Tổng giám mục Ravel được bổ nhiệm đến Strasbourg năm 2017, ngài cho biết ngài chưa bao giờ gặp cựu linh mục. Ngài nói, với ngài cũng như với cựu tuyên úy, “vụ này dường như đã khép lại vào tháng 3 năm 2013, cả về tư pháp hình sự và công lý giáo luật”.

Ngài ngạc nhiên về việc cựu linh mục đột ngột thuyên chuyển năm 2009 (dưới thời giám mục Jean-Pierre Grallet) và việc linh mục được bổ nhiệm làm quản xứ phụ trách giới trẻ, trong khi năm 2009 linh mục “đã có dấu hiệu ‘trò chuyện’ trực tuyến với trẻ vị thành niên”.

Tổng giám mục Luc Ravel, giáo phận Strasbourg, Pháp

Theo giám mục Ravel, công lý dân sự cũng đã phạm sai lầm vì các sự việc trong những năm 2009 và 2010 đã không được tính đến trong phiên tòa xử ở Colmar năm 2013 đưa đến việc linh mục bị kết án.

Công tố viên của tòa án Strasbourg đưa ra từ quan điểm pháp lý, hành động công khai đã tắt “với người đã chết, nhưng không tắt với các đồng tác giả hoặc đồng phạm có thể có khác”.

Tổng giám mục Ravel nhắc lại: “Rõ ràng là (…) vẫn còn phải thiết lập một số trách nhiệm hình sự nhất định ở cấp độ tư pháp Quốc gia cũng như ở cấp độ tư pháp Giáo hội.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Ly hôn, đồng tính… vẫn còn phải cố gắng!

Ly hôn, đồng tính… vẫn còn phải cố gắng!

Chương 11 sách Công giáo trong tự do

Trích sách Công giáo trong tự do (Catholique en liberté, nxb. Salvator, 2019)

renepoujol.fr, René Poujol, 2022-01-07

Cách đây không lâu, bất kỳ một lời mời nào của các giáo dân, giám mục hoặc nhà thần học với huấn quyền để họ thay đổi cách tiếp cận về vấn đề người ly dị tái hôn trong Giáo hội đều bị ghi vào danh sách những người bất đồng chính kiến! Việc một giám mục như giám mục Jean-Paul Vesco (1), người “đầm mình” trong công vụ, bây giờ được bổ nhiệm làm tổng giám mục giáo phận Alger cho thấy mọi thứ đã thay đổi. Và điều này kể từ Thượng hội đồng về Gia đình, cũng như vấn đề về đồng tính. Dù chúng ta vẫn còn lâu mới giải quyết xong!

Ly dị, đồng tính… vẫn còn phải cố gắng!

Ly dị, đã trở thành một hiện tượng chính trong xã hội chúng ta, người công giáo cũng không tránh được. Có quá không khi nói vấn đề này đã thành phổ biến trong tập quán? Đã xa thời Đệ nhất phu nhân Pháp, bà Yvonne de Gaulle loại bỏ những người ly dị ra khỏi nơi làm việc của tổng thống. Năm 2009, báo Pèlerin mà tôi vẫn còn điều khiển trong vài tháng, đã làm một cuộc thăm dò quy mô về những người ly dị tái hôn. Chúng tôi nhờ viện TNS-Sofres định lượng hiện tượng. 37% người công giáo giữ đạo thường xuyên và thường được xem là “nòng cốt” của tín hữu cho biết, họ lo lắng vấn đề này cho chính bản thân hoặc cho người thân, 17% ly dị và sau đó tái hôn. Trong thời gian dài thực hiện các cuộc thăm dò, tôi đã quen đọc các báo cáo khảo sát chứa đầy các số liệu do viện chuyển đến. Nhưng hôm đó, khi đọc tài liệu, tôi cảm thấy chóng mặt. Cuộc thăm dò cho thấy, chỉ có 9% người Pháp có một người con đã ly dị, nhưng tỷ lệ này nơi người công giáo là 12%, nơi người công giáo giữ đạo là 15% và 19% nơi người công giáo giữ đạo thường xuyên. Tóm lại, càng theo đạo công giáo, càng có nguy cơ thấy con mình ly dị.

“Một vùng đứt đoạn lớn cho Giáo hội công giáo ở Pháp.” (Nicolas de Brémond d’Ars)

Tôi tưởng tượng sự ngạc nhiên của các giám mục khi họ thấy các con số trên báo Pèlerin… Có phải các gia đình công giáo có nhiều con hơn nên có nhiều nguy cơ thấy con số ly dị nhiều hơn trong số họ không? Có phải do thực tế chúng ta kết hôn nhiều hơn trong môi trường này và vì thế theo tỷ lệ thì chúng ta ly dị nhiều hơn không? Không có gì trong những chuyện này! Qua điện thoại, Brice Teinturier, nhà chính trị học phá lên cười giải thích cho tôi, rằng độ tuổi trung bình của những người theo đạo công giáo thường cao, theo thống kê, nên có khả năng họ có con ly dị cao hơn các cặp ngoài bốn mươi hơn đang lo việc học cho con cái. Phần còn lại của cuộc thăm dò xác nhận điều mà độc giả chúng tôi không ngừng bày tỏ: nỗi đau khổ khi thấy con cháu sau một lần thất bại trong hôn nhân bị “cấm rước lễ” suốt đời, dù Giáo hội không ngừng nói về sự tha thứ.

Trong một cuốn sách phỏng vấn viết bốn tay, bạn tôi  Michel Wolkowitsky, giám đốc Tu viện Sylvanès, kể giai đoạn ly kỳ trong cuộc đời của ông. Ông kết hôn với một phụ nữ đã ly dị và vừa có đứa con đầu lòng với bà, ông muốn đi xưng tội, ông biết ông không “đúng luật” với Giáo hội. Đường Du Bac, Paris, phản ứng của linh mục như máy chém: nếu ông bỏ người phụ nữ ông đang sống trong tội lỗi thì ông mới được tha tội.  Với điều kiện duy nhất này! Có bao nhiêu cặp vợ chồng tái hôn, sống chung thủy trong kết hiệp mới từ nhiều năm, một ngày nào đó họ nghe những người trong Giáo hội – ngay cả những người công giáo bình thường – nói họ là những cặp ngoại tình? Giáo hội phải thay đổi. Đây là điều mà 70% người công giáo trong cuộc thăm dò của chúng tôi đặt câu hỏi. Và đây là điều mà linh mục Nicolas de Brémond d’Ars, nhà xã hội học đã đồng ý bình luận về những kết quả, cha cảnh báo: “Một vùng đứt đoạn lớn cho Giáo hội công giáo ở Pháp.”

Sự phẫn nộ của Giám mục André Vingt-Trois…

Trong một chuyến đi Rôma, một giám chức của Phủ Quốc vụ khanh Vatican một lần nữa nói với tôi về vấn đề này, Giáo hội không thể và do đó sẽ không nhúc nhích. Thư của Thánh Phaolô gởi tín hữu Êphêsô, được Thánh Isidore thành Seville chú giải đã làm cho điều này trở nên bất khả thi: “Hôn nhân tượng trưng cho sự kết hợp của Đấng Kitô và Giáo hội, hay sự kết hợp của Đấng Kitô và Giáo hội là bất khả phân ly, do đó hôn nhân của con người là không thể phân ly.” Nhưng phép loại suy không đứng vững được vì sự khác biệt về bản chất giữa hai kết hợp này. Và ngoài ra, yêu cầu của các tín hữu không phải là đặt vấn đề về tính bất khả phân ly của hôn nhân, cũng như không đòi hỏi một bí tích hôn nhân cho lần thứ hai, họ muốn ý tưởng về “tha thứ” trở nên có thể tin được bằng cách không lên án họ “suốt đời” không được nhận các bí tích. Trong cuộc thăm dò của chúng tôi, nhà thần học đạo đức đáng kính Xavier Lacroix đã đề xuất cụ thể đền tội bảy năm, phù hợp với truyền thống của Giáo hội sơ khai, điều này cho thấy rõ ràng các lý lẽ bác bỏ về mặt thần học cho sự tiến hóa như vậy không phải không thể vượt qua. Và rồi, với tất cả chân thành, tôi luôn tự hỏi làm thế nào mà sự duy trì đơn giản một mối ràng buộc, dù chỉ mang tính bí tích, trong một cuộc hôn nhân mà từ đó tất cả tình yêu đã biến mất lại có thể thực sự làm chứng cho Tình yêu Thiên Chúa dành cho Giáo hội của Ngài.

Mười năm trước, khi tôi đến với báo Pèlerin trong tư cách là tân tổng biên tập, tôi tìm thấy một dự án thăm dò, cùng câu hỏi về những người ly dị tái hôn, trong lịch trình do ban biên tập soạn thảo. Tôi đã đồng ý. Cuộc thăm dò của Benoỵt Fidelin rất đáng chú ý về sự cân bằng và tính nhân văn của nó. Nó đã tạo lên cơn thịnh nộ của giám mục André Vingt-Trois, lúc đó là tổng giám mục giáo phận Tours, chịu trách nhiệm chăm sóc mục vụ gia đình trong Hội đồng Giám mục Pháp. Tôi được ban giám đốc che chở. Một năm sau, vào dịp Năm Thánh 2000, cũng cùng một nhà báo đã liên lạc với tổng giáo phận Tours, khi đó ngài chưa là hồng y, để yêu cầu phỏng vấn, bà thư ký của ngài giải thích cho nhà báo, rằng về cơ bản “Tổng giám mục” trong tư cách cá nhân đã có cùng suy nghĩ như ông giám đốc báo Pèlerin, nhưng cần phải hiểu rằng: từ bao giờ quan điểm của Rôma vẫn cứ như xưa…

Những gì chúng tôi yêu cầu, thượng hội đồng năm 2015 công nhận là hợp pháp

Những gì chúng tôi yêu cầu vào thời điểm đó, và nhiều người khác cùng với chúng tôi, làm chúng tôi thành những người chú giải thượng hội đồng cho đa số tín hữu, Thượng hội đồng về Gia đình năm 2015 đã công nhận điều đó là hợp pháp, cho phép Đức Phanxicô mở ra mục vụ như chúng ta biết. Năm 2013, ngài đã viết trong Tông hiến Niềm vui Tin mừng: “Các cánh cửa của bí tích không nên đóng lại vì bất kỳ lý do gì. Ba năm sau, ngài cho phép các linh mục mở chúng ra, với phân định. Vòng tròn đã được đóng lại. Khi làm như vậy và bất cứ điều gì những người rút phép thông công về một quyết định mà họ cho là dị giáo, huấn quyền tham gia và hợp thức hóa thực hành vốn đã là của nhiều linh mục, với sự đồng ý của giám mục của họ, nhân danh cảm thức đức tin”.

Có hữu ích không khi nói thêm, người công giáo không phải là những tín hữu duy nhất trên thế giới không? Và cũng từ những đòi hỏi này của Tin Mừng, người tin lành chưa bao giờ cấm người ly dị tái hôn rước lễ vì họ không xem hôn nhân là một bí tích; và người chính thống giáo từ lâu đã phát triển một mục vụ ăn năn và lòng thương xót. Nếu không đặt lại vấn đề nguyên tắc bất khả phân ly của hôn nhân, thì trong bất cứ trường hợp nào, hôn nhân tôn giáo thứ hai không thể xảy ra. Từ phán xét đến lòng nhân từ, đó là con đường mà Đức Phanxicô thành công trong việc dẫn dắt Giáo hội.” Trong bài phát biểu ngày bế mạc Thượng hội đồng, ngài tuyên bố: “Kinh nghiệm thượng hội đồng đã làm cho chúng ta hiểu rõ hơn, những người thực sự bảo vệ học thuyết không phải là những người bảo vệ văn thư mà là tinh thần; không phải ý tưởng mà là con người; không phải công thức mà sự nhưng không của tình yêu và sự tha thứ của Chúa.” Trong quyển sách của ngài với nhà xã hội học Dominique Wolton, ngài cũng nói như vậy với những người sợ tự do của Tin Mừng, những người chỉ thích núp trong xác tín của Giáo luật.

Về vấn đề đồng tính… sự đồng thuận lại có vấn đề hơn.

Trong lần khai mạc mục vụ này, Đức Phanxicô bao gồm cả người đồng tính. Một thực tế còn lâu mới gia nhập vào thế giới công giáo, sự đồng thuận đã được rèn theo thời gian về vấn đề ly dị tái hôn. Ở đây, tôi cũng lại bị tranh cãi nhiều như vào tháng 10  trước khi kết thúc Thượng Hội đồng về Gia đình, để bênh vực báo La Croix trong chuyên mục Padreblog của cha Amar. Nguyên nhân của vụ tai tiếng? Nhật báo công giáo La Croix trong loạt bài “Chân dung các gia đình” đã dành một bài nói về một cặp đồng tính nam tên là Julien và Bruno. Nhưng với Giáo hội, cặp là cặp nam-nữ, không phải là cặp đồng tính, nếu chúng ta tin vào từng chữ của các chỉ thị Rôma bị ảnh hưởng nhiều bởi cha Tony Anatrella, bây giờ đã rơi khỏi bệ thờ của một số hồng y, giám mục dựng lên để tôn vinh linh mục Anatrella, cha đề nghị dùng chữ “đôi, duo” mà theo cha để phân biệt giới tính vắng mặt ở đây.

Liệu chúng ta có thể minh họa rõ hơn khoảng cách trên vấn đề này, mà cho đến nay xã hội vẫn không vượt qua được không? Đối với nhiều người, sự co rúm của Giáo hội về vấn đề đồng tính vẫn không thể hiểu được, ở các quốc gia chúng ta vẫn có xu hướng tầm thường hóa vấn đề này. Kinh thánh – mà người do thái giáo, kitô giáo, hồi giáo quy chiếu – gần như là lời kết án không khoan nhượng với đồng tính được lặp lại trong các sách Công vụ Thánh Phaolô. Không cần phải nhắc lại ở đây những câu trích dẫn mà mọi người ít nhiều cũng biết về sự tồn tại và nội dung, nếu không muốn nói là diễn đạt. Khoa chú giải hiện đại mời gọi chúng ta bối-cảnh-hóa các bài viết này, mà việc đọc chúng ở mức độ đầu tiên dường như không còn thực tế, một vài Quốc gia thế giới hồi giáo lên án tử hình những người đồng tính… như Kinh Thánh yêu cầu. Huấn quyền Giáo hội công giáo từ chối xem lại bối cảnh với lý do cấm, trong mọi lúc và mọi nơi, không có sự thay đổi phong tục hay kiến thức nào có thể đặt lại vấn đề.

Với nhiều người, sự thay đổi trong cách nhìn bắt nguồn từ những năm sida

Trong thế giới phương Tây – nhưng không chỉ trong thế giới phương Tây – đồng tính được cho là một bệnh cho đến năm 1990, khi Cơ quan Y tế Thế giới, WHO, vĩnh viễn loại bỏ nó khỏi danh sách bệnh. Đối với những người khác, nó vẫn là một thứ xấu xa, sa đọa hoặc tội trọng, là đồng tính là có hành vi trái ngược với “chương trình hoạch định tạo dựng của Chúa.” Các ngành khoa học nhân văn lần đầu tiên phổ biến ý tưởng, một người không là đồng tính do họ tự quyết định. Giáo hội lưu ý đến điều này, không lên án những người theo “khuynh hướng” của họ, nhưng chỉ qua hành vi bị cho là “rối loạn nghiêm trọng” và với họ, chỉ tùy thuộc duy nhất vào ý chí tiết dục của họ.

Với một số tín hữu kitô, sự lật ngược đích thực là do họ ý thức, có những người đồng tính sống tình trạng vợ chồng ổn định, yêu thương, chung thủy, mở ra một hình thức xã hội trọng sinh. Về cơ bản, một lối sống, về thực chất không xa so với những gì mà báo cáo của Thượng hội đồng Gia đình đưa ra khi xem “các giá trị gia đình đích thực”, bao gồm cả những hình thức hợp nhất không hoàn hảo: “Sự ổn định, tình cảm sâu đậm, trách nhiệm với con cái, khả năng chịu đựng thử thách”. Cũng văn bản này, bị một số người phản đối gay gắt, nhưng đúng là có một số người, (những người đồng tính) nâng đỡ nhau đến mức hy sinh.

“Chính vì những người như con mà Chúa đã chết trên thập giá.”

Là nhà báo, trong những năm 1980, tôi là nhân chứng đau buồn cho những trường hợp này, có nhiều bệnh nhân sida bị gia đình bỏ rơi, kể cả những gia đình công giáo, họ chết trong cô đơn, với ánh mắt của người đàn ông hay phụ nữ yêu thương, chia sẻ cuộc sống với họ trong giây phút họ trút hơi thở cuối cùng. Trong một thăm dò thực hiện hai mươi năm của báo  Pèlerin, tôi đã thu thập được nhiều lời chứng này, chắc chắn là chứng cớ khá tiêu biểu cho thái độ của nhiều gia đình công giáo:

“Ngày tôi tiết lộ với mẹ tôi, tôi đồng tính, khi đó mẹ tôi ngồi ở phòng khách ngôi nhà ở Breton của chúng tôi. Trên tường treo cây thánh giá bằng gỗ. Mẹ tôi quay sang tôi, chỉ vào tôi và nói, “con có ý thức, chính những người như con mà Chúa đã chết trên thập giá không?”

Làm sao chúng ta không ngạc nhiên khi thấy cả thế giới công giáo chống lại hôn nhân cho tất cả mọi người năm 2013, có thể được cho đó là sự kỳ thị đồng tính sâu đậm, gây ra những phản ứng thù hận đáp trả không? Vào năm 2004, sau một bài báo dù sao cũng uyển chuyển của tuần báo chúng tôi, tôi nhận lá thư sau như tiếng kêu đau khổ: “Ông, tà phái của ông và đạo sư nằm liệt giường của ông (Gioan-Phaolô II) muốn dạy chúng tôi điều tốt và điều xấu, đủ rồi, quá lắm rồi! Hôm nay tôi là người pê-đê, một con gà chết và tôi khinh ông.”

Một tông huấn hậu thượng hội đồng không có gì để nói với những người đồng tính

Vì thế tông huấn của Đức Phanxicô có thể chào đón những người đồng tính đến với các bí tích, những bí tích mà các cộng đồng kitô hữu được nhận. Nhưng lại không công nhận tính hợp pháp các kết hiệp này. Mở ra với các bí tích, và như thế trong các bí tích này là phép rửa tội. Vì cách đây không lâu – nhưng chúng ta có nên nói về quá khứ không? – một số giáo phận, kể cả giáo phận Paris, từ chối các tân tòng là người đồng tính công khai, sống như vợ chồng, với lý do họ không từ bỏ cuộc sống vĩnh viễn trong tội lỗi. Ở những nơi khác, các hiệp hội gia đình gây áp lực lên các giám mục để không tiếp nhận người đồng tính vào mục vụ chăm sóc gia đình.

Mở ra như vậy… nhưng vẫn còn rụt rè! Văn bản hậu thượng hội đồng của Đức Phanxicô cho cảm nhận không “nghe thấy” người đồng tính và không nói chuyện với họ. Chỉ là nhắc lại họ được Chúa yêu thương và họ có chỗ đứng trong Giáo hội. Sự chú ý mục vụ duy nhất nhắm vào gia đình của họ – cha mẹ hoặc con cái – những người mà bản văn mời gọi đồng hành với đức ái. Nhưng dù sao cũng có vẻ hơi ngắn. Dĩ nhiên Giáo hội chấp nhận nhìn xã hội trong thực trạng của nó, tránh nhân lên những lời kết án mà chúng ta có thể thấy dưới thời Đức Gioan Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI. Nhưng không bao giờ Giáo hội nhận ra mình bị đặt vấn đề đến “tận đáy” bởi hiện thực đương đại này hay hiện thực đương đại kia.

Chắc chắn Đức Phanxicô không thể đi xa hơn, về vấn đề người ly dị tái hôn hay người đồng tính, như ngài đã giao cho các Nghị phụ thượng hội đồng giải quyết. Bằng chứng ngài hoàn toàn tôn trọng tiến trình thượng hội đồng, ngược với một số người kiện cáo chống lại ngài. Bây giờ cũng như hôm qua, tín hữu giáo dân, nhưng cả các phó tế và linh mục mong muốn các đường hướng được nhúc nhích, rằng cánh cửa hé mở không còn là cánh cửa hé mở.

1- Jean-Paul Vesco, Tất cả tình yêu đích thực là bất khả phân ly (Tout amour véritable est indissoluble, Ed. du Cerf 2015)

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Nhưng, ai là “anh em” của tôi trong đức tin?

Theo hồng y Müller, danh hiệu giáo hoàng danh dự là sai lầm về mặt thần học

Theo hồng y Müller, danh hiệu giáo hoàng danh dự là sai lầm về mặt thần học

Hồng y người Đức Gerhard Ludwig Müller, cựu bộ trưởng bộ Giáo lý Đức tin chỉ trích khả năng thiết lập, khi đúng lúc, việc thực hành từ nhiệm của giáo hoàng. Theo ngài, nó sẽ có nguy cơ gây ra nhầm lẫn nghiêm trọng.

famillechretienne.fr, I.Media, 2023-01-12

Trong buổi hội thảo giới thiệu quyển sách Papa non più Papa (Giáo hoàng không còn là Giáo hoàng, nxb. Viella) ngày 10 tháng 1 năm 2023, hồng y nhấn mạnh: “Tôi hoàn toàn phản đối việc từ nhiệm của Đức Phanxicô. Quyển sách đưa ra cách tiếp cận theo giáo luật về việc từ nhiệm của các giáo hoàng đã được xuất bản tháng 12 vừa qua, vài ngày trước khi Đức Bênêđictô XVI qua đời. Hồng y Müller, người thân cận với Đức Bênêđictô XVI, cũng như nhà sử học Andrea Riccardi đã trình bày một cái nhìn phê phán về sự mơ hồ gây ra do Đức Bênêđictô XVI từ nhiệm năm 2013, dẫn đến việc có hai giáo hoàng chung sống tại Vatican trong gần mười năm.

Khi đưa ra ghi nhận, hồng y cho thấy một trùng hợp lạ lùng, ngày Đức Bênêđíctô XVI từ nhiệm trùng hợp với ngày kỷ niệm 35 năm thụ phong linh mục của ngài và ngày Đức Bênêđictô XVI qua đời trùng hợp với ngày sinh nhật thứ 75 của ngài, hồng y Müller đưa ra lời giải thích thần học giữa lòng ngưỡng mộ chân thành với vị thầy Joseph Ratzinger của ngài và cái nhìn phê phán, thậm chí cay đắng về quyết định từ nhiệm này.

Một chấn thương cho người công giáo

Ngài lấy làm tiếc, quyết định này đã làm tổn thương hàng triệu người công giáo, để lại sự hoang mang qua hình ảnh hai triều giáo hoàng bị truyền thông dàn dựng. Ngài tố cáo dự thảo Tông hiến hiện có về việc từ nhiệm của giám mục Rôma, ngài xem đây là dấu hiệu của “nhầm lẫn thần học” vốn dường như ấn định “các điều kiện giam giữ một tù nhân mới ở Vatican”. Ngài ngầm đề cập đến tình trạng các giáo hoàng bị giam cầm trong các bức tường của Thành đô Vatican trong thời các Quốc gia giáo hoàng sụp đổ năm 1870 và Hiệp định Lateran năm 1929.

Ngài lưu ý, “sự chung sống của giáo hoàng tại vị” với người tiền nhiệm được xem là “đối tác thiêng liêng”, như được trình bày trong câu chuyện kể chính thức của Vatican, “mâu thuẫn trực tiếp với bản chất sứ vụ Thánh Phêrô và ý muốn của Chúa Kitô khi thiết lập sứ vụ này”.

Ngài nhấn mạnh, giáo hoàng Rôma không thể so sánh với “bất kỳ thẩm quyền chính trị hay thiêng liêng nào”, dù là một Giám đốc điều hành, vua Anh, hoàng đế la-mã-đức, đức Đạt Lai Lạt Ma hay một vị vua hồi giáo. Trước tiên, ngài như tất cả các linh mục, giám mục được chịu chức với tư cách là “đại diện của Chúa Kitô, được chính Thiên Chúa gọi để trở thành nhân chứng và được sai đi loan báo công trình cứu độ của Ngài, cho đến cái chết tự nhiên hoặc tử đạo”.

Nguy cơ nhầm lẫn

Giám mục Rôma trước hết là một giám mục như các giám mục khác, nhưng với tư cách là “mục tử của Giáo hội hoàn vũ”, ngài đảm nhận một chức năng tối thượng, tạo nên “sự đảm bảo cho nền tảng của tất cả các Giáo hội địa phương trong sự kế thừa truyền thống tông đồ và trong truyền thống của toàn thể Giáo hội”. Như thế ngài không thể định hướng guồng máy quản trị của mình theo “các tiêu chuẩn về hiệu năng và chủ nghĩa thực dụng của nền kinh tế toàn cầu và chủ nghĩa tư bản duy vật hoặc chủ nghĩa xã hội”.

Ngài nhấn mạnh: “Dĩ nhiên chúng ta tôn trọng Đức Bênêđictô XVI, trong lương tâm của ngài trước mặt Chúa, đã xác tín, tốt hơn là từ nhiệm chức vụ giám mục Rôma vì lợi ích của Giáo hội” nhưng “điều này không thể nại ra hay tìm để biện minh cho thể chế về sự từ nhiệm thường xuyên của giáo hoàng, vì những động lực được cho là chủ quan.”

Theo hồng y Müller, nếu Joseph Ratzinger để lại một công trình thần học đồ sộ nhưng ngài không thể là nguồn cảm hứng trong tư cách là “giáo hoàng danh dự”, theo hồng y, việc duy trì tước hiệu giáo hoàng và chiếc áo chùng trắng của ngài đã tạo nhầm lẫn có hại cho “sự hiệp thông của Giáo hội”.

“Đức Phanxicô tuyệt đối phải tiếp tục”

Hồng y cho biết: “Việc từ nhiệm tùy thuộc vào sự lựa chọn của các giáo hoàng, nhưng không được trở thành một quy tắc: nó phải là ngoại lệ cho một tình huống cực kỳ khi ngài không còn khả năng vì bệnh tật”. Một cách rộng rãi hơn, hồng y cũng lên tiếng chống lại việc nghỉ hưu của các giám mục nói chung do Đức Phaolô VI thiết lập. Ngài nhấn mạnh: “Tôi cũng không thể chấp nhận việc các giám mục tự động từ chức ở tuổi 75: phải có những lý do khác, lý do thể chất, lý do tâm lý. Chúa Giêsu gọi các tông đồ. Trong bí tích Truyền Chức, có ý tưởng giám mục kết hôn với giáo phận của mình.”

Hồng y Müller đã có những bất đồng với Đức Phanxicô kể từ khi ngài không còn ở trong bộ Giáo lý Đức tin năm 2017, ngài đã lên tiếng phản đối bất kỳ ý tưởng nào về việc từ nhiệm của Đức Phanxicô: “Về mặt thể chất, tâm lý và tinh thần, Đức Phanxicô tuyệt đối tiếp tục chức vụ của ngài”, hồng y Müller nói, ngài không muốn thấy giáo hoàng Argentina đi theo bước chân của người tiền nhiệm về điểm này.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Theo hồng y Hollerich, Đức Phanxicô sẽ không từ nhiệm

Theo hồng y Müller, Đức Bênêđictô XVI là Thánh Augutinô của thời đại chúng ta

Theo hồng y Hollerich, Đức Phanxicô sẽ không từ nhiệm

Theo hồng y Hollerich, Đức Phanxicô sẽ không từ nhiệm

Hồng y Jean-Claude Hollerich, tổng giám mục Luxembourg tại Ban Tuyên úy Quân đội Công giáo ở Paris ngày 8 tháng 1 năm 2023 © Virginie Clavières

parismatch.com, Caroline Pigozzi, 2023-01-11

Tổng giám mục Luxemburg, tu sĩ Dòng Tên cũng như Đức Phanxicô nêu lên thời hậu-Đức Bênêđictô XVI

Liệu một giáo hoàng Dòng Tên có sống yên bình bên cạnh một giáo hoàng về hưu không?

Hồng y Jean-Claude Hollerich. Không có triều giáo hoàng kép. Trong bối cảnh này, kể từ ngày được bầu chọn, Đức Phanxicô luôn thi hành sứ vụ của mình một mình. Hơn nữa, ngài nói về người tiền nhiệm của mình cách rất tình cảm và tôn trọng, Đức Bênêđictô XVI không còn cuộc sống công khai nữa. Về phần Đức Bênêđictô XVI, ngài tỏ niềm vui qua nét mặt, ánh mắt, nụ cười, khuôn mặt rạng rỡ khi người kế vị đến gặp ngài. Sau công nghị ngày 5 tháng 10 năm 2019, chúng tôi đi chiếc xe buýt nhỏ đến thăm ngài, ngài đợi chúng tôi ở nhà nguyện. Lúc đó ngài rất vui khi Đức Phanxicô cùng các tân hồng y đến thăm. Ngài đã rất yếu, ngài phát âm khó khăn nên thực sự chúng tôi không hiểu ngài muốn nói gì. Sau đó, tổng giám mục Gänswein, thư ký của ngài đưa cho chúng tôi tờ giấy ghi những lời ngài viết. Kiệt sức, bệnh tật nhưng ngài vẫn giữ khát vọng sống. Bây giờ tôi trở lại câu hỏi của bà về Đức Phanxicô. Ngài không cảm thấy bị người tiền nhiệm đánh giá. Đức Phanxicô có một tự do nội tâm tuyệt đối, ngài luôn ngạc nhiên trước nét đẹp thiêng liêng cũng như mối tương quan giữa đức tin và lý trí vốn là nét đặc trưng, trong số những điều khác của tư tưởng và đời sống đức tin của Đức Bênêđictô XVI. Đức Phanxicô có một linh đạo cụ thể hơn: làm thế nào để tôi có thể theo Chúa Kitô trong thế giới ngày nay?

Cha có thể tổng hợp lại?

Đức Bênêđictô XVI rất châu Âu trong văn hóa, thần học, trong phụng vụ baroque của ngài. Đức Phanxicô vẫn là người Châu Mỹ Latinh, hành động đơn giản và thực tiễn hơn.

“Là tu sĩ Dòng Tên, chúng tôi chia sẻ cùng cách suy nghĩ và nhìn sự việc”

Cùng là Dòng Tên, về mặt đào tạo cha suy luận giống như giáo hoàng, dù tuổi tác của cha và giáo hoàng cách nhau gần một thế hệ, từ 64 đến 86 tuổi!

Khi mình già đi, mình gần gũi với gia đình hơn, đó là thái độ bình thường. Nhưng tôi nhấn mạnh đến linh đạo Thánh I-Nhã, người sáng lập Dòng và các Bài tập Linh thao. Dĩ nhiên chúng tôi triển khai những chủ đề giống nhau trong các bài giảng, chúng tôi có cùng phản xạ Inhaxiô, không chỉ về trí tuệ, mà còn qua cách xem xét vai trò con người, trước hết qua việc phục vụ người khác. Một câu nói của Đức Phanxicô: “Người Mục tử phải ngửi thấy mùi đàn chiên của mình”, với tôi là rất rõ ràng. Mắt chúng ta phải phải hướng về trời, dán chặt vào Chúa Giêsu và đôi chân phải vững chắc trên mặt đất. Điều này có nghĩa là phải bắt kịp sự phát triển kỹ thuật trong thời đại kỹ thuật số. Một nền văn minh sẽ thay đổi mọi thứ; giới trẻ không còn hiểu một câu dài và ít đọc sách; dù sao chúng ta phải đi theo khoa học, khoa học đang phát triển rất nhanh, với sự tiến bộ kỹ thuật sinh học, đến mức tái tạo các cơ quan và bộ phận cơ thể trong phòng thí nghiệm. Điều này chắc chắn liên quan đến một tiến hóa trong cách chúng ta hiểu về nhân học triết học và cám dỗ ở đây sẽ là quên đi điều cốt yếu: con người là tạo vật của Chúa.

Là tu sĩ Dòng Tên, chúng tôi chia sẻ cùng cách suy nghĩ và nhìn sự việc

Là tu sĩ Dòng Tên, chúng tôi chia sẻ cùng một cách suy nghĩ và nhìn nhận mọi việc. Phân định, nhìn thế giới với lòng tin tưởng nhờ sự hiện diện của Chúa, trước tiên phải lạc quan về sự tồn tại. Hơn nữa, cuộc chiến tâm linh của nhân loại cho chúng ta thấy ma quỷ đã bị đánh bại. Điều này có thể gây ngạc nhiên ở châu Âu, nơi ma quỷ bị phớt lờ nhiều hơn. Tuy nhiên, cần phải phân định điều gì đến từ Thiên Chúa hay đến từ Thần dữ, đến từ Ma quỷ; có nghĩa trong đời sống đức tin, chúng ta biết ma quỷ khi cám dỗ, nó đội lốt thiên thần ánh sáng để dụ dỗ con người. Nếu tôi có quyền năng, tôi có thể làm thay đổi, làm nghiêng thế giới về điều tốt nhưng chúng ta được gọi để theo Chúa Kitô khiêm nhường, hy sinh. Và chỉ có Chúa mới có thể thực sự thay đổi. Cuối cùng, trở lại câu hỏi của bà, không có sự tiếp tay nào giữa giáo hoàng và tôi, ngay cả với các hồng y Dòng Tên, nhưng có lẽ cùng một cách tiếp cận công việc trong sứ mệnh hàng ngày.

Đức Bênêđictô XVI đã qua đời, bây giờ Đức Phanxicô có từ nhiệm không?

Không có gì là không thể, nhưng chừng nào còn được, Đức Phanxicô sẽ tiếp tục điều hành Giáo hội. Các vấn đề về đầu gối không bao giờ ngăn cản. Với sức mạnh nội tâm rất lớn, ý chí và kinh nghiệm đáng kinh ngạc, việc từ nhiệm gần như không ở trong chương trình của ngài. Tôi không tin điều đó chút nào. Hơn nữa, giáo hoàng Dòng Tên nhận thức rõ về những âm mưu có thể có của giáo triều, ngài vẫn luôn làm chủ tình hình.

Vì sao Trưởng Giáo chủ Hilarion dự tang lễ của Đức Bênêđictô XVI?

Với người chính thống giáo, tân Rôma là Matxcova, một dấu hiệu của hiệp nhất trong chia rẽ… Có một cách cúi đầu trước Đức Bênêđictô XVI, một hình thức hiệp thông với tòa chung và với Đức Phanxicô. Các cử chỉ là quan trọng nhưng sau đó phải bao gồm các khía cạnh cụ thể, chẳng hạn như khả năng hòa giải của Tòa thánh trong cuộc chiến ở Ukraine.

Cha có thể nói về cha…

Tôi sinh ra ở Differdange, một thị trấn nhỏ của Luxembourg. Cha tôi là công nhân trong trạm bơm điện, cuối cùng thành giám đốc điều hành. Tôi còn mẹ và chị của tôi. Là chủng sinh của giáo phận Luxembourg ở Rôma, tôi học ở đại học Gregorian Dòng Tên, sau khi học xong, tôi vào Dòng Tên. Tôi tình nguyện đi truyền giáo ở Nhật, tôi sống ở đó gần 24 năm cho đến khi được Đức Bênêđictô XVI bổ nhiệm làm tổng giám mục Luxemburg năm 2011. Tôi phải thú nhận, tôi rất ngạc nhiên vì sau nhiều năm sống xa châu Âu, tôi lại được bổ nhiệm làm giám mục Luxembourg. Tháng 3 năm 2018, tôi được bầu làm Chủ tịch Comece, Ủy ban Giám mục của Cộng đồng Châu Âu trong 5 năm. Tháng 10 năm 2019, Đức Phanxicô phong hồng y cho tôi. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Giáo hội Luxembourg. Ngày thứ năm 8 tháng 7, ngài bổ nhiệm tôi làm tổng tường trình cho Thượng Hội đồng khai mạc vào tháng 10 năm 2021 và sẽ tiếp tục cho đến tháng 10 năm 2024. Một trách nhiệm tôi sẽ phải đi Praha, Bangkok, Beirut, Addis Ababa, Bogota. Vì Thượng hội đồng này đang ở giai đoạn lục địa, sau khi đã qua cấp quốc gia, nên theo chức vụ của tôi, tôi phải lắng nghe các cộng tác viên khác nhau ở các cấp trách nhiệm khác nhau trên các hội đồng lục địa.

Vì thế ở Rôma có tin đồn cha là một trong những hồng y thân cận nhất với giáo hoàng.

Người ta đồn tôi thân với Đức Phanxicô vì chúng tôi là tu sĩ Dòng Tên nên hiểu nhau hơn. Chúng tôi gặp nhau thường xuyên… Chúng tôi nói về thượng hội đồng 2023-2024 vì tôi là tổng tường trình và các chủ đề khác. Đức Phanxicô thích pha trò. Dù ngài có nhiều bạn ở những chân trời khác nhau, ngài lắng nghe họ nhưng ngài quyết định một mình. Dù sao ngài không phải là giáo hoàng có thể bị ảnh hưởng. Ngài là người khiêm tốn, gần gũi với mọi người nhưng khá dè chừng, đôi khi nổi nóng. Về phần tôi, tôi chưa trực tiếp chứng kiến. Tôi thấy ngài khá nhân từ, tươi cười.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Nếu mật nghị muốn có một Phanxicô thứ nhì, thì đây là tên và chương trình của người đó

Một và Nhiều – Các mối quan hệ đại kết và liên tôn

Một và Nhiều – Các mối quan hệ đại kết và liên tôn

Ronald Rolheiser, 2023-01-09

Một trong những vấn đề cổ xưa nhất trong triết học là câu hỏi về “một và nhiều”, để biết liệu thực tại rốt cuộc là một thể thống nhất hay một thể đa số và những điều này liên hệ với nhau như thế nào. Chúng ta có thể hỏi cùng một câu hỏi liên quan đến sự đa dạng của tín ngưỡng, nhà thờ và các hình thức thờ phượng khác nhau trong thế giới chúng ta. Ở đó, có một đồng nhất cố hữu nào đó hay tất cả chỉ là đa dạng mà không có điều gì ràng buộc chúng ta với nhau, trong một loại cộng đồng nào đó vượt lên sự khác biệt của chúng ta không?

Sẽ có nguy cơ bị hiểu lầm, đây là quan điểm của tôi. Tất cả chúng ta trên thế giới, những người có niềm tin chân thành, chúng ta đều có một đức tin chung vì cuối cùng chúng ta có chung một Chúa. Hơn nữa, vì chúng ta có chung một Chúa nên chúng ta cũng có chung một vấn đề; cụ thể là, chúng ta đấu tranh như nhau khi cố gắng khái niệm hóa Thượng đế không thể khái niệm hóa này. Trong tất cả các tôn giáo xác thực, tín điều đầu tiên về Chúa, đó là Chúa thánh thiện và không thể diễn tả được, nghĩa là Chúa không bao giờ bị giới hạn và nắm bắt trong một khái niệm. Theo định nghĩa, không thể nắm bắt được sự vô hạn trong một khái niệm (chẳng hạn cố gắng có một khái niệm về con số cao nhất có thể đếm được). Vì Chúa là vô hạn nên mọi nỗ lực khái niệm hóa Chúa đều thất bại.

Tất cả các tín ngưỡng xác thực đều có chung vấn đề này, và điều này sẽ giúp chúng ta luôn khiêm tốn trong ngôn ngữ tôn giáo của mình. Hơn nữa, ngoài cuộc đấu tranh chung để có một khái niệm về Chúa, tất cả chúng ta cũng đấu tranh để hiểu Chúa là Đấng thực sự yêu thương phổ quát và vô điều kiện. Tất cả các tôn giáo và tất cả các giáo phái đấu tranh để không làm cho Thiên Chúa trở thành bộ lạc, thiên vị, thiếu tình yêu và không được hiểu biết đầy đủ. Chẳng hạn trong kitô giáo, do thái giáo và hồi giáo, nơi tất cả chúng ta đều tin cùng một Chúa, cùng có khuynh hướng quan niệm rằng Chúa là nam giới, độc thân và luôn nhíu mày khó chịu. Không chính xác, Chúa là Thiên Chúa không tả được, một Thiên Chúa của mạc khải yêu thương vô điều kiện.

Vậy nhiệm vụ của chúng ta là gì? Nhiệm vụ của chúng ta trong tư cách là tín hữu là hướng đến sự đồng cảm ngày càng sâu đậm với nhau qua tất cả các giáo phái và tôn giáo. Đó là con đường đích thực cho cuộc đối thoại đại kết và liên tôn. Có thể bị cho là dị giáo hoặc không trung thành với truyền thống đức tin của riêng tôi, tôi nói điều này. Nhiệm vụ của chúng ta không phải tìm cách hoán cải, cố gắng thuyết phục người khác theo đạo chúng ta. Nhiệm vụ của chúng ta là ngày càng thâm nhập sâu đậm hơn, trung thành và yêu thương vào giáo hội và giáo phái của chính mình, ngay cả khi chúng ta cố gắng đồng cảm sâu đậm hơn với tất cả những ai thờ Chúa theo những cách khác cách chúng ta.

Nhà giáo hội học nổi tiếng Avery Dulles đã dạy, con đường tiến đến chủ nghĩa đại kết kitô giáo và đối thoại liên tôn không phải là con đường cải đạo, cố gắng làm cho người khác theo đạo của mình. Con đường phía trước (theo cách nói của ông) là con đường “tiến bộ từng bước”, nghĩa là mỗi chúng ta ngày càng trung thành với Chúa hơn trong truyền thống của mình để mỗi người chúng ta ngày càng gần Chúa hơn (với tín hữu kitô, đó là Chúa Kitô), chúng ta sẽ ngày càng gần gũi với nhau hơn và với tất cả những người có đức tin chân thành. Sự hiệp nhất mà chúng ta tìm kiếm không nằm ở một nhà thờ hay một cộng đồng đức tin cuối cùng sẽ hoán cải tất cả người khác cùng gia nhập, nhưng nằm ở việc những ai có đức tin chân thành ngày càng trở nên trung thành hơn với Chúa, để sự hiệp nhất chúng ta mong muốn có thể xảy ra một lúc nào đó trong tương lai, tùy thuộc vào chính chúng ta, vào lòng trung thành sâu sắc bên trong truyền thống đức tin của chính chúng ta.

Như thế nhiệm vụ chúng ta không phải là cố gắng làm cho người khác vào giáo hội của mình, nhưng là đi sâu hơn vào chính giáo hội của mình, dù chúng ta cố gắng có một đồng cảm ngày càng sâu sắc hơn với các giáo hội khác và các tín ngưỡng khác. Chúng ta cần là anh chị em của nhau, nhận ra chúng ta đã có chung một Thiên Chúa, một nhân loại chung và nỗi đau chung.

Tôi làm việc trong chương trình tiến sĩ về linh đạo, có nhiều sinh viên từ nhiều giáo phái kitô giáo khác nhau đến học. Trong suốt chương trình 5 năm, các sinh viên này học tập, giao lưu, chia sẻ và cầu nguyện chung với nhau (dù chỉ thỉnh thoảng trong một buổi lễ chính thức ở nhà thờ). Thật hạnh phúc, chúng tôi đã có chương trình này mười năm và chúng tôi chưa có một ai cải từ đạo này qua đạo kia. Thay vào đó, mỗi học viên tốt nghiệp của chúng tôi rời chương trình với một tình yêu và sự hiểu biết sâu sắc hơn về truyền thống của mình – và một tình yêu và hiểu biết sâu sắc hơn về các truyền thống tín ngưỡng khác.

Điều này không ngụ ý tất cả các tôn giáo đều ngang nhau, nhưng đúng hơn là không ai trong chúng ta sống theo sự thật trọn vẹn và con đường phía trước, là con đường hoán cải sâu đậm hơn của cá nhân trong chính đức tin của mình và mối quan hệ đồng cảm hơn với các đức tin khác.

Tôi xin gởi quý độc giả bài thơ của tôi – Một và nhiều

Các dân tộc khác nhau, một trái đất

Các niềm tin khác nhau, một Thiên Chúa

Các ngôn ngữ khác nhau, một trái tim

Các cách rơi ngã khác nhau, một định luật trọng lực

Các năng lượng khác nhau, một Thần khí

Các sách thánh khác nhau, một Lời

Các hình thức thờ phượng khác nhau, một khao khát

Các cuộc đời khác nhau, một số phận

Các sức mạnh khác nhau, một mong manh

Các ngành học khác nhau, một mục tiêu

Các cách tiếp cận khác nhau, một con đường

Các tín ngưỡng khác nhau – một Cha, một Mẹ, một trái đất, một bầu trời, một khởi đầu, một kết thúc.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Một Thiên Chúa, một hệ thống dẫn đường, một con đường cho tất cả chúng ta

Nhà báo tiết lộ hồng y Pell là tác giả của bản ghi nhớ gây tranh cãi chỉ trích Đức Phanxicô

Nhà báo tiết lộ hồng y Pell là tác giả của bản ghi nhớ gây tranh cãi chỉ trích Đức Phanxicô

Hồng y Pell / Matthew Rarey CNA

catholicnewsagency.com, Hannah Brockhaus, 2023-01-13

Ngày thứ tư 11 tháng 1, một nhà báo công giáo từ Ý đã tiết lộ hồng y George Pell là tác giả của một bản ghi nhớ gây tranh cãi về việc bầu chọn giáo hoàng tiếp theo.

Bản ghi nhớ ẩn danh đã được lưu hành giữa các hồng y vào Mùa Chay năm ngoái và được nhà báo Sandro Magister công bố ngày 15 tháng 3 năm 2022.

Nhà báo Magister, một nhà báo lâu năm của Vatican đã tiết lộ danh tính của tác giả bản ghi nhớ này vào ngày 11 tháng 1, một ngày sau cái chết của hồng y Pell vì tim ngừng đập ở tuổi 81.

Trong một bài báo về “những bài viết cuối cùng” của hồng y Pell, ông Magister viết trên trang blog “Settimo Cielo” của ông, hồng y “Pell là tác giả của bản ghi nhớ, ký tên là ‘Demos,’ ngài chỉ trích triều giáo hoàng của Đức Phanxicô.”

Tang lễ của cố hồng y sẽ được cử hành ở Đền thờ Thánh Phêrô ngày 14 tháng 1. Đức Phanxicô sẽ làm phép quan tài và kinh Phó dâng linh hồn như ngài vẫn làm với các hồng y qua đời ở Rôma.

Tiết lộ của nhà báo Magister đã gây ra phản ứng dữ dội chống lại hồng y Pell trên các trang mạng xã hội.

Nhà báo công giáo và là người viết tiểu sử Đức Phanxicô, ông Austen Ivereigh viết trên Twitter: “Giống như Chúa Giêsu, tình yêu và lòng thương xót của Đức Phanxicô thu hút những đầu óc xấu của sự coi thường và cứng nhắc. Như quý vị đã thấy điều này và thật buồn khi phải nói RIP Pell.”.

Nhưng ít nhất linh mục Dòng Tên Joseph Fessio, bạn của hồng y Pell, người sáng lập và tổng biên tập báo Ignatius Press đã hoài nghi việc hồng y Pell là tác giả của bản ghi nhớ.

Linh mục Dòng Tên Joseph Fessio

Trên chương trình “The World Over with Raymond Arroyo” của EWTN ngày 12 tháng 1, linh mục Fessio nói: “Ngài đã nói đủ điều một cách công khai để chúng ta có thể hiểu quan điểm của ngài về những điều này. Tôi sẽ làm một kiểm tra ngược (sed contra) về chuyện này. Hồng y George Pell là người con trung thành của Giáo hội. Ngài sẽ không công khai chỉ trích Đức Thánh Cha, và tôi nghi ngài không ký vào một điều gì đó, dù ẩn danh để đó sẽ là một chỉ trích công khai.”

Bản ghi nhớ về mật nghị tương lai mô tả triều giáo hoàng của Đức Phanxicô là một “thảm họa” và liệt kê những cách mà tác giả nghĩ ngài đã gây nhầm lẫn về các vấn đề quan trọng trong Giáo hội.

Tác giả của tài liệu cũng đặt ra những vấn đề được xem là nghiêm trọng ở Vatican, gồm các vấn đề tài chính, pháp lý và giáo lý, trước khi phác thảo những phẩm chất cần có của giáo hoàng tiếp theo.

Bản ghi nhớ viết: “Uy tín chính trị của Vatican hiện đang ở mức thấp,”

Giọng điệu phê bình của bản ghi nhớ phù hợp với một bài viết gần đây hơn của hồng y Pell do báo Anh The Spectator đăng lại.

Bài báo gọi Thượng Hội đồng Giám mục kéo dài ba năm của Đức Phanxicô là một “cơn ác mộng độc hại,” được đăng ngày 11 tháng 1-2023.

Ông Damian Thompson, phó biên tập của tạp chí mô tả bài báo là “tuyên bố công khai cuối cùng” của hồng y Pell dù ngài không biết mình sắp chết khi viết bài này và “sẵn sàng đối mặt với cơn giận của Đức Phanxicô và ban tổ chức Thượng hội động khi bài báo được đăng.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Tang lễ cố hồng y Goerge Pell

Tang lễ cố hồng y Goerge Pell

Tang lễ cố hồng y Goerge Pell

Tang lễ cố hồng y George Pell, người phê bình và cố vấn thân cận của giáo hoàng Phanxicô được cử hành tại Vatican

americamagazine.org, Nicole Winfield, 2023-01-14

Đức Phanxicô trong tang lễ của cố hồng y George Pell ngày thứ bảy 14 tháng 1-2023 tại Đền thờ Thánh Phêrô, Vatican. (Ảnh AP/Gregorio Borgia)

Cố hồng y George Pell, 81 tuổi, qua đời ngày 10 tháng 1, ngay sau khi mổ xong xương hông tại một bệnh viện ở Rôma. Trong vai trò  bộ trưởng Kinh tế Vatican, hồng y đã có một vai trò quan trọng trong những năm đầu triều giáo hoàng Đức Phanxicô, với mục đích cải cách tài chính Vatican vốn có lịch sử lâu dài về các vụ tai tiếng và quản lý yếu kém.

Sau đó hồng y đã phải về quê hương Úc để ra tòa trong vụ ngài bị xét xử về tội lạm dụng tình dục trẻ em, ngài bị biệt giam hơn một năm tù trước khi được trắng án năm 2020. Tang lễ được hồng y niên trưởng Hồng y đoàn Giovanni Battista Re cử hành và theo thông lệ, trong các tang lễ của các hồng y, Đức Phanxicô làm phép quan tài và đọc kinh Phó dâng linh hồn bằng tiếng la-tinh, ngài ngồi trên xe lăn đi quanh quan tài bằng gỗ đơn sơ của cố hồng y.

Trong bài giảng, hồng y niên trưởng Re ca ngợi cố hồng y Pell là: “Người của Chúa và người của Giáo hội, người nổi tiếng vì đức tin sâu sắc và giáo lý kiên vững, ngài luôn can đảm bảo vệ và không hề dao động. Ngài đã rất đau khổ trước sự suy yếu đức tin của người công giáo phương Tây và cuộc khủng hoảng đạo đức của gia đình.”

Chỉ 9 ngày trước đó, hồng y Pell đã dự tang lễ của Đức Bênêđictô XVI qua đời ngày 31 tháng 12.

Một ngày sau khi hồng y Pell qua đời, trong một bức điện chia buồn, Đức Phanxicô bày tỏ lòng kính trọng với hồng y, ngài nói khi cố hồng y lãnh đạo văn phòng kinh tế, “hồng y đã đặt nền móng với quyết tâm và khôn ngoan” cho những cải cách của hệ thống tài chính Tòa thánh, vốn đã được thực hiện.

Trong số các giáo sĩ đồng tế hôm nay có tổng giám mục Georg Gänswein, phụ tá lâu năm của Đức Bênêđictô XVI, hồng y Gerhard Mueller. Hồng y trả lời hãng tin AP sau khi dự tang lễ của cố hồng y, ngài nói hồng y đã để lại “một di sản vĩ đại” nhất là ngài đã chịu đựng đau khổ tột cùng, bây giờ ngài hoàn toàn được cứu chuộc.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Hình ảnh tang lễ của cố hồng y Pell tại Đền thờ Thánh Phêrô ngày thứ bảy 14 tháng 1-2023

Đức Phanxicô trên Canal 5: “Tiết kiệm chi phí Noel, đây là Giáng sinh thời chiến”

Đức Phanxicô trên Canal 5: “Tiết kiệm chi phí Noel, đây là Giáng sinh thời chiến”

Đức Phanxicô nói về chiến tranh, khủng hoảng, máng cỏ, tỷ lệ sinh đẻ giảm, tham nhũng và cả World Cup: “Tôi xin nói với anh chị em, xin anh chị em nhìn em bé, nhìn ngôi sao, thêm một em bé là thêm hy vọng.”

Bài phỏng vấn của Đức Phanxicô trước Noel, bây giờ đã qua năm mới, nhưng tiết kiệm chi tiêu vẫn là chuyện hàng ngày vì chúng ta đang ở thời chiến tranh và thời của vất giá leo thang khủng khiếp!

famigliacristiana.it, Fabio Marchese Ragona, 2022-12-19

Phóng viên Fabio Marchese Ragona của hãng tin Mediaset giải thích nhân cuộc phỏng vấn độc quyền với Đức Phanxicô ngày 18 tháng 12 năm 2022 trên Canale 5: “Hôm nay chúng ta sẽ nói về World Cup, về chính trị, về người nghèo, về chiến tranh. Và chúng tôi bắt đầu ở vùng đất Ukraine, nơi người dân đang trải qua hoàn cảnh quá khó khăn và từ đó xuất hiện chim bồ câu này bay rất nhiều nơi, một cô gái tị nạn đã vẽ con bồ câu này. Con chim bồ câu có hai mặt, một mặt là cái chết, nơi có mảnh tên lửa của Nga, và mặt kia là sự sống. Đó là bồ câu vui vẻ và cô bé đã vẽ. Là dấu hiệu chính xác nhắc chúng ta tình trạng thế giới đang trải qua, một tình trạng quá khó khăn, một tình trạng quá nặng nề khi người dân sống trong giá lạnh, không điện, không nước. Đã thế lại còn có phòng tra tấn trẻ em ở Ukraine. Vì sao các nhà lãnh đạo hai quốc gia này không thể ngồi vào bàn nói chuyện với nhau?”

Đức Phanxicô: “Tôi đã nói từ lâu, chúng ta đang trải qua cuộc chiến tranh thế giới thứ ba từng mảnh. Vấn đề Ukraine làm chúng ta thức tỉnh một chút vì nó ở gần, nhưng Syria đã trải qua cuộc chiến khủng khiếp từ 13 năm. Yemen bao nhiêu năm? Myanmar và các nước khác ở châu Phi. Thế giới đang có chiến tranh. Đau lòng lắm, đau lắm. Năm 2014, khi ở Redipugli, tôi đã khóc. Tôi đã khóc! Đó là ngày kỷ niệm 100 năm Thế chiến thứ nhất. Tôi không thể tin được những chuyện này ở thời đại con người. Sau đó, cứ mỗi ngày 2 tháng 11, tôi đến nghĩa trang. Một năm nọ, tôi đến nghĩa trang Anzio chôn lính Mỹ ở Ý. Khi nhìn tuổi thanh thiếu niên tử trận, tôi đã bật khóc. Làm thế nào con người lại đi đến nông nổi này? Làm sao cuộc sống lại bị hủy hoại ở tuổi này? Chiến tranh là bí ẩn của hủy diệt. Rồi đến ngày kỷ niệm lần thứ 60 cuộc đổ bộ ở Normandy, nước Pháp, đúng, tôi thấy các nhà lãnh đạo chính phủ nhớ lại thời điểm giải phóng châu Âu khỏi chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa nazi. Nhưng có 30.000 thanh niên còn lại trên bãi biển. Tôi không hiểu, chiến tranh hủy diệt. Tôi nghĩ đến những bà mẹ khi người đưa thư gõ cửa: “Thưa bà, có thư cho bà. Thưa bà, chúng tôi vinh dự báo tin bà là mẹ của một anh hùng”. Chỉ còn bức thư của người con trai gởi cho mẹ. Chiến tranh là điên rồ, nó luôn hủy diệt. Và bây giờ ông nói đến tàn ác, vì xâm lược này dẫn đến xâm lược khác, cứ thế cho đến các cuộc xâm lược vô tận. Nó luôn tiếp tục. Còn phá hoại thì như trò chơi. Sau đó là đói lạnh, là hủy diệt vì chiến tranh là hủy diệt. Việc buôn bán vũ khí. Ngành công nghiệp vũ khí, một ngành công nghiệp thay vì thúc đẩy nhân loại tiến bộ thì lại làm hủy diệt. Chúng ta thật điên rồ. Tôi xin nói với mọi người, xin đừng sợ, nhưng hãy khóc một chút. Hôm nay chúng ta không khóc được cho những tàn ác này. Tôi đã tiếp nhiều trẻ em Ukraine đến đây trong các buổi tiếp kiến chung. Không một em nào cười, không một, các em chào khách nhưng không có nụ cười, làm sao biết các em đã thấy gì…”.

Kể từ khi chiến tranh bùng nổ, trong các buổi tiếp kiến chung, các giờ Kinh Truyền Tin, cha đã viết, đã nói rất nhiều, cha đã xin gặp tổng thống Putin ở Matxcova để cố gắng ngăn chặn chiến tranh, cha đã nhiều lần nói chuyện với tổng thống Zelensky, đề nghị cả hai ngồi vào bàn thương thuyết. Và cha đã khóc ở quảng trường Tây Ban Nha ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm 8 tháng 12 khi cha cầu nguyện cho Ukraine. Cha đã viết nhiều, đã gom các bài phát biểu của cha trong tập sách “Thông điệp về hòa bình ở Ukraine”. Tôi tự hỏi liệu có lúc nào mà ngay cả giáo hoàng, sau nhiều tháng chiến tranh, trước tình trạng này cũng phải nói, ‘tôi có thể làm gì khác?’

Đó là điên cuồng của chiến tranh và cách này cách khác, nó luôn xảy ra như thế. Chiến tranh bắt đầu với Cain. Não trạng Cain. Giết người vì ghen, vì lợi ích, như ông đã biết. Nó thật xấu xa. Bây giờ là hậu quả xã hội, hậu quả khắp châu Âu. Chúng ta chuẩn bị, phải chuẩn bị.

Bây giờ nhiều cơ sở thương mại có nguy cơ đóng cửa vì họ không cách nào thanh toán nợ, họ gặp khủng hoảng. Làm sao những gia đình, những cơ sở nhỏ, những thương gia này có thể tiếp tục sống an lành? Họ phải cầu cứu ai?

Đó có phải là hậu quả của chiến tranh không? Giá cả tăng vọt. Không còn chủ động vì mọi thứ đều được kết nối. Tất cả đều được kết nối với nhau. Tôi nghĩ đến Yemen, nơi trẻ em sẽ chết đói và đó là vì dụ điển hình của chiến tranh. Đầu tiên là khí đốt, sau đó là ánh sáng. Tôi nhớ đến một phụ nữ đã chiến đấu trong Thế chiến thứ hai, tôi gặp bà ở Buenos Aires, bà có hai con và chồng chết ở mặt trận, bà nói và lời nói của bà vẫn còn trong trái tim tôi: “Chúng con đói, chúng con đói!” Cả ông và tôi không biết cảm giác đói là gì. Một ngày nào đó chúng ta sẽ biết chăng? Có nhiều người đã bắt đầu biết (ngài chỉ vào biên lai).

Đây là ví dụ liên quan đến nước Ý, nhưng còn có những người không biết thanh toán hóa đơn là gì, đơn giản là họ không có nhà! Và ở đây có rất nhiều. Tôi có hai dấu hiệu: một cái chăn và một ít bánh mì.

Có một điều làm tôi lo lắng, đó là thái độ dửng dưng. Một nhiếp ảnh viên của chúng tôi ở đây chụp tấm hình, trời lạnh, một phụ nữ lớn tuổi mặc áo lông thú, bà mang găng, đội mũ. Bà vừa ra khỏi tiệm ăn và có người ở cửa xin bà giúp. Bà nhìn đi chỗ khác. Điều tệ nhất là chúng ta nhìn đi chỗ khác. Chúng ta phải xem lại chi tiêu của chúng ta trong dịp lễ Giáng Sinh. Giáng Sinh năm nay là Giáng Sinh buồn, Giáng sinh chiến tranh. Có người chết đói. Chúng ta nên rộng lượng và đừng mua sắm như thể không có chuyện gì xảy ra. Dửng dưng là điều chúng ta phải dứt khoát bỏ và nhà báo quý vị có sứ mệnh đánh thức lương tâm để chúng ta không rơi vào văn hóa thờ ơ này.

“Tôi nhìn chỗ khác, tôi rửa tay, đó không phải việc của tôi”. Nhưng đó là vấn đề của tất cả mọi người. Lãng phí. Chúng ta phải nhận thức về thời điểm lịch sử này, về nghèo đói, về những gì ông cho chúng tôi thấy (con chim bồ câu của trẻ em Ukraine vẽ). Rằng có những em bé đang chơi với tên lửa của Nga, các em bị đói. Có người chết đói. Mừng Chúa giáng sinh là điều tốt đẹp, nhưng nên có chừng mực.

Với những người sống ngoài đường phố, họ có một Giáng Sinh trong giá lạnh, trong khó khăn. Và rồi chúng ta tự hỏi, nhà cầm quyền, chính phủ nên làm gì?

Đó là chuyện gây điều tiếng. Tất cả chúng ta đều có tội. Tất cả, ông và tôi, tất cả chúng ta. Và mỗi ngày chúng ta xin Chúa tha thứ cho lỗi lầm của mình. Tôi sợ. Phạm tội nhưng không được thoái hóa, không tham nhũng. Ngày nay chúng ta trượt dài từ tội lỗi đến thoái hóa, chúng ta không được dung thứ cho điều này. Vì sao, Âu châu đối diện với rất nhiều nhu cầu, vì sao nhiều người lãnh đạo châu Âu lại rơi vào tham nhũng theo kiểu này? Theo tôi, đây là một tiêu chuẩn. Và chúng ta không được phạm tội, nhưng họ yếu đuối. Đúng, đúng, yếu. Tôi cũng yếu, chúng ta đều yếu. Mỗi người đều có điểm yếu nhất của mình, chẳng hạn như tính cách: người thì nói dối, người thì dễ tức giận, người có tính xấu. Mỗi người đều có tính xấu riêng của mình. Tội lỗi thì có phạm, nhưng tham nhũng thì không, đúng không? Dứt khoát không với tham nhũng. Những gì ông nói là tham nhũng, nó không còn là tội, nhưng còn tệ hơn tội vì tham nhũng làm tâm hồn mình thối nát.

Cha đã nói: tham nhũng “bốc mùi”

Nó hôi ở Lombardi, nó hôi ở Ý (cười).

Cha đã nói nhiều lần, nếu quý vị không có con, quý vị không có tương lai. Nước Ý có đủ trưởng thành để hiểu điều này không?

Ở Ý ngày nay là mùa đông nhân khẩu, đúng không? Có lần tôi nghe một ông không lớn tuổi lắm nhưng chín chắn, ông nói, ‘ngày mai ai sẽ trả lương hưu cho tôi nếu nước Ý không có con?’. Có một văn hóa sinh sản và có một văn hóa cho rằng không sinh con thì tốt hơn. Tốt hơn là đi du lịch, mua sắm nhà cửa. Tôi biết có người nghĩ như vậy. Cách đây vài tuần, một thư ký kể cho tôi, ông đi ngang quảng trường và thấy một phụ nữ đang đẩy xe em bé, ông đến gần để xem em bé. Nhưng trong xe là con chó nhỏ. Vì lý do này, một số quốc gia như nước Pháp đã có các chương trình hỗ trợ gia đình rất tốt, vì thế tỷ lệ sinh sản của họ tăng khá nhiều. Bây giờ ở Ý chúng ta cần giúp đỡ các gia đình có con. Nhiều phụ nữ sợ có thai vì các ông chủ công ty thấy bụng to là đuổi ngay. Và cũng có phụ nữ không tìm được việc làm vì chủ sợ cô sẽ mang thai. Một đứa con là một đe dọa bây giờ. Nhưng chúng ta đang ở đâu? Có con nên là một phúc lành. Đó là lý do tại sao tôi nghĩ chúng ta phải bắt đầu lại. Xin hãy có con. Đất nước chúng ta cần trẻ em. Xin làm ơn bớt ích kỷ.

Trẻ con chẳng cần gì nhiều để làm chúng cười: một quả bóng chơi trên hè phố là đủ.

Thể thao là cao quý. Thể thao mang đến quý phái. Có bộ phim Argentina tên là Pelota de trapo (banh làm bằng nùi giẻ) của Enrique Mueňo. Tôi xem khi còn nhỏ, từ năm 1945. Đó là cuốn phim phim hay nói về thời đại, có một chút bí ẩn về những đứa trẻ chơi với những gì chúng có trong tay. Thánh Don Bosco đã nói: “Nếu bạn muốn tập họp các cậu bé, bạn đặt quả bóng ngoài đường và chúng sẽ đến ngay lập tức, giống như ruồi bay đến bánh ngọt”. Trẻ con vui đùa và chúng ta có một cái gì rất đẹp, đó là giá trị của vui đùa, của thể thao, của thấy được trò chơi của mình. Chơi và thể thao. Thật may mắn khi có thể làm được chuyện này, vì thể thao rất cao quý. Tất cả chúng ta đều cần sự vô vị lợi này của thể thao. Đó là lý do vì sao tôi rất vui khi thấy mọi người hào hứng với  thể thao, nhất là khi thể thao không bị mất khía cạnh nghiệp dư, đúng không? Thể thao là miễn phí, là nghiệp dư. Hiện nay có nhiều khía cạnh thương mại nhưng sẽ không tệ nếu chúng vừa phải. Với điều kiện môn thể thao đó không mất tính nghiệp dư của nó. Thể thao đích thực phải tự do, phải nghiệp dư.

Hiện nay mọi người chú tâm vào trận chung kết World Cup, cha gởi lời chúc nào cho đội thắng giải?

Tất cả mọi người đều gởi lời chúc tốt đẹp nhất cho đội thắng giải. Tôi mong họ khiêm tốn. Và với những người không thắng, tôi mong họ vui sống vì giá trị lớn nhất không phải là chiến thắng nhưng là chơi công bằng, chơi đẹp. Cả hai bên có can đảm để bắt tay nhau. Khi tôi thấy hai bên không bắt tay nhau khi kết thúc trận đấu… tôi đang nói về năm 46 – ngày chúa nhật hàng tuần gia đình chúng tôi, cha mẹ anh chị em đến sân vận động để xem đá banh. Và ở đó, chữ xấu nhất chúng tôi nghe là khi trọng tài nói ‘bán độ’, nhưng sau đó trận đấu kết thúc và họ bắt tay nhau. Đó là tinh thần thể thao. Thể thao làm bạn cao quý hơn, cả khi đá với quả bóng bằng nùi giẻ. Chúng ta phải làm cho tinh thần thể thao phát triển, tôi hy vọng giải vô địch thế giới này sẽ giúp chúng ta tìm lại tinh thần thể thao, điều làm cho chúng ta trở nên cao thượng.

Trong vài tháng nữa cha kỷ niệm mười năm triều giáo hoàng, có điều gì cha đã làm được và chưa làm được…

Khi tôi được bầu, tôi hiểu mong muốn của các hồng y trong các cuộc họp trước mật nghị về những gì giáo hoàng kế tiếp sẽ làm, dù họ chưa biết người đó là ai. Tôi xem đó là con đường để tiến về phía trước. Cũng có nhiều việc cần phải làm và đang được làm. Các hồng y đã giúp tôi rất nhiều để thực hiện các thay đổi này. Một trong những điều quý vị thấy rõ nhất, không phải là quan trọng nhất, đó là làm sạch kinh tế, tránh những điều tồi tệ về kinh tế. Bây giờ tổ chức kinh tế mạnh mẽ. Trong những ngày này, Hội đồng Kinh tế đã họp và đang hoạt động tốt. Tôi bắt đầu làm, với sự giúp đỡ của mọi người, điều mà các hồng y đã yêu cầu. Nhưng, trên hết là tinh thần truyền giáo, tinh thần loan báo Tin Mừng. Điều này rất quan trọng: chúng ta có thể có một giáo triều, một giáo xứ, một giáo phận rất có tổ chức, nhưng nếu không có tinh thần truyền giáo, không cầu nguyện, bạn sẽ không ở đó. Cầu nguyện là rất quan trọng.

Có điều gì cha phải làm và cha muốn tránh không làm không?

Phần kinh tế. Tôi không có khiếu. Tôi chỉ đưa ra hướng dẫn. Nhưng cảm tạ Chúa, công việc tiến hành tốt đẹp với Hội đồng Kinh tế, với Ban Thư ký Kinh tế. Tất cả đã được hồng y Pell nắm rõ vấn đề. Ngài đã làm nhưng sau đó ngài phải về Úc gần hai năm, vị bị vu khống trong một vụ án tình dục, ngài trắng án nhưng họ đã làm ngài trở nên xấu xí, tội nghiệp, ngài không còn ở trong ban quản trị nhưng chính ngài là người đã vạch ra kế hoạch, làm thế nào để tiến hành. Ngài là người có nhiều kỹ năng và chúng tôi nợ ngài rất nhiều thứ.

Có rất nhiều hình ảnh cha gần gũi với giáo dân, những vòng ôm, những nụ hôn mà cha phải bị ngưng vì Covid. Trong các cuộc gặp của cha, hình ảnh nào để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng cha?

Các em bé bị bệnh. Khi tôi nhìn nhìn một em bé bị bệnh, em bé ngồi xe lăn, khi cha mẹ mang con sắp chết của họ đến cho tôi, tôi rất xúc động. Đó là câu hỏi của nhà văn Dostoevsky: “Vì sao em bé đau khổ?”, đó là điều bí ẩn. Nhưng bí ẩn này đưa chúng ta đến gần Chúa hơn. Một trong những niềm vui đẹp nhất của tôi là được vuốt ve trẻ em, người lớn tuổi, tôi rất thích. Thật lạ lùng. Trẻ em, người lớn tuổi là một thông điệp, là sự dịu dàng.

Một câu hỏi hơi riêng tư, cha đang trong những ngày sinh nhật lần thứ 86. Có người nói, quan trọng là mình cảm thấy tâm hồn trẻ trung, cha có cảm thấy cha trẻ không?

Tôi không nghĩ vậy, theo nghĩa này. Tôi có thể nói tôi hạnh phúc. Chúa đồng hành với tôi, tôi cảm thấy mình là mục tử, tôi thực hiện ơn gọi của tôi, tôi là kẻ tội lỗi. Ngày mai tôi xưng tội, cứ mỗi 15 ngày cha giải tội đến giải tội một lần, tôi vui vì thấy Chúa giúp tôi tiến bước.

Cha hình dung Chúa Giêsu sinh ra như thế nào và cha có làm máng cỏ ở nhà không?

Có, gia đình tôi luôn làm máng cỏ với các bức tượng nhỏ bằng thạch cao. Rất giản dị. Sau đó chúng tôi làm kỹ hơn, thêm cỏ cho lạc đà của Ba vua. Điều tôi thích nhất là sau thánh lễ nửa đêm, chúng tôi đặt Hài Nhi vào máng cỏ. Chúng tôi là gia đình đơn sơ, chúng tôi không giàu, cha tôi có việc làm tốt nhưng chỉ có thế. Chúng tôi có máng cỏ, Giáng sinh của chúng tôi là máng cỏ, chúng tôi không có cây thông…

Giáng Sinh là dấu hiệu của hy vọng, Hài nhi đến, mang thông điệp đến cho những ai muốn lắng nghe…

Tôi xin nói với mọi người, chúng ta hãy nhìn Hài nhi, hãy nhìn ngôi sao. Thêm một trẻ em là thêm hy vọng: Hài nhi sinh ra trong khó nghèo, bị bách hại, phải đi trốn. Hài nhi không có ngôi sao không hoạt động, ngôi sao không có Hài nhi không hoạt động. Cả hai đều là sứ điệp của Lễ Giáng Sinh hôm nay. Tôi xin mỗi người trong chúng ta lắng nghe, Chúa ban cho chúng ta sự dịu dàng của một em bé để chúng ta không đánh mất sự dịu dàng của con người. Nếu chúng ta nhìn vào ngôi sao, như Ba vua, chúng ta sẽ biết con đường ở đâu. Nếu chúng ta nhìn Hài nhi, chúng ta sẽ biết lòng mình cảm thấy thế nào. Đây là lời nhắn của tôi, xin mỗi người nhìn vào Hài nhi và nhìn ngôi sao.

Tôi xin chúc anh chị em một Giáng sinh vui vẻ và thánh thiện. Xin Chúa chúc lành và xin Đức Mẹ gìn giữ anh chị em. Xin cám ơn.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Giáo phận Rôma “sẽ có những biện pháp” để chống linh mục Rupnik và Trung tâm Aletti

Giáo phận Rôma “sẽ có những biện pháp” để chống linh mục Rupnik và Trung tâm Aletti

Bức tranh khảm Biến hình của linh mục Dòng Tên Marko Rupnik

religiondigital.org, 2022-12-24

Hồng y Angelo De Donatis, giám mục đại diện giáo phận Rôma can thiệp vào vụ án của linh mục Dòng Tên Marko Rupnik “ở thời điểm rõ ràng này”, ông bị một số nữ tu ở Slovenia và Ý buộc tội lạm dụng tình dục và thiêng liêng.

Hồng y cho biết: “Các biện pháp khả thi sẽ được thực hiện liên quan đến Trung tâm Aletti nổi tiếng, được linh mục Rupnik và các cộng tác viên hoạt động trong phạm vi giáo phận chúng tôi. Các thừa tác viên của Chúa Kitô không thể là những người bảo đảm và bác ái thua một Nhà nước thế tục, biến một lời phàn nàn đơn thuần thành một tội ác. Chúng tôi tôn trọng sâu sắc nỗi đau và sự chịu đựng đau khổ của tất cả những người liên quan.” Trung tâm Aletti được linh mục Rupnik thành lập vào đầu những năm 1990 và phát triển dưới danh hiệu Dòng Tên.

Trong một tuyên bố được đưa ra vào buổi tối, hồng y nhấn mạnh đó là “nghĩa vụ” phán quyết vấn đề này, ngài nhắc lại “sự quan tâm và bàng hoàng” trong những giờ này, đảm bảo “tất cả hỗ trợ cần thiết cho giải pháp tích cực mong muốn trong vụ này và gần gũi với tất cả những người đã phải chịu đựng”.

Mối quan hệ với giáo phận Rôma

“Tuyên bố hiện tại của Giáo phận Rôma phải được hiểu là tôn trọng thẩm quyền và quyết định của các Bề trên hợp pháp của cha Rupnik, cũng như các quyết định của tất cả các Cơ chế đã giải quyết trường hợp của ông, đặc biệt là bộ Tín Lý trong những tháng gần đây”, thông báo nhấn mạnh linh mục Dòng Tên Rupnik, một nghệ sĩ nổi tiếng, “cho đến nay đã có quan hệ mục vụ ở nhiều cấp độ khác nhau với giáo phận Rôma, nhưng ông không ở trong vị trí phải phục tùng hồng y đại diện theo thứ bậc ở cấp độ kỷ luật và có thể là hình sự”. Tại Rôma, cha Rupnik đã đóng góp nhiều dịch vụ có tính cách mục vụ, giảng tĩnh tâm, linh thao cho các giáo sĩ ở Rôma và hoạt động nghệ thuật, trang trí nhiều nhà nguyện của Đại Chủng Viện Rôma.

Hồng y Angelo De Donatis, giám mục đại diện giáo phận Rôma

Tài liệu tiếp tục: “Toàn giáo phận, đối diện với giao tiếp gây bối rối này, đặc biệt là qua các phương tiện truyền thông, vốn làm cho Dân Chúa mất phương hướng, đang sống những giờ phút lo lắng và bàng hoàng, nhận thức được tình trạng nhạy cảm tột độ của tình hình.” Hồng y nhắc lại vấn đề “đã được giải quyết rộng rãi trong các cơ chế pháp luật hoàn toàn nằm ngoài thẩm quyền của hồng y đại diện, và đang được các cấp trên hợp pháp của cha Rupnik giải quyết một cách độc lập”. Điều này đã được thông báo ngày 16 tháng 12 thông qua thủ tục do linh mục Johan Verschueren, đại diện linh mục Bề trên Tổng quyền và Bề trên Cấp cao của Ngôi nhà Quốc tế tiến hành.

Hỗ trợ cần thiết để giải quyết trường hợp

Giáo phận Rôma đảm bảo “cho đến gần đây họ vẫn chưa nhận thức được các vấn đề được nêu ra” và do đó “không thể hiểu được bản chất của các quyết định do người khác đưa ra” nhưng đảm bảo “tất cả hỗ trợ cần thiết cho giải pháp mong muốn tích cực của vụ này, chữa lành những vết thương gây ra cho con người và cho cơ chế giáo hội, mang đến càng nhiều càng tốt ánh sáng đầy đủ và sự thật của những gì đã xảy ra: sự thật đó là sự thật duy nhất giải thoát chúng ta”.

“Nhiệm vụ của Giáo hội là áp dụng các tiêu chuẩn của sự thật, đó là tiêu chuẩn của Thiên Chúa, Ngài nhìn và phán xét chúng ta. Giáo hội có hai nhiệm vụ không thể vi phạm, đó là : gần gũi với những người đau khổ và áp dụng các tiêu chuẩn sự thật và công lý của Tin Mừng. Trong vụ này, điều tốt là phải đi theo con đường: các thừa tác viên của Chúa Kitô không thể là những người bảo đảm và bác ái thua một Nhà nước thế tục, biến một lời phàn nàn đơn thuần thành một tội ác. Các phán đoán mà chúng ta thấy nhiều người đưa ra với một sự tức giận đặc biệt, dường như không biểu lộ một tiêu chuẩn phúc âm nào để tìm sự thật, hoặc một tiêu chuẩn cơ bản nào mà tất cả các Nhà nước pháp quyền dựa vào, chúng ta không được đi ngược lại những lời của pháp luật, verbis legis non est recedendum”.

Công nhận đau khổ của những người liên quan

Nhiệm vụ của giáo phận Rôma ở thời điểm này, chủ yếu và cơ bản là công nghị và tôn trọng sâu sắc nỗi đau và sự chịu đựng của tất cả những người liên quan trong vụ này. Vì lý do này, giáo phận đảm bảo mọi hợp tác cần thiết với Dòng Tên và Cấp cao để thực hiện thông báo ngày 16 tháng 12 nói trên trong khuôn khổ giáo luật.

Điều này sẽ có thể gồm một loạt các biện pháp liên quan đến các văn phòng giáo luật của giáo phận – những cơ quan duy nhất dưới quyền của hồng y đại diện – mà cha Rupnik tiếp tục thuộc quyền.

Linh mục Dòng Tên Marko Rupnik

Các biện pháp có thể

Theo cùng một cách, sẽ có các biện pháp khả thi được thực hiện liên quan đến hoạt động đã được tiến hành trong nhiều năm của cha Rupnik và các cộng tác viên của cha trong phạm vi giáo phận Rôma: đó là Trung tâm Aletti nổi tiếng bắt đầu hoạt động trong những năm 90, sau đó phát triển và lớn mạnh dưới quyền của Dòng Tên và cuối cùng, vào ngày 5 tháng 6 năm 2019, trở thành Hiệp hội Công cộng của các Tín hữu của Giáo phận Rôma, trong đó có Tiến sĩ Maria Campatelli.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Marko Rupnik, vụ tai tiếng mới làm chấn động Giáo hội và Đức Phanxicô

Những câu hỏi rắc rối được đặt ra trong vụ Rupnik

Vụ Marko Rupnik, một tu sĩ Dòng Tên làm cả Dòng can dự theo

Vụ Marko Rupnik, một tu sĩ Dòng Tên làm cả Dòng can dự theo

Theo linh mục François Boëdec, giám tỉnh Dòng Tên vùng Tây Âu nói tiếng Pháp, những vụ này cho thấy các phản ứng trước các hành vi chi phối và tấn công tình dục với phụ nữ trưởng thành cần được phát triển cũng như trường hợp lạm dụng trẻ em.

lavie.fr, Henrik Lindell, 2023-01-03

Linh mục Dòng Tên François Boëdec, giám tỉnh vùng Tây Âu vùng nói tiếng Pháp từ năm 2017. JULIEN FAURE / La Vie

Cha nghĩ sao khi có nhiều quan sát viên đã cáo buộc Dòng Tên đã xử lý sai trong vụ linh mục Rupnik và áp dụng các biện pháp trừng phạt quá nhẹ? Và làm thế nào các tu sĩ Dòng Tên trong tỉnh dòng của cha biết các tiết lộ về vụ tai tiếng lạm dụng mới này?

Linh mục François Boëdec. Các vụ tấn công tình dục và chi phối mà các nạn nhân phải gánh chịu do linh mục Marko Rupnik phạm đã làm chúng tôi vô cùng sốc. Chấn thương và thiệt hại gây ra cho họ trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống là quá lớn. Những lời biện minh thần bí và tâm linh ảo tưởng trái ngược với lời dạy của Thánh I-Nhã vốn nhấn mạnh rất nhiều vào tự do và tôn trọng.

Linh mục Dòng Tên Hans Zollner: “Cách xử lý vụ Rupnik nghiêm trọng đến mức phải rút ra bài học cho tương lai’’

Dù linh mục Rupnik không thuộc tỉnh dòng chúng tôi, chúng tôi cũng cảm thấy bị phản bội vì hành vi của một tu sĩ Dòng Tên đã can dự vào toàn thể Dòng. Chúng tôi xin chuyển tiếp lại lời kêu gọi của Bề trên Tổng quyền Dòng Tên ở Rôma đưa ra, mời bất cứ ai, nhân chứng hay nạn nhân hãy lên tiếng (teamreferente.dir@gmail.com).

Về các bài học rút ra, chắc chắn các phản ứng đối với việc lạm dụng phụ nữ trưởng thành phải phát triển như trường hợp lạm dụng trẻ vị thành niên. Lời nói của những phụ nữ này nên được lắng nghe và tin tưởng. Giáo luật phải bảo vệ mọi người và đưa ra những hình phạt tương xứng với những tấn công đã phạm.

Các vụ tấn công tình dục của cha Marko Rupnik làm trong bối cảnh xưng tội và đồng hành thiêng liêng, một trong những ”lãnh vực chuyên môn” của Dòng. Dòng phải rút ra những bài học cụ thể nào từ điều này không?

Bất cứ ai bước vào tiến trình đồng hành thiêng liêng, họ đều giao phó những yếu tố mật thiết trong cuộc sống của họ cho người đồng hành với họ và tin tưởng vào người đó. Đó là mối quan hệ không đối xứng, trong đó người hướng dẫn phải liên tục đảm bảo mình phải ở đúng chỗ và đúng khoảng cách để ngăn chặn mọi hình thức chi phối.

Vì vậy, điều thiết yếu, bất cứ ai đồng hành với người khác đều phải được đào tạo và chính họ cũng là người được đồng hành. Các trung tâm tâm linh của chúng tôi đảm bảo việc đào tạo này. Chúng tôi đã chính thức hóa các tiêu chuẩn để ngăn ngừa các lạm dụng dành cho những người đồng hành thiêng liêng, dù họ là tu sĩ, linh mục hay giáo dân.

Trên phương tiện truyền thông Công giáo Hoa Kỳ National Catholic Reporter, nhà sử học Massimo Faggioli nhận xét: “Vụ này sẽ làm cho các tu sĩ Dòng Tên khỏi ảo tưởng họ được miễn trừ một cách lạ lùng khỏi cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục. Ý kiến của cha về lời tuyên bố này là gì?

Chúng tôi chưa bao giờ nghĩ chúng tôi được miễn trừ khỏi cuộc khủng hoảng lạm dụng, như sử gia ông vừa trích khẳng định. Từ nhiều năm, nhiều tỉnh Dòng trên thế giới đã công nhận một thực tế đau buồn về những lạm dụng trong dòng. Công việc làm sáng tỏ, tìm kiếm sự thật và phòng ngừa đã bắt đầu. Kể từ năm 2014 tại Pháp, đơn vị lắng nghe và phòng ngừa của chúng tôi đã gặp các nạn nhân của Dòng. Năm 2019, chúng tôi đã kêu gọi các nạn nhân liên lạc với chúng tôi hoặc qua ủy ban Ciase.

Lời nói của họ giúp chúng tôi tiến lên và làm rõ sự thật. Chúng tôi thường xuyên báo cáo trên trang web của chúng tôi. Và từ nhiều tháng nay, chúng tôi đã làm việc với Ủy ban Công nhận và Bồi thường (CRR), một ủy ban được thành lập sau báo cáo Ciase. Về phần các tu sĩ Dòng Tên, tất cả đã theo dõi ngày phòng ngừa và nâng cao nhận thức được tổ chức từ năm 2017 tại Tỉnh dòng chúng tôi với sự can thiệp của các chuyên gia và lời khai của các nạn nhân.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Tìm hiểu vụ Rupnik qua sáu câu hỏi chính

Bài mới nhất