Home Blog Page 372

Tìm hiểu vụ Rupnik qua sáu câu hỏi chính

Tìm hiểu vụ Rupnik qua sáu câu hỏi chính

Các biện pháp trừng phạt theo giáo luật đối với các vụ lạm dụng thiêng liêng và tấn công tình dục gần đây được tiết lộ trên báo chí nhắm vào linh mục Dòng Tên Marko Rupnik, nghệ sĩ tranh khảm gần gũi với các giáo hoàng kế tiếp. Mọi con mắt đang đổ dồn về Đức Phanxicô.

lavie.fr, Youna Rivallain, 2022-12-29

Linh mục Marko Rupnik giảng ở hội trường Phaolô VI, tại Vatican ngày 22 tháng 2 năm 2016.  FABIO PIGNATA/CATHOLIC Press PHOTO

Marko Rupnik là ai và vì sao ông nổi tiếng?

Linh mục Marko Rupnik, Dòng Tên người Slovenia, đứng đầu giáo xứ Thánh Philippe-Néri ở Rôma được toàn thế giới biết tiếng qua các tranh khảm. Năm 1995, ông được bổ nhiệm làm giám đốc xưởng nghệ thuật tôn giáo tại Trung tâm Aletti Rôma. Trong trung tâm nghiên cứu và học tập do Đức Gioan-Phaolô II thành lập có xưởng nghệ thuật tâm linh, linh mục Rupnik hướng dẫn nghệ thuật nhiều tác phẩm: tranh khảm ở vương cung thánh đường Đức Mẹ Mân Côi Lộ Đức, vương cung thánh đường Chúa Ba Ngôi ở Fatima, Bồ Đào Nha hay đền thánh Gioan Phaolô II ở Krakow, Ba Lan và Washington, Mỹ.

Không nằm trong nhóm cố vấn của giáo hoàng, linh mục Marko Rupnik thân thiết với nhiều giám mục khác nhau ở Rôma. Đức Gioan-Phaolô II giao cho linh mục làm các công việc nghệ thuật ở nhà nguyện Mẹ Cứu Thế, nhà nguyện riêng của giáo hoàng ở các căn hộ giáo hoàng tại Vatican. Năm 2016, Đức Phanxicô nhờ linh mục làm logo Năm Thánh Lòng Thương Xót. Linh mục cũng được biết đến với thần học về nghệ thuật thiêng liêng, linh mục viết nhiều sách và giảng tĩnh tâm cho nhiều cộng đoàn. Cuối cùng ông là cố vấn của ba “bộ” trong Giáo triều: bộ phụ trách Phụng tự và Kỷ luật các bí tích, bộ phụ trách Giáo sĩ và bộ phụ trách Truyền giáo. 

Linh mục bị buộc tội gì?

Trường hợp của Rupnik rất phức tạp và có nhiều giây mơ rễ má. Vụ đầu tiên liên quan đến những sự việc có từ năm 2015. Năm đó, ông tấn công tình dục một phụ nữ khi xưng tội, sau đó ông xóa tội cho nạn nhân của mình.

Vụ Rupnik thứ hai, được báo chí Ý tiết lộ tháng 12 năm 2022, liên quan đến các hành vi lạm dụng thiêng liêng và tấn công tình dục các nữ tu, xảy ra từ những năm 1980 và 1990 tại Cộng đồng Loyola có trụ sở tại Ljubljana, Slovenia, trong đó linh mục là người hướng dẫn thiêng liêng. Vào giữa tháng 12, báo La Croix tiết lộ các vụ bạo lực tình dục này liên hệ đến ít nhất chín nữ tu – đặc biệt khi họ xưng tội. Những lời chứng này được giám mục phụ tá giáo phận Rôma Daniele Libanori thu thập trong chuyến kinh lý tông tòa năm 2021.

Một trong những người tố cáo là bà Anna (tên được thay đổi), bà nói với báo cánh tả Ý Domani có khoảng 20 nữ tu trong số 40 nữ tu đã bị linh mục tấn công, họ là những người trong cộng đoàn Loyola được thành lập lúc đó. Một trong số nữ tu bị gãy tay khi cố thoát tấn công.

Lời khai của cựu nữ tu người Ý đặc biệt ớn lạnh làm nhớ lại các phương pháp mà anh em linh mục Philippe đã dùng để hành hung và hãm hiếp các nạn nhân của họ. Năm nay 58 tuổi, bà Anna kể, bà sống dưới ảnh hưởng của linh mục và bị tấn công tình dục trong 9 năm khi Marko Rupnik là người hướng dẫn thiêng liêng của bà. Trong cuộc phỏng vấn với báo Domani, bà kể bị linh mục Rupnik tấn công năm 1985. Đam mê nghệ thuật, khi đó bà 21 tuổi và đang học y khoa. Thời gian này linh mục vừa chịu chức và có một xưởng nhỏ ở quảng trường Gesù. Người phụ nữ trẻ vào cộng đoàn Slovenia năm 1987. Bà nói: “Ngay từ những năm 1980, ông đã là ngôi sao của các tu sĩ trẻ Dòng Tên Slovenia. Ông có sức lôi cuốn cá nhân rất mạnh khi giải thích Phúc âm và một nhạy cảm nhạy bén để xác định những điểm yếu của mỗi người. Ngay lập tức ông hiểu điểm yếu của tôi, bất an và nỗi sợ của tôi.”

Cựu nữ tu, bà Anna rời cộng đồng năm 1994, bà mô tả sự kềm kẹp tinh thần bà phải chịu đựng và chiến lược mà Marko Rupnik dùng để đạt mục đích của ông: “Lần đầu tiên ông hôn môi tôi, nói đó là cách ông hôn bàn thờ trước thánh lễ, vì với tôi, ông cảm nghiệm được tình yêu của Chúa qua quan hệ tình dục. (…) Mùa hè năm 1986, chúng tôi cùng cử hành thánh lễ, sau đó ông bắt tôi cởi quần áo và để ông chạm vào tôi. Nhưng lần đó tôi từ chối, ông tấn công tôi bằng những lời lẽ rất cay độc, nói tôi chẳng có giá trị gì, tôi chẳng làm được chuyện gì tốt. Tôi tuyệt vọng vì tôi hoàn toàn lệ thuộc vào sự chấp nhận của ông. Từ đó tôi quyết định gạt bỏ những nghi ngờ của mình sang một bên và hoàn toàn tuân phục ông.”

Bà Anna cũng kể một lần ông thủ dâm bạo lực, “tôi không thể dừng lại và lần đó tôi mất trinh”. Cách làm luôn giống nhau: nếu tôi nghi ngờ hoặc từ chối những đề nghị của ông, Rupnik làm mất uy tín của tôi trước cộng đoàn bằng cách nói tôi không phát triển về mặt thiêng liêng. Bà kể, ông bắt bà xem phim khiêu dâm và còn yêu cầu bà quan hệ tình dục tay ba với một nữ tu khác trong cộng đoàn, so sánh mối quan hệ này với hình ảnh Chúa Ba Ngôi.

Bà nói: “Đó thực sự là lạm dụng thiêng liêng. Nỗi ám ảnh tình dục của ông không phải ngẫu nhiên mà gắn bó sâu sắc với quan niệm nghệ thuật và quan niệm thần học của ông. Ông từ từ và nhẹ nhàng thấm nhập vào thế giới tâm lý và thiêng liêng của tôi, khơi dậy sự bất ổn và yếu đuối của tôi, đồng thời dùng mối quan hệ giữa tôi với Chúa để thúc đẩy tôi tôi có những trải nghiệm tình dục với ông.”

Giáo hội đã có những biện pháp nào?

Về trường hợp tấn công đầu tiên năm 2015, nạn nhân đã báo cáo sự việc với Dòng Tên năm 2018. Sau đó Dòng có các biện pháp trừng phạt kỷ luật đầu tiên như cấm giải tội và đồng hành thiêng liêng với phụ nữ. Hai năm sau đó, năm 2020 ông bị cách chức giám đốc Trung tâm Aletti.

Tháng 7 năm 2019, bộ Tín Lý có thẩm quyền tư pháp độc quyền với các vụ nghiêm trọng này đã yêu cầu Dòng Tên tiến hành tố tụng hình sự với linh mục Rupnik trong việc linh mục xóa tội cho kẻ quan hệ tình dục với mình. Trong giáo luật, việc kẻ lạm dụng tha tội cho “đồng lõa” (trong trường hợp này là nạn nhân) trong bí tích hòa giải sẽ tự động bị vạ tuyệt thông. Tháng 1 năm 2020, các thẩm phán của bộ Tín Lý, tất cả đều ở ngoài Dòng Tên nhất trí cho rằng thực sự đã có sự tha tội cho một “đồng phạm”.

Vài tháng sau, tháng 5 năm 2020 bộ Tín Lý tuyên bố việc tha tội cho một kẻ đồng lõa đã thực sự diễn ra và Marko Rupnik ở trong tình trạng vạ tuyệt thông. Việc xử phạt này không được công khai. Và đã được dỡ bỏ bởi một sắc lệnh của bộ Tín Lý vào cuối tháng đó. Vẫn theo giáo luật, vạ tuyệt thông có thể được dỡ bỏ, nhưng “người bị vạ phải nhận tội và chính thức ăn năn, điều này Marko Rupnik đã làm”, linh mục bề trên tổng quyền Dòng Tên Arturo Sosa đã giải thích trong một họp báo ở Rôma ngày 14 tháng 12. Tháng 4 năm 2021, Dòng Tên nhận một báo cáo liên quan đến những hành vi không phù hợp và lạm dụng thiêng liêng với một phụ nữ thứ hai thân cận với Marko Rupnik. Tháng 7 năm 2021, giám mục Daniele Libanori, giám mục phụ tá của giáo phận Rôma có chuyến kinh lý tông tòa đến cộng đồng Slovenia ở Ljubljana… giám mục thu thập những lời khai rùng rợn của một số nữ tu cho biết đã bị linh mục Rupnik tấn công tình dục, đặc biệt trong bối cảnh xưng tội, vì thế dẫn đến vụ Rupnik “thứ hai”. Theo yêu cầu của bộ Tín Lý, Dòng Tên tiến hành một cuộc điều tra và gởi kết quả về cho họ. Nhưng các sự việc đã hết thời hiệu. Dòng Tên cố gắng dỡ bỏ thời hiệu nhưng không thành công. Tháng 10 năm 2022, bộ Tín Lý đóng hồ sơ các nữ tu Slovenia về mặt hình sự mà không đưa ra một bình luận nào, ngăn cản việc mở một phiên tòa giáo luật.

Về phần các tu sĩ Dòng Tên, họ áp dụng các biện pháp kỷ luật, các biện pháp này chỉ được công khai khi báo chí Ý nhắc lại vào đầu tháng 12. Bây giờ cha Rupnik không còn có thể giải tội, không đồng hành thiêng liêng, không giảng tĩnh tâm hoặc linh thao và phải xin phép bề trên Dòng Tên địa phương nếu muốn phát biểu trước công chúng hoặc trong một hội thảo… Các hình phạt bị cho là nhẹ so với các hành vi đã làm, đặc biệt linh mục Marko Rupnik đã không tôn trọng, không được công bố công khai và ông vẫn có kế hoạch giảng tĩnh tâm hoặc giảng trên Internet. Linh mục Sosa nhấn mạnh trong cuộc họp báo: “Việc duy trì các biện pháp hạn chế mục vụ của cha Rupnik là một phần trong quá trình phức tạp mà chúng tôi biết là cần có thời gian và không có quy định thời hiệu trước. Đó là một phần của quá trình học hỏi, vì chúng tôi cố gắng không phạm sai lầm.”

Cuối cùng ngày 18 tháng 12, Dòng Tên đưa ra lời kêu gọi các nạn nhân tiềm năng khác của Marko Rupnik ra làm chứng, linh mục Johan Verschueren, đại diện bề trên tổng quyền cho các nhà quốc tế ở Rôma nhấn mạnh: “Dòng Tên, như yêu cầu của Tổng Hội lần thứ 36, muốn tạo ra một văn hóa bảo vệ, và chúng tôi cam kết duy trì các tiêu chuẩn cao nhất trong việc thực hiện chức vụ của chúng tôi. Chúng tôi cố gắng loại trừ khả năng cho bất kỳ ai có nguy cơ bị tổn thương khi thực hiện một trong các hoạt động tông đồ của chúng tôi.” Theo các đồng nghiệp của chúng tôi ở báo La Croix, sau lời kêu gọi này Dòng Tên đã nhận được khoảng mười lời chứng.

Ai biết?

Trong một thông cáo báo chí công bố ngày 23 tháng 12, hồng y đại diện giáo phận Rôma Angelo De Donatis cho biết ngài phát hiện các cáo buộc chống linh mục Rupnik cùng lúc với công chúng, ngài công nhận: “Giáo phận Rôma không biết các sự việc trước khi vụ này bùng nổ ra”, ngài đảm bảo hỗ trợ để tìm một giải pháp tích cực. Theo ngài, các sự việc của linh mục Rupnik – đã được Giáo triều Dòng Tên và các giám mục Slovenia công nhận – là “những lời buộc tội ở cấp độ truyền thông”.

Theo bà Anna, Giáo hội và Dòng Tên đã biết sự thật từ năm 1994, “khi cá nhân tôi xin tổng giám mục giáo phận Ljubljana ra khỏi dòng, tôi đã tố cáo các hành vi lạm dụng của cha Rupnik”. Tổng giám mục đã trả lời cho bà, Dòng Tên đã trừng phạt nghiêm khắc kẻ lạm dụng bà, bà giải thích: “Điều này không đáng tin vì công việc của Trung tâm Aletti ở Rôma đang được củng cố trong những năm này.”

Theo lời chứng của bà, cha Marko Rupnik đã bị trục xuất khỏi Cộng đồng Loyola ở Ljubljana và sau đó ông về Rôma… được bổ nhiệm làm giám đốc Trung tâm Aletti. Cựu nữ tu khẳng định một nữ tu khác, không phải là nạn nhân nhưng được thông báo về các sự việc, đã cho biết năm 1998 những hành vi gây hấn của Marko Rupnik với Francisco J. Egaña, lúc đó là đại biểu cho các nhà quốc tế của Dòng Tên ở Rôma, bà Anna tố cáo trong cuộc phỏng vấn với báo Domani: “Họ lắng nghe bà nhưng không làm gì. Cha Rupnik được mọi người bảo vệ.”

Nhưng theo trình tự thời gian các sự kiện được các tu sĩ Dòng Tên công khai, dòng không áp dụng bất kỳ hình phạt nào liên quan trực tiếp đến “vụ Rupnik thứ hai” trước chuyến kinh lý tông tòa đến Cộng đồng Loyola năm… 2021. Trong chuyến đi này của giám mục Daniele Libanori, bà Anna nói bà không có tin tức gì về tiến trình của thủ tục. Sau đó, bà viết một bức thư ngỏ gởi cho bề trên tổng quyền Dòng Tên Arturo Sosa, các hồng y, giám mục khác và các thành viên của Trung tâm Aletti.

Sự việc trở nên bối rối hơn, tháng 3 năm 2020, cha Marko Rupnik được giáo hoàng mời giảng tĩnh tâm Mùa Chay tại Vatican cho Giáo triều và giáo hoàng có tham dự… hai tháng sau khi các thẩm phán của bộ Tín Lý kết tội nặng nhất trong việc tha tội cho một “đồng phạm”, và hai tháng trước khi bị vạ tuyệt thông.

Trách nhiệm của Đức Phanxicô là gì?

Trong cuộc họp báo của linh mục Arturo Sosa, các nhà báo đã nhanh chóng đề cập đến vai trò của Đức Phanxicô, giáo hoàng Dòng Tên khá thân thiết với Marko Rupnik trong vụ này. Linh mục Sosa bảo vệ: “Các kênh không trực tiếp ở điểm này”, ngài khẳng định “có thể tưởng tượng” hồng y Dòng Tên Luis Ladaria, bộ trưởng bộ Tín Lý đã thông báo cho Đức Phanxicô.

Giáo hoàng có liên quan đến việc dỡ bỏ vạ tuyệt thông liên quan đến linh mục Rupnik không? Ngày 23 tháng 12 ban biên tập của trang web Il Sismografo đã đăng một bài nói lên trách nhiệm của Đức Phanxicô: “Trong vụ Rupnik, một phần trách nhiệm đáng kể và rất tế nhị liên quan trực tiếp đến giáo hoàng, người cho đến nay vẫn chưa làm sáng tỏ câu hỏi về việc dỡ bỏ vạ tuyệt thông do bộ Tín Lý phê chuẩn.”

Theo các phương tiện truyền thông Ý, sau cuộc điều tra của bộ Tín Lý, thậm chí hồng y Luis Ladaria còn yêu cầu cha  Marko Rupnik phải bị ra khỏi hàng linh mục, giáng xuống thành giáo dân. Trang Il Sismografo viết: “Chính Đức Phanxicô đã bỏ hình phạt cực nặng này (dứt phép thông công) đối với một trong những tội nghiêm trọng nhất. Như chúng ta biết, giáo hoàng là thẩm quyền duy nhất trong quyết định này.” Điều này không hoàn toàn đúng, vì bộ Tín Lý có thể dỡ bỏ vạ tuyệt thông trong trường hợp ăn năn. Vì thế ở đây có thể có chỗ cho nghi ngờ. Các nghi ngờ đè nặng trên giáo hoàng, bà Lucetta Scaraffia, sử gia người Ý, chuyên gia về Vatican viết trên nhật báo La Stampa: “Nhiều tiếng nói, ngay cả các tu sĩ Dòng Tên nhấn mạnh chỉ có thẩm quyền của giáo hoàng mới có thể giải thoát linh mục khỏi sự kết án này.” Trang Il Sismografo tiết lộ, trong số những điều khác, “Rupnik đứng đầu một đế chế kinh tế”. Được Giáo hội trả theo giá của những nhà sáng tạo quốc tế, ông được trả 1,7 triệu âu kim cho việc trang trí một nhà nguyện ở Rôma.

Tại sao trường hợp này là điển hình?

Liên quan đến chiến lược mà Marko Rupnik dùng để tấn công các nạn nhân, vụ việc này minh họa hiện tượng khống chế và lạm dụng tâm lý-thiêng liêng trong hàng ngũ giáo sĩ. Nếu vấn đề tấn công tình dục trẻ vị thành niên bây giờ đã được nói lên thì vấn đề tấn công tình dục người lớn vẫn là một điểm mù trong suy nghĩ toàn cầu của Giáo hội về cuộc chiến chống lại bạo lực tình dục. Chỉ cần nhìn vào giáo luật, trong đó một nạn nhân bị cho là “đồng phạm” của kẻ tấn công họ.

Xuyên qua vụ này, bà Lucetta Scaraffia mô tả trên tờ La Stampa: “Vụ Rupnik cho thấy một cách tàn nhẫn đến độ nào các cấp bậc trong giáo hội khó hiểu được vấn đề lạm dụng tình dục trên các nữ tu. (…) Đối với thể chế giáo hội, việc lạm dụng tình dục phụ nữ trưởng thành, trong trường hợp ở đây là các nữ tu, không tồn tại: trên thực tế, những trường hợp này được xếp vào hạng mục, đó là vi phạm tình dục giữa hai bên, trên hết là vì, theo một quan niệm phi lý về lạc thú tình dục vẫn còn hiệu lực trong hệ thống cấp bậc công giáo, người ta luôn cho rằng các nạn nhân bị lạm dụng cũng cảm thấy khoái cảm, và do đó trở thành đồng phạm vi phạm điều răn thứ sáu.”

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Vụ Marko Rupnik, một tu sĩ Dòng Tên làm cả Dòng can dự theo

Đức Phanxicô tố cáo các lạm dụng tâm lý trong vụ của các tu sĩ Dòng Tên làm rung chuyển Giáo hội

Giáo hoàng Phanxicô, Thượng hội đồng về tính đồng nghị… Những cáo buộc thâm độc sau cái chết của hồng y Pell

Giáo hoàng Phanxicô, Thượng hội đồng về tính đồng nghị… Những cáo buộc thâm độc sau cái chết của hồng y Pell

Trong một văn bản được báo chí Anh đăng ngày thứ tư 11 tháng 1, cố hồng y Pell đã chỉ trích Thượng hội đồng về tính đồng nghị mà Đức Phanxicô mong muốn, giai đoạn lục địa sẽ sớm khai mạc. Một tài liệu phụ có từ năm ngoái và được cho là của ngài đã công kích trực diện bản tổng kết của Đức Phanxicô.

la-croix.com, Matthew Lasserre, 2023-01-13

Đức Phanxicô và hồng y George Pell tại Vatican, ngày 12 tháng 10 năm 2020. AFP

Một “cơn ác mộng độc hại”. “Một trong những tài liệu rời rạc nhất được gởi từ Rôma.” Trong một chuyên mục đăng ngày thứ ba 11 tháng 1, một ngày sau khi hồng y Pell qua đời, hồng y George Pell đã không tiếc lời nói lên sự thù địch của ngài với tiến trình công nghị do Vatican khởi xướng. Bài viết được tuần báo Anh The Spectator đăng, là lời chỉ trích không khoan nhượng với Thượng hội đồng về tính đồng nghị. Phần giới thiệu của tuần báo viết: “Hồng y không biết mình sắp chết khi viết dòng này; ngài đã sẵn sàng đối diện với cơn giận của giáo hoàng Phanxicô.”

Hồng y viết: “Thượng hội đồng của các giám mục công giáo  đang lo xây cái mà họ gọi là ‘giấc mơ của Chúa’ về tính đồng nghị. Thật không may, giấc mơ thiêng liêng này đã  thành cơn ác mộng độc hại dù các giám mục có ý định tốt.”

Một thượng hội đồng “tân mác xít”

Theo ngài, kết luận được đưa ra sau khi giai đoạn quốc gia kết thúc là “một trong những tài liệu rời rạc nhất được Rôma gởi đi”. Trong diễn đàn thâm độc này, ngài tố cáo “sự bao gồm triệt để” và sự tham gia của tất cả những người “đồng trách nhiệm” mà không phân biệt giữa “những người tin và không tin”. Đặc biệt ngài đánh giá, “do sự khác biệt quan điểm về phá thai, tránh thai, phong chức cho phụ nữ và các hoạt động đồng tính luyến ái, một số người cảm thấy không thể có quan điểm dứt khoát về những vấn đề này”, thêm vào danh sách của những chủ đề này là “chế độ đa thê”, “ly dị và tái hôn”.

Sự chỉ trích trực diện này có thể tạo ngạc nhiên vì ngài là thành viên thân cận của giáo hoàng, người có chân trong Hội đồng Hồng y (có tên là C9), cơ quan hỗ trợ giáo hoàng trong việc cải tổ Giáo triều. Ngài là cựu bộ trưởng kinh tế cho đến khi ngưng chức vì phải về Úc để bào chữa cho những cáo buộc tấn công tình dục trẻ vị thành niên, đáng chú ý ngài là người khởi xướng các cải cách để minh bạch hơn trong việc quản lý hệ thống tài chính của Vatican.

Hồng y Pell tấn công: “Chúng ta nghĩ gì về món lẩu thập cẩm này, kiểu ảnh hưởng ý muốn của Thời đại Mới này? (…) Nó không đầy đủ, rất thù địch với truyền thống tông đồ và không công nhận Tân Ước là lời của Thiên Chúa, là chuẩn mực cho mọi giáo huấn về đức tin và luân lý. Cựu Ước thì bị bỏ qua, chế độ phụ hệ bị từ chối và luật Môsê bao gồm mười điều răn, không được công nhận.”

Hồng y Pell vẫn xem tiến trình thượng hội đồng là “một tấn công vào đạo đức truyền thống, đưa thuật ngữ tân mác-xít vào cuộc đối thoại về các vấn đề loại trừ, tước bỏ, bản sắc, gạt ra ngoài lề xã hội, những người không có tiếng nói, LGBT”. Một thượng hội đồng mà theo ngài là ngõ cụt về “đời sống sau cái chết”, “phán xét”, “thiên đàng và địa ngục”.

Giáo hoàng Phanxicô, một “thảm họa”

Một tài liệu khác, đăng ẩn danh vào tháng 3 năm 2022, và bây giờ được cho là của hồng y Pell sau khi ngài qua đời. Với tiêu đề là “Mật nghị tiếp theo” do nhà báo người Ý thân cận với giới bảo thủ Sandro Magister tiết lộ, văn bản này tấn công con đường đồng nghị của Đức, trực tiếp hơn là tấn công giáo hoàng Phanxicô. Chính nhà báo, người viết đặc biệt cho tuần báo L’Espresso tiết lộ quyền tác giả của ghi chú này sau cái chết của hồng y Pell.

Ghi chú này liệt kê một số chủ đề nhất định mà “giáo hoàng im lặng”: con đường đồng nghị của Đức, lập trường của hồng y Luxembourg Jean-Claude Hollerich về tình dục và độc thân của linh mục dứt khoát theo ngài, đó là “đàn áp tích cực những người theo chủ nghĩa truyền thống và các dòng chiêm niệm”.

Văn bản rõ ràng nhắm giáo hoàng Phanxicô và chính quyền của ngài. Văn bản đề cập: “Các nhà bình luận thuộc mọi thành phần (…), dù có những lý do khác nhau đều đồng ý triều giáo hoàng hiện nay là thảm họa ở nhiều khía cạnh.” Và chính sách đối ngoại của Vatican cũng không tránh khỏi. Văn bản của hồng y Pell còn đề cập: “Các quyết định và chính sách thường đúng đắn về mặt chính trị, nhưng đã bị những thất bại nghiêm trọng trong việc hỗ trợ nhân quyền ở Venezuela, Hồng Kông, Trung Quốc đại lục, và bây giờ là trong cuộc xâm lược của Nga. Cuối cùng việc bổ nhiệm các hồng y là lập dị trong một Hồng y đoàn yếu kém và các thành viên  không biết nhau.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Phanxicô tố cáo các lạm dụng tâm lý trong vụ của các tu sĩ Dòng Tên làm rung chuyển Giáo hội  

Đức Phanxicô tố cáo các lạm dụng tâm lý trong vụ của các tu sĩ Dòng Tên làm rung chuyển Giáo hội

reuters.com, Philip Pullella, 2202-12-22

Ngày thứ năm 22 tháng 12, Đức Phanxicô lên án các bạo lực tâm lý và lạm dụng quyền lực trong Giáo hội, trong vụ một linh mục nổi tiếng bị buộc tội lạm dụng quyền lực để lạm dụng tình dục các nữ tu đã làm rung chuyển Vatican.

Ngài đưa ra bình luận của mình trong bài phát biểu Giáng sinh hàng năm trước các hồng y, giám mục và các thành viên khác của Giáo triều, chính quyền trung ương của Vatican.

Đức Phanxicô thường nhân cơ hội này để chỉ trích những sai sót trong bộ máy quản trị hàng đầu của Vatican như thói ngồi lê đôi mách, bè phái và tranh cãi nội bộ.

Sau khi đề cập đến các cuộc chiến tranh, ngài nói: “Bên cạnh bạo lực vũ khí, còn có bạo lực lời nói, bạo lực tâm lý, bạo lực lạm dụng quyền lực, bạo lực ngầm của tin đồn”.

Ngài nói thêm, không ai nên “thủ lợi với vị trí và vai trò của mình để hạ thấp người khác”.

Mặc dù ngài không đề cập cụ thể đến vụ này, nhưng dòng Tên mà ngài thuộc về trong những tuần gần đây đã làm dư luận xôn xao với vụ linh mục Marko Ivan Rupnik, người Slovenia nổi tiếng trong Giáo hội qua các tác phẩm nghệ thuật, trong đó có tác phẩm thiết kế cho một nhà nguyện ở Vatican.

Linh mục Rupnik đã bị buộc tội lạm dụng tâm lý và tình dục các nữ tu ở Slovenia ba mươi năm trước, khi ông là linh hướng cho cộng đoàn các nữ tu ở đó.

Những nỗ lực lặp đi lặp lại để tiếp xúc với linh mục Rupnik qua trường nghệ thuật tôn giáo của linh mục ở Rôma đều không được, linh mục không trả lời các tin nhắn để lại ở đó.

Vào đầu tháng 12, dưới áp lực của giới truyền thông, các tu sĩ Dòng Tên đã công nhận linh mục Rupnik bị kỷ luật ít nhất hai lần trong những năm gần đây khi các nạn nhân bị cáo buộc lên tiếng, nhưng đã được văn phòng tín lý của Vatican lặng lẽ ân xá. Trường hợp liên quan đến việc “xóa tội cho đồng phạm” trong tòa giải tội, đề cập đến việc một linh mục quan hệ tình dục với một người, rồi sau đó xóa tội cho người đó.

Một cựu nữ tu đã cáo buộc linh mục kiểm soát “tâm lý-tâm linh” với sơ.

Ngày chúa nhật 18 tháng 12, Dòng Tên đã mở hồ sơ và đăng thư ngỏ tên trang web của Dòng, xin bất kỳ ai muốn khiếu nại một vụ mới hoặc thảo luận về những khiếu nại hiện có liên hệ với Dòng.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Vụ Rupnik: Dòng Tên xin bất cứ ai bị lạm dụng liên hệ với Dòng

Linh mục Dòng Tên Hans Zollner: “Cách xử lý vụ Rupnik nghiêm trọng đến mức phải rút ra bài học cho tương lai’’

Linh cữu hồng y Pell đã được quàn, chương trình tang lễ bị lu mờ vì bản ghi nhớ bị tiết lộ

Linh cữu hồng y Pell đã được quàn, chương trình tang lễ bị lu mờ vì bản ghi nhớ bị tiết lộ

reuters.com, Philip Pullella, 2023-01-13

Hồng y George Pell trong cuộc phỏng vấn với Reuters ở Rôma, Ý ngày 7 tháng 12 năm 2020. REUTERS/Guglielmo Mangiapane

Ngày thứ sáu hồng y George Pell đã được quàn nhưng việc chuẩn bị tang lễ bị lu mờ vì những tiết lộ cho rằng ngài là tác giả của một bản ghi nhớ ẩn danh, xem triều giáo hoàng của Đức Phanxicô là một thảm họa.

Quan tài bằng gỗ nâu sẫm đóng kín của hồng y được đặt trên sàn của ngôi nhà thờ nhỏ Thánh Stêphanô Abyssinian bên trong tường thành Vatican, chỉ cách Nhà Thánh Marta nơi Đức Phanxicô ở vài mét.

Sáng thứ sáu, một phóng viên đã thấy có khoảng 20 người quỳ gối cầu nguyện trong nhà thờ, nhà thờ mở cửa quàn trong 10 giờ.

Hồng y Pell, 81 tuổi, bị tù hơn một năm trước khi được tha bổng về các cáo buộc lạm dụng tình dục ở quê hương Úc, ngài qua đời tối thứ ba 10 tháng 1 tại một bệnh viện ở Rôma vì bị suy tim.

Nhà thờ nhỏ thường được dùng để làm lễ rửa tội và đám cưới, là một trong những nhà thờ lâu đời nhất ở Vatican. Một số cấu trúc của nhà thờ có từ thế kỷ thứ năm, nhà thờ Thánh Stêphanô là một trong số ít các công trình kiến trúc không bị phá hủy để xây Đền thờ Thánh Phêrô từ đầu thế kỷ 16.

Tang lễ của hồng y Pell sẽ cử hành ngày thứ bảy ở Đền thờ Thánh Phêrô. Theo truyền thống khi các hồng y qua đời, thánh lễ sẽ được hồng y niên trưởng Hồng y đoàn cử hành, như thế hồng y Ý Giovanni Battista Re sẽ cử hành và Đức Phanxicô sẽ làm phép quan tài và đọc kinh Phó dâng linh hồn.

Cái chết bất ngờ của ngài vì tim ngừng đập sau khi ngài mổ xương hông, được xem là một ca mổ thông thường đã tạo  một cú sốc khác vào ngày hôm sau.

Năm ngoái, nhà báo uy tín người Ý Sandro Magister, người có kinh nghiệm lâu dài về các tài liệu bị rò rỉ của Vatican, đã công bố một bản ghi nhớ ẩn danh lưu hành ở Vatican lên án triều giáo hoàng của Đức Phanxicô là một “thảm họa”.

Trên blog Settimo Cielo (Thiên đàng thứ bảy) của ông, nhà báo Magister tiết lộ chính hồng y Pell là người đã viết bản ghi nhớ và cho phép ông xuất bản dưới bút hiệu “Demos”, tiếng hy lạp có nghĩa là quần chúng. Bản ghi nhớ còn đề cập đến phẩm chất của giáo hoàng tiếp theo nên như thế nào.

Một quan chức Vatican ẩn danh cho biết: “Mọi người ở đây đang nói về chuyện này.” Ông cho biết, không nghi ngờ gì hồng y Pell là tác giả bản ghi nhớ này, nhưng việc công bố lẽ ra nên giữ lại sau tang lễ của cố hồng y “vì phải tôn trọng người quá cố”.

Linh mục Joseph Hamilton, thư ký riêng của hồng y Pell, từ chối bình luận về báo cáo của nhà báo Magister. Ông Matteo Bruni, phát ngôn viên của Vatican cho biết ông không có bình luận gì.

Giáo hội Úc thông báo, hồng y Pell sẽ được chôn cất ở hầm mộ tại nhà thờ chính tòa St. Mary ở Sydney, nơi trước đây ngài là tổng giám mục.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Sau hồng y George Pell, họ đã phá vỡ khuôn mẫu cho các hồng y công giáo

Những câu hỏi rắc rối được đặt ra trong vụ Rupnik

Những câu hỏi rắc rối được đặt ra trong vụ Rupnik

la-croix.com, Hélọse de Neuville và Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2022-12-26

Đức Phanxicô tiếp linh mục Marko Rupnik ngày 3 tháng 1 năm 2022 tại Vatican

Các cáo buộc chống lại linh mục-nghệ sĩ Marko Rupnik, 68 tuổi Dòng Tên người Slovenia đang chồng chất và đặt vấn đề về cách Vatican và Dòng Tên xử lý vụ này.

Ai là người biết về những cáo buộc chống cha Marko Rupnik?

Đầu tháng 12 năm 2022, báo chí Ý tiết lộ cha Marko Rupnik, tu sĩ Dòng Tên người Slovenia làm nhiều bức khảm trang trí trong nhiều nhà thờ trên khắp thế giới, bị buộc tội tấn công tình dục và lạm dụng thiêng liêng. Giữa tháng 12, nhật báo La Croix cho biết những lạm dụng này liên quan đến ít nhất chín nữ tu – đặc biệt khi xưng tội.

Năm 2021, lời chứng của các nữ tu được thu thập trong chuyến kinh lý tông tòa đến cộng đồng Slovenia, nơi cha Rupnik hướng dẫn thiêng liêng cho cộng đoàn cho đến đầu những năm 1990. Những chứng từ này đã được giám mục Daniele Libanori, giám mục phụ tá giáo phận Rôma tiếp nhận.

Sau đó những cáo buộc này được Dòng Tên công nhận sau cuộc điều tra của Dòng năm 2021. Cuối cùng kết luận cuộc điều tra được chuyển đến bộ Tín Lý, một trong những “bộ” giữ độc quyền tài phán các tội phạm nghiêm trọng nhất. Bộ kết luận các cáo buộc chống cha Rupnik đã hết thời hiệu. Các thành viên của bộ từ chối dỡ bỏ thời hiệu, cũng như theo yêu cầu của các tu sĩ Dòng Tên, vì thế ngăn cản việc mở một cuộc điều tra thực sự và mở phiên tòa xét xử theo giáo luật.

Một trong những nạn nhân của cha Rupnik tiết lộ với báo Domani của Ý, bà kể lại việc bà bị tấn công tình dục bạo lực trong và ngoài tòa giải tội, đi kèm là một thần học lệch lạc biện minh cho những cuộc tấn công này. Bà cho biết đã nhiều lần tố cáo với các cấp trên của linh mục nhưng ông chưa bao giờ bị xử phạt.

Bà nói: “Giáo hội và dòng Tên đã biết sự thật từ năm 1994”, bà cho biết cuối cùng cha Rupnik bị trục xuất khỏi cộng đồng Slovenia, về sống ở Rôma và từ đó theo đuổi sự nghiệp ở đó. Ngày 5 tháng 6 năm 2022, bà viết “thư ngỏ” cho bề trên tổng quyền Dòng Tên, linh mục Arturo Sosa, đồng thời gởi cho 17 người khác, gồm các giám mục và hồng y.

Các tu sĩ Dòng Tên có áp dụng các biện pháp trừng phạt quá nhẹ so với tội phạm không?

Sau những tiết lộ công khai liên quan đến lời buộc tội của các nữ tu Slovenia, trước tiên năm 2021 Dòng Tên giải thích, họ đã hạn chế công việc mục vụ của cha Rupnik (cấm giải tội, tháp tùng thiêng liêng, giảng tĩnh tâm…). Những biện pháp trừng phạt kỷ luật này, rõ ràng khách quan là nhẹ so với các sự việc bị tố cáo – nghiêm trọng nhất theo giáo luật hình sự – và đã không được linh mục Rupnik tôn trọng. Điều này dường như không làm cho cấp trên của cha Rupnik lay chuyển.

Lạm dụng, các biện pháp trừng phạt nhẹ cho linh mục Dòng Tên Marko Rupnik

Vì thế trước khi vụ tai tiếng bùng ra công khai, nên dù đã bị xử phạt, linh mục Rupnik vẫn tiếp tục giảng trên Internet, đi nhận giải thưởng ở nước ngoài và còn lên chương trình đi giảng tĩnh tâm. Cho đến bây giờ, cha Rupnik vẫn giữ xưởng khảm nghệ thuật ở Rôma mà khi làm ở đây, ông đã bị cáo buộc lạm dụng các phụ nữ.

Dưới áp lực của giới truyền thông, các tu sĩ Dòng Tên thừa nhận đã có các hạn chế mục vụ đầu tiên vào năm 2019, đưa đến việc cha Rupnik bị vạ tuyệt thông 11 tháng sau đó, tháng 5 năm 2020. Một hình phạt do các lạm dụng trong nhiều lần giải tội, rồi xóa tội cho người bị tấn công. Theo Dòng Tên, cha Rupnik đã ‘ăn năn’, vạ tuyệt thông được dỡ bỏ chưa đầy một tháng sau khi tuyên bố chính thức.

Các tu sĩ Dòng Tên tiết lộ linh mục Marko Ivan Rupnik bị dứt phép thông công vì tha tội cho người phụ nữ cùng có hoạt động tình dục với ông

Việc xử phạt này được giữ bí mật, không có một thông báo nào kêu gọi các nạn nhân có tiềm năng làm chứng. Cuối cùng ngày 18 tháng 12-2022, các nhà lãnh đạo Dòng Tên ra thông báo kêu gọi làm chứng. Theo thông tin của chúng tôi, chưa đầy một tuần sau, hơn mười người đã hưởng ứng lời kêu gọi này.

Vụ Rupnik: Dòng Tên xin bất cứ ai bị lạm dụng liên hệ với Dòng

Linh mục Rupnik có được Vatican khoan dung đặc biệt không?

Cha Rupnik là nhân vật nổi tiếng ở Vatican, ông thường xuyên được hỏi ý kiến về các vấn đề nghệ thuật. Gần gũi với các giáo hoàng kể từ Đức Gioan-Phaolô II, ngài đã nhờ cha Rupnik trang trí phần lớn nhà nguyện Mẹ Cứu Thế ở tầng hai của dinh tông tòa. Linh mục Rupnik là cố vấn cho ba bộ ở Giáo triều: bộ phụng vụ và kỷ luật các bí tích, bộ giáo sĩ và bộ rao giảng Tin Mừng.

Ở giáo phận Rôma, mà giám mục giáo hoàng, hồng y phụ tá Angelo De Donatis cho vụ này là do “những lời buộc tội của giới truyền thông”. Hồng y xác nhận ngài không biết gì “cho đến gần đây”. Một người am tường về giáo phận Rôma nhận xét: “Không ai nghĩ ngài không biết, đây là loại văn hóa phủ nhận có hệ thống”, ông không tin những gì ngài nói.

Còn các phương tiện truyền thông chính thức của Vatican, họ đã đợi hơn mười ngày để đưa ra vụ này. Một nguồn tin trong nội bộ cho biết: “Họ cho chúng tôi hiểu, không nên nói về chuyện này và cho chúng tôi biết, bây giờ là thời khắc phải thương xót.” Và ngay cả trong chính bộ truyền thông, một trong những các bộ cao nhất của cộng đoàn các tu sĩ (hỗn hợp) mà cha Marko Rupnik cùng sống chung.

Vatican chưa bao giờ chính thức thông báo về vụ này, từ chối trả lời mọi câu hỏi của nhà báo và một cách hệ thống gởi các câu hỏi này về nhà Mẹ Dòng Tên.

Đức Phanxicô có vai trò gì trong vụ này?

Cho đến bây giờ, Đức Phanxicô chưa bao giờ lên tiếng về vụ này, theo thông lệ của ngài, ngài không nói đến các trường hợp cá nhân, ngoài các cuộc họp báo trên máy bay khi ngài trở về sau các chuyến tông du.

Vấn đề vẫn là liệu Đức Phanxicô có đích thân dỡ bỏ sắc lệnh tuyệt thông do bộ Tín Lý ban hành tháng 5 năm 2020 hay không. Bây giờ các tu sĩ Dòng Tên cho biết, vạ trừng phạt này được dỡ bỏ bằng một sắc lệnh gần như ngay lập tức, trong cùng tháng. Nhưng họ không nói rõ ai là người khởi xướng quyết định này: có phải chính hồng y Dòng Tên Luis Ladaria, bộ trưởng bộ Tín Lý không? Hay của chính giáo hoàng? Biện minh cho quyết định này, các bề trên Dòng Tên giải thích, cha Rupnik đã công nhận sự việc, hứa sửa chữa lỗi lầm, hai điều kiện để giáo luật dỡ bỏ hình phạt này.

Tại Vatican, một số nguồn tin cho biết linh mục Marko Rupnik không ở trong số các cố vấn thân cận nhất của Đức Phanxicô, nhưng kể từ thời Đức Gioan-Phaolô II, cha Rupnik thường “gần gũi” với các giáo hoàng. Tháng 3 năm 2020, cha đã giảng Mùa Chay cho Giáo triều. Hai tháng trước khi bị bộ Tín Lý dứt phép thông công ngắn ngủi.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Marko Rupnik, vụ tai tiếng mới làm chấn động Giáo hội và Đức Phanxicô

Linh mục Dòng Tên Hans Zollner: “Cách xử lý vụ Rupnik nghiêm trọng đến mức phải rút ra bài học cho tương lai’’

Hài hước: một đoạn hấp dẫn trong tông thư cuối của Đức Phanxicô

Hài hước: một đoạn hấp dẫn trong tông thư cuối của Đức Phanxicô

Ảnh AP / Osservatore Romano

fr.aleteia.org, Cécile Séveirac, 2023-01-12

Ngày 28 tháng 12, Đức Phanxicô công bố một tông thư chứa đầy những bài học thiêng liêng quý giá rút ra từ tác phẩm của Thánh Phanxicô Salê, gồm cả một đoạn hấp dẫn về một lòng mộ đạo sai lầm. Thế nào là người tín hữu tốt? Là người công giáo đi lễ mỗi ngày, đi xưng tội mỗi tuần, hay người công giáo rộng lượng với người nghèo hơn mình?

Trên thực tế, không có điều nào trong số này theo như Đức Phanxicô nhắc trong tông thư Tất cả thuộc về tình yêu, Totum amoris est cuối cùng của ngài, được công bố nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày Thánh Phanxicô Salê qua đời.

Bị bỏ qua trong im lặng vì cái chết và tang lễ của Đức Bênêđictô XVI, tuy nhiên, tông thư này lại có một số viên ngọc khôn ngoan và không thiếu hài hước. Tông thư nhắc lại thực sự “sốt mến” là gì, ngài lấy cảm hứng từ những lời dạy của vị Tiến sĩ vĩ đại Giáo hội với chiều sâu thiêng liêng tinh tế tuyệt vời.

Một người sẵn sàng bỏ tiền ra để giúp người nghèo, nhưng lại không thể để trái tim dịu dàng tha thứ cho kẻ thù. Vì thế nếu có người ăn chay và có thể nhịn ăn 24 giờ trong Mùa Chay thì Thánh Phanxicô Salê lại khuyên chúng ta không nên hy sinh bữa ăn của mình, dù chỉ một miếng sô-cô-la nhỏ khi hàng ngày chúng ta nuôi sống mình bằng những suy nghĩ không tốt với người anh em làng giềng chúng ta!

“Người nghiện ăn chay sẽ xem mình là người sùng đạo miễn là họ nhịn ăn dù lòng họ đầy oán hận; họ không dám uống một ngụm rượu, một ngụm nước vì kiêng khem, nhưng lại dám ngậm máu phun người anh em với những lời lẽ độc địa nói xấu và vu khống.”

Nếu chúng ta phá kỷ lục cầu nguyện, quỳ gối trước Thánh Thể trong hai giờ đồng hồ mà không buồn ngủ, không đứng dậy, thì đó là điều tốt cho chúng ta! Nhưng nó sẽ hoàn toàn vô ích cho chúng ta và cho cả Chúa, nếu, sau khi sốt sắng cầu nguyện chúng ta lại trút cơn thịnh nộ trên người anh em, trên đồng nghiệp:

“Một người tự cho mình là người mộ đạo vì hàng ngày họ đọc kinh cầu nguyện rất nhiều, nhưng sau đó miệng lưỡi họ buông những lời khó chịu, kiêu ngạo, xúc phạm người dưới quyền hay người anh em mình.”

Một mô tả sắc nét và hiện tại

Chúng ta có cảm thấy tự hào vì đã vét hết tiền cho người nghèo, hay ký chi phiếu hàng tháng cho cơ quan từ thiện  không? Khi chúng ta không thể nào tha thứ cho kẻ thù, từ bà mẹ chồng “đáng ghét” cho đến những người đã cố tình làm tổn thương chúng ta trong cuộc đời:

“Một người sẵn lòng rút hầu bao để cho người nghèo nhưng lại không thể có lòng dịu dàng để tha thứ cho kẻ thù của mình; người khác sẵn lòng tha thứ cho kẻ thù nhưng không trả nợ cho chủ nợ, cho đến khi nào pháp luật bắt buộc”.

Một mô tả đặc biệt sâu sắc và rất thời sự về lòng mộ đạo sai lầm. Đức Phanxicô nhấn mạnh đây là vấn nạn của mọi thời và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Tông huấn này nhắc chúng ta, nếu không có tình yêu đích thực và lòng bác ái, thì những nỗ lực để có được ơn tốt lành của Chúa sẽ chẳng ích lợi gì và thậm chí sẽ hoàn toàn vô ích. Một bài học đã được Thánh Phaolô đưa ra trong bức thư đầu tiên ngài gởi tín hữu Côrintô:

Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Marko Rupnik, vụ tai tiếng mới làm chấn động Giáo hội và Đức Phanxicô

Marko Rupnik, vụ tai tiếng mới làm chấn động Giáo hội và Đức Phanxicô

Đức Phanxicô bên cạnh linh mục Marko Ivan Rupnik trong xưởng khảm ngày 8 tháng 4 năm 2016 nhân dịp kỷ niệm 25 năm nhà nguyện Mẹ Cứu Thế ở Vatican ServizioFotograficoOR/CPP/CIRIC/Catholic Press Photo

lefigaro.fr, Jean-Marie Guénois, 2022-12-25

Nghệ sĩ tranh khảm vĩ đại người Slovenia, 68 tuổi, linh mục Dòng Tên Marko Rupnik đã trùng tu nhiều nhà thờ bị cáo buộc tấn công tình dục các nữ tu nhiều lần.

Với những tác phẩm trang trí mới, nhà thờ hứa hẹn sẽ rất đẹp.

Với nghệ thuật của mình, nghệ sĩ tranh khảm Rupnik đã trang hoàng bên ngoài cũng như bên trong tòa nhà với hàng ngàn tia sáng lấp lánh. Ông đã làm tươi mát lại vương cung thánh đường Đức Mẹ Mân Côi ở Lộ Đức và rất nhiều nhà thờ khác trên khắp thế giới, kể cả ở Vatican. Nhưng bây giờ đã thay đổi, nhà thờ Saint-Joseph-le-Bienveillant ở Montigny-Voisins, thuộc giáo phận Versailles đã cắt hợp đồng trang trí nhà thờ. Ngày 8 tháng 12, giám mục Luc Crépy, và linh mục chánh xứ Pierre-Hervé Grosjean phụ trách dự án đã đột ngột chấm dứt hợp đồng. “Quyết định này lập tức cho thấy, giáo phận và các giáo xứ trong dự án này nhất trí cắt hợp đồng. Nhưng chúng tôi vẫn duy trì dự án làm nhà thờ có 800 chỗ ngồi cho khu phố mới có 32.000 người dân ở đây. Chúng tôi sẽ kêu gọi các nghệ sĩ trang trí cho nhà thờ. Nhà thờ đã bắt đầu làm và sẽ được khánh thành vào mùa đông tới.”

Nghệ sĩ không thiếu, nhưng Rupnik đã có tiếng tăm quốc tế. Khắp thế giới nhờ đến ông. Năm 1996, Đức Gioan Phaolô II giao cho ông làm tranh khảm nhà nguyện Mẹ Cứu Thế trong cung điện Vatican. Vì sao ông lại bị ô nhục như thế? Linh mục nghệ sĩ, bạn của Đức Phanxicô đã rơi xuống đáy vực thẳm: ông bị cáo buộc đã nhiều lần tấn công tình dục các nữ tu của cộng đoàn Loyola do ông thành lập ở Slovenia. Hai trường hợp vừa được đưa ra công lý giáo hội, bảy trường hợp khác theo sau. Một trong các nữ tu tố cáo có thể có đến “hai mươi nữ tu nạn nhân”.

1,7 triệu âu kim để trang trí cho một nhà nguyện ở Rôma

Sự việc bùng nổ trong những ngày đầu tháng 12 tại Rôma. Tiếng tăm của nghệ sĩ tranh khảm càng lớn thì cú sét nổ càng vô cùng lớn. Sau đó vụ tai tiếng lại bùng phát khi ngày 7 tháng 12, bề trên tổng quyền Dòng Tên Arturo Sosa đã công khai nói dối về vụ này. Rồi cũng chính ngài, ngày 14 tháng 12 tự chứng minh, mâu thuẫn với chính mình, bằng chứng cho thấy ngài cố tình che giấu sự thật để bao che sự nghiêm trọng của sự việc.

Sự phẫn nộ càng lớn hơn vì linh mục Rupnik không bị trừng phạt: tháng 3 năm 2020, linh mục còn giảng tĩnh tâm Mùa Chay ở Vatican, có sự hiện diện của giáo hoàng, trong khi vào tháng 1 năm 2020, bộ Tín Lý, tòa giáo luật có thẩm quyền trong lãnh vực này đã “nhất trí” bỏ phiếu và kết luận ông có tội.

Sự bực tức lên đến cao điểm khi tin tức tiết lộ, chính bộ Tín Lý do hồng y Dòng Tên Ladaria Ferrer đứng đầu đã tuyên bố dứt phép thông công cha Rupnik tháng 5 năm 2020, sau đó lại được dỡ bỏ một cách kỳ lạ trong cùng tháng. Ở Rôma, trang web uy tín  Il Sismografo về Vatican nói công khai những gì mọi người nghĩ trong lòng, ngày 23 tháng 12 khẳng định linh mục đã được bảo vệ ở cấp cao: “Chính giáo hoàng Phanxicô đã dỡ bỏ hình phạt cho linh mục. Thêm nữa, giáo hoàng là người có thẩm quyền hợp pháp duy nhất để quyết định trong lãnh vực này. Trang web này tiết lộ ‘Rupnik đứng đầu một đế chế kinh tế’, vì tuy ở trong Giáo hội nhưng ông đã được trả theo tiêu chuẩn của những nhà sáng tạo quốc tế. Ông đã được trả 1,7 triệu âu kim để trang trí cho nhà nguyện ở Rôma.

Chưa bao giờ Vatican lúng túng như bây giờ

Một vụ công khai mở ra một chương mới về tai tiếng tình dục của Giáo hội công giáo. Lần này liên quan đến các nữ tu chủ yếu bị các linh mục tấn công. Cho đến bây giờ, loại hồ sơ này là loại riêng lẻ. Và trong những năm tới, ước tính chúng sẽ có tầm mức rộng lớn, đặc biệt là ở châu Phi.

Chưa bao giờ Vatican lúng túng như vậy. Trước hết Vatican chưa có một lời nào về vụ Rupnik kể từ những bài báo đầu tiên được đăng từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 12 của ba trang web của Ý. Thứ nhất là trang Left, một trang thông tin chung, về mặt chính trị ở phía tả. Hai trang khác, rõ ràng là bảo thủ, tập trung vào thông tin tôn giáo: Silere non possum Messa in Latino, những thông tin về vụ này chưa bao giờ bị phủ nhận.

Vụ Rupnik đã có bước ngoặt quyết định vào ngày chúa nhật 18 tháng 12, khi tờ báo cánh tả rất nghiêm túc Domani đăng bài phỏng vấn một trong những nữ tu nạn nhân đầu tiên của cha Rupnik. Nữ tu mô tả chi tiết chế ngự “chiến lược” của linh mục để có được những gì ông muốn. Bà lấy tên giả là Anna, nhưng chứng từ là cay đắng. Với sự cẩn thận của câu chuyện được kể dưới ẩn danh, nhưng độ chính xác thì quá lớn. Bà Anna năm nay 58 tuổi không phủ nhận và tờ báo cũng không lo lắng.

Một lời khai như một ác mộng

Năm 1985, bà là sinh viên y khoa ở Rôma. Bà kể bà đam mê nghệ thuật và những cuộc trò chuyện đầu tiên với người lúc đó bà chưa biết, nhưng đã là một linh mục nổi tiếng làm việc một mình trong xưởng Piazza del Gesù, bên cạnh nhà thờ mẹ của Dòng Tên, những cuộc gặp đã biến thành ác mộng. Bà bị “trầm cảm nặng” và có ý định tự tử.

Từ “những nụ hôn” đến “những vòng ôm” sau khi xưng tội, với lý do “kết hợp” thần nghiệm, sau đó là những hành vi tình dục trong một lần xưng tội khác, cho rằng đây là “ơn đặc biệt của Chúa chỉ cho hai người”. Những sự việc này, linh mục đã thừa nhận. Nói theo cách giáo luật, chính việc “xá tội cho người đồng lõa” đã làm cho linh mục Rupnik bị vạ tuyệt thông – tự động trong trường hợp này – nhưng gần như đã được dỡ bỏ ngay lập tức.

Ở mỗi giai đoạn khi người phụ nữ trẻ phản kháng, lại có một hành vi khác, theo bà, đây là hành vi do hằn học, vì đó là đe dọa hung hãn, đe dọa bỏ rơi. Cuối cùng là sự lệch lạc trong “đồng hành thiêng liêng” của linh mục, ông bắt phải tuyệt đối vâng lời ông. “Thái độ phải sẵn sàng và vâng lời tuyệt đối” đôi khi buộc bà phải “xem phim khiêu dâm” cũng như bắt bà nhìn quan hệ tình dục của ông với “một nữ tu khác” với lý do đây là liên minh “ba ngôi”.

“Sẽ không ai tin cô, tôi sẽ làm cho người khác nghĩ cô là người điên”

Lúc đó bà làm luận án triết học, bà tóm tắt câu chuyện như sau: “Đây  thực sự và chủ yếu là lạm dụng lương tâm. Sự ám ảnh tình dục của ông không ngẫu nhiên mà gắn bó sâu đậm với quan điểm nghệ thuật và thần học của ông. Ông từ từ và nhẹ nhàng thâm nhập vào thế giới tâm lý và thiêng liêng của tôi, dựa trên những bất an và mong manh của tôi, đồng thời dùng mối quan hệ của tôi với Chúa để thúc đẩy tôi có những trải nghiệm tình dục với ông.”

Một nữ tu khác mà ông lạm dụng bị gãy tay – cô đã phải vật lộn để cố gắng trốn thoát – là bước ngoặc cho Anna. Sau đó, bà thẳng thắn chống lại những việc này, ông nói: “Sẽ không ai tin cô, tôi sẽ làm cho người khác nghĩ cô là người điên.” Và đó là điều đã thực sự xảy ra. Trốn khỏi cộng đoàn tu, bà tố cáo linh mục với mẹ bề trên, với giám mục. Bà đụng với bức tường “im lặng”. Bà quay sang Dòng Tên, họ từ chối nghe bà, ngay cả xưng tội. Hôm nay bà tố cáo: “Ông được mọi người bảo vệ.” Chính nhờ liên kết với một nữ tu bị lạm dụng khác mà bà thoát được trói buộc này. Bà biết trước mặt mọi người, urbi et orbi, bà bị cộng đoàn của bà… do cha Rupnik thành lập cho là “tâm thần phân liệt”.

Kể từ đó, Anna đã được bộ Tín Lý nghe lời chứng (ngày 10 tháng 12 năm 2021). Nhưng bà “không bao giờ nhận được phản hồi” của bức thư tóm tắt địa ngục này gởi hồi tháng 6 năm 2022, cho bề trên tổng quyền Dòng Tên và một số nhân vật cao cấp của Dòng. Trong đó có linh mục Hans Zollner, người có trách nhiệm toàn cầu trong cuộc chiến chống lạm dụng tình dục và nhiều bài diễn văn của ngài cho các giám mục trong lĩnh vực này. Khi được báo chí hỏi về vụ này, linh mục Zollner giữ vẻ lạnh lùng và xa cách đến kinh ngạc, đồng thời ngài thừa nhận: “Tôi có thể hiểu được nỗi khổ của các nạn nhân.” Sau đó Dòng Tên đưa ra lời kêu gọi các nạn nhân ra làm chứng.

Linh mục Dòng Tên Hans Zollner: “Cách xử lý vụ Rupnik nghiêm trọng đến mức phải rút ra bài học cho tương lai’’

Vụ Rupnik: Dòng Tên xin bất cứ ai bị lạm dụng liên hệ với Dòng

Dòng Tên bị đụng đến

Ngoài vụ bê bối về cuộc đời của chính tu sĩ Rupnik, có vẻ như thông cáo báo chí đầu tiên của Dòng ngày 2 tháng 12 đã không đề cập đến việc linh mục Rupnik bị vạ tuyệt thông tháng 5 năm 2020 và được dỡ bỏ nhanh chóng sau đó. Thông báo xác nhận sự việc không liên quan đến “trẻ vị thành niên”. Thời hiệu đã hết và các biện pháp phòng ngừa đã được thực hiện.

Ngày 7 tháng 12, trong chuyến thăm Bồ Đào Nha, trong một phỏng vấn với báo địa phương, linh mục bề trên tổng quyền Arturo Sosa thậm chí kể chi tiết những yếu tố này và khẳng định: “Chúng tôi không giấu giếm điều gì!” Chỉ dưới áp lực các câu hỏi của hãng tin Associated Press ngày 14 tháng 12 tại Rôma, linh mục Sosa mới công nhận đã có vạ tuyệt thông. Nhưng vạ này liên quan đến một nạn nhân “khác” của cha Rupnik và vạ đã được dỡ bỏ ngay lập tức vì linh mục “đã công nhận sự thật” – đã giải tội cho nữ tu mà ông vừa lạm dụng tình dục – và ông đã “chính thức ăn năn” về tội của mình, hai điều kiện để dỡ bỏ vạ tuyệt thông…

Dòng Tên lên tiếng về vụ linh mục Rupnik: “Chúng tôi không buộc phải công bố tất cả”

Bài phát biểu lạnh lùng, pháp lý, có tính toán và trên hết là không có lòng trắc ẩn đã đụng đến toàn Dòng Tên và chính giáo hoàng, dù linh mục Marko Rupnik chỉ là một tu sĩ trong số 14.439 tu sĩ Dòng Tên. Giáo sư Massimo Faggioli, sử gia nổi tiếng của Giáo hội, giáo sư thần học ở Mỹ, ngày 21 tháng 12  đã bình luận trên tuần báo công giáo tiến bộ NCR của Mỹ: “Vụ án này sẽ giải phóng các tu sĩ Dòng Tên khỏi ảo tưởng, họ được miễn trừ khỏi cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục một cách lạ lùng.” Ông Marco Marzano, tác giả quyển Đẳng cấp của khiết tịnh (La Caste des chastes, nxb. Philippe Rey) cùng ngày đã viết một bài đánh giá trong tạp chí Ý Micromega: “Các giám mục và các nhà lãnh đạo Dòng Tên đã biết tất cả những gì là đồi bại của linh mục Rupnik từ những năm 1990: họ không làm gì cả.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Trường hợp linh mục Marko Rupnik: thử nghiệm các biện pháp chống lạm dụng của Giáo hội

Vụ linh mục Rupnik, Dòng Tên bị chia rẽ

Theo hồng y Müller, Đức Bênêđictô XVI là Thánh Augutinô của thời đại chúng ta

Theo hồng y Müller, Đức Bênêđictô XVI là Thánh Augutinô của thời đại chúng ta

lanuovabq.it, Riccardo Cascioli, 2023-01-09

 

 

 

 

 

 

“Đức Bênêđictô không nói về Chúa Kitô, nhưng ngài nói với Chúa Kitô. Nơi ngài có sự thống nhất giữa suy tư thần học ở mức độ cao nhất và linh đạo đi thẳng vào lòng người. Ngài biết rõ chuyên môn của ngài, nhưng ngài dùng nó không để làm cho mình cao hơn người khác nhưng để phục vụ cho lợi ích Giáo hội và đức tin của những người đơn sơ.” Lẫn lộn ư? Có quá nhiều tư tưởng chính trị trong Giáo hội ngày nay. “Như cố hồng y Martini đã nói: Giáo hội đã quay ngược lại 200 năm? Không thể được, Chúa Giêsu là viên mãn của mọi thời đại”.

Hồng y Müller, người biên tập tác phẩm thần học của Ratzinger-Benedict XVI lên tiếng.

Đối với tôi, giáo hoàng Bênêđictô gần như là Thánh Augutinô sống lại, dù tiến trình phong thánh sẽ xảy ra như thế nào, thực tế ngài đã là tiến sĩ Giáo hội. Hồng y Gerard Ludwig Müller có tất cả thẩm quyền cần có để nói như vậy: là thần học gia, ngài đã biên tập tất cả các công trình thần học của Joseph Ratzinger-Benedict XVI, và là một trong những người kế vị ngài với tư cách là bộ trưởng bộ Tín Lý. Ngài tiếp chúng tôi tại căn hộ gần Đền thờ Thánh Phêrô, là nơi ở của hồng y Ratzinger trong 24 năm, kể từ khi ngài được Đức Gioan-Phaolô II đưa về Rôma năm 1981 cho đến tháng 4 năm 2005, khi ngài lên làm giáo hoàng. Từ thời này, chỉ còn lại những cửa sổ kính màu của nhà nguyện nhỏ trong căn hộ được làm cho hồng y Ratzinger và tượng trưng cho Bí tích Thánh Thể.

Kính hồng y Müller, ngài thấy Thánh Augutinô nơi Đức Bênêđictô như thế nào?

Hồng y Müller. Tôi nghĩ Đức Bênêđictô XVI đại diện cho thần học thế kỷ 20 và 21 như Thánh Augutinô đại diện cho thời của ngài, các tác phẩm của Đức Bênêđictô là đức tin công giáo được giải thích phù hợp với người đương đại, một hình thức giải thích khác với phong cách của sách giáo khoa thần học. Còn với Thánh Augutinô, vấn đề không chỉ là năng lực trí tuệ, dù ngài là nhà thần học vĩ đại.

Như thế ‘bí mật’ là gì?

Giống như Thánh Augutinô, Đức Bênêđictô không xem Chúa Kitô như một chủ đề cần khai triển, ngài không nói về Chúa Kitô nhưng nói với Chúa Kitô. Trong quyển Tự thú của Thánh Augutinô, tất cả đều là đối thoại với Thiên Chúa, con người đối thoại với Thiên Chúa, giải thích về cuộc đời của mình. Như vậy, nơi Đức Bênêđictô XVI, có một hiệp nhất sâu xa giữa suy tư thần học ở cấp độ cao nhất và linh đạo đi thẳng vào tâm hồn, một hiệp nhất giữa trí tuệ và tình yêu. Ngài luôn nói điều đó, đức tin công giáo chúng ta không phải là lý thuyết về một chủ đề, nhưng đó là mối quan hệ, mối quan hệ với Chúa Giêsu, chúng ta dự vào mối quan hệ nội tại. Vì thế Đức Bênêđictô đã có thể mở lòng với mọi người. Và chúng ta đã thấy qua những ngày sau khi ngài qua đời và trong đám tang: ngài vẫn còn sống rất nhiều trong trái tim tín hữu, trái tim của nhiều người. Nhiều người nghĩ mười năm về hưu của ngài mọi người đã quên ngài; nhưng ngược lại ngài luôn ở trong ký ức của họ.

Theo cha, tác phẩm nào của Ratzinger-Benedict XVI thể hiện tốt nhất sự thống nhất này?

Ngài viết nhiều sách và tiểu luận, nhưng tôi nghĩ bộ ba tập sách Chúa Giêsu Nadarét (xuất bản khi ngài là giáo hoàng từ năm 2007 đến 2012) là chìa khóa để giải thích các chuyện khác. Quyển sách này thể hiện sự thống nhất giữa thần học nhận thức và thần học tình cảm, và khi tôi nói tình cảm, tôi không có ý nói tình cảm, mà là một biểu hiện của tình yêu, mối quan hệ với Chúa. Đây là lý do vì sao hàng triệu tín hữu không học thần học, không là chuyên gia triết học hay lịch sử tư tưởng châu Âu, những tín hữu đơn sơ cầu nguyện hàng ngày, đi nhà thờ và có mối liên hệ hàng ngày với Chúa Giêsu, đã có thể đọc và hiểu bộ ba này như chìa khóa trí tuệ, khôn ngoan và tình cảm để gặp  Chúa Giêsu.

Cha là người đã biên tập tất cả các tác phẩm thần học của Đức Ratzinger-Benedict XVI, cha có thể cho chúng tôi biết yếu tố thống nhất trong thần học của ngài là gì không?

Chắc chắn là mối quan hệ với Chúa Kitô, ngay cả khi cần phải xác định rằng nó là một phần của chân trời Ba Ngôi, chứ không phải trong thuyết lấy Chúa Kitô làm trung tâm, điển hình của đạo tin lành. Và sau đó là mối quan hệ giữa đức tin và lý trí. Xuyên suốt lịch sử, luôn có những nỗ lực chống lại lý trí với đức tin, chỉ cần đọc lại cuộc tranh cãi giữa Origen và Celsus, hay cuộc thảo luận với các trí thức Tân Platon. Nhưng xu hướng này chắc chắn đã bén rễ đặc biệt kể từ thời Khai sáng, sự tôn vinh ánh sáng của lý trí chống lại ánh sáng của Mạc khải. Như ngài nói trong Chúc thư thiêng liêng, người ta cho rằng tất cả các kết quả của khoa học tự nhiên và nghiên cứu lịch sử, chẳng hạn phương pháp chú giải Kinh Thánh theo phê phán-lịch sử đều đi ngược đức tin kitô giáo đã được mạc khải. Như Đức Bênêđictô XVI chứng minh, đó là một khẳng định sai lầm. Ngài lớn lên và hình thành lương tâm của mình vào thời điểm bị chủ nghĩa vô thần hung hăng thống trị, bị chủ nghĩa phản nhân loại áp dụng trong chế độ quốc xã. Giáo dục công giáo của ngài đã làm cho ngài nhận ra ngay, không thể có sự hòa giải giữa đức tin và hệ tư tưởng quốc xã này, cũng như với những hệ tư tưởng phủ nhận Chúa khác. Khi thông điệp chống chủ nghĩa quốc xã của Đức Piô XI, Mit brennender Sorge (Với mối quan tâm nóng bỏng) ra đời, Joseph Ratzinger mới mười tuổi, nhưng sự mâu thuẫn giữa kitô giáo và chủ nghĩa quốc xã, cũng như các hệ tư tưởng vô thần khác, đã được giải thích rõ ràng ở đó. Khi một người phủ nhận Chúa, hậu quả rất rõ ràng: khủng bố jacobin, khủng bố gulag, lò hơi ngạt Auschwitz, cánh đồng chết chóc Katyn, nhưng cũng có cả phá thai và trợ tử. Đây là những tác động của chủ nghĩa nhân bản vô thần, như hồng y Henri De Lubac đã nói mà ngày nay chúng ta vẫn còn thấy ở Trung Quốc, Bắc Triều Tiên. Và các quốc gia hồi giáo cũng vậy: họ nói họ tin vào Chúa, nhưng tin theo nghĩa khác…

Và chúng ta nói đến  bài phát biểu nổi tiếng của ngài ở  Regensburg.

Chính xác, đây là trung tâm điểm triều giáo hoàng của ngài. Không hành động theo Logos, nghĩa là theo lý trí, là trái với bản chất của Thiên Chúa. Và cuối cùng chúng ta biện minh bạo lực nhân danh Chúa, Đấng tạo ra chúng ta.

Cha liên lạc thường xuyên với ngài kể cả sau khi ngài từ nhiệm. Điều gì làm cha ấn tượng về ngài?

Ngài là một người rất khiêm tốn, rất giản dị; ngài không kiêu hãnh và không tỏ ra mình là người quan trọng. Ngài không có sự kiêu ngạo điển hình của những người trí thức, những người sở hữu kiến thức, tự cho mình cao hơn người khác. Ngài biết rõ chuyên môn của ngài, nhưng ngài dùng nó không để làm cho mình cao hơn người khác nhưng để phục vụ cho lợi ích Giáo hội và cho đức tin của những người đơn sơ.

Trong di chúc thiêng liêng của ngài, ngài mời gọi tín hữu hãy kiên vững trong đức tin và không để mình bị mất phương hướng. Cha nghĩ điều gì tạo lẫn lộn trong Giáo hội ngày nay?

Theo những gì tôi thấy từ kinh nghiệm của tôi, tư tưởng chính trị và ý thức hệ đã thâm nhập quá nhiều vào Giáo hội công giáo. Tôi nhớ cố hồng y Martini – cũng là nhà chú giải Kinh Thánh xuất sắc – đã nói ngay trước khi qua đời rằng Giáo Hội đã chậm hơn 200 năm. Đây là lối chú giải hoàn toàn sai lầm. Giáo hội do Chúa Giêsu Kitô thành lập không thể đi sau thời đại, Chúa Giêsu là viên mãn của mọi thời đại. Đấng Kitô hôm qua, ngày nay và luôn mãi mãi. Thánh Irenaeus thành Lyon, nói với người theo thuyết trực tri cho rằng có một điều mới lạ đi trước, rằng nếu Logos của Chúa đã được mạc khải, thì không có điều mới lạ nào khác. Đây là điểm tham chiếu. Có một kitô giáo vào thời Trung cổ và có một kitô giáo vào thời trước đó, nhưng kitô giáo không bị ràng buộc vào bất kỳ thời điểm cụ thể nào. Khi đọc các tác phẩm của Thánh Augutinô, Thánh Basil, Thánh Irenaeus, tôi thấy đó là đức tin của chính tôi. Phong cách, hoàn cảnh có thể thay đổi, nhưng đức tin thì không. Đừng bối rối trước quá nhiều tiếng nói, phương hướng rõ ràng là nơi Chúa Giêsu Kitô và chân lý.

Di chúc thiêng liêng của Đức Bênêđictô

 

Trong thời gian này, chúng ta thấy có nhiều lẫn lộn được tạo ra xung quanh hình ảnh Giáo hoàng.

Huấn quyền phục vụ Mặc khải, huấn quyền không ở trên  nó, như thông điệp Lời Chúa, Dei Verbum nói ở số 10. Không phải điều gì đó là sự thật vì Giáo hoàng nói như vậy, nhưng ngược lại: vì đó là sự thật, nên Giáo hoàng phải trình bày nó và giải thích cho Giáo hội. Quyền lực của Giáo hoàng không phải là một quyền lực chính trị, không tuyệt đối cũng không tương đối. Ngài có thẩm quyền giảng dạy dân Chúa, nhưng nhân danh Chúa Giêsu Kitô, chứ không theo thẩm quyền của chính ngài. Giáo hoàng không thể nói các quan hệ đồng tính luyến ái có thể được chúc phúc hay việc ly dị có thể được chấp nhận hay việc ngoại tình được biện minh vì nó ít nghiêm trọng hơn tội giết người. Giáo huấn của Giáo hội rất rõ ràng, chúng ta không thể lẫn lộn sự dữ khách quan với sự yếu đuối của con người. Sự hoán cải không hệ tại ở việc tương đối hóa các điều răn của Chúa.

Tuy nhiên, Giáo hội Đức gây áp lực mạnh mẽ theo hướng này và thái độ của Rôma không rõ ràng lắm.

Các tài liệu của Con đường thượng hội đồng (Đức) là dị giáo một cách công khai, chúng mâu thuẫn với Mạc khải như được thể hiện trong Kinh thánh và trong nhân học của Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, quan niệm về con người được tạo dựng theo hình ảnh của Chúa và giống Chúa. Sự thống nhất của thể xác và linh hồn loại trừ sự tuyệt đối hóa tính dục này, chỉ là một nguồn khoái cảm tình dục.

Nhưng làm thế nào mà phần lớn các giám mục Đức lại xa quan điểm của Đức Bênêđictô XVI như vậy?

Một vai trò quan trọng do các nhà lãnh đạo của Ủy ban Trung ương của người Công giáo Đức (Zdk, ủy ban đại diện cho tất cả các dạng giáo dân ở Đức và có ảnh hưởng rất quan trọng đến lãnh đạo Giáo hội), do những người đã gây áp lực trên nhiều giám mục, được báo chí tự do, xã hội chủ nghĩa và cộng sản ủng hộ, rõ ràng họ rất vui mừng khi Giáo hội tự hủy diệt. Và cũng không may có một phức hợp chống la-mã đã tồn tại ở Đức trong 500 năm, lấy đạo tin lành Phổ làm quy chiếu, họ cảm thấy vượt trội về mặt trí tuệ so với tất cả các dân tộc ở miền Nam. Triết gia Hegel đã viết nhà nước Phổ là đỉnh cao của sự tự-phát triển của tinh thần tuyệt đối, như thể Chúa hiện thân trong nhà nước Phổ tin lành. Những ý tưởng ngu ngốc nhưng rất bám rễ. Vì thế nhóm này cho rằng họ là đầu tàu của Giáo hội hoàn vũ, như thể chúng ta đã phát minh ra Giáo hội một lần nữa. Khi chủ tịch hội đồng giám mục Đức nói “chúng tôi là Giáo hội công giáo nhưng khác biệt”, ngài muốn nói gì? Thánh Irenaeus nói: đức tin của Giáo hội tông truyền giống nhau trên khắp thế giới, ở Libya, ở Ai Cập, giữa những người Celt, ở Pháp, ở Tây Ban Nha. Các phong tục khác nhau, các ngôn ngữ khác nhau, nhưng tất cả chúng ta đều hiệp nhất trong cùng một đức tin, đó không phải là một chương trình do một ủy ban vạch ra, nhưng đức tin được Chúa Kitô mạc khải. Đó là những gì hợp nhất chúng ta.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Đức Bênêđictô XVI: “Ngài luôn chiến đấu cho đức tin của những người đơn sơ”

Nhưng, ai là “anh em” của tôi trong đức tin?

Nhưng, ai là “anh em” của tôi trong đức tin?

Chương 10: sách Công giáo trong tự do

Trích sách Công giáo trong tự do (Catholique en liberté, nxb. Salvator, 2019)

renepoujol.fr, 2022-01-02

“Chúng tôi không chọn cha mẹ, chúng tôi không chọn gia đình của mình…” Ca sĩ Maxime le Forestier hát. Điều này không hoàn toàn đúng trong tôn giáo, nơi mà tư cách thành viên tự do sẽ chiếm ưu thế. Nhưng kể từ khi một người tự cho mình là công giáo – đó là trường hợp của tôi – thì khi nào một người được cho là anh chị em của mình từ chối không thuộc về cùng một liên hệ? Và vì thế cư xử với họ như thế nào cho thích ứng? Không phải lúc nào cũng dễ dàng nhận ra mình là con của cùng một Cha!

Chín chương đầu tiên của quyển sách nhắm kêu gọi thể chế Công giáo: “Hãy khám phá lại ngọn lửa Phúc âm rực lửa đằng sau những thái quá của chủ nghĩa trung tâm, chủ nghĩa giáo quyền, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa luân lý.” Chương mười giới thiệu một loạt chất vấn mới từ chính tín hữu: “Chúng ta chấp nhận mình là khác biệt trước khi kết tội nhau về bất trung, cùng đi với người đương thời trong tình huynh đệ trước khi giảng đạo đức cho họ.”

Mẹ tôi và các anh em tôi

Đối với đứa bé lớn lên trong môi trường nông thôn của thành phố khiêm tốn nhỏ bé với tám ngàn dân Saint-Affrique (Aveyron), việc khám phá cùng lúc trường đại học và thành phố lớn (Toulouse) trong bối cảnh của những năm 68 là một khám phá gấp ba lần hơn ban đầu. Nửa thế kỷ sau, tôi vẫn còn khó khăn để sắp xếp mọi thứ. Tôi nợ gì trong quá trình trưởng thành của những năm tháng đó và những gì tôi đã đắm chìm trong thành phố lớn, trong trường đại học và trong phong trào sinh viên? Có một điều chắc chắn, biến động nội tâm đầu tiên mà người thanh niên trẻ là tôi phải đối diện, đã hình thành – tôi sẽ không nói là đã định dạng – do giáo huấn công giáo và Hướng đạo sinh của Pháp, đó là cuộc gặp gỡ của cái mà Đức Phanxicô gọi là vùng ngoại vi. Gia đình tôi theo đạo công giáo. Tôi đã chia sẻ văn hóa, các giá trị, các xác tín và hy vọng của nó, kể từ Công đồng Vatican II. Do đó, cú sốc đầu tiên của tôi là phát hiện qua các bạn cùng lớp, rằng tôi có thể gần gũi, có tình cảm, tình bạn, với những người tự cho mình là vô thần hơn những người khác, dù công khai và bề ngoài họ là người công giáo làm cho tôi nghi ngờ, chúng tôi thực sự đã có cùng một tôn giáo.

Làm sao tôi có thể cảm thấy hiệp thông với những người dứt hiệp thông cũ của Đức Phanxicô?

Câu hỏi vẫn còn. Tôi không muốn biến quyển sách này thành bài giảng hay tệ hơn, thành lớp giáo lý cho những người i tờ, tôi nghĩ đến câu Chúa Giêsu được các thánh sử thuật lại: trong khi giảng dạy cho đám đông, người ta nói có mẹ và anh em Ngài đang tìm gặp Ngài. Chúa Giêsu trả lời: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.” Ngày nay, có hai bản văn nói với tôi nhiều hơn hết trong các sách Phúc âm. Đầu tiên là các Mối Phúc, hay còn được gọi là Bài giảng trên núi, bắt đầu bằng “phúc thay”: những người khó nghèo trong lòng, khát khao công lý, những người kiến tạo hòa bình… Thứ hai là chương 25 Phúc Âm Thánh Mátthêu về Phán xét Cuối cùng, “những người được Cha chúc phúc” được mời vào thiên đàng, những người đã cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, cho kẻ trần truồng mặc, đón tiếp người khách lạ, thăm tù nhân… Không phân biệt tôn giáo hoặc tín ngưỡng. Và đó là “ý cha”. Và tôi hài lòng với sự kiên quyết của Đức Phanxicô khi ngài thường xuyên đề cập đến hai bản văn này một cách nhất quán.

Nhưng tôi có cảm giác, theo đòi hỏi này, có những người trong thế giới công giáo đang cắm trại ở những nơi khác. Ba ví dụ, nhưng có hàng ngàn. Chỉ vài ngày sau khi Đức Phanxicô được bầu chọn ngày 13 tháng 3 năm 2013, một trong những người có trách nhiệm chính của Huynh đoàn Tư tế Thánh Piô-X (Lefebvists), đã nhấn mạnh “muốn thành người nghèo giữa người nghèo” như Đức Phanxicô bày tỏ, có thể chứng tỏ đó là sự sỉ nhục đối với Giáo hội, như vừa rồi “ngài xuất hiện ở ngai tòa Thánh Phêrô trong chiếc áo chùng đơn sơ, không áo ren ngắn giám mục, không áo khoác ngắn giáo hoàng”. Đầu năm 2016, một video có cảnh Joao Via Dias, người sáng lập Sứ giả Đức tin (Héraults de la foi), hiệp hội những người trung thành với giáo luật ngày nay được thành lập trên khắp thế giới, ông thuật rằng trong một cuộc trò chuyện với ma quỷ, một người trừ quỷ của hội đã được quỷ cho biết giáo hoàng Phanxicô phục vụ cho quỷ. Ngày 30 tháng 4 năm 2019, trang web Lifesitenews của nhóm công giáo cực đoan Mỹ công bố bản văn của mười chín nhà thần học cáo buộc Giáo hoàng Phanxicô về “hành vi phạm tội dị giáo theo giáo luật” vì những lập trường của ngài về gia đình và đối thoại liên tôn.

Nhóm này nhóm kia đều là thành phần chính thức của Giáo hội công giáo. Làm thế nào họ sẽ là anh em của tôi trong đức tin? Tôi sẽ được cho biết đây là những tình huống cực đoan. Chắc chắn, nhưng họ có giây mơ rễ má ở Pháp.

Bạo lực mà một số môi trường công giáo, ngay cả ở  Pháp đã bùng ra chống Đức Phanxicô khi Thượng hội đồng về Gia đình và việc công bố Tông huấn Niềm vui của Tình yêu rút ra các kết luận mục vụ, cho thấy các uẩn khúc của một vòng khác, chắc chắn ít cực đoan hơn, nhưng không kém phần phá vỡ sự hiệp thông với ngài. Theo hiểu biết của tôi, chưa bao giờ người công giáo chống đối Đức Gioan-Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI đến mức như vậy, nghi ngờ, từ chối, ghét bỏ và kháng lại thẩm quyền. Làm thế nào, “trong tinh thần bác ái kitô” lại cảm thấy hiệp thông với những người dứt hiệp thông này của giáo hoàng?

Nhà thờ chính tòa Créteil được “tái triển khai” dưới ngọn lửa chỉ trích của những người theo chủ nghĩa chính thống

Nhà thờ chính tòa mới Créteil thuộc giáo phận Val-de-Marne của tôi vừa “tái triển khai” có một số đặc điểm, đặt nhà tạm trong một nhà nguyện nhỏ mở, được các cửa sổ kính màu bên trong chiếu sáng, ở cuối lòng nhà thờ, đối diện với bàn thờ. Như thế khi du khách đến ban ngày họ có được một bầu không khí riêng tư. Tình cờ nào mà một ngày nọ, tôi đăng lên trang Facebook của tôi vài hình ảnh của kiến trúc đương đại “được truyền cảm hứng” này? Tôi không còn nhớ và nó không quan trọng. Những gì tôi nhớ là sự căm ghét tuôn trào bất ngờ đổ lên trang của tôi với tốc độ của cơn sóng thần kinh hoàng. Theo những người gièm pha, nhà nguyện này là sự hoang tàn ghê tởm.

Với lý do, nhà tạm xa bàn thờ là sự xúc phạm đến “sự hiện diện thực sự” của Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể. Dù theo cách tiếp cận phụng vụ tốt, trong thánh lễ, bàn thờ là nơi duy nhất của sự hiện diện thực sự, chứ không phải nhà tạm. Vậy đâu là vấn đề, đâu là tai tiếng, đâu là đoạn tuyệt với truyền thống? Nhưng hãy đi giải thích điều này cho những người nịnh bợ, thích nghi lễ đăng ten, những người mà sự thiếu hiểu biết về tôn giáo, dưới lớp sơn mộ đạo đôi khi thật kinh khủng! Và những người theo lối này, họ hoàn toàn từ chối đối thoại, vì chỉ có họ mới ở trong sự thật! Anh em trong đức tin sao?

Một đa dạng của những nhạy cảm hợp pháp

Để qua một bên những hình thức cực đoan này, đạo công giáo luôn có sự đa dạng. Sự nhạy cảm của người này hiếm khi là sự nhạy cảm của người kia, dù trong lãnh vực phụng vụ, dạy giáo lý, các hình thức tôn kính, các ưu tiên mục vụ sẽ được thực hiện, các phương pháp truyền bá phúc âm hóa hay thái độ trước các cải cách xã hội, đón nhận người di cư, hoặc các lựa chọn chính trị… Và sự đa dạng này là hợp pháp, có khả năng là dấu hiệu của sự phong phú. Tôi biết tôi mắc nợ gì với ban Ca đoàn Phụng vụ của Dân Chúa của bạn tôi, linh mục nhạc sĩ André Gouzes, và giai điệu “Gouzantine” của cha, đó là sự pha trộn giữa truyền thống la-tinh và chính thống cùng một lúc. Tôi biết dưỡng khí thiêng liêng của tôi mà Tuần Thánh là biểu hiệu, với bài hát khi tôn kính thánh giá hay bài exultet công bố phục sinh trong tu viện Sylvanès. Tôi biết chứng từ của những việc chữa lành nội tâm được sinh ra từ việc nghe bài hát Ánh Sáng Vui Vẻ khi ngày tàn nhường chỗ cho ánh sáng dịu dàng của những ngọn nến. Nhưng tôi sẽ không bao giờ ép buộc bất cứ ai thích phụng vụ này hơn phụng vụ kia!

Về tất cả những vấn đề này, lần này lần khác, tôi đã chiến đấu vì các xác tín của tôi. Tôi biết các lựa chọn của tôi. Tầm nhìn của tôi về Công đồng Vatican II, tôi nghĩ tôi đã đọc tất cả các bản văn. Nhưng tôi tự cấm mình thử thách đức tin của những người không cùng quan điểm với tôi. Kiện họ về tội không trung tín sao!

Tôi quan sát thấy sự nhiệt tình của các thế hệ công giáo trẻ với những buổi hát ngợi khen của các bạn tôi Grégory Turpin, Thomas và Benjamin Pouzin tổ chức, hoặc việc chầu Mình Thánh Chúa. Tôi không nhạy cảm với các chuyện này. Chắc chắn đó là vấn đề thế hệ. Nhưng nhân danh chuyện gì để tôi kháng cự họ khi họ đi tìm ở đây thức ăn nuôi dưỡng đời sống tâm linh? Đơn giản, họ có thể hiểu, khi còn là thiếu niên và học sinh trung học ở trường công giáo, tôi bắt buộc phải dự giờ chầu Thánh Thể các ngày chúa nhật, những chuyện đã làm tôi giảm nhiệt tình với kiểu mộ đạo gò bó này. Cuối cùng, một ngày nọ tôi ráng tìm trong các sách Phúc Âm một lời của Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thờ phượng Ngài trong mặt nhật. Không có! Tôi học được từ cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với người phụ nữ Sa-ma-ri,  rằng phải “thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” hơn là ở nơi tôn nghiêm. Tôi đọc: “Cầm lấy và ăn, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta.” Hay: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta.” Có một “sự hiện diện thực sự” mà tôi yêu thích nhất, trong cuộc tụ họp với cộng đồng nơi tấm bánh được chia sẻ, trong gương mặt của người anh em. Nhưng tôi biết, với những người trẻ này, thờ phượng thầm lặng, phá vỡ thế giới ồn ào của họ, không loại đi việc phục vụ người nghèo.

Nhìn cây biết quả và những quả ở Lộ Đức luôn tuyệt vời đối với tôi

Mùa xuân năm 2019, Lộ Đức, bộ phim tài liệu của Thierry Demaizières và Alban Teurlai, cả hai là người ngoại đạo, được chiếu tại rạp cho chúng ta thấy một diện mạo của Giáo hội đáng để chúng ta dừng lại chiêm ngưỡng. Tôi hoàn toàn không biết liệu Đức Trinh Nữ Maria có thực sự hiện ra với Bernadette ở hang đá Lộ Đức ngày 11 tháng 2 năm 1858 hay không. Và tôi biết ơn Giáo hội của tôi đã không bắt tôi phải tin điều đó. Tôi luôn đấu tranh để hiểu vì sao Mẹ Maria rất im lặng trong các sách Phúc âm và trong suốt lịch sử, lại đột nhiên trở nói nhiều như vậy trong thế kỷ 19! Nhưng tôi biết tôi luôn dịu dàng với Mẹ, với cô bé Bernadette; và sự gắn bó của tôi với các đền thánh kể từ khi mỗi năm tôi đi hành hương Aveyron vào tháng 9, tôi là người mang cáng – cha tôi lúc đó là chủ tịch của Hội Tiếp đón Địa phận (Diocesan Hospitality) và mẹ tôi là y tá – sau này tôi là giám đốc báo Pèlerin (Người Hành hương), ngày 15 tháng 8 hàng năm tôi tham dự Hành hương Quốc gia được các tu sĩ Dòng Mông Triệu thành lập mà tuần báo của chúng tôi lấy nguồn gốc và tên của nó. Tôi tin vào “nhìn cây biết quả” và trái của Lộ Đức luôn tuyệt vời với tôi.

Những trái của tự do mà với tự do này những người bệnh, người khuyết tật, nhưng cũng là những người khiêm tốn được tiếp nhận ở đây như “ở nhà họ”, trong đơn giản và chân thật. Đôi khi chúng ta mất thói quen nhìn thấy họ sống giữa chúng ta, với chúng ta và như chúng ta. Chúng ta không biết làm thế nào để bắt gặp ánh nhìn của họ, với lý do họ có thể đọc trong ánh mắt chúng ta hình ảnh thê thảm của họ, điều này làm họ khổ thêm… Trong khi chỉ có lòng tự mê của chúng ta mới đáng khổ! Tôi còn nhớ tôi gặp một phụ nữ trẻ ở Esplanade du Rosaire, cô không còn khuôn mặt, chỉ là một lớp da che ngang mắt, cô không có mũi, không có miệng. Tôi nhìn về đâu? Tôi phải có thái độ nào? Tôi phải cười như thế nào? Cô tự nhiên như ở nhà cô, tôi cũng vậy.

Bao nhiêu là cuộc hành hương, tôi còn giữ kỷ niệm những người bệnh xin chúng tôi thứ lỗi vì những phiền toái họ gây ra cho chúng tôi. Ai sẽ cầu nguyện cho sự chữa lành của họ ít hơn so với người bên cạnh họ trên toa xe hoặc trên cáng. Ai chỉ đơn giản hy vọng được ở trên bờ Gave, trước hang đá, sức mạnh tinh thần để chấp nhận cuộc sống đau khổ của họ, một khi họ trở về nhà. Và chính chúng tôi đã chất vấn sự đạo đức giả của mình khi chỉ phục vụ họ năm ngày một năm, còn 360 ngày còn lại thì quên… Đó là những gì tôi tìm thấy trong cuốn phim của hai đạo diễn theo thuyết bất khả tri và vô thần. Sự thật khiêm tốn và mạnh mẽ của Lộ Đức. Những khuôn mặt này thường được đánh dấu bởi nguồn gốc xã hội, nghèo đói, đau khổ và bệnh tật, đằng sau đó chúng ta có thể đoán được khát vọng sống và niềm tin tưởng vô hạn vào Mẹ Maria. Đây là biểu hiện của lòng mộ đạo bình dân thiết thân của Đức Phanxicô, được bộc lộ một cách tự phát ở tiểu lục địa Mỹ Latinh và là biểu hiện mà chúng ta đã quá coi thường, thậm chí khinh thường ở nước Pháp. Làm thế nào mà lòng mộ đạo này lại không phù hợp với cảm nhận trong tư cách là người công giáo, sống trong thực tế của một châu Âu thế tục, đối diện với thách thức nói lên đức tin của bạn, trong một xã hội được đánh dấu bởi những “bậc thầy của nghi ngờ”: Marx, Nietzsche và Freud?

Chúa Giêsu: nhà tiên tri, con Thiên Chúa, siêu lý tưởng, nhà cách mạng, người vĩ đại, người anh hay người bạn?

Một minh họa khác cho quan điểm của tôi. Đó là buổi nhóm họp cầu nguyện mùa thu năm 1994, khoảng hai trăm người điều hành Hướng đạo Pháp và Hướng dẫn Pháp ở Val-de-Marne1. Chủ đề của ngày cuối tuần là “Điên cuồng sống!” Tôi nhìn lại bục chúng tôi dựng lên, xuyên qua bóng tối màn đêm, một đám rước đầy màu sắc của các nam nữ trưởng tráng, họ mang đuốc, các biểu tượng sơn và những tấm bìa cứng đơn sơ, trên đó họ viết bằng bút phớt đen câu trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Còn con, con nói Ta là ai?” Một thu hoạch tuyệt đẹp các câu trả lời cho sự gắn bó của họ với Chúa Giêsu: nhà tiên tri, con Thiên Chúa, siêu lý tưởng, nhà cách mạng, người xuất chúng, người anh hoặc người bạn họ muốn có… Họ được đón nhận trong sự im lặng tuyệt đối, một làn âm nhạc nhẹ nhàng lướt qua. Và tôi còn nhớ một trưởng tráng đến nói với tôi khi anh về lều ngủ: “Đây là lần đầu tiên, trong một buổi canh thức hướng đạo, tôi có cảm tưởng tôi không bị cho là đứa con nít. Tôi không bao giờ nghĩ rằng câu hỏi này được đặt ra cho tôi, hai ngàn năm sau khi Ngài chết.” Điều gì đã xảy ra với những người trẻ này? Tôi không biết! Họ đang ở đâu trong đức tin của họ? Tôi cũng không biết. Nhưng buổi tối hôm đó, dưới những vì sao, chúng tôi đã đưa ra và giả định sự đa dạng và tự do của họ.

Đừng tránh những câu hỏi làm phiền

Nhưng tôi không muốn tránh những câu hỏi làm phiền. Lướt qua quá nhanh những nguyên nhân của chia rẽ có thể xảy ra giữa chúng ta, để kết luận một cách “rất kitô” tốt hơn về sự cấp bách của việc chấp nhận khác biệt của chúng ta. Không phải tất cả đều nói đến nỗi sợ của một số người khi thấy quá nhiều cởi mở về mục vụ, ngày mai sẽ dẫn đến việc chất vấn toàn bộ học thuyết công giáo hoặc phát triển của tính tập thể đe dọa sự hiệp nhất. Những người khác có thể thấy Giáo hội, sợ hãi trước sự táo bạo công đồng của chính mình, cố gắng thận trọng co mình để đề phòng tốt hơn trước một thế giới bị xem là thù địch. Tất cả mọi thứ vẫn chưa được nói về bạo lực, đôi khi có thể bùng ra chung quanh những bất đồng như vậy.

Những rạn nứt lâu dài của Luật Taubira…

Tôi vẫn còn bị tổn thương bởi những tan vỡ đánh dấu qua cuộc tranh luận về hôn nhân cho tất cả năm 2013. Tôi thuộc về nhóm tín hữu kitô “cởi mở” (cách đây không lâu, người ta còn nói đây là “cánh tả”), những người, bất chấp tất cả, đã chiến đấu chống lại luật Taubira, không phải vì nó thừa nhận quan hệ vợ chồng đồng giới vốn không tạo một vấn đề gì cho chúng ta. Nhưng trong biểu tượng đó, quyền tiếp cận hôn nhân, bao gồm tình hiếu thuận và từ đó, do tình trạng thiếu con nuôi, đối với sự phát triển tất yếu của quá trình sinh sản được hỗ trợ về mặt y tế kiểu PMA-GPA (mang thai thuê) mà theo chúng tôi, đã dấy lên những phản đối về mặt đạo đức. Dưới mắt một số bạn bè của tôi, tôi bị cho là kẻ ngu ngốc không hiểu gì về lịch sử, bị cho là tên “xỏ lá” từ chối công nhận các quyền hợp pháp của người đồng tính. Sau đó, tôi tham gia bên cạnh bà Frigide Barjot và bạn bè của bà trong cuộc biểu tình đầu tiên của công dân ở Paris, vào tháng 1 năm 2013, tôi quyết định tách mình ra khỏi những gì đã trở thành một phong trào có cấu trúc trong thời gian chờ đợi (như nó sẽ làm sau này) vì luật đã được thông qua và tôi từ chối việc nâng cao để trở thành ý thức hệ của “chúng tôi không buông gì”. Sau đó, tôi thấy tôi bị những người khác buộc tội đào ngũ. Không nghi ngờ gì nữa, đó là cái giá phải trả cho sự tự do của tôi.

Vào đêm trước mùa hè, tôi nhận được một bức thư dài của Julien, một “người bạn” tôi biết trên mạng xã hội và tôi đã cãi rất găng với anh. Tôi trích đây một vài đoạn:

“René thân mến, những tháng đấu tranh này, hận thù và bạo lực bằng lời nói, thậm chí cả bạo lực thể xác, đã giúp tôi có thêm thiện ý và kiên nhẫn. Hôm nay, tôi suy nghĩ rất nghiêm túc, khi tôi “mừng” ba năm rửa tội, liệu có nên tiếp tục cuộc hành trình của tôi trong Giáo hội vốn đã quá xấu và đáng ghét trong nhiều tháng qua này hay không. Tôi sống trong sự hung hăng thường trực, những lời nhận xét cố chấp ngạo mạn đưa ra và bắt vạ tuyệt thông bất cứ ai không nằm trong các cột “giáo lý”. Đã có quá nhiều nhầm lẫn giữa đức tin và chính trị; quá nhiều trộn lẫn các thể loại; rất nhiều con đường tắt và các vụ kiện chủ ý đứng về phía chống, đến mức không thể thảo luận với một nhóm đáng kể những người chống đối đã rơi vào thuyết âm mưu. Trong trò chơi ngoài hiệp thông giữa các tín hữu, Giáo hội đánh mất linh hồn và sự hiệp nhất của mình trên bàn thờ chính trị. Còn về “những người công giáo cánh tả” như ông, muốn tham gia vào cuộc chiến này, họ hoàn toàn chính đáng để làm như vậy. Tuy nhiên, họ đã phục vụ như những kẻ ngu ngốc, hữu ích cho cánh hữu, hiện đang tiếp quản sáng kiến này, tô điểm cho mình, thêm nữa tô điểm bề mặt đa nguyên để che giấu luận điệu phản động của nó. Tôi không làm ông choáng ngợp, ông René thân mến, nhưng tôi xin được phép chia sẻ với ông trong tình bạn, nỗi đau khổ của tôi. Khi tôi đến nhà thờ, không có gì giống như trước đây và tôi sợ sẽ không có gì giống như trước. Hy vọng của tôi đã biến mất trước những người tự xưng là người canh thức.”

“Đồng hành trong tình huynh đệ với những người có những lựa chọn này…”

Năm năm sau, năm 2018, với viễn cảnh xảy ra các cuộc đụng độ mới xung quanh việc mang thai mướn, PMA, hứa hẹn có cuộc tranh luận quốc hội, tôi đã ký một bản kiến nghị mở đầu bằng những từ này “Tôi, người công giáo, tôi không muốn sống lại địa ngục LMPT!” (cuộc đình công cho tất cả). Vài ngày sau, tôi đã giải thích trong một bức thư ngỏ gởi người bạn trẻ của phong trào này, Louis Montané de Laroque, tôi viết:

“Sự cân bằng quyền lực mà bạn tưởng tượng tạo ra sẽ không thể thay đổi quyết định của Emmanuel Macron, điều này tương ứng với cả sự nhạy cảm sâu sắc của ông và nhu cầu của ông để đưa ra các cam kết cánh tả của mình. Và bạn có thành công khi đặt cược rằng dư luận, như ở Argentina khi đối diện với việc từ chối quyền phá thai, để cho Giáo hội mang lấy trách nhiệm, sẽ có các đơn xin rửa tội nhiều gấp bội không. Dù bằng cách nào, bạn sẽ giúp chia rẽ người công giáo nhiều hơn nữa, củng cố trong công luận hình ảnh đáng ghê tởm về một Giáo hội phản động và kỳ thị. Vì vậy, bạn hỏi tôi: phải làm gì? Nói chuyện với nhau, đã tranh luận giữa chúng ta, không phải để làm trầm trọng thêm sự bất đồng mà có lẽ để lưu ý những điểm hội tụ. Tiếp tục tự do bày tỏ niềm tin của chúng tôi trong lĩnh vực xã hội, cho những trận chiến khác sắp tới, như tôi đã cố gắng làm trên blog của mình một cách khiêm tốn. Hãy chuẩn bị tinh thần để đồng hành trong tình huynh đệ, nhân danh Tin Mừng, những người sẽ thực hiện những lựa chọn mà chúng ta lên án này, một cách khác để phục vụ công ích.”

  1. Sự hợp nhất của hai phong trào chỉ diễn ra năm 2004. Ở Val-de-Marne, WEL (cuối tuần ra mắt) theo truyền thống đã được chia sẻ bởi hai cấu trúc.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Phụ nữ và giáo dân trong Giáo hội

 

 

Hồng y Schönborn hy vọng các từ nhiệm của giáo hoàng sẽ không xảy ra

Hồng y Schönborn hy vọng các từ nhiệm của giáo hoàng sẽ không xảy ra

thetablet.co.uk, Christa Pongratz-Lippitt, 2021-01-10

Hồng y bày tỏ lòng kính trọng với thần học gia đồng nghiệp Bênêđictô XVI, người bạn thân của ngài trong nhiều năm. Tại Hội đồng Giám mục công giáo Anh và xứ Wales/Mazur

Theo hồng y Christoph Schönborn: “Việc từ nhiệm không nên trở thành truyền thống. Tôi tin điều đúng đắn là các giáo hoàng sẽ tại vị cho đến cuối đời”.

Hồng y Christoph Schönborn dòng Đa Minh, tổng giám mục Vienna tuyên bố ngài không nghĩ việc từ chức của giáo hoàng nên trở thành thông lệ. Ngài hy vọng sẽ không thành truyền thống như cựu giáo hoàng Bênêđictô XVI đã làm, hồng y tuyên bố trên truyền hình nhà nước Áo trong chương trình đặc biệt ngày 2 tháng 1 để tưởng niệm Đức Bênêđictô XVI.

Ngài nói: “Việc từ nhiệm không nên trở thành truyền thống. Tôi tin điều đúng đắn là các giáo hoàng sẽ tại vị cho đến cuối đời. Đó là cách đã diễn ra trong nhiều thế kỷ.” Ngài nói thêm, việc từ nhiệm của Đức Bênêđictô XVI cũng là một dấu hiệu quan trọng rằng giáo hoàng chỉ là Giáo hoàng chứ không phải là Chúa yêu dấu”.

Ngài hy vọng Đức Phanxicô sẽ không từ nhiệm. Ngài bày tỏ lòng kính trọng với Đức Bênêđictô XVI, người bạn thân của ngài trong nhiều năm.

Đề cập đến cáo buộc Đức Bênêđictô XVI đã che đậy các trường hợp lạm dụng linh mục đặc biệt nghiêm trọng khi ngài còn là tổng giám mục Munich từ năm 1977 đến năm 1980, hồng y Schönborn cho rằng toàn bộ vụ án nên được mở lại và xem xét thời điểm khi nó xảy ra.

Hồng y nói thêm: “Theo những gì tôi nhớ, ngài đã công khai và trung thực nói ngài đã phạm sai lầm vào thời điểm đó. Và điều đó rất phù hợp với một giáo hoàng. Một Giáo hoàng không phải là không thể sai lầm trong mọi việc. Ngài là con người. Và chắc chắn cũng có thể phạm sai lầm.”

Ông Manuel Herder, người đứng đầu Nhà xuất bản Đức Herder của Đức Bênêđictô XVI, cũng bày tỏ sự kính trọng với cố giáo hoàng danh dự. Trong một cuộc phỏng vấn cho KNA, ông Herder cho biết Đức Bênêđictô là giáo hoàng của sách.

Joseph Ratzinger đã nhận được hợp đồng tác giả đầu tiên của ngài với Nhà xuất bản Herder năm 1956 và Herder đã xuất bản tất cả 60 quyển sách của ngài.

Sau khi quyển Chúa Giêsu Nadarét của Đức Bênêđictô bán được nửa triệu ấn bản, Herder đã xuất bản các tác phẩm của ngài.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài mới nhất