Home Blog Page 365

Sử gia Tangi Cavalin: “Anh em linh mục Philippe biết cách xây dựng lại bản thân dù đã bị lên án”

Sử gia Tangi Cavalin: “Anh em linh mục Philippe biết cách xây dựng lại bản thân dù đã bị lên án”

Trong quyển sách “Vụ việc. Các tu sĩ Dòng Đa Minh đối diện với vụ tai tiếng của anh em linh mục Phillipe” (L’Affaire. Les dominicains face au scandale des frères Philippe. nxb. Cerf), nhà sử học Tangi Cavalin mổ xẻ cơ chế đã cho phép hai anh em linh mục Marie-Dominique và Thomas Philippe phát triển toàn bộ hệ thống kiểm soát và bạo lực tình dục ngay tại trung tâm Giáo hội công giáo. Báo La Vie xem lại công việc điều tra này.

lavie.fr, Marie-Lucile Kubacki, 2023-01-30

Hai anh em linh mục Marie-Dominique và Thomas Philippe. 

Báo cáo của ông bắt đầu bằng một loạt gom lại các câu chuyện của phụ nữ… Vì sao?

 Sử gia Tangi Cavalin. Đó là một lựa chọn. Mục đích công việc của tôi là nói đến trách nhiệm của Dòng Đa Minh, nhưng không phải chỉ nói đến các ông mà không nói đến phụ nữ. Để hiểu rõ sự việc, chính xác là phải thay đổi trọng tâm, đặt mình ở vị trí các cá nhân, của phụ nữ, vì họ là nạn nhân, và họ là những người đầu tiên báo động. Tôi không muốn ai quên công việc này. Một lý do khác là khi những lời khai đầu tiên được đưa ra, người ta đã cố gắng làm mất uy tín tiếng nói của các phụ nữ này, bằng cách gọi họ là những người điên loạn, cuồng hoảng, cuồng dâm, dùng thuật ngữ tâm lý để bác bỏ lời nói của họ. Tôi muốn đưa ra cho thấy, trong nhiều năm, các phụ nữ này đã mô tả các sự kiện tương tự và không biết cách để làm cho lời khai của họ có uy tín, ngược lại phác họa kiểu dùng sai các thuật ngữ tâm lý trong Giáo hội. Khi các phụ nữ này muốn làm chứng, họ phải chịu một nỗi đau gấp đôi: đau khổ vì bị phớt lờ và bị phủ nhận bằng cách bêu xấu sức khỏe tâm thần của họ.

Chính xác điểm chung trong các lời chứng này là gì?

Có một cái gì đó rất đặc biệt về các hoạt động tình dục của hai anh em linh mục Philippe và những người nắm giữ sự việc trong Dòng của họ. Thomas và Marie-Dominique Philippe không phải là tội phạm ấu dâm, nhưng không có nghĩa những gì họ gây ra không dẫn đến các hiện tượng phạm tội ấu dâm đặc biệt nơi các tu sĩ dòng Thánh Gioan, nhưng với họ, đây là những hành vi không để dương vật vào âm đạo nên các thủ phạm cho rằng họ không vi phạm lời khấn dòng. Ngoài ra, họ ở trong một logic khai tâm. Họ không quan tâm đến bất kỳ phụ nữ nào. Tất cả các nạn nhân của họ đều có thiện ý mạnh hướng tới ơn gọi chiêm niệm, dù họ là nữ tu hay giáo dân – có nhiều người sống đời chiêm niệm. Các linh mục này thống trị trên những phụ nữ sẵn sàng đồng ý, qua tinh thần im lặng của họ, qua chiêm niệm sâu sắc của họ, đối với sự phủ nhận mà họ luôn cố gắng thực hiện. Những phụ nữ này vẫn còn kể, không có khoảnh khắc nào dành cho thông điệp thần bí và khoảnh khắc nào dành cho tình dục.

Điều đó có nghĩa là?

Khi các hành vi tình dục bắt đầu, chúng bị phủ nhận để được xem đó là khoảnh khắc đạt được hành động thần bí. Trọng tâm của cái mà linh mục Thomas Philippe gọi là “bí mật” của mình, bí mật được Đức Trinh Nữ tiết lộ cho ông, đó là niềm vui tình dục được dành riêng cho một số ít người có khả năng hiểu rằng quan hệ tình dục không phải vậy, và đây thực sự là những mối quan hệ thần bí. Một trong những nạn nhân là bà Madeleine Guéroult, bà giải thích đã có lúc bà bị mất phương hướng với những điều kiện này đến mức chóng mặt, vì Thomas Philippe nói với bà “những điều thật dẫn đến những điều sai”. Trích dẫn này là hoàn hảo để xác nhận những gì xảy ra tại hiện trường tội ác.

Ông đề cập đến các thực hành không để dương vật vào, nhưng  ít nhất có một ngoại lệ. Thực tế, một “người được khai tâm” của Thomas Philippe có thai…

Thật vậy và hơn thế nữa, khi đó ông hoàn toàn quẫn trí vì ông nghĩ Đức Trinh Nữ làm sao để ‘hạt giống’ của ông không thể sinh con vì đó là quan hệ thần bí. Một trong những người ông khai tâm, một bác sĩ, sau đó phải phá thai. Đứa trẻ chết khi sinh được tôn kính giống như một thánh tích: việc phủ nhận thực tế tiếp tục và thậm chí còn làm các môn đệ của Thomas Philippe gắn bó hơn nữa chung quanh bí mật này.

Vai trò của gia đình trong vụ này là gì vì ngoài hai anh em linh mục, một chị là nữ tu Cécile de Jésus, cũng bị Văn phòng Tòa thánh trừng phạt vì những hành vi lạm dụng, cũng như người cậu của họ là tu sĩ Dòng Đa Minh Thomas Dehau được xem như người khởi xướng?

Theo tôi, điều rất quan trọng là không nên đổ lỗi cho nguồn gốc gia đình, thuộc về các gia đình mà chúng ta gọi là “các đại gia đình miền Bắc”. Ngay cả trong anh chị em nhà Philippe, một số người cũng có cái nhìn rất phê phán với hai anh em linh mục Thomas và Marie-Dominique khi phát hiện ra hành động của họ. Điều đáng ngạc nhiên là gốc rễ của sự lệch lạc thần bí này ở trong bối cảnh gọi là ngày tận thế, đó là cảnh các ông bà nội-ngoại của họ đi hưởng tuần trăng mật vào thời điểm các Quốc gia Giáo hoàng sụp đổ ở Rôma năm 1870. Họ có ấn tượng, đó là tận thế và hôn nhân của họ kết hợp một hiệp ước rõ ràng: người ông đồng ý với vợ để cùng sát cánh bảo vệ đạo công giáo bằng mọi giá đang bị tấn công từ mọi phía. Họ rời thành phố Lille về ở vùng nông thôn với dự án thành lập một xã hội công giáo, được củng cố bởi một hoang tưởng phong kiến. Gia đình, theo mô hình lãnh chúa này trở thành người bảo vệ tôn giáo. Sau này đường hướng này được hai anh em Philippe áp dụng dưới hình thức ngày càng thần bí và không thể tiếp cận được, trong đó dấn thân tôn giáo là cách để dời đến một vùng đất khác với vùng đất của các ông bà nội-ngoại trong cùng một trận chiến đấu tranh không khoan nhượng chống lại thế giới hiện đại. Tuy nhiên, không phải tất cả các hậu duệ của họ đều theo mô hình này.

Đặc tính mối liên hệ của hai anh em với Dòng Đa Minh là gì? Có phải Dòng chỉ là vỏ bọc cho họ?

Rõ ràng là không, nhưng điều này đặt cho chúng ta câu hỏi: vai trò của Dòng trong câu chuyện này. Khi họ vào Dòng thì cậu của họ đã ở trong Dòng từ cuối thế kỷ 19, ông nổi tiếng là tu sĩ thiêng liêng cao cả, ngay lập tức họ được xem là những người con gương mẫu của Thánh Đa Minh. Bản thân Thomas và Marie-Dominique tự xem mình như tu sĩ Đa Minh trước khi vào Dòng vì họ được người cậu giáo dục suốt thời niên thiếu. Dòng luôn nhìn thấy họ có ơn gọi lý tưởng, đảm bảo việc thăng tiến của họ cho đến những năm 1950, Dòng đã không đủ nhận thức để thấy đây là vấn đề trong cách họ là tu sĩ Dòng, nhưng họ không có khả năng suy nghĩ khi quan hệ với các anh em khác, để mình được các anh em khác sửa chữa như thông lệ trong đời sống tu trì. Hai anh em đã không thể lợi dụng Dòng nếu người có trách nhiệm trong Dòng không lợi dụng họ.

Làm thế nào lịch sử tỉnh dòng và cuộc khủng hoảng Saulchoir năm 1942 đóng một vai trò quan trọng như vậy?

Khi anh em Philipphe vào Tỉnh dòng Pháp, thì Tỉnh dòng bị chia rẽ và bị Rôma nghi ngờ. Không có sự hợp nhất chung quanh linh mục quản lý Marie-Dominique Chenu (năm 1942, linh mục phải rời khỏi chức vụ quản lý Saulchoir khi Tỉnh dòng được tiếp quản bởi xu hướng “chính thống” hơn, trong đó có linh mục Thomas Philippe trở thành người đại diện). Cho đến năm 1942, vai trò của họ trong Tỉnh Dòng không đáng kể, sau đó họ tham gia vào cuộc thanh trừng, bắt đầu băng cách cực đoan hóa các hành động, lấy lý do ‘được’ Đức Trinh Nữ trực tiếp cảm hứng, họ có được hình ảnh người tu sĩ hoàn toàn trung thành với các hướng dẫn chính thống của Thánh bộ Đức tin. Từ đó họ có ảnh hưởng trên các thể chế và sự lật đổ họ có thể ghép vào các vấn đề rộng lớn hơn của học thuyết. Cả hai xuất hiện như một phần của cuộc đấu tranh về giáo lý. Họ đã không phát động ra cuộc đấu tranh này, được tiến hành từ trước chiến tranh bởi những người tiếp tục thấy sự dấy lên lại khắp nơi cuộc khủng hoảng chủ nghĩa hiện đại vào đầu thế kỷ, nhưng họ đầu tư nó để thúc đẩy xác tín của họ về Dòng Đa Minh nên như thế nào trong thế giới hiện đại. Đó là nơi người ta thấy mối liên hệ tổ tiên với dự án tố cáo triệt để tính hiện đại của các ông bà của họ. Họ chiến đấu chống lại tất cả những gì nơi tu sĩ Dòng Đa Minh có vẻ như bị hư hỏng vì tính hiện đại.

Dòng Đa Minh nhờ ông thiết lập trách nhiệm của Dòng. Ông đi đến kết luận nào?

Sử gia không phải là quan tòa. Những gì người sử gia có thể mang lại, đó là cái nhìn từ bên ngoài, thông qua cách tiếp cận lâu dài trong mục đích hiểu biết. Trong thời hiện đại, hơn là trong quá khứ, đi tu không phải là con đường dẫn đến thành công xã hội. Không ai bắt phải vào dòng. Đó là một chọn lựa cực kỳ đòi hỏi phải cống hiến hết mình. Do đó tin tưởng vào các thể chế để giao nguyện vọng của mình, đó là điều thiết yếu. Vậy mà hai anh em linh mục Philippe, nhờ địa vị đáng kính của mình, nhờ danh tiếng là những thần học gia vĩ đại của Dòng Đa Minh đã không ngừng lợi dụng sự tin tưởng này. Trong trường hợp này, điều chúng ta hối tiếc là ở tất cả các cấp, các thể chế đã không đảm bảo được sự tin tưởng cần thiết cho một cuộc sống theo lý tưởng của tình anh em. Và đã làm cho lạm dụng tình dục có đất hành động. Các quy tắc dòng tu và nghệ thuật cai trị của các người có trách nhiệm có vai trò ngăn chặn những rối loạn như vậy. Các quyền hạn đã không hoạt động.

Nhưng như ông cho thấy, hai anh em linh mục Thomas và Marie-Dominique đã là những bậc thầy trong nghệ thuật ứng xử với quyền lực, họ lên hết chức này đến chức khác ở Rôma, ở Pháp…

Hoàn toàn đúng. Một cách nào đó, họ đã nắm quyền kiểm soát cơ quan điều hành Dòng của họ, nhờ danh tiếng, nhờ sự hỗ trợ, nhờ kiến thức cao của họ trong việc điều hành các cơ sở. Họ đã xoay xở để tồn tại trong nhiều năm sau khi bị Tòa thánh kết án, họ biết khéo léo đánh vào sự chia rẽ nội bộ của Dòng và Giáo hội. Việc lật ngược ván cờ trong một thời gian dài không phải là công việc dễ dàng cho bất cứ một tu sĩ nào. Ở đây quá trình xã hội hóa trước đây của họ phát huy hết tác dụng: được người cậu tu Dòng Đa Minh huấn luyện từ nhỏ, họ biết phải làm gì để đạt được mục đích của mình. Mặt khác, họ luôn hỗ trợ nhau: tuy nhiên, nếu khó tưởng tượng ra một tu sĩ có uy tín lớn như Thomas Philippe lại theo đuổi những âm mưu trái ngược với luân lý công giáo, thì làm sao hình dung được chính người anh, người chị, người cậu của mình lại ủng hộ mình?

Dù sao làm thế nào để giải thích vụ này lại kéo dài hơn nửa thế kỷ?

Điều cần thiết là khả năng tái tạo lại bản thân của họ bất chấp những lời chỉ trích. Sự lên án, không hề làm cho Thomas tự nhủ mình đã phạm sai lầm, mà củng cố ý tưởng mình phải đi xa hơn, chìm vào bí mật và làm lại một dự án khác ở một nơi khác, “tác phẩm nghệ thuật” của mình. Nhóm nhỏ của họ tin chắc mình đã nắm chân lý cho Giáo hội đến mức họ phải bắt đầu lại, nhưng ở một nơi ít lộ liễu hơn, xa các quy định của Dòng và Giáo hội. Còn tại Nhà Arche, xa các tu viện Đa Minh, nhưng vẫn là người của Dòng, Thomas Philippe tái tạo lại mình theo mô hình gợi lên hình ảnh Tin Mừng của người nghèo giữa người nghèo, người nhỏ bé giữa những người nhỏ bé. Ông trở thành người không thể nghi ngờ.

Ông nói về cách Thomas Philippe tái tạo lại con người mình. Còn Marie-Dominique Philippe thì sao?

 Trường hợp của ông này thì khác, vì bản án năm 1957 của ông không được biết đến, ông không phải tái tạo lại thành một nhân vật khác. Thậm chí ông còn được phục hồi nhờ linh mục Tổng quyền Dòng năm 1959, người chịu trách nhiệm thực sự, vì linh mục Tổng quyền làm mọi cách để bản án được nhẹ và sau đó làm sao để không ai thấy. Kết quả là danh tiếng của Marie-Dominique Philippe càng nổi lên. Thật ra, để che giấu bản án của ông, vì nếu biết được, ông sẽ không còn được dạy về khoa thiêng liêng, linh mục Tổng quyền cho biết ngài cần ông làm cố vấn đặc biệt. Có một ý thức muốn che giấu hình phạt, dù trong nội bộ. Ngay cả Tỉnh dòng Pháp cũng không biết, với lý do để bảo vệ người canh giữ học thuyết. Những vấn đề ý thức hệ luôn là nguồn lực rất mạnh cho anh em Philippe, họ tự khẳng định mình là những người ủng hộ tính chính thống và một hình thức nào đó của đời sống theo truyền thống. Marie-Dominique Philippe áp dụng những quan điểm này trong việc thành lập cộng đồng Thánh Gioan, không phải một cộng đồng mới như các cộng đồng khác, vì cộng đồng này không những thể hiện dưới vẻ ngoài cổ điển trong thần học mà còn trong sự phân chia vai trò giữa các linh mục và nữ tu, người này chiêm niệm, người kia làm việc tông đồ.

Và trong bối cảnh này, căng thẳng với Rôma có thể là một biện pháp để bảo vệ, trở thành một loại huân chương danh dự…

Đúng vậy, mối quan hệ với Rôma thường xuyên làm rối mù các quân bài và làm chập mạch các quyền lực nội bộ của Dòng. Đối với thế hệ Đa Minh năm 1968 được xây dựng trong việc từ chối nhiều biện pháp trừng phạt trong những năm 1950-1960, điều này giúp cho Thomas Philippe xuất hiện trong tư cách là nạn nhân của Vatican, tạo ra sự mơ hồ. Sau đó, dưới thời Đức Gioan Phaolô II, Marie-Dominique Philippe luôn biết cách làm nổi bật sự gần gũi của mình với giáo hoàng để làm tê liệt các quyền lực giáo sĩ đang tìm cách giành lại quyền kiểm soát trên ông. Cả hai đều biết cách làm cho mình không bị nghi ngờ và khó nắm bắt. Nạn nhân của họ phải chịu những tác động khủng khiếp.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Trường hợp của ông Jean Vanier và anh em linh mục Philippe: gốc rễ của mù quáng

Trường hợp của ông Jean Vanier và anh em linh mục Philippe: gốc rễ của mù quáng

Trường hợp của ông Jean Vanier và anh em linh mục Philippe: gốc rễ của mù quáng

la-croix.com, Jérôme Chapuis, tổng biên tập báo La Croix, 2023-01-30

Hai báo cáo công bố ngày thứ hai, 30 tháng 1 đã làm sáng tỏ đường lối trong Giáo Hội và những vụ lạm dụng của hai anh em linh mục Philippe và ông Jean Vanier.

Tà phái dưới mắt chúng ta và chúng ta không thấy gì. Linh mục Thomas Philippe và ông Jean Vanier, đệ tử chính của ông, đã trong mấy mươi năm cố gắng che giấu hành động của họ trong chính hệ thống trung tâm Giáo hội. Hai báo cáo được công bố ngày thứ hai tuần này, 30 tháng 1 là hai báo cáo được cộng đoàn L’Arche và các tu sĩ Dòng Đa Minh đặt làm, đã cho thấy rõ ràng các việc làm của họ.

Các sự việc tự nó nói lên một cách sống sượng. Bản chất đê hèn, thời gian lâu dài, những lời biện minh, nhân cách lỗi lạc của các đương sự: mọi chuyện đã góp phần làm cho vụ án này có một chiều kích lịch sử. Trong suốt cuộc đời, ông Jean Vanier được ngưỡng mộ, ông là thành viên cốt lõi của tà phái này. Bắt đầu với những người khác về một loại thần nghiệm ảo tưởng, ông tái tạo cơ chế khống chế tình dục mà ông phải chịu đựng khi còn trẻ.

Sau cú sốc về những tiết lộ, chúng ta phải có can đảm sáng suốt xem xét những điều kiện dẫn đến sự thất bại này. Đọc các báo cáo, chúng tôi hiểu sự đồi bại của Thomas Philippe không phải là nguyên nhân duy nhất. Vẫn còn và luôn luôn, khi bị lạm dụng, yếu tố chính là im lặng. Trường hợp của ông xác định một cách hoàn hảo, sự điên cuồng của ông đã được biết từ năm 1956, và đã bị giáo luật kết án. Việc không công khai hình phạt của Rôma đã cho phép ông đưa ra lý do ông là nạn nhân của một âm mưu.

Sự đồng lòng, trò chơi quyền lực và bỏ quên đã làm phần việc còn lại: cái ác vẫn lan rộng cho đến rất gần đây. Chúng tôi biết sự đau khổ của độc giả báo La Croix khi họ đối diện với sự lặp đi lặp lại của những vụ bê bối này. Đôi khi họ đổ lỗi cho chúng tôi vì chúng tôi đã đăng quá nhiều. Nhưng công bố các thông tin này không phải là một lựa chọn, vì nó giúp ngăn chặn các lạm dụng tiếp tục. Và vì chúng ta phải hy vọng, dứt khoát, nên chúng ta chỉ còn một bí ẩn này: từ tất cả những quái dị này đã nảy sinh cộng đoàn L’Arche, một công trình đáng kể để phục vụ những kẻ yếu nhất, vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Sử gia Tangi Cavalin: “Anh em linh mục Philippe biết cách xây dựng lại bản thân dù đã bị lên án”

Cuộc điều tra lịch sử làm sáng tỏ chính xác vụ hai anh em linh mục Philippe lạm dụng thiêng liêng

Cuộc điều tra lịch sử làm sáng tỏ chính xác vụ hai anh em linh mục Philippe lạm dụng thiêng liêng

Làm thế nào hai linh mục Đa Minh Marie-Dominique và Thomas Philippe trong nhiều thập kỷ lại có thể thiết lập một hệ thống lạm dụng thiêng liêng và bạo lực tình dục, đó là điều nhà sử học Tangi Cavalin mổ xẻ trong quyển sách Vụ việc. Các tu sĩ Dòng Đa Minh đối diện với vụ tai tiếng của anh em linh mục Phillipe (L’Affaire. Les dominicains face au scandale des frères Philippe. nxb. Cerf) mà báo La Vie đã có thể tham khảo.

lavie.fr, Marie-Lucile Kubacki, 2023-01-30

Hai anh em linh mục Marie-Dominique và Thomas Philippe. Ảnh L’Arche

Vụ việc” là một tác phẩm đặc biệt sẽ được nhà xuất bản Cerf phát hành ngày 1 tháng 2. Các tu sĩ Dòng Đa Minh phải đối diện với các vụ tai tiếng của hai anh em linh mục Philippe. Nếu hầu hết các sự kiện liên quan đến vụ này đã được biết đến, nhưng nguyên bản của cuộc điều tra phi thường dài 730 trang được thực hiện theo yêu cầu của Dòng Đa Minh, để đánh giá trách nhiệm của họ nằm ở chỗ nhà sử học mổ xẻ cơ chế đã cho phép hai anh em đã bị Rôma kết án năm 1956 và 1957, lại tiếp tục lạm dụng thiêng liêng và tình dục trong hơn nửa thế kỷ, đồng thời tạo ra một tà phái mờ ám gồm những “người khai tâm” mà bi thảm nhất là trường hợp của ông Jean Vanier.

“Vụ Philippe” là câu chuyện đặc biệt phức tạp. Nhân vật chính là hai anh em Thomas Philippe và Marie-Dominique Philippe (tên nhà dòng) nhưng có sự góp phần của các nhân vật khác, như ông Jean Vanier, tất cả đều phạm tội lạm dụng tình dục phụ nữ trưởng thành. Tự cho mình là người “khai tâm” các nạn nhân, họ là những phụ nữ trưởng thành đi tìm một đời sống thiêng liêng, một bí mật thần bí, và những người này tấn công tình dục các phụ nữ dưới chiêu đề thần bí khiêu dâm. Đáng tiếc, loại “mê sảng” này đã làm cho công việc của họ thành đồi trụy. Linh mục Marie-Dominique thành lập Cộng đoàn Thánh Gioan (hiện có khoảng 500 sư huynh và 300 nữ tu khắp năm châu), ông dùng các cộng đoàn này làm địa bàn săn lùng và “lưu truyền” của ông. Còn với Thomas Philippe, ông chỉ có một đệ tử thực sự, đó là ông Jean Vanier, một nhân vật được quốc tế công nhận vì đã thành lập Cộng đoàn L’Arche (một tổ chức quốc tế với 10.000 thành viên) tiếp nhận người khuyết tật và khi còn sống, ông đã được mọi người cho là thánh sống.

Linh mục Thomas sinh năm 1905 và Marie-Dominique sinh năm 1912 tại miền Bắc nước Pháp, trong gia đình có 12 người con, 8 người đi tu, hai anh em vào Dòng Đa Minh lúc hai mươi tuổi, đặc biệt được người cậu là Thomas Dehau đã vào Dòng Đa Minh hướng dẫn. Nhiều năm trước đó, ông bà của họ rời Lille để định cư ở Bouvines, nơi ông nội là thị trưởng thành phố, với dự án không tưởng là thành lập một xã hội công giáo theo thời trung cổ. Tác giả Tangi Cavalin cho thấy, tất cả bắt đầu với tuần trăng mật ở Rôma, khi các Quốc gia Giáo hoàng sụp đổ. Bị che phủ bởi cảm giác tận thế vào thời điểm đó, hai ông bà lập một giao ước: họ kết hiệp với nhau để chống lại nghịch cảnh của thời hiện đại. Một xác tín không tưởng, đến lượt mình, hai anh em Philippe phát minh lại nó.

Được khơi mở bằng một “thần bí”

Năm 1936, Thomas Philippe đã có tiếng tốt, ông được gởi đến Rôma để dạy ở Giáo hoàng Học viện Đa Minh, Angelicum. Sau đó, ông kể ông đã trải nghiệm một hôn nhân thần bí với Đức Trinh Nữ khi nhìn bức tranh của Trinité-des-Monts (Mater admirabilis), một trải nghiệm mà ông mô tả là nền tảng trong quá trình xây dựng sự khiêu dâm thần bí lầm lạc của mình. Trên thực tế, có vẻ như đó là nguồn gốc kỳ lạ của thuyết trực tri có từ thời sự ngộ đạo mà cậu Thomas Dehau của ông đã trải qua với “nhà thần bí” Hélène Claeys, để đến lượt người cậu truyền cho cháu là Thomas. Tác giả Tangi Cavalin đã viết những trang làm sáng tỏ mối quan hệ tay ba này, và thời điểm hình thành: “Vào cuối những năm 1930, một cấu hình quan hệ đã được thiết lập giữa một số cá nhân – cấu hình bí mật ở dạng của nó và thần bí trong mục đích của nó – bị thuyết phục về việc phải hành động cho sự xuất hiện một “công việc” thần thánh trong Giáo hội. Trong bối cảnh này, Thomas Dehau chỉ định và hợp pháp hóa cháu của mình như người con thiêng liêng của ông, để học nghề mà người ta cho đây là khiêu dâm thần bí và có thể là tình dục thần bí. (…) Mục tiêu của những người này đưa ra không những chỉ duy trì quan hệ bí mật giữa họ mà họ được hưởng một mình, nhưng còn ảnh hưởng đến vận mệnh của Dòng Đa Minh và thông qua đó là của Giáo hội.”

Dựa vào uy tín vững chắc về tri thức và tính chính thống, năm 1942 Thomas Philippe đã được Thánh bộ Đức tin (bây giờ là bộ Giáo lý Đức tin) cử đến tiếp quản Saulchoir (nơi học tập của tỉnh dòng Đa Minh ở Pháp), sau khi giám đốc Marie-Dominique Chenu bị cho vào sổ đen vì bị cho là tiến bộ. Giai đoạn này được gọi là “cuộc khủng hoảng Saulchoir”. Một thời gian ngắn sau, năm 1945, Thomas Philippe thành lập cộng đoàn Nước Hằng Sống (L’Eau vive), một trung tâm đào tạo và hướng dẫn linh đạo với ơn gọi quốc tế, gần Saulchoir, ông có đường hướng chính thống hơn. Thêm nữa, rất nhanh chóng, trung tâm tự cho mình là nơi hấp dẫn và năng động, với sự hỗ trợ của các nhân vật như triết gia Jacques Maritain.

Chính lúc này là lúc Jean Vanier đến năm 1950, một thanh niên đang đi tìm một thầy tâm linh, và ông đã tìm được nơi Thomas Philippe. Vào thời điểm đó, Thomas Philippe đã lợi dụng những chuyến thăm các dòng nữ, nơi ông đến giảng và tháp tùng thiêng liêng để bắt đầu thực hành điều ông gọi là thần bí của mình, làm những“hành động tội phạm” với các nữ tu, tác giả Cavalin giải thích: “Ông đảm bảo với họ, chính Mẹ Maria nói với ông, các nữ tu là những người nhận được ơn đặc biệt. Bài diễn văn thần bí của ông chạm đến họ bất chấp mọi lý lẽ. Không một chút bạo lực, ông đưa họ vào trạng thái sững sờ, làm cho họ không biết phải phản ứng như thế nào và để mặc cho mình bị chạm vào.”

Lên án đầu tiên

Đơn tố cáo đầu tiên là năm 1952. Một trong các nữ nạn nhân báo cáo cho bề trên tỉnh dòng, người đã thông báo sự việc cho Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh, và chính ông báo cho Thánh bộ Đức tin. Nữ tu cố gắng xin lời khuyên của Marie-Dominique Philippe, nhưng ông giảm thiểu tình hình và khuyên nữ tu nên hiểu nhu cầu tình cảm của anh mình…

Một tiến trình giáo luật mở ra để chống lại Thomas Philippe nhưng tiến trình vẫn chờ giải quyết. Dù vậy, ông phải rời cộng đoàn Nước Hằng Sống. Ông Jean Vanier thay thế vào ban điều hành, khi đó ông đặt trong vòng bí mật các thực hành của thầy mình với một trong những người ông này “khai tâm”. Nhưng bốn năm sau, phiên tòa xét xử Thomas Philippe cuối cùng đã diễn ra nhờ sự can thiệp của hồng y Paul Philippe, Thánh bộ Đức tin, người cũng thuộc Dòng Đa Minh và bạn của bị cáo, nhưng không liên hệ gia đình dù mang tên họ chung. Hồng y hiểu trường hợp này không cá biệt nhưng họ dựa trên hệ thống khai tâm của tà phái.

Tác giả Tangi Cavalin viết: “Hồ sơ do ủy viên biên soạn kết thúc bằng một ghi chú tóm tắt khoảng 20 trang đề ngày 16 tháng 4 năm 1956, tóm tắt các yếu tố đã thu thập được và báo cáo về một số điểm quan trọng mà Thomas Philippe đã khăng khăng phủ nhận: quan hệ ‘vợ chồng’ với một phụ nữ dẫn đến phá thai; dụ dỗ gạ gẫm khi xưng tội; tha thứ cho phụ nữ mà ông có quan hệ tình dục khi họ xưng tội, một tội ác mà ông bác bỏ đến mức ông trấn an họ, những hành vi đã thực hiện là đạo đức và đẹp lòng Chúa. Về ba điểm này, những lời phủ nhận của ông ngược với lời khai của những người tố cáo ông.”

Việc tha tội cho đồng phạm không được đề cập trong cáo trạng, nhưng việc gạ gẫm và phá thai vẫn còn trong cáo trạng. Thần bí giả tạo của ông bị ghim lại. Bản án rơi xuống: ông mất tất cả các quyền hạn liên quan đến sứ vụ. Ông không còn giải tội, tháp tùng, dâng thánh lễ, giảng dạy và tiếp xúc với các thành viên của cộng đoàn Nước Hằng Sống. Ảnh hưởng của người cậu Dehau được xác nhận, và nữ tu Cécile de Jésus, em gái của Thomas Philippe, bề trên của một dòng Đa Minh, bị phế truất.

Tangi Cavalin viết: “Hồng y Paul Philippe cũng ra lệnh khởi kiện Marie-Dominique Philippe để lên án sự hướng dẫn thiêng liêng bị cho là quá thiên về Đức Mẹ và tình cảm trong nhiều tu viện”. Năm 1957, ông bị kết án vì lý do này, bị cấm giảng dạy và giải tội.

Hỗ trợ và phục hồi chức vụ

Tuy nhiên, bề trên Dòng hỗ trợ và dàn xếp để vô hình hóa kết quả vụ án bằng cách nhờ ông làm cố vấn đặc biệt, như thế giúp ông nhanh chóng phục hồi chức vụ, giảng dạy trở lại ở Saulchoir và Fribourg từ năm 1962. Ở Thụy Sĩ , ông thật sự tạo một hiện tượng với các sinh viên của ông, họ xin ông thành lập một học viện tôn giáo. Marthe Robin, “nhà thần bí Drôme”, người thân thiết với ông đã khuyến khích ông đi theo hướng này và như thế ông đã thành lập cộng đồng Thánh Gioan vào giữa những năm 1970.

Rất nhanh chóng, công việc của ông thành công rực rỡ, khơi dậy ơn gọi và lập các chi nhánh mới. Marie-Dominique Philippe rạng rỡ không ai so sánh được, được vinh danh là nhà sáng lập, người hướng dẫn thiêng liêng, là bề trên. Ông truyền bá quan điểm của ông về “tình yêu cho tình bạn”, tác giả Cavalin viết: “Quan điểm này cảm nghiệm theo Thánh Tôma được xem như một tình yêu thiêng liêng, là điều cần thiết để thiết lập các mối quan hệ với người khác.” Chính quan điểm này, theo như Marie-Dominique Philippe, mà một số anh em trong dòng áp dụng và ủng hộ “tình bạn” này thật mạnh, như một yếu tố thần bí cho phép họ thực hiện nhiều vụ lạm dụng tình dục như ngày nay chúng ta có thể chứng thực. Những việc của nhà sáng lập chỉ mới được bề trên cộng đoàn Thánh Gioan công khai tiết lộ lần đầu tiên năm 2013 dựa trên lời khai của các nạn nhân. Tuy nhiên, ngay từ những năm 1980 và 1990, các gia đình và cựu thành viên đã báo động về sự thiếu phân định trong cộng đoàn, và vào cuối những năm 1990 là việc sùng bái cá nhân người sáng lập và những lệch lạc tà phái.

Với quá trình của Thomas Philippe, việc phục hồi chậm hơn, vì hình phạt của ông nặng hơn và ít bí mật hơn.

Nhưng năm 1957, một tháng sau khi ông gởi đơn thỉnh cầu lên giáo hoàng Piô XII, ông được phép dâng thánh lễ lại trong một năm, phép tắc sẽ được liên tục gia hạn. Năm 1963, bề trên Dòng gửi ông về Pháp dưới sự giám sát của bề trên tỉnh dòng. Lúc đó là lúc dự án L’Arche thành hình với ông Jean Vanier để tiếp nhận người khuyết tật.

Khi cộng đoàn L’Arche thành lập năm 1964, Thomas Philippe đến đây làm tuyên úy với sự đồng ý của bề trên giám tỉnh và giám mục giáo phận Beauvais, một cách nhanh chóng và trong bí mật hoàn toàn, cộng đồng “các môn đệ” của cộng đoàn Nước Hằng Sống âm thầm tái tạo. Thomas Philippe, người tự cho mình là người nhỏ bé giữa những người nhỏ bé dần dần lấy lại được tin tưởng và quý trọng của Tỉnh dòng Pháp và của Dòng đến mức hồng y Paul Philippe của Thánh bộ Đức tin cảm thấy mình bị cô lập (ngài đã phạt ông năm 1956) khi một lần nữa ngài gióng lên tiếng chuông báo động và công bố một báo cáo nặng nề về mối quan hệ giữa anh em linh mục Philippe và những lệch lạc của họ. Năm 1968, Thomas Philippe được phép giải tội lại cho các ông. Năm 1970, giám mục Beauvais, khi phát hiện ra bản án năm 1956 cho rằng từ nay trở đi, việc cấm Thomas Philippe giải tội cho phụ nữ sẽ thành tai tiếng vì Dòng Đa Minh đã thành công khi khôi phục lại hoàn toàn hình ảnh của ông. Nên một lần nữa, ông được giải tội cho phụ nữ trong giáo phận Beauvais.

Cho đến khi ông qua đời năm 1993, ông không bao giờ có được sự khôi phục hoàn toàn và dứt khoát, nhưng dưới mắt đa số, ông ra đi trong sự thánh thiện. Cũng như người em của ông là  Marie-Dominique, tang lễ được hồng y Philippe Barbarin, tổng giám mục giáo phận Lyon, cử hành ngày 2 tháng 9 năm 2006 tại nhà thờ chính tòa Thánh Gioan, Lyon với sự hiện diện của ông Pascal Clément, bộ trưởng bộ Tư pháp, hồng y Quốc vụ khanh Angelo Sodano và sứ thần Tòa Thánh tại Pháp Fortunato Baldelli.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Sử gia Tangi Cavalin: “Anh em linh mục Philippe biết cách xây dựng lại bản thân dù đã bị lên án”

Trường hợp của ông Jean Vanier và anh em linh mục Philippe: gốc rễ của mù quáng

Ông Jean Vanier, hai linh mục Marie-Dominique Philippe và Thomas Philippe trong một lần gặp Đức Gioan-Phaolô II tại Vatican.

Và bỗng, cả sân vận động Kinshasa cùng đứng lên với giáo hoàng để chống tham nhũng ở Congo

Và bỗng, cả sân vận động Kinshasa cùng đứng lên với giáo hoàng để chống tham nhũng ở Congo

Hình ảnh Đức Phanxicô gặp các bạn trẻ và các giáo lý viên ở sân vận động Các Vị Tử đạo ở Kinshaha ngày thứ năm 2 tháng 2-2023. TIZIANA FABI | AFP

fr.aleteia.org, Hugues Lefèvre, Kinshaha, 2023-02-02

Cuộc gặp với các bạn trẻ và các giáo lý viên ở sân vận động Các Vị Tử đạo Kinshasa vào thứ năm 2 tháng 2 đã day lên làn sóng truyền điện. Khi ngài vừa lên án nạn tham nhũng ở Congo, ngài đã phải gián đoạn bài diễn văn trong giây lát khi các bài hát và khẩu hiệu của khoảng 65.000 người tham dự nhắm vào các chính trị gia.

“Tất cả chúng ta cùng nhau nói ‘Không tham nhũng!’”, bằng tiếng Pháp run run, ngài xin các bạn trẻ công khai cam kết chống lại tai họa đang tàn phá Cộng hòa Dân chủ Congo, một trong những quốc gia tham nhũng nhất thế giới theo xếp hạng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, một tổ chức phi chính phủ chống tham nhũng.

Trong bầu khí vốn đã căng thẳng, cả sân vận động bỗng rơi vào hỗn loạn. “Tobayi tham nhũng!” (Dùng tất cả khả năng của mình để chống tham nhũng), được hàng ngàn người Congo hô lên trước khi họ hát những bài hát chống tham nhũng, được giáo hoàng khuyến khích.

Một đám đông bùng cháy

Kanyaka erli kaka”, có nghĩa là “Tham nhũng vẫn tiếp diễn”, họ hát bằng tiếng Lingala, họ hát “Biso ba jeune, posa na insala te” – “Chúng tôi, những người trẻ, chúng tôi thất nghiệp”. Khi đó ngài nói: “Tôi thích bài hát này, các bạn thật dũng cảm” làm cho mức âm thanh trong sân vận động ầm ầm lên một bậc nữa.  Người phiên dịch giải thích với ngài đám đông đang nói về các đảng phái chính trị.

Cố gắng nắm lại bài diễn văn, nhưng cuối cùng Đức Phanxicô đã phải dừng lại và để đám đông bùng cháy thêm một lần nữa. Trên khán đài sân vận động, những khẩu hiệu trực tiếp cảnh báo Tổng thống Félix Tshisekedi. Theo một thành viên trong ban điều hành Vatican News, “Thưa ngài Tổng thống, ngài phải cẩn thận”.

Cảm thấy tình hình đang vuột khỏi tay và hiểu đám đông đang công kích chống lại các nhà lãnh đạo chính trị, vị giáo hoàng 86 tuổi cuối cùng đã ra hiệu cho ban tổ chức ngừng sự cuồng nhiệt. Và vì thế có thông báo kêu gọi đám đông bình tĩnh lại. Quá trình ngoài tưởng tượng diễn ra khoảng 5 phút tại sân vận động nơi có mặt thủ tướng Jean-Michel Sama Lukonde. Giáo hoàng đến nói chuyện với chúng tôi là điều tốt, nhưng trước hết giới tinh hoa nên lắng nghe ngài! Vài phút trước đó, cô Brenda, 27 tuổi, bực tức vì các chính phủ liên tiếp không thể mang lại tương lai cho những người trẻ tuổi, cô nói: “Giáo hoàng đến nói chuyện với chúng tôi là điều tốt, nhưng trước hết giới tinh hoa nên lắng nghe ngài!”.

Theo cô và các bạn của cô đến sân vận động các Vị Tử đạo để nghe Đức Phanxicô vì ngài là “phát ngôn viên cho chính nghĩa của những người trẻ ở Congo”. Cô nói: “Chỉ có ngài mới làm được vì không ai có thể làm hại ngài… Nếu chúng tôi biểu tình, cảnh sát sẽ bắn hơi cay… Tôi không muốn mạo hiểm mạng sống của mình.”

Ở đất nước có 2/3 dân số dưới 24 tuổi này, một số người trong số họ không còn ngần ngại khi nghĩ đến cuộc sống tha hương, như cô Louisine, 30 tuổi, mẹ của hai đứa con với người chồng thất nghiệp. “Thật khó để nuôi sống bản thân, nuôi dạy con cái… Làm sao chúng tôi có thể hình dung tương lai của chúng tôi ở đất nước từ chối chúng tôi?”

Tố cáo tham nhũng

Đứng trước sự bối rối của người trẻ, Đức Phanxicô kêu gọi họ đừng bỏ cuộc, tiếp tục chiến đấu để xây dựng một tương lai cho Congo. Ngài hỏi họ: “Bàn tay chúng ta dùng để làm gì? Xây dựng hay phá hoại, cho đi hay thâu tóm, yêu thương hay hận thù” Ngài đưa ra năm trục chính của ẩn dụ về năm ngón tay: cầu nguyện, cộng đồng, trung thực, tha thứ và phục vụ.

Lời kêu gọi mạnh mẽ nhất của ngài là lên án nặng nề nạn tham nhũng trong nước, mà theo ngài đây là căn bệnh ung thư. Ngài bực mình: “Không trung thực, chúng ta không phải là môn đệ hay chứng nhân của Chúa Giêsu; chúng ta là lương dân, những kẻ thờ ngẫu tượng, thờ bản thân thay vì thờ Chúa, là những kẻ lợi dụng người khác thay vì phục vụ người khác”.

Biểu hiệu của nắm ngón tay

Ngài triển khai biểu hiệu của năm ngón tay:

Chúa đã đặt món quà sự sống vào tay các con. Từ bàn tay các con sẽ nảy sinh ra ngày mai, sẽ có thể  mang lại hòa bình mà đất nước các con thiếu. Cha muốn cho các con một số “nguyên liệu cho tương lai”: năm nguyên liệu mà chúng con có thể liên kết với các ngón của một bàn tay.

Ngón út là ngón nhỏ nhất, nhưng chính việc trở nên nhỏ bé đã thu hút Thiên Chúa. Ai phục vụ thì trở nên bé nhỏ.

Ngón trỏ là ngón chúng ta dùng để nói điều gì đó với người khác, tương ứng với cộng đồng. Không gì và không ai có thể thay thế được sức mạnh của toàn thể, ánh sáng của đôi mắt, niềm vui của chia sẻ! Ngón giữa cao hơn các ngón khác nhắc nhở chúng ta về điều thiết yếu: sự trung thực. Trung thực có nghĩa là không vướng vào cạm bẫy của tham nhũng.

Ngón thứ tư là ngón đeo nhẫn, chúng ta mang nhẫn giao ước. Đó cũng là ngón yếu nhất, nhắc chúng ta nhớ những thành tựu to lớn trong cuộc sống trên hết là tình yêu, đều phải trải qua mong manh và thử thách. Nhưng sức mạnh giúp chúng ta tiếp tục, đó là tha thứ.

Ngón cái là ngón gần trái tim nhất, tương ứng với lời cầu nguyện làm nhịp đập cho đời sống. Mỗi ngày các con hãy giơ tay lên Chúa để ngợi khen và chúc tụng Ngài; kêu cầu đến Ngài cho những hy vọng trong lòng các con.

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Đức Phanxicô nói với các bạn trẻ ở Congo: hãy dũng cảm chống tham nhũng

 Video buổi gặp các người trẻ và giáo lý viên tại sân vận động các Vị Tử đạo sáng thứ năm 2 tháng 2-2023

Đức Phanxicô nói với các bạn trẻ ở Congo: hãy dũng cảm chống tham nhũng

Đức Phanxicô nói với các bạn trẻ ở Congo: hãy dũng cảm chống tham nhũng

Sáng thứ năm 2 tháng 2, tại sân vận động các Vị Tử đạo ở Kinshaha, Đức Phanxicô gặp các bạn trẻ Congo, ngài mời gọi họ thay đổi vận mệnh của đất nước họ, đấu tranh chống tham nhũng, một số thanh niên đã hô lời kêu gọi phản đối tổng thống Congo, Felix Tshisekedi.

Khoảng 65.000 bạn trẻ và giáo lý viên đã đến sân vận động từ 4 giờ sáng để chờ gặp Đức Phanxicô lúc 9h30 sáng tại sân vận động.

la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Kinshasa, Cộng hòa Dân chủ Congo, 2023-02-02

“Giáo lý? Đó là chuyện của tôi! Giáo hội công giáo? Đó là chuyện của tôi !” Dưới ánh nắng chói chang phủ xuống sân vận động, đám đông đang la hét. Hai giờ nữa Đức Phanxicô mới đến nhưng khán đài đã chật cứng, dù nóng, dù đám mây ô nhiễm bao quanh sân vận động!

Từ 4 giờ sáng các bạn trẻ đã đến sân vận động, tuổi trung bình ở Congo là khoảng 18 tuổi. Trên khán đài, các bạn trẻ ca hát, nhảy múa, tay cầm cờ phất theo nhịp của hệ thống âm thanh đinh tai nhức óc.

Khi ngài đến, ngài đi một vòng sân vận động trong vòng 10 phút, ngài nhận sự chào đón trang nghiêm của một ngôi sao nhạc rock, trong bầu khí phấn khích. Trên cầu thang dẫn lên khán đài, mọi người chen lấn để vào bên trong, đã có một vài xô xát xảy ra. Cô Nathalie, 33 tuổi và con trai Yannis đến gặp Đức Phanxicô hôm nay là lần thứ hai, hôm qua cô đã dự thánh lễ khổng lồ ở sân bay Ndolo.

“Giáo hoàng này hơi đặc biệt”

Đứa con trai 7 tuổi của cô nhìn Đức Phanxicô trên màn hình kênh KTO, em nói: “Ngài là người da trắng.” Cô Nathalie nói: “Giáo hoàng này hơi đặc biệt. Nhìn ngài như được ơn phước.” Cô cũng thấy ngài có thể mang lại hòa bình cho đất nước.

Đức Phanxicô đưa ra cho giới trẻ Congo “năm lời khuyên để thiết lập các ưu tiên mà không chạy theo làn gió của chủ nghĩa cơ hội”.

Nhiều bạn trẻ sáng nay hy vọng chuyến đi của Đức Phanxicô sẽ là bước ngoặt trong việc xoa dịu bạo lực, đặc biệt là ở miền đông đất nước. Kể từ khi bắt đầu chuyến đi của Đức Phanxicô, căng thẳng giữa quân nổi dậy và quân đội chính quy ở miền đông đất nước luôn ở trong tâm trí người dân. Cô Keenan, 23 tuổi, sinh viên ở Kinshasa, cô người gốc miền đông, nơi dì của cô bị sát hại vài tuần trước, cô nói: “Ông biết đó, bên ngoài chúng tôi trông hạnh phúc như vậy, nhưng trong lòng chúng tôi rất đau khổ.”

Ngài có thể “thay đổi, ngài như nhà tiên tri, một cái gì đó cho đất nước”

Dù cô gái trẻ theo Giáo hội Ngũ tuần, nhưng cô thấy giáo hoàng là người có thể “thay đổi, ngài như nhà tiên tri, một cái gì đó cho đất nước”. Ông Pierre, 37 tuổi, cũng ấn tượng với nhân cách của Đức Phanxicô: “Khi ngài được bầu làm giáo hoàng, cử chỉ đầu tiên của ngài là xin chúng tôi cầu nguyện cho ngài, để ngài có thể hoàn thành sứ mệnh. Thông thường là ngược lại, chính giáo hoàng là người ban phép lành cho mọi người. Và đó là nguồn gốc của một sự đơn giản rất mạnh, đối với người có quyền lực.”

Cũng giáo hoàng giản dị này, ngài đã đặt nhiều hy vọng nơi giới trẻ, ngài gởi cho Nathalie, Keenan, Pierre và các bạn trẻ khác một yêu cầu làm cho họ ngạc nhiên. Ngài nói: “Bây giờ tôi xin các bạn, trong một lúc, xin các bạn đừng nhìn tôi, nhưng nhìn vào tay của các bạn. Tất cả các bàn tay trông giống nhau, nhưng không bàn tay nào giống bàn tay nào, không ai có bàn tay giống bạn”, cả sân vận động giơ tay lên trời. Ngài mời họ ngẫm nghĩ: “Tay tôi để làm gì? Xây dựng hay phá hủy, cho đi hay thâu tóm, yêu thương hay hận thù?”

Lời kêu gọi chống tham nhũng của Đức Phanxicô

Như bài giảng thánh lễ hôm qua ở sân bay Ndolo, hôm nay ngài kêu gọi người trẻ Congo chống lại cám dỗ của “chủ nghĩa vùng muền và bộ lạc”, xin họ yêu quý cộng đồng hơn. Trước khi đưa ra lời yêu cầu khác, ngài xin mọi người nắm tay nhau: “Xin các bạn nắm tay người bên cạnh trong giây lát.”

Ngài tiếp tục: “Hãy cảm thấy bạn là một Giáo hội, một Dân tộc. Cảm thấy an sinh của bạn tùy thuộc vào an sinh của người khác và nó được nhân lên bởi toàn bộ. Cảm thấy mình được anh chị em mình bảo vệ, được chấp nhận và muốn chăm sóc mình. Và cảm thấy có trách nhiệm với người khác.”

Trước sự cổ vũ của đám đông, những tràng vỗ tay và tiếng kêu liên tục, Đức Phanxicô có vẻ phấn khích và mạnh lên vì đã từ một thời gian lâu ngài đã không xuất hiện, bất chấp cái nóng và mệt mỏi. Tung ra một cách ngẫu hứng, ngài thách thức những người trẻ khi nhắc họ quyền lực và tham nhũng không bao giờ tương thích nhau.

“Có những người dũng cảm, thông minh và có những người tham nhũng. Một người tham nhũng, họ có trung thực hay không trung thực?”, ngài đặt câu hỏi. Và ngài hỏi họ bằng tiếng Pháp: “Tôi xin các bạn!” Và đám đông làm cử chỉ bằng cánh tay để nói “không”. Sau đó, ngài tiếp tục: “Cùng nhau, chúng ta nói: ‘không’ với tham nhũng!” Một lời kêu gọi được cả sân vận động đáp lại bằng tiếng lingala để chống lại tổng thống Felix Tshisekedi, người sẽ hết hạn nhiệm kỳ vào tháng 12: “Fatshi yebela mandat esili”. (Felix Tshisekedi, chuẩn bị sẵn sàng, nhiệm kỳ của ông đã kết thúc”) Trước khi truyền hình quốc gia cắt âm thanh và làm mờ hình ảnh trong giây lát.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Và bỗng, cả sân vận động Kinshasa cùng đứng lên với giáo hoàng để chống tham nhũng ở Congo

Video ngày thứ ba Đức Phanxicô đến Congo:

Dâng thánh lễ theo nghi thức zaïrois của giáo hoàng, mô hình thích nghi của phụng vụ Rôma với văn hóa địa phương

Dâng thánh lễ theo nghi thức zaïrois của giáo hoàng, mô hình thích nghi của phụng vụ Rôma với văn hóa địa phương

Chúa nhật 3 tháng 7-2020, Đức Phanxicô cử hành thánh lễ theo “nghi thức zarois” tại Đền thờ Thánh Phêrô với các linh mục Congo. Đây là hình thức duy nhất của nghi thức Rôma thích ứng với văn hóa địa phương, vì tôn trọng cả truyền thống thánh lễ Rôma và Congo.

lavie.fr, Caroline Celle, 2022-07-07

Hôm nay Đền thờ Thánh Phêrô trang nghiêm mang khung cảnh rực rỡ với màu sắc và niềm vui. Ngồi mỉm cười, Đức Phanxicô chào đoàn rước Congo trong y phục truyền thống, vừa đi vừa nhảy múa dâng lễ vật trước bàn thờ.

Những hình ảnh lạ lùng này là theo nghi thức thánh lễ của “Sách lễ Rôma cho các giáo phận Zaïre” còn được gọi là “Nghi thức zaïrois” vì phụng vụ được điều chỉnh để phù hợp với văn hóa của đất nước. Một thánh lễ như vậy chỉ diễn ra một lần trong lịch sử của Đền thờ Thánh Phêrô năm 2019.

Tháng 7 năm 2022, bị buộc phải hủy chuyến tông du Cộng hòa Dân chủ Congo vì lý do sức khỏe, Đức Phanxicô đã cử hành một thánh lễ rất đặc biệt. “Nghi thức zaïrois” trên thực tế là nghi thức duy nhất được Tòa thánh chấp thuận, như một thể loại khác của nghi thức rôma. Linh mục tuyên úy người Congo ở Paris, cha Noël Mpati đã đi Rôma để dự thánh lễ này, cha chỉ đứng cách Đức Phanxicô mười mét, cha nói: “Khi tôi đứng trước bàn thờ với khoảng ba mươi linh mục của nghi lễ zạroi. Khi bước vào Đền thờ Thánh Phêrô, tôi vô cùng xúc động vì chúng tôi thực sự ở trọng tâm của Giáo Hội Mẹ!”

Một công việc lâu dài

Thánh lễ châu Phi được cử hành tại Vatican đã làm nhiều người ngạc nhiên vì ca hát nhảy múa theo nhịp trống là điều không bình thường ở đây và cũng không phải là một phần của phụng vụ phương Tây. Tuy nhiên, nghi thức zaïrois (từ Zaïre, tên của Cộng hòa Congo cũ) hoàn toàn phù hợp với phụng vụ của Giáo hội, và tiêu biểu cho một mô hình hội nhập văn hóa. Thuật ngữ kitô giáo và truyền giáo này có nghĩa là Tin Mừng thích ứng với văn hóa của các quốc gia địa phương.

Nỗ lực thích ứng đòi hỏi hàng chục năm làm việc giữa các giám mục Congo và Tòa Thánh. Thực sự là từ Công đồng Vatican II, với hiến chế Sacrosanctum concilium, các giáo hội của mỗi quốc gia đã có thể bỏ thánh lễ tiếng la-tinh và cử hành thánh lễ bằng ngôn ngữ bản địa.

Cha Noël Mpati nhắc lại: “Ở châu Phi, chỉ những người trí thức mới hiểu được thánh lễ la-tinh. Vì thế, các giám mục Congo đã tận dụng Công đồng Vatican II để tạo một phụng vụ sống động và ý nghĩa cho giáo dân. Họ đưa ra các đề xuất với bộ Phụng tự Rôma, bộ đã xem xét và sửa chữa bản thảo của họ trong những năm 1970, trước giai đoạn thử nghiệm kéo dài một thập kỷ tại các giáo hội địa phương.”

Năm 1988, nghi thức zaïrois được Tòa Thánh chính thức phê chuẩn vì dựa trên Sách Lễ Rôma. Giáo dân ngày nay cử hành cùng những lời cầu nguyện, cùng một Bí tích Thánh Thể và có cùng một lịch như Nghi lễ Rôma.

Giơ tay lên trời

Họ là một phần không thể thiếu của Giáo hội la-mã và xem giáo hoàng là “người đứng đầu” Giáo hội, nghĩa là người bảo vệ cho tất cả người công giáo. Chức năng bảo vệ này phản ánh lại hình ảnh các nhà lãnh đạo truyền thống châu Phi, đại diện của các cộng đồng lãnh thổ có quyền lực dựa trên uy tín và thiêng liêng. Trang phục của các linh mục theo nghi thức zạroi, qua các trang sức cũng biểu tượng cho “quyền thủ lãnh” của Chúa Kitô.

Với mong muốn thích ứng phụng vụ la-mã và với văn hóa địa phương, các thánh lễ Congo rất năng đông, với một công chúng rất ủng hộ, họ ca hát và nhảy múa trên băng ghế nhà thờ. Khi bắt đầu thánh lễ, linh mục cầu nguyện với các thánh và tổ tiên, và các nhạc cụ địa phương như trống thay cho đàn organ. Linh mục Noël Mpati, giáo xứ Thánh Bênađô của người Congo ở Paris, giải thích: “Đôi khi giáo dân Pháp đến dự thánh lễ của chúng tôi, họ bị sốc vì tiếng ồn và những trao đổi sôi nổi xung quanh họ. Họ là những người duy nhất vỗ tay khi kết thúc bài hát vì họ xem bài hát là bài trình diễn, nhưng với chúng tôi, đây chỉ là đơn thuần tham gia vào phụng vụ. Thật vậy, chúng tôi cử hành như Thánh vịnh nói: bằng cách vỗ tay, và giơ tay lên trời.”

Trong cộng đồng công giáo Congo, các vấn đề khác về phụng vụ vẫn còn đang được thảo luận như việc điều chỉnh bánh và rượu của bí tích Thánh Thể sao cho phù hợp với văn hóa địa phương. Vì thế việc dùng hạt kê thay cho lúa mì sẽ giúp tránh được vấn đề cung cấp trong các giáo xứ, vì loại ngũ cốc này được trồng nhiều ở châu Phi.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Nghi thức zaïrois, mô hình phụng vụ độc đáo thích ứng với văn hóa châu Phi

Nghi thức zaïrois, mô hình phụng vụ độc đáo thích ứng với văn hóa châu Phi

Nghi thức zaïrois, mô hình phụng vụ độc đáo thích ứng với văn hóa châu Phi

Hình ảnh thánh lễ theo nghi thức zaïrois tháng 12 năm 2019 tại Vatican

fr.aleteia.org, I.Media, 2023-01-30

Ngày thứ tư 1 tháng 2, Đức Phanxicô sẽ cử hành thánh lễ tại sân bay Ndolo của thủ đô Kinshasa, Cộng hòa Dân chủ Congo và sẽ phối hợp với các yếu tố của nghi thức zaïrois.

Phụng vụ này có được là nhờ Công đồng Vatican II. Việc xây dựng nghi thức này đòi hỏi gần hai thập kỷ làm việc và đối thoại giữa Rôma và tòa giám mục zaïrois. Nếu có một số đặc thù còn tồn tại ở một số giáo phận có truyền thống lâu đời như nghi thức Ambrosian ở Milan, thì bây giờ nghi thức zaïrois đại diện cho một trường hợp độc đáo về hội nhập văn hóa của phụng vụ công giáo trên quy mô quốc gia.

Các giai điệu của nghi thức này, lồng ghép các yếu tố đặc trưng của văn hóa châu Phi vào phụng vụ công giáo la-mã  đã vang lên hai lần dưới mái vòm của Đền thờ Thánh Phêrô ngày 1 tháng 12 năm 2019 và gần đây hơn, ngày 3 tháng 7 năm 2022, trong một thánh lễ được cử hành trước cộng đồng người Congo ở Rôma, để bù đắp cho chuyến tông du của Đức Phanxicô đến Congo bị hoãn lại vì lý do sức khỏe của ngài.

Thánh lễ theo nghi thức zaïrois ngày 3 tháng 7 năm 2022, tại Đền thờ Thánh Phêrô

“Hội nhập văn hóa Phụng vụ”

Tổng giám mục Vittorio Francesco Viola, thư ký Thánh Bộ Phụng tự nhắc lại mối liên hệ thường được Đức Phanxicô nhắc đến giữa “sự dấn thân cho việc tân phúc âm hóa” và “sự hội nhập văn hóa của phụng vụ”. Ngày 20 tháng 6-2022, ngài đã lên tiếng trong một hội nghị giới thiệu ấn bản tiếng Pháp quyển sách của nữ tu Rita Mboshu Kongo, Đức Phanxicô và Sách lễ Rôma cho các giáo phận Zaïre được nhà xuất bản Vatican phát hành.

Tổng giám mục Vilola, tu sĩ dòng Phanxicô người Ý giải thích: “Dù hoàn toàn theo thánh lễ Rôma, nhưng Sách lễ này mô tả những thích nghi đặc biệt: tưởng nhớ tổ tiên khi bắt đầu cử hành, sám hối sau bài giảng, nghi thức chúc bình an sau hành vi sám hối”.

Trong một thư gởi nhân dịp giới thiệu sách, Đức Phanxicô mô tả nghi thức zaïrois, còn được gọi là “nghi thức Congo”, là “mẫu mực cho các Giáo hội khác trong việc tìm kiếm một cách cử hành phụng vụ thích hợp để mang lại sự chín muồi của thành quả phúc âm hóa các nền văn hóa và hội nhập văn hóa của Phúc Âm”.

Tiếng vang đến tận Amazon

Tổng giám mục Viola nhắc lại: “Nghi thức zaïrois gợi ý cho ý tưởng về một nghi thức dành riêng cho Amazon, chủ đề được đưa ra trong Thượng Hội đồng Giám mục năm 2019 để tìm một phụng vụ có thể đáp ứng cho nỗ lực hội nhập văn hóa của các dân tộc bản địa.”

Ngài xác định hội nhập văn hóa là “biên giới mới” của cuộc cải cách phụng vụ do Công đồng gây ra. Trong Công đồng Vatican II, trên thực tế Hiến chế Sacrosanctum concilium đã mở ra khả năng thích ứng phụng vụ với các nền văn hóa địa phương, bằng cách xác định Giáo hội “không muốn, ngay cả trong phụng vụ, áp đặt hình thức cứng nhắc của một nghi thức duy nhất: nhưng ngược lại, Giáo hội vun trồng phẩm chất và năng khiếu của nhiều dân tộc khác nhau”.

Với điều kiện là sự thống nhất của nghi thức la-mã phải được bảo vệ, những khác biệt hợp pháp và sự thích ứng với sự đa dạng của các hội đồng sẽ được thừa nhận.

Các nghị phụ công đồng trong văn bản được đa số công nhận, 2.158 phiếu thuận trên 19 phiếu chống ghi rõ: “Với điều kiện là sự thống nhất của nghi thức la-mã phải được bảo vệ, những khác biệt hợp pháp và sự thích ứng với sự đa dạng của các hội đồng, các vùng, các dân tộc, đặc biệt là trong các cơ quan truyền giáo sẽ được thừa nhận, ngay cả khi các sách phụng vụ sẽ được xem lại.”

Hiện tại, nghi thức zaïrois vẫn là minh họa cụ thể duy nhất được áp dụng cho việc hội nhập văn hóa phụng vụ có thể thực hiện được. Tổng giám mục ghi nhận, nghi thức Amazon vẫn còn “trên biển cả” cho biết hành động cụ thể cho đến nay là thành lập một ủy ban để phản ánh tính khả thi của một tiến trình như vậy.

Hiệp thông với Rôma để không trở thành tà phái

Trong những năm sôi sục về mặt tri thức và phụng vụ sau Công đồng Vatican II, các giám mục Congo quan tâm đến việc hiệp thông trọn vẹn với giáo hoàng: “Là người công giáo, việc tôn thờ Thánh Thể mà chúng tôi cử hành theo nghi thức zaïrois phải biện minh cho nguồn gốc tông đồ của nó. Nếu không, chúng tôi sẽ trở thành tà phái.”

Vì thế bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích đã và vẫn đóng vai trò trung tâm trong việc hỗ trợ những nỗ lực này. Từ năm 1969 đến năm 1988, hồng y Joseph-Albert Malula (1917-1989), tổng giám mục giáo phận Kinshasa trong 25 năm đã hướng dẫn đối thoại thường xuyên và mạnh mẽ. Ngài là nhân vật trung tâm của Giáo hội hậu thuộc địa ở Châu Phi được Đức Gioan XXIII bổ nhiệm làm thành viên của ủy ban phụng vụ chuẩn bị cho Công đồng Vatican II, và sau đó cùng với các đồng nghiệp người Congo của mình xác định một phương pháp để “tìm một khuôn khổ Châu Phi và zaïrois” trong Công đồng Vatican II theo Sách Lễ Rôma do Đức Phaolô VI phát hành.

Nghi thức này đã phát triển, giống như cơ thể con người sinh ra và cần phát triển

Một công việc chậm chạp kéo dài gần hai thập kỷ đã được triển khai theo yêu cầu của giám mục địa phương năm 1969, và năm 1988 Sách lễ Rôma cho các giáo phận Zaïre mới được chấp nhận. Các thánh bộ Phụng tự và Giáo lý Đức tin đã đặc biệt nghiên cứu các cử hành tiến hành theo thử nghiệm, ad experimentum. Vào những năm 1980, chính hồng y Joseph Ratzinger đã đến tại chỗ để quan sát việc áp dụng phụng vụ này và đưa ra những nhận xét của mình.

Trong nghiên cứu của sơ thần học gia Rita Mboshu Kongo, sơ cho thấy “việc tiếp nhận và thích nghi phụng vụ công đồng ở Congo với một số người là “hiếu kỳ” và theo một số người khác, là “lý do để thức tỉnh”. Nghi thức zaïrois thực sự đã bị lãng quên ở một số giáo xứ và một số giáo phận, đặc biệt là vì sự phức tạp về sắc tộc và ngôn ngữ của đất nước rộng lớn này.

Sơ Rita nói thêm: “Nghi thức này đã phát triển, giống như  cơ thể con người được sinh ra và cần phát triển, chính đặc điểm tiến hóa này đã làm chúng ta nghiên cứu lịch sử, để hiểu đó không phải là công việc thử nghiệm của truyền giáo lần thứ hai cho Congo.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Nghi thức zaïrois, một cách cử hành khác của thánh lễ công giáo

Bốn thách thức trong chuyến tông du châu Phi của Đức Phanxicô

Hình ảnh thánh lễ Đức Phanxicô dâng theo nghi thức zaïrois tại sân bay Ndolo, Kinshaha ngày thứ tư 1 tháng 2-2023

Nghi thức zaïrois, một cách cử hành khác của thánh lễ công giáo

Nghi thức zaïrois, một cách cử hành khác của thánh lễ công giáo

Ngày thứ tư 1 tháng 2, trước hơn một triệu giáo dân, Đức Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại Kinshasa theo sách lễ Rôma cho các giáo phận Zaire hay còn gọi là nghi thức zaïrois. Nghi thức này, vốn không dành riêng cho Giáo hội Cộng hòa Dân chủ Congo, nhưng dành cho Đức Phanxicô như một mô hình hội nhập văn hóa, được chấp thuận ở dạng hiện tại vào năm 1988.

la-croix.com, Arnaud Alibert, 2023-02-01

Với Đức Phanxicô, đây không phải là lần đầu tiên; tháng 7 năm 2022 và tháng 12 năm 2019, ngài đã cử hành nghi thức này ở Đền thờ Thánh Phêrô trong thánh lễ dành riêng cho cộng đồng Congo. Nghi thức này không dành riêng cho Giáo hội Congo và có thể được sử dụng ở các quốc gia khác.

Thánh lễ theo nghi thức zaïrois ngày 3 tháng 7 năm 2022, tại Đền thờ Thánh Phêrô

Một nghi thức công giáo và châu Phi

Nghi thức châu Phi này có mục đích phục vụ phụng vụ phù hợp với các điểm quan trọng nhân học và tâm linh đặc trưng của lục địa. Trong một video năm 2020, Đức Phanxicô cho biết, nghi thức này “đánh giá cao các ngôn ngữ, màu sắc, chuyển động khác nhau của cơ thể, tương tác qua các chiều kích nhân cách của tín hữu, nêu cao giá trị cụ thể của mỗi người.”

Khiêu vũ và các bài hát

Chẳng hạn, nghi thức đưa vào thánh lễ lời cầu nguyện cho tổ tiên “có lòng chính trực”, họ đã sống trước khi truyền bá phúc âm hóa. Đâp vào mắt người phương Tây là phần khiêu vũ, họ dùng các giai điệu truyền thống.

Khiêu vũ, một yếu tố thiết yếu trong văn hóa châu Phi, tự phát tìm thấy vị trí của nó ở đây, từ khi bắt đầu dâng thánh lễ, đoàn rước đi vào nhà thờ rất nhịp nhàng. Sau đó, đoàn rước ở chung quanh bàn thờ hát kinh Gloria. Khác với điệu nhảy dân gian như người phương Tây hình dung, đây là tôn vinh sự hiện diện của Chúa Kitô trong cộng đồng mà bàn thờ là biểu tượng.

Sau đó, điệu múa trở lại khi dâng lễ vật, giáo dân thể hiện niềm vui qua bài hát và vỗ tay, với các động tác toàn thân. Kinh Sanctus cũng sẽ được hát và nhảy.

Lời Chúa tác động

Lời Chúa trong văn hóa Congo là tiếng vang được tìm thấy trong sự sắp xếp thánh lễ. Kinh Cáo mình ở đầu trong sách lễ Rôma nhưng trong nghi thức zaïrois thì ở sau phần phụng vụ Lời Chúa, sau kinh Tin Kính.

Đặc điểm này nhấn mạnh đến việc thực hiện Lời Cứu Độ được công bố và bình luận: thời điểm của Lời chuẩn bị tâm hồn người tín hữu đón nhận lòng thương xót của Chúa. Kinh Cáo mình kết thúc với nghi thức rảy nước nhắc lại đời sống mới được khai mở nhờ phép rửa tội.

Đến phần trao bình an, giải hòa với Chúa, giáo dân hướng về nhau để chúc bình an đã nhận được từ Chúa. Trình tự này kết thúc bằng lời cầu nguyện giáo dân, qua đó giáo dân phó thác Giáo hội và thế giới cho Thiên Chúa trong lời cầu nguyện.

Nói về cấu trúc thánh lễ, việc cử hành theo Sách lễ này tuân theo hai phần chính: phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ  Thánh Thể. Nhưng cũng có nhiều điểm đặc biệt: lời khẩn cầu tổ tiên ngay từ đầu, giáo dân ngồi khi đọc Phúc âm, sự hiện diện của các “nkumu” người loan báo và nhiều chuyện khác. Làm thế nào để giải thích cấu trúc này và tất cả những đặc điểm này?

Nghi thức này thực chất nằm trong khuôn khổ thánh lễ Rôma, với hai phần chính là Lời Chúa và Thánh Thể. Nhưng nó cũng có một số đặc thù sau: đoàn rước đi vào với các bài hát và vỗ tay theo nhịp bài hát, lời khấn tổ tiên, bài hát tôn vinh với vũ điệu quanh bàn thờ để diễn tả Chúa Kitô là Đấng đại diện qua bàn thờ, viên đá sống duy trì sự cân bằng trong cuộc sống và trong xã hội của chúng ta, việc loan báo Tin Mừng bằng cuộc rước để chào đón Chúa Kitô đang nói. Chúng ta nghe Tin Mừng khi ngồi là dấu hiệu của sự kính trọng và tôn kính Chúa Kitô đang nói. Chỉ sau khi giảng mới đọc kinh Kyrie: quan điểm cho rằng có thể hoán cải sau khi lắng nghe Lời Chúa, ánh sáng soi cho chúng ta thấy điều gì phải sửa để tìm được bình an với Chúa và với cộng đoàn.

Cử chỉ ban bình an sau kinh Kyrie. Một bài hát vì hòa bình được hát lên. Trong phần thứ hai, kinh tung hô và tiền tụng được hát theo các giai điệu du dương của tâm hồn người châu Phi. Các “nkumu” là những thừa tác viên, biểu tượng của sự khôn ngoan, những người lớn tuổi của những người xung quanh linh mục.

Sách lễ Rôma làm nền

Sau đó là phụng vụ theo sách lễ Rôma, ngoại trừ cử chỉ chúc bình an, đã được cử hành, không được lập lại sau kinh Lạy Cha. Vì thế cuối cùng sách lễ Congo vẫn rất gần với sách lễ Rôma.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Nghi thức  zaïrois, mô hình phụng vụ độc đáo thích ứng với văn hóa châu Phi

Hình ảnh thánh lễ Đức Phanxicô dâng theo nghi thức zaïrois tại sân bay Ndolo, Kinshaha ngày thứ tư 1 tháng 2-2023

Các câu trên Instagram của Đức Phanxicô tháng 1-2023  

Các câu trên Instagram của Đức Phanxicô tháng 1-2023

Congo và châu Phi xứng đáng được tôn trọng và lắng nghe, xứng đáng có nơi chốn và được quan tâm. Phải chấm dứt làm châu Phi ngột ngạt: châu Phi không phải là mỏ khai thác cũng không phải là vùng đất để cướp bóc. Ước mong châu Phi là nhân vật chính cho số phận của mình! Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 31 tháng 1-2023

Chúng ta cùng cầu nguyện để khi đặt sự hiệp thông giữa con người và hiệp thông Giáo hội làm trọng tâm đời sống, các giáo xứ ngày càng trở nên những cộng đồng đức tin, tình huynh đệ và đón nhận những người cùng khổ nhất. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 30 tháng 1-2023

Những người “có tinh thần khó nghèo” là những người biết họ không thể dựa vào chính họ, họ không tự đủ. Họ cảm thấy mình phải cần đến Chúa và nhận ra mọi điều tốt lành đến từ Ngài, như một món quà, như một ơn. Phúc âm hôm nay (Mt 5, 1-12) Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 29 tháng 1-2023

Anh chị em đừng quên: Thiên Chúa quên hết mọi sự. Vì sao? Vì Ngài quên tất cả tội lỗi của chúng ta, Ngài không nhớ. Chúa tha thứ mọi sự vì Ngài quên tội chúng ta. Chúng ta chỉ cần đến gần Chúa và Ngài tha cho chúng ta mọi sự. Chúng ta hãy nghĩ đến câu chuyện trong Tin Mừng, về người đã nói: “Thưa cha, con đã phạm tội!”. Đứa con trai đó… Và người cha lấy tay bịt miệng con. “Không, không sao đâu, không có gì…” Và không để người con nói hết… Và điều này thật đẹp. Chúa Giêsu chờ để tha thứ cho chúng ta, để chữa lành chúng ta. Và bao nhiêu? Một lần? Hai lần? Không. Không bao giờ có số lần. “Nhưng, thưa Cha, con luôn phạm những tội giống nhau…”. Và Ngài sẽ luôn làm những việc của Ngài: tha thứ cho chúng ta, ôm chúng ta. Xin anh chị em đừng nghi ngờ điều này. Đó là cách chúng ta yêu Chúa. Những người mang gánh nặng, cần được vuốt ve, cần được tha thứ, anh chị em hãy biết, Chúa Giêsu cũng cần. Và đây là điều Chúa Giêsu đưa ra: giải thoát linh hồn khỏi mọi nợ nần. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 25 tháng 1-2023

Sự hoán cải đại kết của chúng ta phát triển đến mức chúng ta nhận ra mình cần ân sủng của Thiên Chúa, cần lòng thương xót của Ngài. Khi nhận ra chúng ta lệ thuộc Ngài mọi sự, với sự trợ giúp của Ngài, chúng ta sẽ thực sự cảm thấy nên “một” (Ga 17:21) Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 25 tháng 1-2023

Lời Chúa dành cho mọi người, Lời Chúa mời gọi chúng ta hoán cải, Lời Chúa làm chúng ta thành người đi loan báo. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 22 tháng 1-2023

Chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta trái tim mục tử, biết đau khổ và mạo hiểm để làm chứng nhân. Mang Lời Chúa đến cho những người được giao phó cho chúng ta chăm sóc và cho những ai chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống hàng ngày, không chỉ là vinh dự mà còn là bổn phận. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 18 tháng 1-2023

Thánh Gioan Tẩy Giả đưa các môn đệ theo chân Chúa Giêsu. Ngài không quan tâm đến việc có môn đệ đi theo ngài. Ngài làm chứng rồi rút lui để nhiều người có được niềm vui gặp Chúa Giêsu. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 15 tháng 1-2023.

Bây giờ tôi dành vài phút thinh lặng trước ảnh Đức Mẹ của Giáo dân được tôn kính ở Belarus, để cầu nguyện cho đất nước thân yêu này và cho hòa bình. Tôi xin anh chị em hiệp lòng với tôi trong lời cầu nguyện này. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 11 tháng 1-2023

Chúng ta cùng cầu nguyện để các nhà giáo là những nhân chứng tin cậy, dạy về tình huynh đệ hơn là cạnh tranh, và đặc biệt giúp đỡ những người trẻ dễ bị tổn thương nhất. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 10 tháng 1-2023 #IntentiondePrière #ClickToPray

Xin anh chị em dạy các con cầu nguyện từ khi còn nhỏ, vì lời cầu nguyện sẽ mang lại sức mạnh cho các con trong suốt cuộc đời: lúc thuận lợi tạ ơn Chúa, lúc khó khăn tìm được sức mạnh. Cầu nguyện: đó là điều đầu tiên anh chị em dạy các con. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 8 tháng 1-2023

Các đạo sĩ theo ngôi sao lên đường, các ngài dạy chúng ta, đức tin là câu chuyện của những cuộc lên đường và tiếp tục lên đường. Đức tin không phát triển nếu đức tin tĩnh. Chúng ta cần mang đức tin ra ngoài để sống đức tin trong một hành trình không ngừng hướng về Thiên Chúa và anh chị em chúng ta. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 6 tháng 1-2023

Bênêđictô, người bạn trung thành của Phu quân, ước gì niềm vui của cha được trọn vẹn khi nghe tiếng của Phu quân, luôn mãi và vĩnh viễn. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 5 tháng 1-2023

Phân định là một nghệ thuật có thể học được và có những quy tắc riêng. Chúng ta xin Chúa Thánh Thần đặt trên con đường chúng ta những người có thể đồng hành với chúng ta trên hành trình đến với Thiên Chúa.

Tình mẫu tử thiêng liêng của Đức Maria là cách cho thấy Thiên Chúa hết sức tôn trọng tự do của chúng ta. Ngài có thể xuống thế gian bằng ngàn cách để thể hiện quyền năng, nhưng Ngài muốn được thụ thai hoàn toàn tự do trong lòng Mẹ Maria. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 1 tháng 1-2023

Bài giảng có nhất thiết phải ngắn gọn không?  

Bài giảng có nhất thiết phải ngắn gọn không?

Đức Phanxicô trong một thánh lễ ở nhà nguyện Thánh Marta

Ý kiến của linh mục dòng Đa Minh Franck Dubois, giám tập Tu viện Strasbourg (Bas-Rhin), Pháp, người giảng thường xuyên trên chương trình “Ngày của Chúa” và của giáo sư khoa hùng biện người Pháp Luc Desroche.

Ngày thứ sáu 20 tháng 1, trong buổi tiếp kiến với những người dự khóa học phụng vụ tại Viện Giáo hoàng Saint-Anselme Athenaeum, Đức Phanxicô xin các linh mục giới hạn bài giảng của họ trong mười phút, không hơn. Ngài nhấn mạnh: “Bài giảng không phải là bài diễn văn trong hội nghị, nó là bí tích” (1), ngài cho một số bài giảng là “thảm họa”.

la-croix.com, Gilles Donada và Malo Tresca, 2023-01-23

“Chúng ta không được bắt các giáo dân làm con tin”

Linh mục dòng Đa Minh Franck Dubois, giám tập Tu viện Strasbourg (Bas-Rhin), người giảng thường xuyên trên chương trình “Ngày của Chúa”

“Lẽ tự nhiên, tôi sẽ trả lời trước hết bài giảng phải sắc bén, như thế bài giảng sẽ phải khá ngắn. Tôi cũng nghĩ đây là một khía cạnh rất văn hóa… Chắc chắn câu hỏi được đặt ra sẽ khác nhau, ở Pháp và ở các quốc gia khác, có thể có những quốc gia có khuynh hướng giảng dài hơn. Điều tôi thấy không hay là giáo dân có cảm tưởng họ đang bị làm con tin – trừ trường hợp ngoại lệ – họ sẽ không đi ra khỏi nhà thờ hoặc bày tỏ sự không bằng lòng của họ trước bài giảng của chúng ta!

Giáo dân chịu đựng người giảng, và việc chúng ta giới hạn thời gian giảng có thể là một dấu hiệu tôn trọng họ. Trong các thánh lễ trong tuần, tôi cố gắng giới hạn bài giảng trong ba phút và ngày chúa nhật bảy phút, dù dĩ nhiên là không phải lúc nào tôi cũng tôn trọng. Bên cạnh thì giờ, còn có nhiều tiêu chuẩn khác tạo nên một ‘bài giảng hay’. Chẳng hạn, phải cẩn thận để không rơi vào lối chú giải hàn lâm: chúng ta có thể triển khai một số bối cảnh trong Kinh Thánh, nhưng không kể lại và cũng không nên diễn giải nó!

Theo tôi, một bài giảng nên cấu trúc qua ba thời điểm mạnh: thứ nhất, một cái móc (kỹ thuật kể một câu chuyện nhỏ thường có tác dụng khá tốt), tiếp theo là một yếu tố suy tư về học thuyết – về mầu nhiệm nhập thể, về Chúa Ba Ngôi, sự sống lại… những nguyên tắc cơ bản của đức tin, mà chúng ta có thể không làm cách này hay cách khác -, và cuối cùng là từ một thực tế để liên hệ với cuộc sống hàng ngày, bằng cách đặt câu hỏi, đưa ra những thách thức… Chắc chắn chúng ta không giảng để làm cho giáo dân có mặc cảm tội lỗi, nhưng để đánh thức họ, làm cho họ tự hỏi!

Bài giảng nói lên một cái gì đó về người giảng, nó lộ ra rất nhiều. Vì thế phải có một cân bằng đúng khi giảng, không rơi vào tình trạng thiếu chính trực. Chính quan điểm của người giảng đưa đến những rủi ro: phô bày, đè bẹp, thao túng bằng cách chuyển đảo lời Chúa, tạo ảnh hưởng, gây sốc hoặc làm tổn thương những chủ đề tế nhị có thể liên quan đến đạo đức, học thuyết đạo đức… Điều này đòi hỏi phải tế nhị nhưng không lấy đi khía cạnh thô tháp và gây phiền của Tin Mừng. Lời của người rao giảng thực sự có thể cảm hóa và xây dựng, cũng như nó có thể thách thức hoặc phá hủy.

Có những đề xuất về việc đào tạo bài giảng ở Pháp, nhưng tôi nghĩ chúng ta vẫn còn chỗ để cải thiện. Đức Phanxicô thường nói về tầm quan trọng của việc chuẩn bị bài giảng qua bản văn và qua cầu nguyện để không làm người nghe chán. Ngài cũng nói đến khuynh hướng toàn cầu của hàng giáo sĩ, linh mục hay phó tế, những người phải biết và yêu mến giáo dân, cũng như yêu lời Chúa đủ để truyền tải thông điệp của mình mà không rơi vào chủ nghĩa hình thức quá mức hoặc thờ ơ thô kệch.”

Chất lượng của bài giảng cũng quan trọng như thời gian

Giáo sư khoa hùng biện Luc Desroche

“Tám trong số mười người dùng Internet đã trả lời cuộc khảo sát của chúng tôi về đề tài ‘Người Pháp nghĩ gì về bài giảng?’ – được thực hiện vào tháng 3 năm 2021, chúng tôi gom được hơn 10.000 phản hồi – họ cho biết họ không thể tập trung nghe giảng quá mười phút. Nhưng không nên dùng chỉ số thời gian làm chỉ số tuyệt đối. Đôi khi chúng ta muốn kéo dài các bài giảng của mình hai mươi phút, trong khi chúng ta cúp ngay bài giảng của người khác ngay phút đầu tiên của họ.

Điều quan trọng trên hết là nội dung và cấu trúc bài giảng. Chúng ta thiết lập mối liên hệ cụ thể nào giữa lời nói và cuộc sống hàng ngày? Chúng ta muốn giáo dân đem thông điệp chính yếu nào khi họ về nhà? Trong khi thảo luận với các linh mục, tôi nhận ra nhiều linh mục không trả lời được câu hỏi này… Chẳng hạn cấu trúc chặt chẽ ở hai hoặc ba điểm giúp giáo dân dễ hiểu phần thông điệp chính hơn. Trong chương trình đào tạo, chúng tôi dựa trên sáu tiêu chuẩn, một trong các tiêu chuẩn này có nguồn gốc từ Cổ đại.

Các logo nhằm mục đích để mọi người, cả những người trẻ nhất đều hiểu được bài giảng. Đạo đức mời gọi chúng ta chân thành trong cách diễn tả. Tôi muốn quy chiếu vào “tiếng nói của linh mục”: giọng nói trong trẻo, chậm rãi hơn, không liên quan gì đến cách diễn tả thông thường. Tiêu chuẩn thứ ba là cảm xúc: chúng ta muốn truyền cảm xúc gì liên hệ đến bài giảng cho giáo dân? Niềm vui tìm lại con chiên đi lạc, đồng xu bị mất, giận dữ trước sự từ chối của kẻ có tội, nỗi buồn của Chúa Kitô ở ngôi mộ của ông Ladarô? Nhiều linh mục không thoải mái với câu hỏi về cảm xúc này và không xem trọng nó. Họ thích núp trong những chuyện về trí tuệ hơn.

Ba tiêu chuẩn sau được giáo sư tâm lý học Albert Mehrabian ở Đại học California chính thức hóa. Nó nói về ngôn ngữ lời nói và giọng nói: chúng ta nói gì và nói như thế nào. Và ngôn ngữ hình ảnh: ánh mắt, cử chỉ, tư thế. Làm thế nào để thiết lập mối liên hệ với giáo dân khi chúng ta chúi mũi vào bài soạn sẵn? Trau dồi tài hùng biện, cách diễn tả thường bị hiểu lầm. Một số người tức tối cho rằng đó là thao túng. Chúng ta không được nhầm lẫn giữa tài hùng biện, vốn là một nghệ thuật trong phục vụ, ở đây là Tin Mừng, và ngụy biện tìm cách thuyết phục bất kỳ ai về bất cứ điều gì…

Đôi khi giáo dân bị hiểu lầm khi đề cập đến bài giảng: nó thuộc lãnh vực thiêng liêng. Vậy mà giáo dân là người đầu tiên nghe giảng! Đề cập đến vấn đề chất lượng bài giảng là chủ đề nhạy cảm với linh mục: vì nhận xét nào cũng ảnh hưởng đến cá nhân họ. Chúng ta quên rằng kỷ luật này đã được Giáo hội ban hành từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 19. Ngày nay chỉ có ba chủng viện trong số hơn mười lăm chủng viện tôi liên hệ còn dạy môn này. Tuy nhiên, nhu cầu là rất lớn. Gần đây một linh mục tâm sự với tôi: ‘Bài giảng lễ là thánh giá hàng tuần của tôi’”.

  1. Không phải là một trong bảy bí tích được Giáo hội công giáo chính thức công nhận, nhưng “vì bản chất phụng vụ, bài giảng cũng mang một ý nghĩa bí tích: Chúa Kitô hiện diện trong cộng đoàn tụ họp lại để nghe Lời Ngài và do đó cũng hiện diện trong Bài giảng của thừa tác viên. (…)”, nhắc lại Hướng dẫn về Bài giảng (2010) của Bộ Giáo lý Đức tin, được tông huấn Verbum domini của Đức Bênêđictô XVI đề cập đến.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: 7 lời khuyên của Đức Phanxicô để chuẩn bị một bài giảng hay

Bài mới nhất