Home Blog Page 29

Đức Lêô trao đổi với phi hành gia Buzz Aldrin

Đức Lêô trao đổi với phi hành gia Buzz Aldrin

fr.aleteia.org, I.Media, 2025-07-20

Đúng 56 năm sau ngày con người đặt chân lên mặt trăng, ngày 20 tháng 7, Đức Lêô có bài phát biểu với phi hành gia Buzz Aldrin, người còn sống cuối cùng của của sứ mệnh Apollo 11.

Văn phòng Báo chí Vatican loan tin: “Để kỷ niệm ngày con người đặt chân lên Mặt Trăng lần đầu, Đức Lêô đã có cuộc gặp trực tuyến với phi hành gia Buzz Aldrin tối 20 tháng 7 năm 2025.”

Vài giờ trước đó, ngài đến thăm Đài Thiên văn Castel Gandolfo, nơi Đức Phaolô VI đã theo dõi cuộc đổ bộ lên mặt trăng tối ngày 20 tháng 7 năm 1969. Được thành lập năm 1891, Đài quan sát Vatican là Cơ quan truyền thống được giao cho Dòng Tên để nghiên cứu và giáo dục trong lãnh vực thiên văn. Từ năm 1935, dinh thự mùa hè của Giáo hoàng tại Castel Gandolfo đã có đài quan sát riêng, dù bị ô nhiễm ánh sáng, các nhà khoa học của Đài đã làm việc từ năm 1993 tại một trung tâm quan sát mới ở gần Tucson, Arizona, nước Mỹ.

Sau buổi đọc Kinh Truyền tin ngày chúa nhật 20 tháng 7, Đức Lêô đang nghỉ ở Castel Gandolfo, đã đến thăm khu phức hợp thiên văn, nơi có hai mái vòm được trang bị kính viễn vọng, một trong hai kính đã có từ năm 1891, gần đây đã được phục hồi và đang hoạt động. Hiện nay, trung tâm có một bộ sưu tập lớn các thiên thạch và mở cửa cho du khách vào xem. Ngày 20 tháng 7 năm 1969, Đức Phaolô VI đến Đài quan sát và theo dõi – qua kính viễn vọng và sau đó là trên truyền hình – cuộc đổ bộ lên mặt trăng của con tàu Apollo 11 gồm các phi hành gia Neil Armstrong và Buzz Aldrin – cũng như Michael Collins, người ở lại trên tàu con thoi trên quỹ đạo. Say mê với cuộc phiêu lưu không gian, Đức Phaolô VI ca ngợi chiến công này trong thông điệp gởi các phi hành gia, được biết đến với tên gọi “Bài phát biểu trên Mặt trăng”. Ngài kinh ngạc trước thực tế Trái Đất không còn là “biên giới không thể vượt qua của sự tồn tại của con người, nhưng là ngưỡng cửa mở ra không gian vô tận với những vận mệnh mới”.

Buổi tối, ngài đã có cơ hội trò chuyện qua video truyền hình với phi hành gia Buzz Aldrin, người cuối cùng của sứ mệnh Apollo 11 còn sống. Ông là người thứ hai đặt chân lên Mặt Trăng sau Neil Armstrong, ông chia sẻ với Đức Lêô kỷ niệm ngày lịch sử này: “Một minh chứng cho thiên tài của con người.” Đức Lêô chia sẻ Thánh vịnh thứ 8 với phi hành gia: “Sự nhỏ bé của con người được nhấn mạnh khi so sánh với bầu trời, với công trình này của bàn tay Chúa, suy ngẫm về mầu nhiệm sáng tạo, về sự vĩ đại và sự mong manh của nó.” Sau đó, ngài ban phép lành cho ông Buzz Aldrin, gia đình và các đồng nghiệp của ông.

Marta An Nguyễn dịch

Cuộc gọi của Đức Lêô với phi hành gia Buzz Aldrin đã trở thành lời cầu nguyện

Điều gì xảy ra với các linh mục bị kết án theo luật dân sự?

Đức Lêô vừa kéo dài ngày nghỉ hè của ngài. Các giáo hoàng làm gì để thư giãn?

Đức Lêô đã có cuộc gặp trực tuyến với phi hành gia Buzz Aldrin tối 20 tháng 7 năm 2025.

Đức Lêô vừa kéo dài ngày nghỉ hè của ngài. Các giáo hoàng làm gì để thư giãn?

Đức Lêô vừa kéo dài ngày nghỉ hè của ngài. Các giáo hoàng làm gì để thư giãn?

americamagazine.org, Colleen Dulle, 2025-07-21

Đức Lêô chào giáo dân khi ngài đến Castel Gandolfo, ngày 6 tháng 7 năm 2025, ngài sẽ nghỉ hè đến hết ngày 20 tháng 7. (Ảnh của OSV News/Alessia Giuliani, CPP)

Ông Matteo Bruni, phát ngôn viên của Vatican vừa cho biết,  Đức Lêô kéo dài ngày nghỉ hè của ngài thêm hai ngày, ngài sẽ rời Castel Gandolfo ngày 22 tháng 7 thay vì ngày 20 tháng 7. Ngài sẽ về lại đây từ ngày 15 đến ngày 17 tháng 8 để dự lễ Ferragosto của Ý.

Đức Phanxicô nổi tiếng vì ngài không đi nghỉ hè ở Castel Gandolfo, nơi có khí hậu mát mẻ chỉ cách Rôma một giờ lái xe, nơi nghỉ hè của gần như hầu hết các giáo hoàng kể từ năm 1626, ngài đã làm cho người dân ở đây kinh ngạc; sau đó, ngài đã biến biệt thự của giáo hoàng thành bảo tàng được các chủ nhân các cửa hàng địa phương cho biết họ được hưởng lợi của việc này. Năm nay, Đức Lêô chọn nghỉ ở một biệt thự nhỏ hơn, tách biệt khỏi khu đất dành cho khách du lịch trong ngôi làng ven hồ.

Nhưng “nghỉ hè” của Đức Lêô cũng giống như nghỉ hè của Đức Phanxicô ở Rôma: một nghỉ hè làm việc! Kể từ khi Đức Lêô bắt đầu nghỉ hè ngày 6 tháng 7, ngài đã cử hành một thánh lễ ngoài trời với ý chỉ Chăm sóc Tạo vật, một thánh lễ ở một đồn cảnh sát Ý và đến thăm một tu viện dòng Thánh Clara Khó Nghèo gần đó, ngài nói chuyện với các bạn trẻ ở giáo xứ Castel Gandolfo, gặp một nhóm đối thoại Công giáo-Chính thống Hoa Kỳ và có một cuộc điện đàm với Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu. Bề trên tổng quyền Dòng Âugustinô, Dòng của Đức Lêô, trong một phỏng vấn với báo Il Messaggero cho biết Đức Lêô sẽ dùng những ngày nghỉ hè của ngài để viết thông điệp đầu tiên trong đó ngài đề cập đến các chủ đề ngài thường đưa ra trong những ngày đầu triều của ngài: hòa bình, thống nhất và trí tuệ nhân tạo.

Giáo hoàng làm gì để giải trí?

Đức Lêô nói với các giáo dân trẻ tại Castel Gandolfo, kể từ khi ngài lãnh đạo Giáo hội công giáo, ngài không có nhiều thì giờ để nghỉ ngơi, nhưng ngài đã hé lộ một số việc ngài sẽ làm trong thời gian rảnh rỗi của ngài, ngài hứa sẽ chơi một trận bóng rổ với họ; ngài cũng cho biết ngài sẽ chơi quần vợt với họ khi… rảnh, theo người đã tặng ngài chiếc mũ tennis tại sự kiện và đã nói chuyện với các phóng viên sau đó. Ngài đã chơi quần vợt tại sân Dòng Augustinô ở bên ngoài Vatican với linh mục-thư ký của ngài sau khi được bầu. Vatican xác nhận một sân tennis đang được làm ở Castel Gandolfo trước chuyến thăm của Giáo hoàng.

Theo lời kể của Bề trên Tổng quyền Dòng Âugustinô, sở thích của ngài là chơi piano – gần đây ngài đã chơi một bản “không dễ” của nhạc sĩ Béla Bartók cho một nhạc trưởng dàn nhạc giao hưởng đến thăm Vatican. Theo những người bạn của ngài nói với trang America, họ cho biết ngài thích đi du lịch đường dài và có kiến thức sâu rộng về xe hơi. Ngài thường sửa xe cho giáo dân ở Peru, đôi khi ngài theo hướng dẫn trên YouTube.

Đức Phanxicô là người yêu âm nhạc: ngài có bộ sưu tập khoảng 2.000 đĩa CD, phần lớn là nhạc cổ điển, nhưng ngài cũng có 25 album của ca sĩ Mỹ Elvis Presley. Ngài mê nhạc tango Argentina. Nhưng cách Đức Phanxicô thích nhất là dành thì giờ rảnh rỗi của ngài cho mọi người: Bạn bè đến gặp riêng ngài vào buổi chiều, và ngài nổi tiếng khi chọn sống ở Nhà Thánh Marta để tránh sự cô lập của Dinh Tông Tòa, nơi các giáo hoàng khác thường sống.

Đức Bênêđíctô XVI cũng chơi piano, nhà soạn nhạc yêu thích của ngài là Mozart. Ngài nổi tiếng yêu mèo, khi còn là hồng y, ngài thường cho các con mèo hoang ở vườn Vatican ăn và khi nghỉ hưu, ngài dành thì giờ nhiều hơn cho các con mèo. Trong một quyển sách phỏng vấn, Đức Phanxicô nhớ lại cảnh ngài nhìn thấy Hồng y Ratzinger đi về nhà, xung quanh là những chú mèo, ngài nói: “Tôi nghĩ ngài biết tiếng của các con mèo.”

Đức Bênêđíctô XVI có bằng lái trực thăng, mặc dù ngài không có bằng lái xe, đôi khi ngài lái trực thăng của giáo hoàng đi Castel Gandolfo, chuyến đi khoảng 15 phút.

Tháng 8 và phần lớn tháng 9, Đức Bênêđíctô XVI thường ở Castel Gandolfo, và cũng như Đức Lêô và Đức Phanxicô, nghỉ hè của ngài là nghỉ hè làm việc! Nhưng tháng 7 năm 2005, 2006 và 2009, ngài đã nghỉ ngơi thực sự ở căn nhà gỗ của Dòng Salêdiêng ở Las Combes, Ý, một thị trấn dưới chân dãy Alps. Thánh Gioan Phaolô II cũng có lịch nghỉ hè ở Las Combes và Castel Gandolfo trong 10 năm (1989-1999); trong những năm đầu triều, ngài thường bí mật đi bộ đường dài đến nhiều địa điểm trên dãy Alps. Các vệ sĩ của ngài nhớ lại họ đã kiệt sức khi cố gắng theo kịp ngài.

Giống như Đức Lêô, Đức Gioan-Phaolô II rất năng động; ngoài việc đi bộ đường dài trên dãy Alps, ngài còn thích trượt tuyết, chèo thuyền kayak và bơi lội. Ngài bị chỉ trích vì đã xây một hồ bơi ở Castel Gandolfo vào đầu triều; khi bị chất vấn về chi phí, ngài nói đùa ‘chi phí này ít hơn chi phí cho một mật nghị’. Năm 1978 ngài được bầu, ngài đã dự hai mật nghị hồng y: lần đầu là của Đức Gioan-Phaolô I, qua đời sau 33 ngày tại vị – góp phần cho các hồng y muốn bầu một giáo hoàng có sức khỏe tốt. Mật nghị thứ nhì là của ngài.

Hồ bơi được chuẩn bị cho chuyến đi của Đức Lêô năm nay

Không phải lúc nào các giáo hoàng cũng được nghỉ yên, Đức Gioan-Phaolô II đã bị các tay săn ảnh rình chụp ngài trong bộ áo tắm. Các bức ảnh đã là tiêu đề quốc tế sau một nỗ lực bất thành của Vatican nhằm ngăn chặn việc công bố ảnh.

Giữa các ngày nghỉ, Đức Lêô sẽ về Vatican để dự Năm Thánh Giới Trẻ, được tổ chức từ ngày 28 tháng 7 đến ngày 3 tháng 8, sự kiện sẽ thu hút hàng ngàn người trẻ về Rôma. Sau kỳ nghỉ, ngài có một số cuộc hẹn tại Vatican và sẽ đi Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối tháng 11.

Lịch sử lâu đời

Tọa lạc tại vùng đồi Alban ngoại ô Rôma, từ hàng ngàn năm nay, Castel Gandolfo là nơi nghỉ lý tưởng của các giáo hoàng để tránh cái nóng oi bức của mùa hè Rôma. Là vùng đất nông nghiệp trù phú, những ngọn đồi xung quanh Castel Gandolfo là vườn nho và nhà máy rượu vang. Hoàng đế La-mã Domitian đã có căn biệt thự xa hoa nhất của ông bên bờ Hồ Albano tại đây.

Dinh Tông tòa hiện tại ở Castel Gandolfo được Giáo hoàng Urbanô VIII xây năm 1626,  năm tới sẽ kỷ niệm 400 năm ngày thành lập.

Trong nhiều thập kỷ xung đột với nhà nước thế tục Ý sau cuộc cách mạng Risorgimento vào thế kỷ 19, thống nhất nước Ý ngày nay, Castel Gandolfo đã bị bỏ hoang: Không có giáo hoàng nào đến đây từ năm 1870 đến năm 1929. Sau khi Hiệp ước Lateran được ký kết năm 1929, chính thức hóa quan hệ giữa Cộng hòa Ý và Giáo hội Công giáo, các giáo hoàng bắt đầu dùng địa điểm này cho các kỳ nghỉ và hội họp trở lại.

Năm 1938, Giáo hoàng Piô XI (và Quốc vụ khanh Eugenio Pacelli, Giáo hoàng Piô XII tương lai) đã ở 6 tháng tại Castel Gandolfo để tránh bất kỳ sự hợp tác hoặc xung đột nào với nhà độc tài Ý Benito Mussolini hoặc vị khách của ông ở Rôma vào tháng 5 năm để tránh tham dự các lễ kỷ niệm phát xít lớn: Adolf Hitler.

Giáo hoàng Piô XI cũng đã chuyển Đài thiên văn Vatican từ Vườn Vatican đến Castel Gandolfo, và làm một kính viễn vọng mới cho đài thiên văn trên nóc Dinh Tông tòa. Trụ sở của đài thiên văn và một trong hai địa điểm chính (địa điểm còn lại ở Tucson, Arizona) vẫn còn ở đó cho đến ngày nay.

Trong Thế chiến II, Castel Gandolfo (cả thị trấn và Dinh Tông tòa) là nơi trú ẩn cho hơn 12.000 người dân chạy trốn khỏi Rôma, bao gồm hàng trăm người Do Thái La-mã. Các bản tin sau đó cho biết có hơn 40 trẻ em đã được sinh ra trong các căn hộ của giáo hoàng tại Castel Gandolfo, nơi được dùng làm nhà trẻ. Một cuộc không kích của quân Đồng minh năm 1944 đã giết chết hơn 500 người tị nạn trong Dinh Tông tòa.

Qua nhiều thế kỷ, nhiều giáo hoàng đã sống những ngày cuối đời ở Castel Gandolfo, hai giáo hoàng thời hiện đại đã qua đời tại đó: Giáo hoàng Piô XII qua đời ngày 9 tháng 10 năm 1958, và Giáo hoàng Phaolô VI qua đời ngày 6 tháng 8 năm 1978.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Lêô trao đổi với phi hành gia Buzz Aldrin

Cuộc gọi của Đức Lêô với phi hành gia Buzz Aldrin đã trở thành lời cầu nguyện

Điều gì xảy ra với các linh mục bị kết án theo luật dân sự?

Điều gì xảy ra với các linh mục bị kết án theo luật dân sự?

Điều gì xảy ra với các linh mục bị kết án theo luật dân sự?

Hình ảnh Pascal Deloche / Godong

fr.aleteia.org, Philippe de Saint-Germain, 2025-07-09

Giáo dân khó chấp nhận việc các linh mục đã bị kết án dân sự vẫn có thể tiếp tục phục vụ trong giáo hội. Giáo hội làm gì với các linh mục đang bị truy tố hoặc đã thi hành xong bản án?

Việc Tổng giám mục Guy de Kerimel, giáo phận Toulouse bổ nhiệm một linh mục bị kết án năm 2006 về tội hiếp dâm trẻ vị thành niên vào vị trí chưởng ấn của giáo phận đã làm cho giáo dân khó hiểu. Tổng giám mục biện minh cho quyết định của ngài, ngài tuyên bố linh mục Dominique Spina “không còn làm mục vụ, bây giờ linh mục chỉ làm hành chánh”. Vì chức vụ chưởng ấn giáo phận đòi hỏi phải “uy tín liêm chính và không bị nghi ngờ” (Giáo luật 483, 2), nên câu hỏi được đặt ra: một linh mục đã phản bội chức thánh một cách tai tiếng, dù đã thụ án xong, có thể nhận trách nhiệm mang tính biểu tượng cao (bảo đảm tính liêm chính của các hành vi tư pháp của giáo phận) không?

Trường hợp các linh mục đã chấp hành xong án phạt

Dư luận khó chấp nhận việc các linh mục đã bị kết án vẫn có thể tiếp tục phục vụ trong Giáo hội. Tuy nhiên, mọi giáo phận đều có các trường hợp này, dù rất khó để so sánh các tình huống và việc lên án. Giáo hội làm gì với các linh mục đang bị truy tố hoặc đã thụ án xong?

Nếu một linh mục bị truy tố, giám mục có thể đình chỉ linh mục đó khỏi nhiệm vụ mục vụ tạm thời hoặc vĩnh viễn. Trong trường hợp bị kết án, linh mục đó phải chịu các hạn chế suốt đời, ngay cả khi không bị cách chức khỏi hàng giáo sĩ (ví dụ: cấm cử hành bí tích ở nơi công cộng, cấm giải tội).

Họ cũng có thể bị giáng xuống trạng thái giáo dân (gọi là “bị loại ra khỏi hàng ngũ giáo sĩ”) không còn được phép hoạt động như một linh mục. Trong trường hợp bị cáo buộc lạm dụng tình dục, các linh mục này bị đình chỉ mọi chức vụ mục vụ cho trẻ vị thành niên, hoặc bị cấm phát biểu trước công chúng.

Các thủ tục cụ thể

Giáo hội có những thủ tục cụ thể để giải quyết các trường hợp linh mục bị kết án, vì tội dân sự (lạm dụng tình dục, tham nhũng, v.v.) hay vì vi phạm luật giáo luật (vi phạm đạo đức hoặc vi phạm lời khấn). Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình huống và thẩm quyền liên quan, linh mục có thể sống dưới sự giám sát, với sự hỗ trợ về mặt tinh thần hoặc tâm lý trong một cộng đồng khép kín hoặc tu viện. Trong một số trường hợp, họ có thể tái hòa nhập vào các chức vụ không phải mục vụ: làm các việc hành chính, nghiên cứu hay lưu khố, v.v.

Trong báo cáo được công bố năm 2021, Ủy ban Độc lập về Lạm dụng Tình dục trong Giáo hội (CIASE) đã báo cáo về các biện pháp được Nhà chức trách giáo hội thực hiện sau các cáo buộc lạm dụng tình dục, được các nghiên cứu gia của Trường Cao đẳng EPHE chứng thực. Ngoài việc khởi xướng các thủ tục cụ thể (báo cáo với cơ quan công quyền, các thủ tục theo quy định) và cảnh báo, các biện pháp được thực hiện thường là hạn chế hoạt động và thuyên chuyển. Linh mục có thể làm cha sở hoặc tuyên úy và không tham gia hoạt động mục vụ liên quan đến trẻ vị thành niên. Trong trường hợp thuyên chuyển đến giáo xứ hoặc giáo phận khác, các linh mục sẽ được đặt dưới quyền của một linh mục về nguyên tắc đã được thông báo đầy đủ các việc này. Đôi khi thuyên chuyển ra nước ngoài và với các thành viên của một giáo đoàn, họ sẽ đến một cơ sở khác ngoài cơ sở ban đầu của họ. 

Kiểm tra

Nếu mục đích của các phong trào trước đây là bảo vệ danh tiếng của tổ chức, của các linh mục thì hiện nay công việc này nhằm tạo điều kiện cho việc tái xây dựng các linh mục, với nhiều năm quản chế kèm theo chữa trị và ghi tên vào Hồ sơ tư pháp quốc gia của những kẻ phạm tội tình dục, ngoài bất kỳ tình huống nguy hiểm nào. Các linh mục lớn tuổi có thể được phân công đến làm việc ở các viện dưỡng lão.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Lêô trao đổi với phi hành gia Buzz Aldrin

Cuộc gọi của Đức Lêô với phi hành gia Buzz Aldrin đã trở thành lời cầu nguyện

Đức Lêô vừa kéo dài ngày nghỉ hè của ngài. Các giáo hoàng làm gì để thư giãn?

Cuộc gọi của Đức Lêô với phi hành gia Buzz Aldrin đã trở thành lời cầu nguyện

Cuộc gọi của Đức Lêô với phi hành gia Buzz Aldrin đã trở thành lời cầu nguyện

osservatoreromano.va, Paolo Ruffini, 2025-07-21

Đức Lêô nói với phi hành gia Buzz Aldrin, người thứ hai đặt chân lên Mặt Trăng cách đây 56 năm: Ngài nói về mầu nhiệm Sáng tạo, về sự vĩ đại và mong manh của mầu nhiệm này sau khi ngắm vẻ đẹp của bầu trời qua kính viễn vọng.

Lời kêu gọi của ngài sau cuộc tấn công của quân đội Israel vào giáo xứ Công giáo Thánh Gia ở Thành phố Gaza, trong mong muốn chấm dứt sự tàn bạo của chiến tranh, tìm kiếm giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột, tuân thủ luật nhân đạo, tôn trọng nghĩa vụ bảo vệ thường dân, và lệnh cấm trừng phạt tập thể, cấm dùng vũ lực bừa bãi, cấm cưỡng bức di dời dân chúng. Quyết định nêu tên từng nạn nhân trong vụ đột kích vào Nhà thờ được đưa ra không phải vì họ là người có đạo, nhưng để nhắc mọi nơi thờ phượng, mọi sinh mạng đều thiêng liêng. Việc nêu tên tất cả các nạn nhân vô tội của vụ thảm sát vô nghĩa vẫn còn tiếp diễn. Mỗi nạn nhân đều có tên, có họ, có cuộc đời riêng; nhưng mỗi ngày họ là những con số được đưa ra.

Đó là những khoảnh khắc khác nhau. Giống như tranh vẽ. Gần nhau về thời gian, nhưng khác nhau, tất cả đều cho chúng ta hiểu thế nào là ý nghĩa của hòa bình và vô nghĩa của chiến tranh. Việc mô tả chính xác cách giao tiếp – được tạo thành từ cử chỉ, hình ảnh, từ ngữ – vừa có tác dụng giải trừ vũ khí vừa có tác dụng làm mất vũ khí.

Đến một lúc nào, cuộc gọi điện thoại với phi hành gia Buzz Aldrin đã trở thành lời cầu nguyện. Với lời của Thánh Vịnh 8 nói về sự vĩ đại các công trình Chúa làm: của bầu trời, của Mặt Trăng, của các vì sao; và sau đó là của con người. Vô cùng nhỏ và vô cùng lớn. Một chấm nhỏ, không thể nhìn thấy từ Mặt Trăng. Nhưng “Chúa đã ban cho con người quyền thống trị các công trình của Chúa; Chúa đã đặt mọi vật dưới chân con người”.  

Để làm gì? Ở đây, để làm gì.

Chỉ cần một vài từ ngữ và một vài hình ảnh là đủ để làm cho mọi người phải đối diện với trách nhiệm của mình. Cho những điều đã nói và chưa nói, đã làm và chưa làm. Và để hiểu, chúng ta sẽ không mất nhiều thì giờ để dừng lại và để bắt đầu lại. Và hiểu rằng không ai có thể nghĩ nỗi đau họ chịu đựng là tuyệt đối đến mức hợp pháp hóa việc hủy hoại sinh mạng con người vô tội. Bởi vì xét cho cùng, việc vi phạm phẩm giá con người là xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng mà con người là hình ảnh của Ngài. Phủ nhận lịch sử của chính mình mà mỗi chúng ta đều là đứa trẻ. Phá hủy sự kỳ diệu của Tạo hóa, ngôi nhà chung của chúng ta.

Trong phim Gravity được Oscar năm 2013, hai phi hành gia kinh ngạc nhìn Trái Đất, một người hỏi người kia: “Anh dựng lều ở đâu?” Một câu hỏi rất ý nghĩa vì trong Lời tựa của Phúc âm Thánh Gioan, ngài viết: “Ngôi Lời của Thiên Chúa đã dựng lều giữa chúng ta.” Hành tinh nhỏ bé của chúng ta, bị chiến tranh tàn phá, nhưng chứa đựng rất nhiều lời hứa được ghi khắc trong Sáng tạo, đến nỗi chính Chúa đã quyết định cư ngụ ở đó và cứu chuộc nhân loại. Vì lý do này, cuối cùng những cuộc chiến tranh tàn phá sẽ không thể thắng thế.

Marta An Nguyễn dịch

Đức Lêô trao đổi với phi hành gia Buzz Aldrin

Điều gì xảy ra với các linh mục bị kết án theo luật dân sự?

Đức Lêô vừa kéo dài ngày nghỉ hè của ngài. Các giáo hoàng làm gì để thư giãn?

Với chiếc xe “Cắm trại-Quả tim”, Linh mục Gilles Rousselet đi gặp giáo dân sống ở những vùng biệt lập.

Với chiếc xe “Cắm trại-Quả tim”, Linh mục Gilles Rousselet đi gặp giáo dân sống ở những vùng biệt lập.

lepelerin.com, Rudy Ventura, 2025-07-09

Linh mục Gilles Rousselet Hình ảnh © P. Gilles Rousselet / Cắm trại-Quả tim

Đáp lại lời kêu gọi ra vùng ngoại vi của Đức Phanxicô, linh mục Rousselet đã đi khắp các con đường trong giáo xứ nông thôn của cha trên chiếc xe cắm trại không giống ai để gặp các giáo dân gặp khó khăn và bị cô lập. Ngài đi truyền giáo. Giáo xứ rộng lớn Saint-Jean-en-Limousin (Creuse) của cha có 27 tháp chuông và khoảng 8.500 cư dân, vị linh mục Dòng Jean-Eudes (Dòng Chúa Giêsu và Đức Mẹ) cùng với các tình nguyện viên hàng tuần lên xe đi “rao giảng niềm vui Tin Mừng”.

Một trong những chuyến đi “Cắm trại-Quả tim – Camping-Cœur” ở giáo xứ Saint-Jean-en-Limousin (Creuse). Hình ảnh © Cha Gilles Rousselet

Một giáo xứ lên đường

Mỗi thứ sáu, trên chiếc xe “ Cắm trại-Quả tim”, Cha Gilles đi qua một trong những thị trấn trong giáo xứ của mình. Sau khi cầu nguyện và ban phép lành cho giáo dân, nhóm bắt đầu nhiệm vụ hòa nhập vào cộng đồng. Buổi chiều là họp hành, đôi khi rất căng thẳng. Cha Gilles giải thích: “Với Chúa Thánh Thần, chúng tôi đi bất cứ nơi nào để đến nơi Chúa Giêsu muốn đến.” Dù có một số người không muốn nói chuyện nhưng cha Gilles và những người giúp lễ không hề nản lòng. Họ dành thì giờ để lắng nghe giáo dân, thường các giáo dân này ở một mình, bị cô lập, bị khuyết tật, họ sống trong tình huống bấp bênh. Đây cũng là cách để cho những người hoài nghi thấy một Giáo hội không phán xét,  một Giáo hội chào đón mọi người: “Chúng ta không còn sống như cũ, không thể ngồi yên chờ giáo dân đến nhà thờ, họ không đến nhà thờ, chúng ta phải đến với họ.”

“Đi ra vùng ngoại vi”

Linh mục Gilles, 60 tuổi là người con của một gia đình quân nhân, không có địa chỉ cố định, cha sống nhiều cuộc đời: nhà giáo dục của người nghiện ma túy, nhà truyền giáo ở Châu Phi, linh mục ở Paris và ở các nơi khác trên nước Pháp. Tâm hồn cha vang lên tiếng gọi của Đức Phanxicô mời gọi giáo dân “ra vùng ngoại vi” để hòa nhập vào cộng đồng của những người sống bên lề. Vùng Creuse trở thành căn cứ của cha. Một đoàn xe do các giáo dân cũ ở Orléans (Loiret) tặng, là phương tiện chăn dắt đàn chiên của cha. Chiếc xe giúp cha “mang Chúa Kitô đến với mọi người” nơi Giáo hội không còn hiện diện nữa.

Cha giải thích: “Điều đầu tiên là chiếc xe đã thay đổi chính tôi. Lúc đầu, tôi sợ gặp những người tôi không quen biết.” Hiện nay mỗi tuần có khoảng mười tình nguyện viên đi theo cha. Sáng kiến này đang ngày càng được chú ý. Trong lần tổ chức thứ tư của Đêm Truyền giáo tháng 9 năm 2024 tại Paris, Cha Rousselet đã quyên góp được gần 40.000 âu kim giúp cha mua chiếc xe caravan mới và nhiều dụng cụ khác.  Kể từ đó, cha tiếp tục đi khắp vùng Creuse, gieo rắc Tin Mừng và cử hành thánh lễ vào cuối mỗi chuyến truyền giáo hàng tuần.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Ông Jacques Poirier làm nhà nguyện di động trên Đường cao tốc 20, bang Quebec-Canada

Ai thực sự là người công giáo ngày nay?

Hình ảnh © P. Gilles Rousselet / Cắm trại-Quả tim

Ông Jacques Poirier làm nhà nguyện di động trên Đường cao tốc 20, bang Quebec-Canada

Ông Jacques Poirier làm nhà nguyện di động trên Đường cao tốc 20, bang Quebec-Canada

leverbe.com, Brigitte Bédard, 2025-05-28

Chuyên chở cho Chúa Kitô, Transport For Christ, nhà nguyện di động trên chiếc xe tải của ông Jacques Poirier đã hoạt động từ 20 năm nay, bất kể mưa nắng ngày đêm. Lời Chúa đã đến gặp ông Jacques Poirier. Xe đỗ cố định giữa cánh đồng khoai tây, cây hoa diên vĩ khổng lồ, đường ray xe lửa và trạm xăng. Ông làm nhà nguyện di động trên Đường cao tốc 20 Quebec-Canada.

Năm 2014, ông Poirier bắt đầu làm việc tại nhà nguyện di động Big Stop. Sau đó, ông tiếp quản công ty từ người tiền nhiệm được thành lập từ năm 2007, 11 năm sau ông vẫn ở đó, với sự hỗ trợ của Bà Carmen, vợ của ông. Mũ cao bồi, thắt lưng, áo khoác và bốt cao bồi phù hợp với cảnh trí. Bên trong xe là các hình ảnh sinh hoạt của đoàn xe, xe có phòng chờ, ở đây chúng ta có thể đọc tất cả các ấn phẩm của Chuyên chở cho Chúa Kitô. Một vài tấm bảng gỗ gắn trên tường tô điểm cho toàn bộ nơi này, mang theo những thông điệp rõ ràng: “Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho con biết Ngài. Cảm tạ Chúa Giêsu đã chào đón chúng con. Phía sau cùng là một cái bàn và hai chiếc ghế bành. Đây là nơi các tài xế xe tải ngồi trò chuyện.”

Ông Jacques chào đón họ, những người đi tìm một đời sống thiêng liêng, đi tìm người bạn tâm giao trong chuyến đi dài có khi cả tuần, vào mùa Giáng sinh một mình hay đang bị bão tuyết. Ở cửa ra vào, không có ai. Cây thánh giá đỏ lớn dán cạnh cửa, dòng chữ “Chúa Giêsu là Chúa” được in trên tấm chắn bùn và câu Kinh thánh viết bằng chữ hoa màu đỏ trên toàn bộ bức tường phía sau xe.

Tôi đã nhìn thấy sự đau khổ

Jacques gặp Chúa khi đang lái xe tải. Khi đang chơi khúc côn cầu, ông tình cờ gặp nhà thuyết giáo ở Sherbrooke trên đài AM, chính lúc đó, hai tay trên vô lăng, ông hiểu Chúa có thật. Ông cho biết: “Khi còn nhỏ, tôi ở trại mồ côi 2 năm. Sau đó tôi học tiểu học ở trường đạo nhưng tôi không biết Chúa là ai. Tôi được dạy về tôn giáo, nhưng tôi không được dạy về Chúa, hoặc về việc có thể gặp Ngài trực tiếp.”

Trong 15 năm làm tài xế xe tải hạng nặng, ông chứng kiến và trải nghiệm nỗi khổ của những người lái xe tải. Giống như ông Môsê, không muốn dính gì đến việc đi cứu dân tộc mình, ông cũng không muốn dính gì đến nhà nguyện. Tuy nhiên, giống như ông Môsê, cuối cùng ông thay đổi ý định. Có lẽ ông cũng đã nghe Chúa nói với ông: “Ta đã thấy, phải, Ta đã thấy cảnh khốn khổ của dân Ta ở Ai Cập, và Ta đã nghe tiếng kêu than của chúng… Phải, Ta biết những đau khổ của nó” (Ex 3:7). Ai biết?

“Giúp đỡ các chàng trai, được, nhưng đảm nhiệm sứ vụ này? Không bao giờ! Tôi có công ty đang làm ăn tốt. Tôi xin Chúa gọi tôi làm việc khác. Thật kỳ lạ, tháng này là lần đầu tiên trong đời, tôi không có lợi nhuận. Tôi phải móc tiền túi ra để sống. Tôi hiểu thông điệp. Tôi đã nói với Chúa nếu Ngài muốn tôi tiếp quản việc này, Ngài phải sắp xếp bán công ty của tôi, xe tải của tôi và mọi thứ! Lúc 7 giờ tối, vợ chồng tôi rao bán trên Kijiji. 11 giờ tối, tất cả đã bán xong. Rõ ràng đây là kế hoạch của Chúa chứ không phải của tôi! Khi nghe Ngài, tôi nghĩ mình ở trong danh sách dài các nhà tiên tri hơi điên rồ, những người nhận được sức mạnh để giúp đỡ người anh em của mình.”

Mọi việc đều có thời của nó

Sách Giảng Viên đã nói: “Mọi việc có thời của nó (3:1). Khi một tài xế xe tải đến nhà nguyện, ít khi họ nói chuyện về Chúa: Đừng cố thuyết phục ai. Nếu tôi có thể thuyết phục anh chàng đó về điều gì đó, khi rời khỏi đây, người khác sẽ thuyết phục anh về điều gì đó khác! Chính Chúa Thánh Thần là người thuyết phục tốt nhất, vì Ngài mang sự sống, mang tình yêu của Chúa đến cho bạn. Nếu bạn không bỏ thì sự sống và tình yêu của Chúa sẽ ở với bạn suốt đời.”

Ở nhà nguyện, đôi khi rất náo nhiệt. Chỉ vài ngày trước, một người đàn ông cao lớn, lực lưỡng về lại đây sau hai năm không có tin tức. Ông chán nản, ông đã ngoại tình với một phụ nữ, dù ông Jacques đã khuyên không nên làm vậy. Người phụ nữ bỏ trốn cùng với số tiền của ông, để lại cho ông món nợ hàng ngàn đô la. Ông muốn  gặp riêng Jacques.

Hai vợ chồng ông thường đi dạo trên con đường nhỏ ở cánh đồng khoai tây, len lỏi qua mùi phân bón mới rải. Họ cầu nguyện bất cứ đâu. Bà Carmen tâm sự: “Đôi khi thật nặng nề, nhưng Jacques và tôi không phải là người vác gánh nặng này. Chúng tôi giao mọi thứ cho Chúa.”

Bà Carmen tâm sự: “Giáng sinh năm ngoái có một anh chàng mạnh mẽ đến đổ xăng. Tôi đến gặp anh, hỏi xem anh có muốn tặng quà không. Anh nhìn vào túi quà của tôi và hỏi: ‘Đây là gì?’ Tôi nói: ‘Chúng tôi đến từ nhà nguyện. Đây là cách chúng tôi cảm ơn công việc của anh, đặc biệt là vào ngày 24 tháng 12!’ Anh nói: ‘Tôi xin cám ơn, đây là món quà duy nhất tôi nhận được năm nay. Vợ tôi vừa bỏ đi với một người đàn ông khác, và các con…’”

Khi không còn lời nào – hay không còn quà tặng – Carmen và Jacques cầu nguyện cùng mọi người. Đôi khi bạn phải dám thử.

Khi không có điện

Jacques đưa cho tôi chiếc tua-vít nhỏ, ông nói: “Bạn có biết nó dùng để làm gì không, ngoại trừ việc vặn ốc vít?” “Tôi không biết!” Ông giải thích với đôi mắt sáng ngời: “Trên các xe kéo đều có ổ cắm điện mà bạn phải cắm vào để bật đèn xe tải. Khi mất điện, bạn có thể dùng tua-vít này để có điện lại. Khi các tài xế rời khỏi đây, tôi cho họ tua-vít này, trên đó có số điện thoại của tôi. Nếu họ thấy chán nản, họ có thể gọi cho tôi.”

Chỉ cần một chiếc tua-vít là có thể thắp sáng một chiếc xe tải. Đôi khi chỉ cần một giáo sĩ, vợ của ông và một nhà nguyện là có thể vượt qua biển động hay con đường vắng vẻ trên đất liền.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Với chiếc xe “Cắm trại-Quả tim”, Linh mục Gilles Rousselet đi gặp giáo dân sống ở những vùng biệt lập.

Ai thực sự là người công giáo ngày nay?

Ai thực sự là người công giáo ngày nay?

Ai thực sự là người công giáo ngày nay?

Hình minh họa

fr.aleteia.org, Linh mục Benoist de Sinety, 2025-06-30

Theo Linh mục Benoist de Sinety giáo xứ Saint-Eubert ở Lille, Pháp, vấn đề không phải chúng ta có phải là tín hữu công giáo hay không, nhưng làm thế nào chúng ta có thể giúp nhau “để cố gắng trở thành người có đạo”.

Ngày nay ai thực sự mới là người công giáo? Câu hỏi này có ý nghĩa gì, tuần này một nhà báo nêu thắc mắc của ông trên mạng xã hội. Các tấn công cá nhân đang đến từ mọi phía: Bộ trưởng Nội vụ Pháp và việc đi săn lùng người di cư bất hợp pháp của ông, chủ tịch Hướng đạo sinh Pháp, triệu phú này triệu phú kia dù ít tiếng tăm nhưng cũng bị nhóm này nhóm kia nghĩ xấu hoặc làm mất uy tín… Mọi người đều ở tuyến đầu và thành thật mà nói, họ dễ dàng biến mình thành công tố viên tàn nhẫn hoặc một luật sư say đà!

Tin vào Chúa Giêsu Kitô, tuân theo Giáo huấn Giáo hội, đọc Kinh Tin Kính, nhìn nhận tính hợp pháp của thẩm quyền Giáo hoàng: có rất nhiều tiêu chuẩn chúng ta không thể tự khẳng định, nhưng khi kết hợp chúng lại, chúng ta thấy có một điều gì đó chưa đủ. Dĩ nhiên chúng ta có thể nhận ra điều gì không phù hợp với Phúc Âm và từ đó nghĩ rằng, về bản chất, hành động này hay hành động kia sẽ trái ngược với chứng từ đức tin của Chúa Giêsu – không chỉ giới hạn trong Giáo hội công giáo – nhưng chúng ta có thể đi xa hơn không? Ngày nay, khi việc truyền chức phó tế và linh mục đã làm sáng tỏ tầm nhìn của chúng ta, nhưng việc tìm hiểu xem có điều gì bí ẩn trong thuật ngữ này gây nhiều tranh cãi không quan trọng sao?

Một ơn gọi cho toàn thể

Trở thành người công giáo là nhận ra trong Giáo hội có một ơn gọi hướng đến tính phổ quát, hướng đến cái chung, mong muốn và hành động để thông điệp của Giáo hội được lan tỏa trên toàn bộ bề mặt trái đất. Vì thực ra vấn đề nằm ở thông điệp trước khi thông điệp này bị chính tổ chức của nó cuốn hút. Sứ điệp chúng ta gọi là Tin Mừng, là sứ điệp được Chúa Kitô giao cho các tông đồ để họ mang sứ điệp này đến mọi nơi, mọi lúc cho mọi người. Và mỗi lần những người rao giảng bị cám dỗ hạn chế việc tiếp cận thông điệp này, hoặc tự hạn chế mình trong mong muốn công bố mạnh mẽ, họ đều sai, từ Công đồng Giêrusalem cho đến chủ nghĩa bảo thủ đương thời của chúng ta.

Trở thành người công giáo là tìm cách đáp lại mệnh lệnh Tình yêu này, mệnh lệnh buộc chúng ta phải phục vụ Sứ điệp được giao phó cho chúng ta qua ân sủng thuần khiết, đồng thời luôn chấp nhận được sứ điệp này hướng dẫn.

Tính phổ quát này không phải là tính đồng nhất, dù bề ngoài chúng ta có thể bị lầm, nhưng văn bản trình bày đức tin của người đã chịu phép rửa tội, đặc biệt là các tín điều, từ góc độ pháp lý rõ ràng đã không tìm cách định hình con người hay xác định một kỷ luật: thông điệp tập hợp mọi người lại với nhau, đưa họ vào hiệp thông chứ không làm cho đàn chiên lầu bầu. Điều quan trọng đã ở trong Phúc Âm, quyết định duy nhất Chúa Giêsu làm là quy tụ đám đông từng nhóm 50 người ngồi với nhau trên cánh đồng cỏ xanh tươi, nuôi họ bằng bánh và cá, hoa trái của lời cầu nguyện của Chúa. Trở nên người công giáo là tìm cách đáp lại mệnh lệnh Tình yêu này, mệnh lệnh buộc chúng ta phải phục vụ Sứ điệp được giao cho chúng ta qua ân sủng thuần khiết, đồng thời luôn chấp nhận được sứ điệp này hướng dẫn. Sứ điệp chứng thực sự hiện diện của nó bằng khát vọng hiệp thông nảy mầm trong lòng những người mang sứ điệp. Đôi khi chúng ta bị đau xót: người khác có vẻ đạo đức hơn, ngay thẳng hơn, nhiều ơn hơn… trong khi chúng ta lại tầm thường!

Chúng ta cũng trải nghiệm được sự say sưa về mặt tinh thần khi nghĩ rằng mình tốt hơn, công bằng hơn khi chúng ta nhìn vào những người chúng ta xem họ là tội nhân và sẵn sàng gọi họ như vậy. Có những tường thuật rõ ràng trong cả bốn sách Phúc Âm về các chứng “mù” này nên không cần thiết phải bàn thêm ở đây.

Sự thật trong đức ái

Sứ điệp của Chúa Kitô kêu gọi chúng ta tìm kiếm sự thật về chính mình và người khác. Nhưng không bao giờ đánh đổi bằng lòng bác ái. Nói với anh em mình họ sai là bổn phận của người có đạo. Làm cho họ thành đáng khinh, hay tệ hơn, là một tội trọng (“Ai ghét anh em mình là kẻ giết người,” 1Ga 3:15). Sứ điệp không được giao phó cho người công chính, người khỏe mạnh nhưng giao cho người tội lỗi, cho người bệnh tật. Tin vào điều ngược lại là tách mình ra khỏi đạo công giáo và biến nó thành giáo phái của những người được cho là hoàn hảo.

Ngược lại, giữ im lặng về sự thật mà Sứ điệp tiết lộ chính là che giấu kho báu mà chính chúng ta không muốn nếm thử hoa trái. Vấn đề không phải là người này hay người kia có phải là người công giáo hay không, nhưng là chúng ta giúp đỡ nhau như thế nào, sửa lỗi và sửa lỗi cho nhau bằng lòng bác ái và sự tử tế, để lời nói và hành động của chúng ta có thể làm cho khuôn mặt của Đấng chúng ta đặt niềm tin trở nên rõ nét hơn. Chúng ta không nên sợ gọi điều xấu là điều “xấu”. Không từ bỏ việc theo đuổi ánh sáng, dù bóng tối dày đặc đôi khi như muốn nhận chìm chúng ta. Không từ bỏ sự cấp bách của tình yêu mà Chúa Kitô dành cho chúng ta. Hy vọng cuối cùng, vào cuối cuộc đời, chúng ta có thể thì thầm trong hơi thở cuối cùng: “Tôi đã cố gắng trở thành người có đạo.”

Marta An Nguyễn dịch

Với chiếc xe “Cắm trại-Quả tim”, Linh mục Gilles Rousselet đi gặp giáo dân sống ở những vùng biệt lập.

Ông Jacques Poirier làm nhà nguyện di động trên Đường cao tốc 20, bang Quebec-Canada

 

Đức Lêô: Từ Chicago đến Rôma, sứ mệnh của một Giáo hoàng truyền giáo

Đức Lêô: Từ Chicago đến Rôma, sứ mệnh của một Giáo hoàng truyền giáo

la-croix.com. Stéphane Bataillon và Alice le Dréau, 2025-05-14

Đức Lêô kế nhiệm Đức Phanxicô được bầu làm giáo hoàng thứ 267 ngày 8 tháng 5 năm 2025. Hình ảnh: Alessia Giuliani

Từ thời thơ ấu ở Chicago đến ngày chúa nhật nhậm chức 18 tháng 5 tại Rôma, báo La Croix kể câu chuyện của một Giáo hoàng truyền giáo đã cống hiến cuộc đời mình cho Giáo hội.

  1. Từ Chicago đến Peru, rồi đến Rôma: hành trình của một Giáo hoàng truyền giáo
  2. Chúng ta có một người cha! Đức Lêô xuất hiện lần đầu tiên
  3. Tại trung tâm thành phố Rôma, những bước chân đầu tiên của Đức Lêô XIV
  4. Đã được toàn thế giới chấp nhận

Một nụ cười nhẹ, một cái nhìn hướng về bầu trời. Ngày thứ năm  8 tháng 5 năm 2025 sau 7 giờ tối, cuộc đời của Hồng y Robert Francis Prevost vừa thay đổi. 132 Hồng y cử tri từ khắp thế giới đã về họp mật nghị sau cánh cửa đóng kín tại Nhà nguyện Sistine ngày 7 tháng 5 để bầu Giáo hoàng kế nhiệm Đức Phanxicô hai tuần sau khi ngài qua đời. Vào cuối 4 vòng phiếu được cho là nhanh chóng, khói trắng bốc lên!

Vừa mới được bầu, Đức Lêô XIV xuất hiện trên ban công Đền thờ Thánh Phêrô. Hình ảnh Marijan Murat/DPA / SIPA

Ngài 69 tuổi, cựu Bộ trưởng Bộ Giám mục, nhà truyền giáo người Mỹ truyền giáo ở Peru, trở thành giáo hoàng thứ 267 trong lịch sử, dưới danh hiệu Lêô XIV. Một điều bất ngờ: dù ngài rất am hiểu Giáo triều La-mã nhưng ngài không phải là một trong những hồng y được nhắc đến nhiều ở Rôma vài ngày trước cuộc bầu cử. Chính ngài hẳn cũng ngạc nhiên.

Ông John, một trong hai anh của ngài cho biết: “Chính ngài cũng không tin, hoặc không muốn tin.” Ông kể với truyền thông Mỹ một giai thoại thú vị: năm đầu tiên học tiểu học, người hàng xóm đã nói với cậu bé Robert Prevost: sau này cậu sẽ là Giáo hoàng Mỹ đầu tiên.

Đã ở ba châu lục, ngài nổi tiếng là người kín đáo và chu đáo, ngài sẽ truyền bá Phúc Âm và mang lại sự hiệp nhất cho Giáo hội trong một thế giới đang đầy biến động.

Từ Chicago đến Peru, rồi đến Rôma: hành trình của một Giáo hoàng truyền giáo

Robert Francis Prevost sinh ngày 14 tháng 9 năm 1955 tại Dolton, ngoại ô của người lao động ở Nam Chicago, Illinois.

Ngài lớn lên trong ngôi nhà ba phòng ngủ khiêm tốn với cha mẹ và hai anh là John và Louis. Louis Marius Prevost, cha của ngài là người Pháp-Ý, trung úy Hải quân Mỹ trong Thế chiến thứ hai, sau đó ông làm hiệu trưởng và giáo lý viên. Mẹ là bà Mildred Agnes Martinez, người Norman, sinh ở Le Havre năm 1894. Bà là người gốc Tây Ban Nha, Louisiana Creole và Haiti, bà làm thủ thư, tích cực tham gia vào giáo xứ địa phương. Gia đình của ngài ở ngã tư của nhiều văn hóa. Ngôi nhà của ngài bỏ lên thị trường với giá 199.000 đôla, nhưng khi ngài được bầu, ngôi nhà không còn để bán.

Ngôi nhà thời thơ ấu của Robert Francis Prevost ở Dolton, một vùng ngoại ô của người lao động ở Nam Chicago, Illinois. Mega / KCS PRESS

Nhưng ngài là ai? Khi được giới truyền thông Mỹ phỏng vấn vài giờ sau khi ngài được bầu, ông John đã cho xem một bức ảnh cũ chụp hai anh em. “Rob” ở bên phải. Ông nhớ lại: “Khi còn nhỏ, Rob thuộc lòng tất cả lời cầu nguyện tiếng Anh và tiếng La-tinh. Rob luôn đóng vai linh mục, bàn thờ là bàn ủi. Rob là ‘fan’ ái mộ đội bóng chày White Sox của Chicago.” Khi nghe tin em mình làm Giáo hoàng, ông John đã bay từ Illinois qua Rôma, ông nói: “Rob là người bình thường, rất thực tế, có khiếu hài hước và trí thông minh đáng nể.”

Anh của Giáo hoàng Lêô là John. Obed Lamy / AP/SIPA

Sau khi tốt nghiệp ngành toán tại Đại học Công giáo Villanova (Pennsylvania), chàng trai trẻ Robert Prevost theo học thần học tại Liên đoàn Thần học Công giáo ở Chicago, sau đó học Giáo luật ở Học viện Angelicum, Rôma.

Năm 1977, khi ngài 27 tuổi, ngài vào tập viện Dòng Thánh Augustinô, khấn trọn ngày 29 tháng 8 năm 1981. Chịu chức ngày 19 tháng 6 năm 1982, Tổng giám mục người Bỉ Jean Jadot, cựu Sứ thần Tòa Thánh tại Hoa Kỳ, Giám mục của Giáo triều phong chức.

Bức ảnh không ghi ngày tháng của Robert Prevost lúc còn trẻ. Tỉnh Dòng Augustinô / REUTERS

Đức Lêô luôn mang trong trái tim ngài đất nước Peru và cộng đồng giáo dân. Linh mục truyền giáo, ngài truyền giáo hơn 20 năm ở vùng Andes. Trong những năm 1980, ngài ở giáo phận Chulucanas (Tây Bắc) của Dòng Âugustinô. Ngài có bằng tiến sĩ giáo luật năm 1986. Sau đó, từ năm 1988 đến năm 1998, ngài đào tạo các tu sĩ của Dòng tại Trujillo, một thành phố lớn ở miền Bắc Peru. Từ năm 2014 đến năm 2023, ngài là Giám mục của Chiclayo.

Robert Francis Prevost ở vùng núi gần Incahuasi, Peru. Giáo phận Chiclayo / AFP

Trong bài phát biểu đầu tiên ở ban-công Đền thờ Thánh Phêrô, ngài chào “giáo phận thân yêu” của ngài bằng tiếng Tây Ban Nha. Ngài nhập quốc tịch Peru năm 2015, làm cho ngài có danh hiệu “người Mỹ gốc La-tinh nhất” mật nghị.

Hồng y Robert Franci Prevost rước Thánh Thể ở sân vận động của thành phố Chiclayo, Peru ngày 19 tháng 6 năm 2015. Hình ảnh Julio Reano / AP/SIPA

Sau nhiều năm làm nhà truyền giáo ở Peru, ngài làm Bề trên Tổng quyền của Dòng Augustinô từ năm 2001 đến năm 2013. Ngài được bầu lại vào chức vụ này năm 2007 trong vòng 20 phút, một kỷ lục, một dấu hiệu của một thành tựu được đánh giá cao.

Bức ảnh không ghi ngày tháng về cuộc gặp Đức Gioan-Phaolô II và Robert Prevost. Tỉnh Dòng Thánh Augustinô Đức Mẹ Chỉ Bảo Đàng Lành / REUTERS

Đức Lêô kế nhiệm Đức Phanxicô, người bổ nhiệm ngài làm Bộ trưởng Bộ Giám mục và phong ngài làm hồng y năm 2023. Hai người quen biết nhau từ lâu và gặp nhau nhiều lần khi Jorge Mario Bergoglio là Tổng giám mục Buenos Aires.

Kể từ khi được bầu, Đức Lêô luôn tỏ lòng kính trọng sâu sắc đến người tiền nhiệm của ngài. Ngài đặc biệt quan tâm đến việc tiếp tục các dự án Đức Phanxicô đã triển khai như Thượng Hội đồng về tính đồng nghị.

 Hồng y Robert Francis Prevost và Đức Phanxicô ngày 29 tháng 8 năm 2013 tại Rôma. Polaris / Starface

Chúng ta có một người cha! Đức Lêô xuất hiện lần đầu tiên trên ban công của Đền thờ Thánh Phêrô vài phút sau khi Hồng y người Pháp Dominique Mamberti tuyên bố câu nói nổi tiếng: “Habemus papam! Chúng ta có giáo hoàng!” và tuyên bố tông hiệu của ngài: Lêô XIV.

Đức Lêô xuất hiện ở ban-công Đền thờ Thánh Phêrô sau khi được bầu ngày 8 tháng 5 năm 2025. Vatican Media / ABACA

Đức Lêô vẫy tay chào giáo dân trong lần đầu tiên xuất hiện trên ban-công Đền thờ Thánh Phêrô. Hình ảnh / KCS PRESS

Dưới cái nhìn nhân từ của các hồng y vừa bầu chọn, Đức Lêô đã phải dừng bài phát biểu của ngài khi đám đông hô vang tên của ngài.

Kể từ khi tin tức đã có khói trắng lan truyền cách đây hơn một giờ, đám đông 150.000 người đã dần tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô để chào đón Tân Giáo hoàng. Cho đến lúc này, nhiều người vẫn chưa biết tên và khuôn mặt của Hồng y Robert Francis Prevost.

Tại Quảng trường Thánh Phêrô, 150.000 người chào đón Tân Giáo hoàng. JEFF PACHOUD / AFP

Đám đông tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô để dự phép lành đầu tiên của ngài: các tu sĩ, linh mục, gia đình, giáo dân hành hương, người dân Rôma, khách du lịch đủ mọi thành phần già trẻ… tất cả đều ý thức họ sống những giây phút lịch sử.

Các nữ tu chờ để dự buổi ban phép lành đầu tiên của Đức Lêô. Hình ảnh Ivan Romano / Getty

Giữa niềm hân hoan, những lời đầu tiên sâu sắc của ngài là về hòa bình: “Hòa bình của Chúa Kitô Phục sinh, một hòa bình không vũ trang, một hòa bình giải trừ vũ khí, khiêm nhường và bền bỉ”, qua đó ngài xin giáo dân “xây dựng những cây cầu” thông qua đối thoại.

Một phụ nữ Ba Lan sống tại Hoa Kỳ đang ăn mừng với bạn bè khi nghe tin Đức Lêô được bầu. Hình ảnh MARIO TAMA / Getty/AFP

Tại trung tâm thành phố Rôma, những bước chân đầu tiên của Đức Lêô XIV

Ngày thứ sáu, ngày 9 tháng 5. Đức Lêô cử hành thánh lễ đầu tiên với các hồng y tại Nhà nguyện Sistine. Bên dưới trần nhà uy nghi với bức tranh của danh họa Michelangelo, ngài cảnh báo về cám dỗ hạ thấp Giáo hội xuống thành “những tráng lệ của các công trình kiến trúc”, ngài nhắc lại nhiệm thể sống động của Giáo hội được hình thành là nhờ giáo dân khắp nơi trên thế giới, nhờ sự thánh thiện của giáo dân, chứ không nhờ các tòa nhà hùng vĩ. Chính nhờ giáo dân thánh thiện mà Giáo hội sẽ là ngọn hải đăng soi sáng màn đêm của thế giới. Và tôi biết tôi có thể tin anh chị em sẽ đồng hành với tôi.

Trong số 133 hồng y cử tri, ít nhất có 2/3 hồng y đã bỏ phiếu cho ngài. Đức Lêô XIV trong Thánh lễ đầu tiên của ngài với các hồng y tại Nhà nguyện Sistine ngày 9 tháng 5 năm 2025. Vatican Media / AFP

Thứ bảy, ngày 10 tháng 5. Đức Lêô thành kính cầu nguyện trước mộ Đức Phanxicô, tại Đền thờ Đức Bà Cả. Những hành động đầu tiên của ngài cho thấy triều của ngài sẽ nối tiếp triều của Đức Phanxicô, đặc biệt ngài chú trọng đến các bất công xã hội, những người dễ bị tổn thương, mong muốn công bố và sống một đức tin “vui tươi”. Tốc độ bước đi đầu tiên của ngài? “Nhẹ nhàng, nhẹ nhàng” như các người ở Vatican thường nói. Nhẹ nhàng. Vì Đức Lêô XIV là “người suy nghĩ trước khi hành động, lắng nghe trước khi nói”, các anh em tu sĩ Dòng Âugustinô của ngài cho biết như thế.

Đức Lêô XIV viếng mộ Đức Phanxicô ngày 10 tháng 5 năm 2025. Truyền thông Vatican / AFP

Thứ bảy 10 tháng 5. Đức Lêô họp với Hội đồng các Hồng y, ngài thu thập các đề xuất, gợi ý và lời khuyên cụ thể. Ngài triệu tập các hồng y đến họp vào ngày sau khi ngài được bầu, thứ Bảy, ngày 10 tháng 5 năm 2025. Vatican Media / AFP

Chúa nhật 11 tháng 5, sau khi ngài viếng mộ Đức Phanxicô, ngài cử hành thánh lễ chúa nhật đầu tiên của ngài ở cương vị Giáo hoàng tại hầm mộ Thánh Phêrô dưới Đền thờ Thánh Phêrô. Trong bài giảng, ngài nhấn mạnh đến mục vụ lắng nghe: lắng nghe Chúa và lắng nghe người khác. Sau thánh lễ, ngài cầu nguyện vài phút trước mộ Thánh Phêrô, Giám mục đầu tiên của Rôma. Sau đó ngài cầu nguyện ở tượng Đức Mẹ Guadalupe, bổn mạng của Châu Mỹ Latinh.

Đức Lêô đến Hang đá Vatican để cử hành Thánh lễ tại bàn thờ gần mộ Thánh Phêrô ngày 11 tháng 5 năm 2025. Vatican media / ABACA

Thứ hai, ngày 12 tháng 5. Đức Lêô là người kín đáo, ngài sẽ phải làm quen với đám đông, với những cái bắt tay nhanh như chớp, như có thể thấy ở đây với gần 2.500 nhà báo từ khắp nơi trên thế giới. Làm sao có thể rao giảng Phúc Âm cho một xã hội thế tục, đây sẽ là một trong những thách thức của nhà truyền giáo.

 Đức Lêô trong buổi gặp các nhà báo ngày thứ hai 12 tháng 5. Matrix Images/Andre Pain

Một “cơn sốt papamania” như cơn sốt đã diễn ra thời Đức Phanxicô không? Tại Quảng trường Thời đại, New York, chân dung của Đức Lêô được trưng trên màn hình khổng lồ giữa các biển quảng cáo.

Một bức ảnh của Giáo hoàng Lêô XIV được trưng tại Quảng trường Thời đại ở Thành phố New York ngày 8 tháng 5 năm 2025. Jose Perez/Bauer-Griffin / GC Images

Tại Chiclayo, giáo xứ Peru của ngài, giáo dân giơ cao ảnh của cựu giám mục cũ trong thánh lễ vinh danh ngài.

Các giáo dân giáo xứ Peru cũ của Đức Lêô XIV mừng cuộc bầu cử của ngài. Guadalupe Pardo / AP/SIPA

Các báo của Bờ Biển Ngà đưa tin về Đức Lêô XIV một ngày sau khi ngài được bầu. ISSOUF SANOGO / AFP

Tại Chicago, quê hương của ngài, hình của ngài trên các chiếc áo được bày bán trước mỗi trận bóng chày. Áo phông có hình Đức Lêô được bán bên ngoài Sân vận động Rate Field trước trận đấu bóng chày giữa Chicago White Sox Miami Marlins ngày thứ bảy 10 tháng 5 năm 2025 tại Chicago. Erin Hooley / AP/SIPA

Giáo hoàng siêu sao?

Không chắc các cuộc tụ tập này ngài có thích không. Trong bài giảng đầu tiên ngày 9 tháng 5, ngài đã làm cho mọi người nhớ câu hỏi Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai? (…) Một người chính trực, can đảm, ăn nói lưu loát và nói những điều đúng đắn? Dù ngày nay vẫn có những bối cảnh mà Chúa Giêsu dù được đánh giá cao, cũng bị hạ thấp xuống như một nhà lãnh đạo siêu nhân lôi cuốn”, Đức Lêô xin mọi người trả lời như Thánh Phêrô đã trả lời cho Chúa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Giáo sư Mathieu Guillermin: “Đối diện với AI, Giáo hội nhắc lại tầm quan trọng của chiều kích nhập thể của chúng ta”

Giáo sư Mathieu Guillermin: “Đối diện với AI, Giáo hội nhắc lại tầm quan trọng của chiều kích nhập thể của chúng ta”
lavie.fr, Anne Guion, 2025-07-18
Hình ảnh Beata Zawrzel / La Vie
Ở thời buổi trí tuệ nhân tạo đang phá vỡ mối quan hệ của chúng ta với kiến thức và với người khác, giáo sư Guillermin ủng hộ một chủ nghĩa nhân văn mới không chỉ giới hạn con người vào lý trí. Một suy ngẫm đặc biệt sáng suốt vào thời điểm AI mang lại nhiều hy vọng cũng như nỗi sợ hãi.
Giáo sư triết gia Mathieu Guillermin, Đại học Công giáo Lyon, chỉ đạo dự án NHNAI quốc tế (New Humanism in the time of Neurosciences and Artificial Intelligence. Chủ nghĩa nhân văn mới trong thời đại khoa học thần kinh và trí tuệ nhân tạo).
Giáo sư có thể giải thích ngắn gọn cho chúng tôi biết Trí tuệ nhân tạo (AI) là gì và nó đặt ra những vấn đề cụ thể nào theo quan điểm tâm linh và tôn giáo?
Giáo sư Mathieu Guillermin: Để hiểu rõ các vấn đề, trước tiên chúng ta cần làm sáng tỏ AI. Một số người, vì niềm tin cho rằng chúng ta đang trong quá trình tạo ra một dạng thần thánh hoặc đấng siêu nhiên. Đây là quan điểm sai lầm.
Máy tính không phải là phép thuật: nó là cỗ máy có thể thao tác các ký hiệu theo các quy tắc chính xác, giống như chiếc đồng hồ tinh vi. Dữ liệu chỉ đơn giản là chuỗi ký hiệu chúng ta gán cho nó.
AI là việc tạo ra các chương trình có khả năng thực hiện các nhiệm vụ mà nếu do con người thực hiện thì sẽ đòi hỏi trí thông minh cao. Kể từ năm 2010, điểm đặc trưng của AI hiện đại là học máy: thay vì viết rõ ràng tất cả các quy tắc, chúng ta tạo ra “hộp đen” có các tham số tự động điều chỉnh nhờ vào nhiều ví dụ. Những tiến bộ ngoạn mục gần đây là nhờ vào lượng dữ liệu khổng lồ có sẵn trên Internet.
Nhưng điều cơ bản chúng ta cần hiểu: AI vẫn là sản phẩm của trí tuệ con người. Như Đức Phanxicô đã nói, chúng ta có quyền giám sát thế giới về mặt sinh thái và đạo đức. AI sẽ không bao giờ trả lời được những câu hỏi cơ bản về ý nghĩa và giá trị – trách nhiệm đó thuộc về chúng ta.
Điều thực sự “tuyệt vời” về AI không phải là hình thức siêu việt nào, nhưng là minh chứng cho sự thông minh và thành thạo của con người. Nếu không có khả năng cung cấp các ví dụ liên quan và đánh giá trí thông minh, AI sẽ không tồn tại.
Giáo sư là người điều khiển dự án NHNAI để kêu gọi một “chủ nghĩa nhân văn mới”. Vì sao lại có thuật ngữ này và vì sao nó lại trở nên quan trọng như vậy?
Thuật ngữ “chủ nghĩa nhân văn mới” và từ viết tắt NHNAI là của linh mục vật lý gia Thierry Magnin, ngài gởi cho tôi dự án này. Sự quan tâm của tôi không chỉ giới hạn ở thuật ngữ: nó liên quan đến một câu hỏi cơ bản hơn: chúng ta muốn trở thành ai? Không chỉ là những cá nhân trong văn hóa cụ thể nhưng chúng ta còn là người bảo vệ có trách nhiệm cho sự thịnh vượng của thế giới.
Dự án này được triển khai tại chín quốc gia, tạo ra không gian cho đối thoại tập thể. Vai trò của chúng tôi không phải là áp đặt tầm nhìn mà là cung cấp các công cụ và phương pháp để suy ngẫm, để làm cho cuộc thảo luận phong phú hơn. Ngày nay, AI đặt ra cho chúng ta những câu hỏi sâu sắc, phản ánh lịch sử hiện đại. Vào thế kỷ 19, chúng ta đã trải qua sự thay đổi đầu tiên trong quá trình tự động hóa công việc thủ công, chúng ta đánh mất giá trị của nghề thủ công vì hiệu quả sản xuất.
Ngày nay, AI đang phá vỡ những gì chúng ta cho là “pháo đài” của chúng ta: trí thông minh và lý trí. Nghịch lý thay, chính những ngành nghề thủ công có giá trị, những ngành chống lại làn sóng tự động hóa là tốt nhất. Những diễn biến này đặt ra các câu hỏi rất cụ thể trong cuộc sống hàng ngày: vì sao phải tự làm nhiệm vụ? Viết một bài nghiên cứu có ý nghĩa là gì? Điều gì thực sự cần thiết trong các hoạt động của chúng ta?
Khi tôi đưa bài tập cho học sinh, tôi thường nói trước: “Khi sử dụng AI, các em cần suy nghĩ về mục tiêu của bài tập. Nếu các em hiểu lý do vì sao tôi đưa bài cho các em, thì các em sẽ xem việc dùng ChatGPT là vô lý với các em.”
Đối diện với sự hiện đại có xu hướng giản lược con người thành lý trí tính toán duy nhất, chúng ta cần một tầm nhìn phong phú hơn, tích hợp mọi chiều kích của trải nghiệm con người. Những câu hỏi này, trước đây chỉ mang tính lý thuyết, giờ đây rất thực tế, buộc chúng ta phải suy nghĩ lại về ý nghĩa của thể chế và của các hoạt động của mình.
Ngoài ra còn có câu hỏi về khả năng phi nhân hóa, AI ngày càng bắt chước con người…
Đây thực sự là mối nguy hiểm cần phải xem xét một cách nghiêm túc. Nguyên tắc cơ bản là phải yêu cầu sự minh bạch: chúng ta phải luôn biết liệu mình đang tương tác với máy móc hay con người. Sự rõ ràng này rất cần thiết để có thể đánh giá chính xác giá trị của tương tác.
Chúng ta lấy ví dụ cụ thể: những lời cảm thông do máy móc thốt ra, ngay cả khi có vẻ phù hợp, cũng không nên có cùng giá trị cảm xúc như khi chúng ta tiếp xúc trực tiếp với nhau. Sự khác biệt này là cơ bản. Nỗi sợ thực sự nằm ở nguy cơ mất đi sự trân trọng của những gì đã làm nên sự phong phú của các mối quan hệ giữa con người: sự phức tạp, sự không chắc chắn và sự xung đột giữa mọi người.
Chatbot và những bạn đồng hành nhân tạo được lập trình để dễ tính, không bao giờ làm chúng ta khó chịu và luôn theo ý chúng ta. Sự thoải mái giả tạo này có thể làm chúng ta quên rằng giá trị thực sự của các mối quan hệ giữa con người nằm ở tính chân thực và tính không thể đoán trước của chúng.
Hiện tại có một chút lo ngại về ngày tận thế xung quanh AI, nỗi sợ cho rằng nó có thể là nguyên nhân dẫn đến sự tuyệt chủng của loài người…
Về mặt lý thuyết, mối lo ngại này không phải là không có ý nghĩa. Nick Bostrom (triết gia người Thụy Điển nổi tiếng với công trình nghiên cứu về rủi ro hiện sinh) đã tưởng tượng một tình huống thú vị: nếu chúng ta giao phó một nhiệm vụ cho một hệ thống rất hiệu quả, chúng ta có nguy cơ đưa ra chỉ dẫn có thể tạo ra hành vi không thể đoán trước. Ví dụ một cỗ máy được lập trình để làm kẹp giấy – nếu hết kim loại, nó có thể quyết định ngăn con người tiêu thụ kim loại để tiếp tục nhiệm vụ của mình.
Thách thức cơ bản của máy móc nằm ở chỗ chúng ta không thể dự đoán chính xác các hành động của nó. Tuy nhiên, hai rủi ro cấp bách và đáng lo ngại hơn đang nổi lên. Đầu tiên là phát triển phần mềm có khả năng viết và biên dịch mã. Ngay cả trước khi máy móc “nắm quyền điều khiển”, chúng ta có nguy cơ chứng kiến các tác dụng phụ không lường trước được: một đoạn mã lan truyền khắp nơi và làm sụp đổ cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của chúng ta. Hậu quả sẽ rất thảm khốc: máy bay rơi, bệnh viện tê liệt…
Rủi ro thứ hai liên quan đến các thuật toán đề xuất cung cấp nội dung để tối đa hóa sự tương tác của chúng ta trên các nền tảng. Nội dung này kích hoạt các mạch đền bù ngắn, giống như một loại thuốc. Về lâu dài, nó làm hại đến hệ thống nhận thức của chúng ta, làm chúng ta mất đi hứng thú với các tương tác xã hội thực sự, làm giảm khả năng bình tĩnh tranh luận về các vấn đề chính trị lớn, đẩy chúng ta đến tình trạng cạn kiệt tài nguyên của hành tinh đến mức hỗn loạn.
Đức Lêô XIV đã so sánh cuộc cách mạng công nghiệp và cuộc cách mạng AI. Có đáng ngạc nhiên khi Giáo hoàng quan tâm đến điều này?
Mối quan tâm này là một phần của tính liên tục thực sự. Sự tương đồng với cuộc cách mạng công nghiệp đặc biệt có liên quan, nhất là về mặt kinh tế xã hội. Cuối thế kỷ 19 đánh dấu những thời điểm đầu tiên hợp lý hóa công việc, khi các nghề thủ công bị gạt sang một bên vì chúng bị coi là không hiệu quả.
Chủ nghĩa Taylor và chủ nghĩa Ford đã khai sinh ra khái niệm giai cấp vô sản, làm thay đổi căn bản cách chúng ta sản xuất và chia sẻ của cải. Ngày nay, AI đang tạo ra sự tái cấu trúc tương tự về mô hình chia sẻ của cải, với sự tái thiết các cấu trúc bất bình đẳng.
Giáo hội có thể đóng vai trò gì trong bối cảnh cách mạng công nghệ này?
Vai trò của Giáo hội trong cuộc tranh luận này đặc biệt quan trọng vì Vatican có một vị trí độc nhất: thực tế đây là quốc gia duy nhất thực sự độc lập hiện nay. Sự độc lập này là cơ bản, vì nó cho phép quốc gia tự do bày tỏ quan điểm về các vấn đề này mà không phải chịu áp lực kinh tế, không giống như hầu hết các quốc gia thường mắc nợ, họ khó chống lại xu hướng thị trường mà không sợ nguy cơ bị trừng phạt kinh tế. Các văn bản của Vatican về AI xuất bản trong năm năm qua có tính sáng tỏ và liên quan đáng kể, ngay cả với những người không có đạo.
Baptiste Jamin: “Trí tuệ nhân tạo như có thầy kèm riêng ở nhà đủ các môn học
Ngoài khía cạnh địa chiến lược này, kitô giáo mang đến một góc nhìn thiết yếu: một tôn giáo hướng tới sự sống và chú ý đến chính sự sống. Đối diện với một tầm nhìn giản lược muốn đồng hóa con người với một chương trình đơn giản có thể so sánh với AI, Giáo hội nhắc lại tầm quan trọng của chiều kích hiện thân trong sự tồn tại của chúng ta.
Sự quan tâm đặc biệt đến “cộng đồng những người đang sống trong những gì được trải nghiệm bằng xương bằng thịt” ngày nay được chứng minh là quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Đó là việc nuôi dưỡng khả năng nhận ra giá trị nội tại của trải nghiệm sống, giống như đứa con vẽ tranh mừng ngày Lễ Người Cha – một cử chỉ vượt xa sự hoàn hảo về mặt kỹ thuật, mang một giá trị vô giá vì nó là biểu hiện của một ý định, một cảm xúc, một cuộc sống.
Giáo sư có xác định được bất kỳ văn bản tôn giáo nào có thể giúp chúng ta suy nghĩ về những vấn đề này không?
Chủ yếu tôi dựa vào các văn bản gần đây như Antiqua et Nova của Bộ Văn hóa Giáo dục về giáo lý đức tin. Những văn bản này đặc biệt lấy cảm hứng từ Thánh Augustinô về trí thông minh như ratio (lớp áo phản xạ, tính toán), về intellectus (khả năng nắm bắt tức thời).
Ngoài ra còn có một số thông điệp ngắn hữu ích của Vatican về AI. Có một khối lượng lớn công trình nghiên cứu học thuật nuôi dưỡng phản ánh và giúp chúng ta tạo ra những văn bản này dựa trên “những điều cốt lõi nhất” để làm sáng tỏ các vấn đề này.
Trí tuệ nhân tạo – Công cụ đầy hấp dẫn và đáng sợ
Giáo sư có lời khuyên nào dành cho độc giả để tiếp cận những phát triển công nghệ này không?
Chúng ta phải hiểu AI không phải là vấn đề tất yếu mà là vấn đề chính trị. Không phải thế giới công nghệ áp đặt lên chúng ta, mà chính chúng ta phải cùng nhau quyết định xem chúng ta muốn dành cho nó vị trí nào. Điều này được phản ánh trong những lựa chọn hàng ngày của chúng ta, đặc biệt là trong việc tiêu dùng – ví dụ, liệu mọi thứ miễn phí trên YouTube có thực sự tốt không? Chúng ta phải tham gia vào quá trình suy ngẫm tập thể: chúng ta muốn một thế giới như thế nào? Nhu cầu thực sự của chúng ta là gì?
Đây không chỉ là vấn đề quy định từ cấp trên; mọi người phải đóng góp vào việc xác định hướng đi mà chúng ta muốn đưa ra cho sự phát triển này. Câu hỏi cơ bản là: chúng ta muốn hướng tới một thế giới như thế nào trong tương lai? Chúng ta muốn sống như thế nào giữa loài người, với những sinh vật khác trên hành tinh này? Đây là địa bàn chúng ta có thể thảo luận với các kỹ thuật viên để xem công nghệ có thể giúp chúng ta đi đúng hướng như thế nào.
Trí tuệ nhân tạo kitô giáo, CatéGPT… Liệu AI có thực sự nuôi dưỡng đức tin kitô giáo của chúng ta không?
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Đức Lêô XIV và vấn đề phụ nữ trong Chức Thánh

Đức Lêô XIV và vấn đề phụ nữ trong Chức Thánh

belgicatho.be, Tiến sĩ Dominic Cerrato, 2025-07-17

Đức Lêô XIV chào giáo dân khi ngài về nghỉ hè hai tuần ở Castel Gandolfo, cách Rome 40 cây số về phía đông nam, ngày 6 tháng 7 năm 2025. (Ảnh: ANDREAS SOLARO/AFP)

Đức Lêô XIV và vấn đề phụ nữ trong Chức Thánh

Khi còn là Hồng y, Đức Lêô đã lo ngại về các xu hướng định hình các cuộc tranh luận trong Giáo hội – đặc biệt các tranh luận xoay quanh vai trò phụ nữ trong Chức Thánh – theo các thuật ngữ chính trị xã hội.

Hồng y Robert Prévost lên ngôi giáo hoàng ở giai đoạn suy tư thần học sâu sắc và tự vấn sâu sắc về thể chế trong Giáo hội. Việc bầu chọn ngài diễn ra trong bối cảnh Thượng Hội đồng toàn cầu của Giáo hội, do Đức Phanxicô khởi xướng, một tiến trình mời gọi toàn thể dân Chúa phân định cảm nghiệm của Chúa Thánh Thần liên quan đến đời sống và sứ mệnh của Giáo hội trong thế giới hiện đại.

Trong suốt quá trình Thượng Hội đồng, nhiều nguyện vọng, nhiều quan tâm, nhiều câu hỏi thần học. nhiều vấn đề liên quan đến các cuộc tranh luận lâu đời và nhạy cảm của Giáo hội đã được nêu ra. Một trong những vấn đề quan trọng nhất theo quan điểm thần học là vấn đề cho phép phụ nữ lãnh nhận bí tích Truyền chức thánh, đặc biệt dưới hình thức truyền chức phó tế.

Bài phân tích này nghiên cứu định hướng có thể có của Đức Lêô XIV về vấn đề này, dựa trên các tuyên bố công khai trước đây của ngài, kinh nghiệm mục vụ, tầm nhìn thần học và trách nhiệm mục vụ của ngài dẫn đến việc ngài được bầu làm giáo hoàng. Dù ngài chưa đưa ra bất kỳ tuyên bố chính thức nào về vấn đề này, nhưng chúng ta có thể dựa vào quá trình suy đoán thần học nghiêm ngặt dựa trên hành trình của ngài.

Vì thế mục đích của nghiên cứu này không phải là dự đoán chắc chắn về hướng đi tương lai của giáo lý hoặc chính sách của ngài, nhưng là phân tích các mô hình lãnh đạo Giáo hội của Hồng y Prevost, từ đó có thể hiểu rõ hơn về khuynh hướng của ngài với các tranh luận đang diễn ra liên quan đến phụ nữ và chức thánh.

Trong bối cảnh này, ngài xuất hiện như một nhân vật của liên tục và sáng suốt. Đào tạo thần học theo truyền thống Augustinô, kết hợp với nhiều thập kỷ kinh nghiệm mục vụ tại Châu Mỹ la-tinh và sự lãnh đạo của ngài trong Giáo triều với tư cách là Bộ trưởng Bộ Giám mục, đã hình thành ngài là người hết lòng cho sự toàn vẹn của giáo lý công giáo, đồng thời vẫn chú ý đến nhu cầu và tiếng nói của giáo dân. Sự nghiệp của ngài chứng tỏ lòng trung thành tuyệt đối của ngài với Giáo quyền, đặc biệt trong các lãnh vực liên quan đến các Bí tích và cơ cấu của các chức thánh. Ngài cởi mở trong lãnh vực mục vụ, tìm những cách thức hợp pháp để tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào đời sống Giáo hội, với điều kiện là những phát triển này vẫn nằm trong giới hạn của mặc khải thiêng liêng, tông truyền và nhân học thần học của Giáo hội.

Lòng trung thành – với tính toàn vẹn về giáo lý và với cam kết mục vụ – là đặc điểm của tầm nhìn rộng lớn về giáo hội học của Đức Lêô XIV. Qua đó xác định lăng kính diễn giải về vấn đề phụ nữ và chức thánh dưới triều của ngài. Vì thế bài phân tích ngắn này theo tinh thần hiệp thông giáo hội và nghiên cứu học thuật, với nhận thức bất kỳ giải pháp dứt khoát nào cho vấn đề này cuối cùng đều thuộc về trách nhiệm chính của ngài, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong việc phục vụ chân lý được giao phó cho Giáo hội.

Đào tạo thần học và lộ trình giáo hội

Trước khi làm giáo hoàng, ngài là Bề trên Tổng quyền của Dòng Augustinô, sau đó là Giám mục của Chiclayo, Peru. Những kinh nghiệm này, đặc biệt ở Châu Mỹ la-tinh đã giúp ngài phát triển sự nhạy cảm với nhu cầu của các Giáo hội địa phương và gắn bó sâu sắc với mục vụ hợp tác. Việc bổ nhiệm ngài làm Bộ trưởng Bộ Giám mục dưới thời Đức Phanxicô đã đưa ngài vào trọng tâm của công cuộc cải cách và phân định giám mục.

Định hướng thần học của ngài phản ánh sự cân bằng giữa đổi mới mục vụ và ổn định giáo lý. Về vấn đề này, ngài có thể được cho là người thừa kế, người bảo vệ di sản thần học và giáo hội của Công đồng Vatican II, đặc biệt là các giáo huấn của Công đồng về tinh thần đồng nghị, cảm thức đức tin và trách nhiệm đồng lãnh đạo của tất cả những người đã chịu phép rửa tội.

Với tư cách là Tổng trưởng, ngài giám sát tiến trình đưa phụ nữ vào quá trình tham vấn và ra quyết định cho các bổ nhiệm giám mục. Năm 2022, Đức Phanxicô đã bổ nhiệm ba phụ nữ vào Bộ Giám mục với tư cách là thành viên bỏ phiếu chính thức – lần đầu tiên trong lịch sử Giáo triều Rôma. Đức Prevost ủng hộ sáng kiến này, ngài nói: “Tôi nghĩ việc bổ nhiệm các giám mục không chỉ là một cử chỉ của Giáo hoàng muốn nói hiện nay cũng có phụ nữ ở đây. Nhưng phụ nữ đã thực sự tham gia, chân thành và có ý nghĩa vào các cuộc họp của chúng tôi khi thảo luận về hồ sơ ứng tuyển.” (1)

Đức Phanxicô: «Ước mong tài năng của phụ nữ được thể hiện trọn vẹn!»
Mười chân dung phụ nữ trong Giáo hội

Sự phát triển này rất quan trọng, nhưng phạm vi chỉ giới hạn ở tham vấn và khuyến nghị. Không có lúc nào Đức Prévost gợi ý các mô hình hợp tác này đủ điều kiện để lãnh nhận các bí tích, ngài cũng không nhầm lẫn trách nhiệm chung với chức thánh. (2)

Phụ nữ và Chức Tư tế: Thiết lập Ranh giới Giáo lý

Hồng y Prevost luôn bảo vệ giáo lý cơ bản của Giáo hội rằng việc phong chức linh mục chỉ dành riêng cho nam giới. Tại Thượng Hội đồng Giám mục năm 2023 về tính đồng nghị, ngài đã trả lời các câu hỏi về khả năng phong chức linh mục cho phụ nữ: “Tôi nghĩ chúng ta đều quen thuộc với truyền thống lâu đời và rất quan trọng của Giáo hội, truyền thống tông đồ đã được nêu rõ ràng, đặc biệt khi nói về vấn đề phong chức linh mục cho phụ nữ.” (3)

Tuyên bố này phản ánh sự tiếp nối rõ ràng với Tông thư Ordinatio Sacerdotalis của Đức Gioan-Phaolô II, trong đó ngài tuyên bố: “Giáo hội không có thẩm quyền phong chức linh mục cho phụ nữ.” Giáo huấn này sau đó đã được Bộ Giáo lý Đức tin xác nhận và tuyên bố: “Giáo huấn này đòi hỏi sự chấp thuận dứt khoát, vì, dựa trên Lời Chúa đã được viết ra và ngay từ đầu, luôn được bảo tồn và áp dụng trong Truyền thống của Giáo hội, giáo huấn này đã được Huấn quyền thông thường và phổ quát trình bày một cách không thể sai lầm.”

Về mặt này, tính chất ràng buộc của nó không bắt nguồn từ các chuẩn mực xã hội học hay tiền lệ lịch sử, mà từ logic thần học dựa trên sự đồng hình đồng dạng bí tích của linh mục với Chúa Kitô, là Đầu là Phu quân của Giáo hội. (4)

Chức phó tế: sự cởi mở về giáo lý hay sự thích nghi về mục vụ?

Trong khi chức linh mục dường như hoàn toàn khép kín trước mọi phát triển về mặt giáo lý, thì vấn đề chức phó tế nữ vẫn là đối tượng của suy tư thần học tích cực và phân định của Giáo hội. Để đáp lại Thượng hội đồng giám mục về vùng Pan-Amazon và những lời kêu gọi lâu nay về việc làm rõ, Đức Phanxicô đã triệu tập hai ủy ban nghiên cứu vào năm 2016 và 2020.

Nghiên cứu đầu tiên tập trung chủ yếu vào bằng chứng lịch sử liên quan đến chức phó tế nữ trong Giáo hội sơ khai, trong khi nghiên cứu thứ hai, đa dạng hơn về thành phần và phương pháp luận, có nhiệm vụ đánh giá những hàm ý về mặt thần học và mục vụ của khả năng khôi phục chức phó tế nữ dưới một hình thức nào đó.

Mặc dù báo cáo cuối cùng của hai Ủy ban chưa được công bố, Đức Phanxicô thừa nhận Ủy ban đầu tiên năm 2016 đã không đạt được sự đồng thuận. Tại một cuộc họp báo trên chuyến bay năm 2019, ngài giải thích: “Mọi người đều có lập trường khác nhau, đôi khi rất khác nhau, họ làm việc cùng nhau và hòa hợp ở một mức độ nào đó. Mỗi người đều có tầm nhìn riêng, không đồng ý với những người khác, và Ủy ban dừng lại ở đó.” (5)

Sự thừa nhận này nhấn mạnh đến tính phức tạp về mặt thần học và lịch sử của vấn đề, cho thấy bất kỳ sự phát triển học thuyết nào trong lãnh vực này đều đòi hỏi, nhiều hơn là chỉ nêu ra các giai thoại hoặc các hoạt động riêng lẻ. Thay vào đó, điều này đòi hỏi một diễn đạt thần học có hệ thống về chức phó tế, chứng minh tính thống nhất nội tại, lòng trung thành với truyền thống tông đồ và phù hợp với tính hiệp nhất của bí tích Truyền chức thánh.

Do đó, thách thức ở đây không chỉ là xác minh lịch sử mà còn là tích hợp giáo lý. Chức phó tế, dù khác biệt với chức linh mục và chức giám mục về chức năng, nhưng vẫn dự vào tính chất bản thể của bí tích. Vì thế bất kỳ đề xuất nào về việc phong chức phó tế cho phụ nữ đều phải đặt câu hỏi liệu sự thay đổi như vậy có ảnh hưởng đến hình thức và nội dung của bí tích hay không và liệu nó có phù hợp với nhân học thần học và loại hình bí tích của Giáo hội hay không.

Nữ tu thần học gia Sara Butler lưu ý: “Gánh nặng chứng minh nằm ở những người đề xuất cho phép phụ nữ làm phó tế, chứ không phải ở những người bảo vệ truyền thống.” (6) Lời khẳng định này không chỉ hàm ý xác nhận về mặt lịch sử mà còn hàm ý về phát triển giáo lý để bảo vệ sự hiệp nhất của các Chức Thánh và cấu hình bản thể của thừa tác viên được truyền chức.

Nhân chứng lịch sử và chức vụ của các nữ phó tế

Vai trò các phó tế nữ trong Giáo hội sơ khai đã được chứng minh rõ ràng, đặc biệt là ở phương Đông. Họ đảm nhiệm các vai trò như hỗ trợ làm lễ rửa tội cho phụ nữ trưởng thành, chăm sóc mục vụ và tham gia các hoạt động từ thiện.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu như Aimé Georges Martimort và Manfred Hauke chứng minh rằng chức phó tế nữ thiếu tính chất bí tích đặc trưng của chức phó tế nam (7). Nghi thức truyền chức, nếu có, không viện dẫn những công thức tương tự và không trao các chức năng thừa tác, pháp lý hoặc phụng vụ. Các nữ phó tế thường được ghi danh vào dòng góa phụ hoặc trinh nữ thay vì được chấp nhận vào dòng thánh theo đúng nghĩa.

Tài liệu năm 2002 của Ủy ban Thần học Quốc tế, Từ Diakonia của Chúa Kitô đến Diakonia của các Tông đồ, kết luận rằng chức vụ phó tế thời xưa “không chỉ đơn thuần được cho là chức vụ tương đương của phụ nữ với chức phó tế của nam giới. (8) Đúng hơn, đó là “chức năng của Giáo hội do phụ nữ thực hiện” và không mang tính chất bí tích. (9)

Những phát hiện này đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự miễn cưỡng của giáo quyền trong việc xem xét các nữ phó tế như là tiền lệ thần học cho việc truyền chức bí tích.

 Sự hiệp nhất bí tích và sự nhất quán thần học

Một trở ngại thần học lớn với việc phong chức phó tế cho phụ nữ nằm ở tính hiệp nhất của bí tích Truyền chức thánh. Theo Hiến chế Hiến chế Tín lý về Hội thánh Lumen Gentium, Dòng gồm ba cấp bậc – giám mục, linh mục và phó tế – cùng tham gia vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô (10). Chức phó tế, dù có chức năng riêng biệt, nhưng vẫn chia sẻ đặc tính bí tích và dấu ấn bản thể của bí tích. Công thức non ad sacerdotium sed ad ministerium không làm giảm bản chất bí tích nhưng làm rõ định hướng của nó hướng tới việc phục vụ hơn là chức vụ linh mục và quản trị.

Do đó, việc đưa phụ nữ vào chức phó tế đòi hỏi phải đánh giá lại nội dung và hình thức bí tích, với hàm ý mở rộng sang giáo hội học, nhân chủng học và thần học bí tích. Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo quy định: “Chỉ có người nam đã chịu phép rửa tội (vir) mới có thể được thụ phong linh mục một cách hợp lệ.” (11)

Bất kỳ sự thay đổi nào đối với học thuyết này đều đòi hỏi nhiều hơn tiền lệ lịch sử; nó sẽ đòi hỏi một biện minh thần học dựa trên sự mặc khải của Chúa.

Quyền lực Giáo hội và áp lực văn hóa

Đức Lêô XIV, với tư cách là Hồng y Prévost, đã nhiều lần bày tỏ mối lo của ngài về xu hướng định hình các cuộc tranh luận trong Giáo hội – đặc biệt là các cuộc tranh luận xoay quanh vai trò của phụ nữ trong chức thánh – theo các thuật ngữ chính trị xã hội. Đáp lại những đề xuất cho rằng lãnh đạo trong Giáo hội nên được mô phỏng theo các mô hình được thấy ở các xã hội dân chủ, ngài lưu ý một cách sâu sắc: “Chỉ vì một phụ nữ có thể trở thành tổng thống hoặc nắm giữ nhiều vai trò lãnh đạo khác nhau trên khắp thế giới không có nghĩa là có sự tương đồng ngay lập tức… Không đơn giản để nói: ‘Bạn biết đó, vào thời điểm này, chúng ta sẽ thay đổi truyền thống Giáo hội sau 2.000 năm.’” (12)

Quan sát của ngài phản ánh mối quan tâm thần học sâu sắc hơn: kết hợp giữa chủ nghĩa bình đẳng thế tục với bản thể Giáo hội. Theo Đức Lêô XIV và truyền thống Công giáo nói chung, Giáo hội không phải là một tổ chức xã hội học mô phỏng theo các hệ thống chính trị đương thời, nhưng là một hiệp thông bí tích do Chúa Kitô thiết lập và được Chúa Thánh Thần thúc đẩy. Vì vậy, cấu trúc của Giáo hội bao gồm sự phân biệt vai trò giữa giáo dân và giáo sĩ, nam và nữ, không chủ yếu liên quan đến địa vị hay quyền lực, mà liên quan đến ý nghĩa bí tích và sứ mệnh thiêng liêng.

Sự phân biệt này bắt nguồn từ nhân học thần học cổ điển, theo đó bình đẳng về phẩm giá không có nghĩa là đồng nhất về chức năng. Dựa trên thần học về thân xác của Thánh Phaolô, Giáo hội dạy các ân huệ thiêng liêng được ban theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chứ không theo sở thích của con người: “Có nhiều loại ân huệ, nhưng chỉ có một Thần Khí… Thần Khí được biểu lộ nơi mỗi người một cách, vì lợi ích chung” (1 Cr 12:4.7; NRSVCE).

Áp dụng vào vấn đề Truyền chức thánh, điều này có nghĩa chỉ truyền chức cho nam giới không có nghĩa phụ nữ thấp kém hơn, nhưng đây là sự phân biệt giữa biểu tượng và bí tích. Trong bối cảnh này, thừa tác viên được truyền chức hành động với tư cách Chúa Kitô là Đầu trong trường hợp các linh mục, và với tư cách là Chúa Kitô Phục vụ trong trường hợp các phó tế. Hai vai trò này tham gia vào đời sống bí tích của Giáo hội và được cấu hình theo Chúa Kitô về mặt bản thể và biểu tượng theo những cách riêng biệt, mỗi vai trò đều hướng đến mầu nhiệm hôn nhân của Chúa Kitô là Chú Rể và Giáo hội là Cô Dâu. (13)

Thay vì áp dụng các phạm trù đại diện thế tục, Đức Lêô XIV lập luận các vai trò của Giáo hội phải được phân định trong logic thần học và bí tích chi phối đời sống Giáo hội. Logic này bao gồm biểu tượng kiểu mẫu, biểu tượng cánh chung và lòng trung thành với tấm gương của Chúa Kitô và truyền thống tông đồ. Về vấn đề này, bất kỳ nỗ lực nào nhằm tái cấu trúc vai trò của Bộ trưởng phải trên cơ sở các khái niệm chính trị xã hội về bình đẳng.

Sự thờ phượng có nguy cơ làm lu mờ ý nghĩa thần học được neo giữ trong trật tự bí tích của Giáo hội. Đức Lêô nhấn mạnh về những nguyên tắc này cho thấy cam kết rộng hơn của ngài với phương pháp giải thích về tính liên tục, chống lại áp lực của tính trực tiếp về văn hóa, để ủng hộ lòng trung thành với sự mặc khải thiêng liêng và bản sắc giáo hội.

Do đó, rất có thể nếu ngài cho phép mở rộng vai trò mục vụ của phụ nữ, thì điều này sẽ diễn ra dưới hình thức các mục vụ mới được thiết lập thay vì việc phong chức bí tích. Tự sắc Thần trí của Chúa Spiritus Domini năm 2021 của Đức Phanxicô đã mở rộng chức đọc sách và giúp lễ cho phụ nữ, công nhận việc họ thực hiện lâu dài những vai trò này mà không làm thay đổi địa vị bí tích của họ. (14) Đức Lêô có thể cân nhắc những con đường tương tự, chẳng hạn việc thành lập chính thức các thừa tác viên Thánh Thể hoặc các linh hướng.

Kết luận: Trung thành trong phân định

Ở giai đoạn đầu triều của Đức Lêô XIV, vẫn còn quá sớm để đưa ra kết luận chắc chắn quan điểm của ngài về chức phó tế nữ. Ngài vẫn chưa đưa ra tuyên bố nào về vấn đề này, mặc dù công việc của các nhóm nghiên cứu của Thượng hội đồng vẫn tiếp tục tiến hành. Trong số này, Nhóm nghiên cứu 5, có nhiệm vụ đánh giá khả năng mở rộng vai trò bộ trưởng của phụ nữ, nổi bật vì tầm quan trọng đặc biệt của nhóm này.

Mặc dù các khuyến nghị cuối cùng của nhóm vẫn chưa được công bố, nhưng cam kết của nhóm với tiền lệ lịch sử và nghiên cứu thần học cho thấy vấn đề này vẫn còn phải phân định thêm. Khi kết luận của Nhóm nghiên cứu Thượng hội đồng được trình bày chính thức lên Đức Lêô, ngài sẽ phải đối diện với một khoảnh khắc phân định đặc biệt, không chỉ đề cập đến những sắc thái thần học mà còn đề cập đến sự hiểu biết của Giáo hội về chính Giáo hội trong thế giới hiện đại.

Với sự ủng hộ nhất quán của Đức Lêô về tính liên tục của giáo lý, với sự khuyến khích đối thoại thần học đích thực, bất kỳ giáo lý nào trong tương lai ngài đề xuất về chức phó tế nữ có thể sẽ dựa trên sự tổng hợp chặt chẽ của Truyền thống tông truyền, nhân học thần học và chứng tá sống động của Giáo hội. Cho dù được đưa ra thông qua tông huấn hay một hành vi huấn quyền nào khác, sự làm rõ như vậy có mục đích bảo tồn sự hiệp nhất và tính toàn vẹn bí tích của Chức Thánh, khẳng định sự đóng góp thiết yếu về ơn gọi phụ nữ vào sứ mệnh truyền giáo của Giáo hội. Nếu ngài quyết định giải quyết vấn đề một cách dứt khoát, điều đó gần như chắc chắn, sẽ phản ánh lòng trung thành không lay chuyển của Giáo hội với bí tích do Chúa Kitô thiết lập và được Huấn quyền Giáo hội duy trì.

Là người kế vị Thánh Phêrô, Đức Lêô XIV có trách nhiệm đặc biệt củng cố đức tin giáo dân. Khi làm như vậy, cần phải đánh giá không chỉ các khía cạnh lịch sử và thần học của vấn đề mà còn cả những hàm ý hiệp thông giáo hội giữa các nền văn hóa và thế hệ. Trung thành với Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn dắt Giáo hội đến mọi chân lý (x. Ga 16:13), lời đáp trả của ngài – dù là lời khẳng định lại hay lời phát triển được trình bày cẩn thận – chắc chắn sẽ định hình chứng tá của Giáo hội trong lãnh vực quan trọng này trong nhiều thế kỷ tới.

Chú thích cuối trang:

  1. Andrea Tornielli, “Giám mục Prevost: Giám mục là mục tử, không phải là người quản lý,” Vatican News, ngày 4 tháng 5 năm 2023.
  2. Thượng hội đồng Công giáo xem xét lại vai trò của phụ nữ, bao gồm cả chức phó tế,” AP News ngày 25 tháng 10 năm 2023.
  3. Đức Gioan-Phaolô II, Ordinatio Sacerdotalis, 1994.
  4. Bộ Giáo lý Đức tin. Responsum ad Dubium liên quan đến giáo huấn trong Ordinatio Sacerdotalis. Ngày 28 tháng 10 năm 1995. Acta Apostolicae Sedis 87 (1995): 1114.
  5. Gerard O’Connell, “Đức Phanxicô cho biết Ủy ban về Nữ phó tế chưa đạt được thỏa thuận”, Tạp chí America, ngày 7 tháng 5 năm 2019.
  6. Sara Butler, “Gánh nặng chứng minh liên quan đến nữ phó tế,” First Things, ngày 11 tháng 8 năm 2016.
  7. Aimé Georges Martimort, Nữ phó tế: Một nghiên cứu lịch sử. K. D. Whitehead (San Francisco: Nhà xuất bản Ignatius, 1986); Manfred Hauke, Phụ nữ trong chức tư tế? Phân tích có hệ thống dưới góc nhìn của thứ trật sáng tạo và cứu chuộc. David Kipp (San Francisco: Nhà xuất bản Ignatius, 1986).
  8. Ủy ban Thần học Quốc tế, Từ Diakonia của Chúa Kitô đến Diakonia của các Tông đồ, 2002, §61.
  9. Ibid.
  10. Vatican II, Hiến chế Tín lý về Hội thánh Lumen Gentium, n. 28.
  11. Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo, số 11. 1577.
  12. Courtney Mares, “Hồng y tại Thượng hội đồng về tính công đồng: ‘Việc giáo sĩ hóa phụ nữ’ sẽ không giải quyết được vấn đề”, Catholic News Agency, ngày 26 tháng 10 năm 2023.
  13. Đức Bênêđíctô XVI. “Bài phát biểu của Đức Bênêđíctô XVI chúc mừng Giáng Sinh Giáo triều Rôma ngày 22 tháng 12 năm 2005.
  14. François, Spiritus Domini, Motu Proprio, 2021.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài mới nhất