Home Blog Page 1682

Giáo hoàng Phanxicô với Tòa thượng thẩm Roma: sự cứu rỗi các linh hồn là luật cao nhất

Giáo hoàng Phanxicô với Tòa thượng thẩm Roma - sự cứu rỗi các linh hồn là luật cao nhấtGiáo hoàng đã tiếp các thẩm phán và biện sư của Tòa thượng thẩm Roma, vào ngày thứ sáu 23-01, để khai mạc kỳ hạn tòa án 2015. Tòa thượng thẩm Roma là tòa thượng thẩm cao nhất trong hệ thống tòa án Giáo hội. Phần lớn công việc của Tòa thượng thẩm Roma là quyết định các vụ vô hiệu hóa hôn phối, hay hủy hôn theo cách nói thông thường.

Trong các lời nhắc nhở với Tòa thượng thẩm, giáo hoàng Phanxicô nhắc các thẩm phán và biện sư rằng, luật cao nhất là sự cứu rỗi các linh hồn [salus animarum], và rằng các cơ cấu pháp chế cần thiết của Giáo hội là để phục vụ các tín hữu và sứ mạng rộng hơn của Giáo hội là giúp đỡ toàn thể thế giới lắng nghe và sống lời kêu gọi nên thánh dành cho tất cả mọi người. Giáo hoàng Phanxicô nói rằng, ‘Bởi thế, tôi muốn khuyến khích các bạn siêng năng nhiệt tình hơn nữa trong trách vụ, trong công việc bảo vệ sự thống nhất của luật pháp Giáo hội.’

Nhắc đến con số lớn các tín hữu đang trong các trường hợp hôn nhân bất thường, Giáo hoàng Phanxicô kêu gọi các viên chức của Tòa thượng thẩm, chăm lo nhiều và có sự nhạy bén đối với lương tâm được xác định – hay thiếu lương tâm được xác định – về bản chất và mục đích của hôn nhân, và các cách thức lương tâm có thể tác động đến tính hợp pháp của các liên kết hôn nhân. Giáo hoàng nói rằng, ‘Đây là một khó khăn lớn trong trách vụ của các bạn, cùng với các thẩm phán ở mọi giáo phận: đừng giữ ơn cứu độ con người bị khép kín trong sự hẹp hòi của chủ nghĩa vị luật.’

Giáo hoàng kết lời nhắc nhở rằng việc được tiếp cận với các cơ cấu pháp chế và các đại diện pháp chế chuyên nghiệp, có thẩm quyền, vừa là quyền của tất cả mọi tín hữu, vừa là trách nhiệm của Giáo hội phải làm sao cho tất cả mọi tín hữu đều có thể chi trả được cho việc này. Nói tự phát khỏi bài diễn văn soạn sẵn, Đức Phanxicô nói rằng, ‘Đây là điểm tôi muốn nhấn mạnh: các bí tích là miễn phí. Các bí tích cho chúng ta ơn Chúa, và tiến trình trong các vụ việc về hôn nhân, liên quan đến Bí tích Hôn Phối Thánh.  Tôi thật rất muốn tất cả mọi tiến trình tòa án về hôn nhân đều miễn phí.’

Thiên Chúa luôn luôn tha thứ mọi sự

Thiên Chúa luôn luôn tha thứ mọi sựGiáo hoàng Phanxicô nói rằng xưng tội không phải là việc phán xét, nhưng là gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng tha thứ mọi tội lỗi chúng ta, bất kể là ai. Đây là những lời của giáo hoàng trong bài giảng thánh lễ sáng thứ sáu tại Nguyện đường Nhà trọ thánh Martha.

Suy niệm dựa trên đoạn thư thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Do Thái, giáo hoàng nói rằng Chúa tha thứ hết mọi tội lỗi chúng ta, luôn luôn tha thứ, bất kể là ai. Và lòng Chúa nhảy mừng khi có ai xin Ngài tha thứ. Thiên Chúa, Đấng hòa giải, đã chọn Chúa Giêsu đặt một kết ước với nhân loại, và viên đá góc cho kết ước này chính là sư tha thứ những tội lỗi của chúng ta.

‘Trước hết, Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta. Ngài không bao giờ mệt mỏi với chuyện này. Chính chúng ta mới mệt mỏi trong việc xin tha thứ. Nhưng Ngài không mệt mỏi tha thứ. Khi Phêrô hỏi Chúa Giêsu, con phải tha thứ bao nhiêu lần? 7 lần?’ Chúa Giêsu đã trả lời, ‘Không phải bảy lần, mà là 70 lần 7.’ Nói cụ thể ra nghĩa là luôn luôn tha thứ. Đó là cách Chúa tha thứ cho chúng ta: luôn luôn, không ngừng. Dù cho bạn sống một đời quá nhiều tội lỗi, quá nhiều xấu xa, nhưng đến cuối cùng, chỉ cần một chút ăn năn, xin tha thứ, thì Chúa sẽ ngay lập tức tha thứ cho bạn! Ngài luôn luôn tha thứ cho chúng ta.’

Giáo hoàng Phanxicô nói rằng lòng người ta có thể thấy hoài nghi về việc Thiên Chúa định tha thứ cho chúng ta đến mức nào. Nhưng, tất cả những gì chúng ta cần làm là ăn năn hối lỗi, và xin tha thứ, mà chẳng phải trả giá gì, bởi Chúa Kitô đã trả hết cho bạn rồi.

‘Không có tội nào mà Chúa không tha thứ, Ngài tha thứ mọi sự. ‘Nhưng cha ơi, con không đi xưng tội bởi con đã phạm quá nhiều tội lỗi thực sự xấu xa, qua nhiều đến độ con không thể được tha thứ …’ Không, như thế là không đúng. Ngài tha thứ mọi sự. Nếu bạn đi xưng tội, Ngài sẽ tha thứ hết. Mà … quá nhiều lần, Ngài không để bạn kịp lên tiếng nữa kia! Bạn bắt đầu xin tha thứ, và Ngài cho bạn thấy niềm vui được tha thứ trước cả khi bạn xưng thú xong nữa.!’

Giáo hoàng tiếp tục mô tả cách Thiên Chúa nhảy mừng khi có ai đó xin tha thứ, và ngay lúc đó, ngài ‘quên hết,’ xóa sạch tội của chúng ta khỏi trí nhớ Ngài. Và giáo hoàng giải thích rằng, điều này là bởi với Thiên Chúa, những gì có ý nghĩa, là việc chúng ta được gặp gỡ Ngài. Xưng tội không phải là cuộc phán xét, nhưng là cuộc gặp với Chúa.

“Xưng tội, thường như một thủ tục, một công thức. Tất cả mọi chuyện đều theo cơ chế! Không! Vậy đâu còn chỗ cho cuộc gặp gỡ? Cuộc gặp với Thiên Chúa, Đấng tha thứ cho bạn, ôm lấy bạn và nhảy mừng. Và chính đó là Chúa chúng ta, Đức Chúa quá tốt lành. Chúng ta cũng cần dạy lẫn nhau: dạy con cái, dạy các em nhỏ biết xưng tội cho tốt, bởi đi xưng tội không như đi giặt là để tẩy vết bẩn. Không! Mà đi xưng tội là đi gặp Chúa Cha, Đấng hòa giải, Đấng tha thứ cho chúng ta, và nhảy mừng vì chúng ta.’

Phụ tá của Đức Bênêđictô XVI bác bỏ các rạn nứt quan hệ với Đức Phanxicô

Phụ tá của Đức Bênêđictô XVI bác bỏ các rạn nứt quan hệ với Đức PhanxicôCrux – Inés San Martín

22-01-2015

Phụ tá thân cận của Giáo hoàng Danh dự Bênêđictô XVI, đã bác bỏ việc ngài đang giữ bất kỳ vai trò hoạt động sau cánh gà nào đối với vấn đề cho người Công giáo li dị rồi tái hôn được rước lễ, và xem đây ‘hoàn toàn là chuyện bịa.’

Đức cha Ganswein cũng gạt đi các ý kiến cho rằng Đức Bênêđictô là một dạng ‘người chống giáo hoàng’ của nhóm bảo thủ đang khó chịu với Đức Phanxicô, và gọi đây là một ý kiến ‘điên rồ và vô trách nhiệm,’ xem tin đồn đãi kiểu này là ‘đốt nhà về mặt tư tưởng.’

Tổng Giám mục George Ganswein, giám sự điện giáo hoàng và là thư ký riêng của Giáo hoàng Danh dự Bênêđictô XVI, đã nói lên những lời này trong bài phỏng vấn với tạp chí Đức ‘Christ und Welt’.

Trong thời gian Thượng hội đồng Giám mục về Gia đình hồi tháng 10 năm ngoái, có một chuyện đồn đãi rằng một đại diện của nhóm các hồng y thiên về bảo thủ, lo ngại về các thay đổi có thể xảy ra, nên đã đến tìm Đức Bênêđictô xin chỉ bảo.

Nhưng đức cha Ganswein nói rằng chưa bao giờ có chuyện này.

Là linh mục thư ký cho hồng y Joseph Ratzinger ở Thánh bộ Giáo lý Đức tin, rồi sau này là phụ tá thân cận nhất của ngài khi làm giáo hoàng, đức cha Ganswein  khẳng định, ‘Chuyện Giáo hoàng Danh dự can thiệp [trong Thượng hội đồng Giám mục] là một chuyện hoàn toàn bịa đặt.’

Cha nhất quyết rằng, giữa Đức Bênêđictô và Đức Phanxicô, không có bất kỳ chia rẽ nào về mặt giáo lý về vấn đề đối với người li dị rồi tái hôn.

‘Tôi biết rằng, không một công bố mang tính giáo lý nào của Giáo hoàng Phanxicô đi ngược lại với người tiền nhiệm của ngài.

 Nhấn mạnh các nỗ lực mục vụ rõ ràng hơn chiếu theo hoàn cảnh đòi hỏi, là một chuyện. Nhưng thay đổi giáo lý, là một chuyện hoàn toàn khác hẳn.’

 Cha Ganswein còn nói rằng, giáo lý và chăm lo mục vụ không đối chọi nhau, nhưng song song nhau.

‘Giáo hoàng là người bảo lãnh và người gìn giữ cao nhất cho giáo lý của Giáo hội, và cùng lúc đó, cũng là mục tử cao nhất, linh mục cao nhất.’

Một năm về trước, đức cha Ganswein đã có những nhận định hơi chỉ trích giáo hoàng Phanxicô, nói rằng Đức Phanxicô là một ‘con cưng của truyền thông,’ nhưng không phải là ‘con cưng của tất cả mọi người.’ Nhưng, nhân dịp phỏng vấn này, cha Ganswein đã tán dương các văn kiện và diễn văn quan trọng của Đức Phanxicô, như tông thư Niềm vui của Tin mừng, một kim chỉ nam cho triều giáo hoàng của ngài.

‘Các đường nét trở nên thấy được rõ ràng, và đặt ra rõ ràng những ưu tiên hàng đầu.’

Theo cha Ganswein, ưu tiên hàng đầu của Đức Phanxicô là truyền giáo, nghĩa là các nỗ lực lan truyền đức tin.

‘Không chăm chăm nhìn vào mình, không tự quy, nhưng chia sẻ Tin mừng với thế giới. Đó là khẩu hiệu của ngài.’

Đức cha Ganswein đặc biệt hài lòng về bài nói chuyện của Đức Phanxicô với các viên chức Vatican hôm 22 tháng 12, trong đó giáo hoàng liệt kê ra ’15 bệnh phần hồn’ mà ngài tin là Giáo triều Roma dễ mắc phải, trong đó có ‘thói đàm tếu’ và bệnh ‘Alzheimer phần hồn.’

‘Đây là miếng mồi ngon cho giới truyền thông. Tôi có thể thấy được các dòng tít như: ‘Giáo hoàng trừng phạt các giám chức Giáo triều,’ hay ‘Giáo hoàng đọc luật cho các cộng sự!’

Thật đáng buồn, khi bên ngoài người ta có ấn tượng rằng giữa Giáo hoàng và Giáo triều có rạn nứt. Ấn tượng này là giả dối, và không đúng với thực tế. Nhưng bài diễn văn của Đức Phanxicô lại bị nhận chìm trong cách hiểu đó.’

Giám mục Ganswein khen ngợi cách xử trí truyền thông thường rất khéo léo của Giáo hoàng, nhưng cũng lấy làm tiếc về một vài lần mà phát ngôn viên Vatican đã phải làm rõ các chuyện mà giáo hoàng đã nói hay đã làm.

Về quyết định thoái vị của Giáo hoàng Danh dự, đức cha Ganswein nói rằng, Đức Bênêđictô ‘an bình tự tại, và tin chắc rằng quyết định này là đúng đắn và cần thiết.’

J.B. Thái Hòa dịch

Công giáo và phái Luther, cùng chia sẻ chứng tá Kitô giáo

Công giáo và phái Luther, cùng chia sẻ chứng tá Kitô giáoVatican Radio

Giáo hoàng Phanxicô đã nói với phái đoàn đại kết từ Phần Lan rằng, người Công giáo và người phái Luther có thể cùng nhau làm nhiều việc để ‘làm chứng cho lòng thương xót của Chúa.’  Phái đoàn này đến Roma trùng với Tuần Cầu nguyện cho Hiệp nhất Kitô giáo, và lễ thánh Henry, thánh bảo trợ của Phần Lan.

Trong bài nói với các đại biểu từ Phần Lan, hôm 22-01, giáo hoàng Phanxicô biểu dương tiến trình đối thoại đại kết giữa 2 giáo hội trong 30 năm qua, và nói rằng ‘một chứng tá Kitô giáo cùng nhau là điều rất cần thiết trước sự bất tín, bất an, bách hại, nỗi đau, và khốn khổ đang lan tràn trong thế giới ngày nay.’

Sau đây là toàn văn bài nói của giáo hoàng Phanxicô với phái đoàn đại kết từ Phần Lan:

Giám mục Vikström,

Giám mục Sippo,

Và các bạn thân mến,

Thật vui khi tôi được chào đón các bạn, nhân dịp các bạn hành hương đại kết thường niên đến Roma để mừng lễ thánh Henrik, thánh bảo trợ của đất nước các bạn.  Sự kiện thường niên này đã được chứng minh là một cuộc gặp đại kết thiêng liêng thực sự, giữa người Công giáo và người phái Luther, mộtr truyền thống đã có suốt 30 năm qua.

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, khi tiếp phái đoàn đại kết Phần Lan đầu tiên đến Roma cách đây 30 năm, đã có những lời này: ‘Việc các bạn đến đây hôm nay, tự nó là một chứng thực cho tầm quan trọng của các nỗ lực đại kết.  Việc các bạn cùng cầu nguyện là chứng thực cho niềm tin của chúng ta rằng, sự hiệp nhất chỉ có thể đạt được, nhờ ơn Chúa.  Việc các bạn cùng đọc kinh Tin kính, là chứng thực cho một đức tin chung của toàn thể thế giới Kitô giáo.’  Thời đó, những bước tiến quan trọng đầu tiên đã được dấn bước lên hành trình đại kết chung hướng đến sự hiệp nhất trọn vẹn và khả thị của các Kitô hữu.  Trong những năm qua, đã làm được nhiều việc, và tôi chắc rằng, sẽ còn làm được nhiều việc nữa ở Phần Lan để gây dựng ‘sự thông hiệp phần nào giữa các Kitô hữu, hướng đến thông hiệp trọn vẹn trong chân lý và đức ái.’ (Gioan Phaolô II, Ut Unum Sint, 14).

Các bạn đến đây trong Tuần Cầu nguyện cho Hiệp nhất Kitô giáo.  Năm nay, chúng tôi suy tư dựa trên lời Chúa Kitô nói với người phụ nữ thành Samari bên bờ giếng: ‘Cho tôi xin nước’ (Ga 4, 1-42)  Chúng ta được nhắc nhở rằng nguồn của mọi ân sủng chính là Chúa, và các ơn của Ngài biến đổi những ai lãnh nhận, làm cho họ thành chứng nhân cho sự sống thật chỉ có từ nơi Ngài. (Ga 4, 39)   Như Tin mừng nói cho chúng ta biết, nhiều người Samari đã tin vào Chúa Giêsu nhờ lời chứng của người phụ nữ này. Và như ngài, giám mục Vikstrom, đã từng nói, có quá nhiều việc mà người Công giáo và người phái Luther có thể chung tay làm để làm chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa trong các xã hội của chúng ta.  Một chứng tá Kitô giáo cùng nhau là điều rất cần thiết trước sự bất tín, bất an, bách hại, nỗi đau, và khốn khổ đang lan tràn trong thế giới ngày nay.

Chứng tá chung này có thể được duy trì và nâng đỡ nhờ tiến trình đối thoại thần học giữa 2 giáo hội.  Tuyên bố chung về Giáo lý Công chính hóa, vốn được ký kết trang trọng khoảng 15 năm trước, giữa Liên hiệp Luther Thế giới và Giáo hội Công giáo, có thể sinh thêm nhiều hoa trái hơn nữa trong việc hòa giải và cộng tác giữa chúng ta.  Đối thoại Công giáo – Luther Bắc Âu ở Phần Lan và Thụy Điển, nhấn mạnh chủ đề Công chính hóa trong Đời sống Giáo hội, đang phản ánh được các vấn đề đặt ra trong Tuyên bố chung. Chúng ta hãy hi vọng rằng sẽ có sự quy tụ hơn nữa, từ đối thoại này về khái niệm Giáo hội, vốn là dấu chỉ và khí cụ ơn cứu độ đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu Kitô.

Tôi cầu nguyện cho chuyến thăm Roma của các bạn sẽ góp phần tăng cường hơn nữa các quan hệ đại kết giữa phái Luther và Công giáo ở Phần Lan, vốn đã rất tích cực trong nhiều năm qua.  Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta Thần Khí sự thật, để hướng dẫn chúng ta hơn nữa trong tình yêu và hiệp nhất.

Chúa Giêsu cứu chúng ta và làm trung gian cho chúng ta

Giáo hoàng Phanxicô - Thánh lễ sáng thứ năm tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh MartaĐiều quan trọng nhất không phải là ơn chữa lành thể lý, nhưng là việc Chúa Giêsu cứu chúng ta và làm trung gian cho chúng ta, đây là tâm điểm bài giảng của Giáo hoàng Phanxicô về các bài đọc trong ngày trong thánh lễ sáng thứ năm tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta.

Bình giảng về Tin mừng trong ngày (Mc 3, 7-12) kể về đám đông từ mọi miền tuôn đến với Chúa Giêsu, giáo hoàng Phanxicô nói rằng dân Chúa thấy trong Thiên Chúa một ‘hi vọng, bởi đường lối hành động, giảng dạy của Ngài, chạm đến tâm hồn họ, vươn đến lòng họ, bởi trong đó có sức mạnh của Lời Chúa.’

‘Dân thấy điều này, và thấy rằng các lời hứa được thành toàn trong Chúa Giêsu, thấy trong Chúa Giêsu có hi vọng. Dân hơi chán cách giảng đức tin của các thầy thông luật thời đó, những người đặt gánh nặng trên dân với quá nhiều điều răn, quá nhiều giáo huấn nhưng lại không đến được lòng dân. Và khi dân thấy Chúa Giêsu và nghe Chúa Giêsu, các khuyến nghị của Ngài, các mối Phúc thật, họ thấy có điều gì đó đánh động từ trong tâm hồn. Chính Thần Khí đang khiến người ta thấy xao động, và họ đến gặp Chúa Giêsu.

Sự nguyên tuyền trong ý định kiếm tìm Thiên Chúa

Đám đông đến với Chúa Giêsu để được chữa lành, như thế là họ tìm lợi ích riêng của mình. Giáo hoàng Phanxicô nói rằng, ‘Không bao giờ chúng ta có thể theo Chúa với ý định nguyên tuyền đúng đắn ngay từ đầu, luôn luôn là một một cuộc kiếm tìm với một chút cho chúng ta, một chút cho Chúa, và hành trình tự nó thanh luyện cho ý định này.’ Giáo hoàng Phanxicô tiếp rằng, ‘Người ta đi, đúng thế, họ tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng họ cũng tìm sức khỏe, muốn được chữa lành, và họ lao vào Chúa, để chạm đến Ngài, để sức mạnh từ Chúa phát ra và chữa lành cho họ.’

Chúa Giêsu cứu chúng ta

Nhưng, điều quan trọng nhất, không phải là Chúa Giêsu chữa lành. Giáo hoàng giải thích rằng, các việc chữa lành là dấu chỉ cho một sự chữa lành khác. Và điều quan trọng nhất cũng không phải là việc Chúa Giêsu nói những lời chạm đến tâm hồn người ta, dù điều này chắc chắn giúp chúng ta gặp Chúa. Điều quan trọng nhất, được nói trong thư gởi tín hữu Do Thái (7, 25) viết rằng, ‘Chúa Giêsu luôn luôn có thể cứu những ai đến với Thiên Chúa qua Ngài, bởi ngài luôn sống để chuyển cầu cho họ.’

Giáo hoàng Phanxicô nói rằng, ‘Chúa Giêsu cứu độ!’ ‘Những việc chữa lành này, những lời chạm đến tâm hồn này, là dấu chỉ và khởi đầu của ơn cứu độ, là con đường cứu độ cho nhiều người bắt đầu lắng gnhe Chúa Giêsu hay đến xin được chữa lành và rồi trở lại với Chúa và cảm nhận ơn cứu độ.’ Giáo hoàng tiếp tục rằng, ‘Vậy, điều gì quan trọng nhất? Việc Chúa Giêsu chữa lành? Không, đó không phải là điều quan trọng nhất. Việc Ngài dạy chúng ta? Đó cũng không phải là điều quan trọng nhất. Điều quan trọng nhất là Ngài cứu độ chúng ta! Ngài là Đấng Cứu độ và chúng ta được Ngài cứu chuộc, đây là điều quan trọng nhất, và đây là sức mạnh của đức tin.’

Chúa Giêsu làm trung gian cho chúng ta.

Chúa Giêsu lên trời với Chúa Cha, và ‘từ đó, Ngài tiếp tục làm trung gian cho chúng ta, mọi ngày, mọi lúc.’

‘Ngày hôm nay vẫn vậy. Chúa Giêsu đứng trước Chúa Cha, dâng lên đời Ngài, cũng là sự cứu chuộc, Ngài trình những vết đinh lên Cha, cái giá cứu độ, và như thế, Ngài cầu bầu cho chúng ta mọi ngày. Khi chúng ta, vì việc này việc kia, mà nản lòng đôi chút, thì hãy nhớ rằng có Ngài là Đấng cầu nguyện cho chúng ta, làm trung gian cho chúng ta luôn mãi. Biết bao nhiêu lần chúng ta quên mất điều này: ‘Chúa Giêsu … nhưng, mà, đã hết rồi, Ngài đã lên trời, gởi Thánh Thần cho chúng ta, và thế là hết chuyện.’ Không! Ngay cả bây giờ, mọi lúc, Chúa Giêsu đang cầu bầu, can thiệp cho chúng ta. Trong lời kinh này: ‘Lạy Chúa Giêsu, xin thương đến con,’ Là Ngài đang chuyển cầu cho mình đó. Hãy hướng về Chúa, và xin ơn cầu bầu này.’

Sự ‘nhạy cảm’ của dân Chúa

Chúa Giêsu là đấng cứu độ và đấng cầu bầu cho chúng ta, đây là điểm trọng tâm, và chúng ta phải nhớ rõ điều này. ‘Do đó, đám đông tìm Chúa Giêsu với một tâm thức hi vọng bản năng của dân Chúa, vào thời đó đang chờ đợi Đấng Thiên Sai, và họ tìm nơi Ngài sức khỏe, chân lý, cứu độ, bởi Ngài là Đấng Cứu độ và ngay cả bây giờ, ngay lúc này, vẫn đang cầu bầu cho chúng ta. Như thế, đời sống Kitô hữu phải vững tin hơn nữa rằng chúng ta được cứu độ, chúng ta có Đấng Cứu độ, là Chúa Giêsu bên tay phải Chúa Cha, đang chuyển cầu cho chúng ta. Nguyện xin Thiên Chúa, Thánh Thần, cho chúng ta hiểu được những điều này.’

Hồng y Stella – Các linh mục ngày nay có ý thức nhận thức hơn

Hồng y Stella – Các linh mục ngày nay có ý thức nhận thức hơn 1Hồng y Stella – Các linh mục ngày nay có ý thức nhận thức hơn

Giacomo Galeazzi –Vatican Insider

 

lastampa.it, Giacomo Galeazzi, 2015-01-22

“Các linh mục như máy bay, chỉ lên trang nhất khi bị rơi rụng, nhưng còn nhiều người vẫn đang bay”.  Lấy ý từ bức tranh thực tế khác thường được Đức Phanxicô khắc họa trong buổi họp với Giáo triều Rôma, Đức Hồng y Beniamino Stella, bộ trưởng Thánh bộ Giáo sĩ đã mô tả các đặc nét của một linh mục lý tưởng theo giáo lý của Đức Phanxicô: “Một linh mục, một mặt phải có tinh thần tốt và khuôn khổ tự thân, biết cầu nguyện và hướng cái tôi nội tâm theo con đường thành tín và có phương pháp, mặt khác, linh mục là người sống giữa dân Chúa, một mục tử nhiệt tâm dự phần vào đời sống của  cộng đoàn”. Hồng y Stelle đã từng làm giám hiệu của Học viện Hội Thánh về ngoại giao ở Piazza della Minerva trong nhiều năm, ngài nhấn mạnh, “các linh mục ngày nay nhận thức hơn về các nhu cầu của tình trạng tâm trí mình, cả về cách chăm lo về đường thiêng liêng của mình, lẫn sự gần gũi và phục vụ dân Chúa, với nhân loại và các miền xa cần phúc âm hóa.’

Lấy ý từ suy tư của Đức Phanxicô, Đức Hồng y Stelle cho rằng, “người ta chỉ nói về các linh mục khi họ bị sa ngã, bị rơi, nhưng không một ai nói về hàng ngàn máy bay khác vẫn đang bay. Khi tai nạn xảy ra, người ta cứ nói về nó, và đó là tai tiếng”. Hình ảnh mà Đức Phanxicô khắc họa đã tôn vinh các linh mục và vô số giáo sĩ đang tận tụy say mê làm việc, vẫn trung thành với đời sống thiêng liêng và sứ mạng của mình”. Hồng y Stella nói thêm, “mới đây, một linh mục nhờ tôi gợi ý với Đức Thánh Cha là ngài nên trìu mến với các linh mục hơn một chút”. Tôi ngạc nhiên về điều này, vì theo tôi, Giáo hoàng luôn nói một cách điềm đạm, tôn trọng và nhã nhặn về đời sống của các linh mục, ngài có vẻ nghiêm khắc, nhưng lòng cảm thông và khiêm nhượng của giáo hoàng đối với các cộng sự giám mục của ngài, là sự thật không thể chối cãi. Không ai có thể nghi ngờ tấm lòng quảng đại của ngài, đặc biệt là với các linh mục đang bay mà không ai để ý đến, không lôi kéo sự chú ý về phía mình, nhưng chính họ là sức mạnh của các cộng đoàn Kitô hữu”.

Hồng y Stella là cựu sứ thần tòa thánh ở Cuba thời Đức Gioan-Phaolô II đến thăm đảo quốc này. Ngài tin rằng việc nối lại quan hệ mới đây giữa Hoa Kỳ và Cuba, đã được đặt nền móng từ trước. “Điều kiện để có được một kết quả tích cực như vậy không quá rõ ràng, bởi chúng vẫn đang trong quá trình hình thành, với một sự kiên nhẫn, thận trọng, tôn trọng và hi vọng rất lớn. Tôi muốn nói rằng, khi không thể chạy thì phải bước từng bước nhỏ như thế này”. Người cộng sự thân cận của Đức Phanxicô nói thêm, “đôi khi các bên liên quan thấy e dè và lo ngại. Chúng ta phải thấy được rằng, giữa hai bên là một lịch sử không dễ dàng gì. Lệnh cấm vận là một trở ngại, và các hệ quả về con người, xã hội và nguồn lực kinh tế đã tác động đến quan hệ giữa hai quốc gia”.

Việc bình thường hóa quan hệ thương mại “được quyết định chủ yếu là bởi những gì cơ chế này có thể đem lại cho những tình trạng đau lòng do bởi hiểu lầm và bất tín”. “Với tuyên bố mới đây, chướng ngại mang tính con người này đã được dỡ bỏ, và viễn cảnh quan hệ ngoại giao sẽ là sẵn sàng nói chuyện với nhau, thúc đẩy tinh thần tin tưởng lẫn nhau, điều này sẽ loại trừ các chướng ngại về mặt hậu cần vốn là một ngăn trở đối với sự phát triển các quan hệ thương mại thông thường và mạnh mẽ, và những sự khác nữa”. Hồng y Stella nói tiếp: “Tôi tin rằng lý luận và lẽ thường, tôn trọng và thông hiểu, sẽ chiến thắng, đây cũng là những điều mà Đức Thánh Cha nhiệt tâm tìm kiếm và chủ trương trong mọi thông điệp của mình, cụ thể là trong các lá thư ngài gởi trong các tháng vừa qua dẫn đến nối lại quan hệ Hoa Kỳ-Cuba”.

J.B. Thái Hòa dịch

Đức tin, một đức tin tuyệt vời!

Pope Francis blesses pictures of Catholic Relief Services employee who was killedAleteia, Elisabeth de Baudoüin, 21-5-2015

Cô tên là Kristel Padasas, cô 27 tuổi. Cô bị chết vào ngày thứ bảy 17-1-2015 khi giàn sắt sập đè lên cô, trước khi Đức Phanxicô bắt đầu dâng thánh lễ ở đảo Tacloban,. Ngày hôm sau khi trở về Manila, Đức Phanxicô  mong muốn được gặp thân phụ của cô ở Nhà Sứ thần Tòa Thánh. Một cuộc gặp gỡ thật cảm động.

Tinh thần phục vụ trong một đức tin khiêm tốn và dấn thân trọn vẹn

Tên và câu chuyện của cô Krystel tự nó là cả một biểu tượng: biểu tượng của hàng trăm thanh niên thiếu nữ Công giáo Phi Luật Tân tình nguyện phục vụ cho việc đón tiếp Đức giáo hoàng. Các người trẻ này biết họ không ở trong hàng ghế đầu, họ cũng không ở trong điều kiện thuận lợi nhất để nhìn và nghe Đức giáo hoàng nói. Tuy nhiên họ phục vụ với tinh thần bất vụ lợi, dựa trên một đức tin khiêm tốn và một tinh thần dấn thân trọn vẹn.

Đó là trường hợp của cô Krystel, một cô gái luôn tươi cười thuộc Tổ chức Cứu trợ Công giáo (Catholic relief service), một tổ chức làm việc nhân đạo, thành viên của Caritas quốc tế.

Trên bàn ở nhà Sứ thần là hai bức hình tươi cười của cô Krystel

Khi biết tin cô bị chết trong tai nạn ở Tacloban, Đức Phanxicô rất xúc động và ngài muốn gặp cha mẹ của cô. Mẹ cô đang làm việc tại Hong Kong, chỉ có thân phụ và người anh họ của cô có thể đến nhà của Sứ thần Tòa Thánh để gặp Đức Phanxicô ngay sau ngày tai nạn. Linh mục Lombardi nói với Radio Vatican, có hai bức hình cô Krystel tươi cười được chưng trên bàn ở nhà Sứ thần Tòa Thánh: một hình gần đây và một hình chụp với cha mẹ khi cô còn nhỏ. Kristel là con gái duy nhất của hai ông bà.

 

Tôi chấp nhận chuyện đã xảy ra

Theo hồng y Tagle, thân phụ của cô Kristel đã thổ lộ với Đức Phanxicô là ông đã chết điếng khi nghe tin con gái mình mất và ông đã hỏi Chúa vì sao Chúa lại để một tai nạn như thế xảy ra. Nhưng rồi ông nói thêm: “Bây giờ tôi chấp nhận chuyện đã xảy ra, tôi chấp nhận Kristel không còn ở đây nữa”. Điều an ủi cho ông là con gái ông đã chết vì làm thiện nguyện cho chuyến đi của Đức giáo hoàng.

 

Đức tin, một đức tin tuyệt vời!

Đức giáo hoàng đã rất xúc động vì cuộc gặp gỡ này và đã nói với hồng y Taggle. “Đức tin! Một đức tin thật tuyệt vời! Tôi nghĩ tôi mang lòng thương xót đến nhưng tôi nhận chứng nhân của lòng thương xót”. Ngày hôm sau trong cuộc gặp gỡ với các người trẻ ở Đại học Thánh Tôma, Đức Phanxicô đã xin cử toạ một phút im lặng để tưởng niệm và cầu nguyện cho Kristel. Trong buổi tiếp kiến chung ở Rôma ngày thứ tư 21-1-2015, ngài cũng đã nhắc đến cô.

Nguyễn Tùng Lâm dịch

Phỏng vấn Đức hồng y Fernando Filoni

Filoni-Hanoi-Radio Vatican , 21-1-2015

Đức hồng y đã trả lời cuộc phỏng vấn của nữ ký giả Hélène Destombes.

Sau ngày thứ hai ở Hà Nội, ngày thứ ba, Đức hồng y Filoni thăm địa phận Hưng Hóa, tại đây ngài làm lễ rửa tội và thêm sức cho 200 giáo dân, họ là những người ở miền Núi. Một niềm vui lớn lao cho Bộ trưởng bộ Truyền giáo các Dân tộc, ngài được Đức ông Leopoldo Girelli, Sứ thần Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam tháp tùng.

Trước đó, ngài cũng đã gặp các giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ và giáo dân, ngài thán phục sức sống đạo của họ. Hồng y Filoni cũng đã gặp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

 

Giáo hội Công giáo Việt Nam mà Đức hồng y gặp như thế nào?

Tôi có thể nói, tôi chứng kiến tận mắt sức sống của họ, lòng nhiệt thành phi thường của Giáo hội ở đây. Điều này đã làm cho tôi xúc động vô cùng, vì lòng trung tín với Giáo hội, vì tình yêu cho Chúa và tấm lòng lúc nào cũng sẵn sàng phục vụ của họ. Hôm nay là một ngày rất tốt đẹp, tôi đã rửa tội cho hơn 200 giáo dân. Đó là những người ở miền Núi, họ được nhận phép Thêm sức và chịu Mình Thánh Chúa. Đối với giáo phận Hưng Hóa, đây là một ngày rất tốt đẹp cho tình yêu của Chúa và cho sức sống của Giáo hội.

Ngày thứ ba ở Hà Nội, hồng y đã có buổi nói chuyện với các linh mục cũng như Hội đồng Giám mục Việt Nam. Hồng y đã nhấn mạnh tầm quan trọng của Tông huấn Niềm vui Tin Mừng. Vì lý do nào ngày nay Giáo hội Việt Nam cần một tài liệu tham khảo như vậy?

Tôi nhấn mạnh đến Tông huấn Niềm vui Tin Mừng của Đức giáo hoàng vì tài liệu này mang lại cảm hứng, cho chúng tôi một tầm nhìn cho những năm sắp đến. Nhất là cho các giám mục là những người có trách nhiệm hàng đầu trong việc rao giảng Phúc Âm ở đất nước này, nhưng cũng cho các linh mục nữa vì họ là những người ở gần các giám mục để phụ giúp trong việc rao giảng cũng như với các nữ tu, những người tận hiến trong lãnh vực tông đồ. Như thế, tất cả cùng nhau chọn theo tầm nhìn này của Đức Thánh Cha để việc rao giảng Phúc Âm trong đất nước này đến được với tất cả mọi người.

 

Tháng 10 vừa qua, Thủ tướng Việt Nam đã gặp Đức giáo hoàng. Bây giờ thì hồng y đến gặp nhà cầm quyền Việt Nam. Hồng y được tiếp đón như thế nào và hồng y cho biết quan hệ hiện nay giữa Tòa Thánh và Chính quyền Việt Nam như thế nào?

Thứ nhất Thủ tướng Việt Nam đã nhắc đến cuộc gặp gỡ của ông với Đức giáo hoàng và ông cho biết, ông rất ấn tượng qua nhân cách dễ mến của Đức Thánh Cha và nhất là một tình thương của ngài đối với đất nước Việt Nam. Thứ nhì Thủ tướng nói với tôi là, “rất tốt, Giáo hội Việt Nam đã làm việc trong tinh thần hợp tác”, nhất là trung thực với dân tộc, với đất nước nhưng cùng một lúc trung thành với đức tin. Ông nói với tôi, ông yêu mến những chữ này: trung thực với dân tộc, với đất nước nhưng cùng một lúc trung thành với đức tin. “Chúng tôi nghĩ như đó là hai chân, ông nói với tôi, tín hữu dùng để hợp tác vào sự phát triển, vào cuộc sống và vào sự tiến bộ của đất nước”. Tôi nghĩ đây là một cuộc gặp gỡ tích cực làm thuận lợi hơn cho sự đồng thuận, giao hảo và nhất là sự tôn trọng giữa Tòa Thánh và dân tộc Việt Nam. Chúng tôi phải đi từ sự tôn trọng đến tình thương cho dân tộc Việt Nam và chúng tôi cam kết làm trong tinh thần này, tôi nghĩ trong tương lai sẽ mang lại rất nhiều hoa quả.

Tòa Thánh và Việt Nam không có quan hệ ngoại giao nhưng từ năm 2011, Tòa Thánh đã có một đại diện không thường trú tại Hà Nội, Đức ông Girelli. Cuộc viếng thăm của hồng y nằm trong khuôn khổ một sự xích lại gần của hai bên?

Đúng, chắc chắn như vậy. Nhất là chuyến viếng thăm của cấp cao với Đức Thánh Cha và trong dịp này, tôi nhận được sự cam kết của Thủ tướng ở Hà Nội. Họ cho tôi biết họ vui mừng và đánh giá cao các quan hệ của chúng tôi. Phải còn đi thêm nhiều bước nhưng chúng tôi hy vọng những bước này, dần dần, sẽ phát triển được sự phong phú của các quan hệ giữa Tòa Thánh và đất nước Việt Nam.

Hồng y cho biết Giáo hội Việt Nam có một sức sống mạnh, một Giáo hội thiểu số vì chỉ có 10% dân số Việt Nam theo đạo. Hồng y có nhận được các chứng tá? Làm sao người Công giáo ở đây có thể sống đức tin của mình trong những tình huống đôi khi khó khăn?

Tôi đã nghe nhà cầm quyền rất nễ phục người Công giáo và các đóng góp của họ cho xứ sở. Tôi hy vọng sự đóng góp mà chúng tôi có thể đem lại, cũng như của Giáo hội cho sự phát triển và cho các quan hệ với dân tộc Việt Nam, dần dần sẽ cho Việt Nam sự phong phú mà Giáo hội mang đến trong hòa bình, trong  đối thoại ngay chính trong lòng đất nước. Với khả năng của mình, chúng tôi hy vọng Giáo hội sẽ mang đến tất cả các ơn của gặp gỡ, của đối thoại, của tha thứ, của lòng thương xót để cùng nhau giữ hy vọng cho tương lai. Và tôi hy vọng tương lai sẽ tốt đẹp. Ngày mai tôi sẽ đi Huế để viếng thăm Đền thờ Đức Mẹ La Vang và tôi sẽ mang đến đây ba bông hồng bạc: một cho việc rao giảng Phúc Âm ở Việt Nam, một cho rao giảng Phúc Âm ở Á châu và một cho hòa bình thế giới.

Nguyễn Tùng Lâm dịch

Giáo hoàng Phanxicô chúc lành cho các con chiên nhân lễ thánh Agnes

Giáo hoàng Phanxicô chúc lành cho các con chiên nhân lễ thánh AgnesVatican Radio

Giáo hoàng Phanxicô đánh dấu ngày lễ kính thánh Agnes với một nghi thức có từ nhiều thế kỷ trước: chúc lành cho các con chiên dùng để lấy lông làm dây pallium.

Theo truyền thống, các con chiên con, chưa đầy 1 tuổi, sẽ được đưa đến Nhà trọ thánh Martha trong những chiếc giỏ để giáo hoàng chúc lành cho chúng bằng cách chạm vào bên tai.

Đến mùa hè, các chú chiên này sẽ được lấy lông, để các nữ tu dệt thành dây pallium.

Trong tiếng La Tinh, Agnes nghĩa là ‘chiên.’ Thánh Agnes tử đạo vào đầu thế kỷ IV, đã hiến mình đồng trinh trọn đời, và bị giết vì không chịu thờ các thần ngoại.

Thánh nữ được chôn cất tại vương cung thánh đường thánh Anges, tọa lạc tại Via Nomentana, Roma. Các con chiên được giáo hoàng chúc lành, một con mang vòng hoa trắng biểu trưng cho đức trong sạch của thánh Agnes, còn con kia mang một vòng hoa đỏ để tưởng nhớ chứng tá đức tin tử đạo của ngài.

Dây pallium là sợi dây bằng len lông chiên trắng, trang trí với sáu thánh giá màu đen, và được các Tổng Giám mục Chính Tòa mang quanh cổ như biểu tượng cho thẩm quyền của mình và sự hiệp nhất với Giáo hoàng.

Một khi được dệt xong, các dây pallium sẽ được giữ trong một chiếc bình ở mộ thánh Phêrô cho đến khi nào giáo hoàng trao cho các Tân Tổng Giám mục Chính tòa vào ngày 29, lễ kính 2 thánh tông đồ Phêrô và Phaolô.

VATICAN-POPE-MASS-PALLIUM

J.B. Thái Hòa dịch

Tìm kiếm Thiên Chúa độc nhất trong các phân rẽ đức tin và giáo phái

Christian de Cherge

Tìm kiếm Thiên Chúa độc nhất trong các phân rẽ đức tin và giáo phái

Ronald Rolheiser, 19 Tháng Giêng 2015

Christian de Cherge, đan viện phụ dòng Xitô, đã tử đạo ở Algeria năm 1996, rất thích chia sẻ câu chuyện thế này: Ngài có một người bạn Hồi giáo rất thân, và hai người thường cầu nguyện chung, ngay cả khi họ nhận biết những khác biệt của mình, là Hồi giáo và Kitô giáo.  Và cũng nhận thức được rằng một vài trường phái tư tưởng nhất định, trong cả Hồi giáo và Kitô giáo, đều cảnh báo chống lại kiểu cầu nguyện này, vì sợ rằng các đức tin khác nhau không cầu nguyện với cùng một Thiên Chúa độc nhất, nên do đó, họ không gọi việc cả hai cùng làm là cầu nguyện chung. Nhưng họ xem như mình đang ‘cùng đào giếng.’ Một ngày nọ, Christian hỏi Mohammed: ‘Khi đến đáy giếng, chúng ta sẽ thấy gì? Nước của Hồi giáo, hay nước của Kitô giáo?’ Mohammed, nửa đùa, nhưng vẫn vô cùng nghiêm túc, trả lời: ‘Thôi nào, chúng ta đi cùng nhau suốt, mà anh vẫn còn hỏi tôi câu này. Anh biết rõ là đáy giếng có gì rồi, cái chúng ta sẽ tìm thấy chính là nước của Thiên Chúa.’

Có những chân lý tôn giáo quan trọng ẩn trong câu chuyện này. Trước hết, tất cả mọi tôn giáo đáng kể đều tin rằng, điều quả quyết đầu tiên của chúng ta về Thiên Chúa phải là: Thiên Chúa là Đấng không tả nổi, Thiên Chúa vượt quá mọi tưởng tượng, khái niệm hóa và ngôn ngữ của con người. Tất cả mọi sự chúng ta nghĩ và nói về Thiên Chúa, ngay cả trong kinh thánh và các giáo lý rõ ràng của chúng ta, vẫn thiếu thỏa đáng. Những sự của chúng ta có bày tỏ đôi điều sự thật, nhưng ở đời này, không bao giờ là sự thật tuyệt đối. Không một giáo lý và không một tôn giáo nào có một diễn đạt hoàn hảo về Thiên Chúa. Nếu thật như thế, thì tất cả mọi sự thật tôn giáo luôn luôn là cục bộ và giới hạn trong các biểu đạt lịch sử của mình và không thể nhận là đầy đủ hoàn hảo được. Tất cả mọi tôn giáo, giáo lý và biểu đạt thần học, dù thuộc giáo phái hay tôn giáo nào, đều phải khiêm nhượng mà nhìn nhận sự bất trọn của mình. Chỉ một mình Thiên Chúa là tuyệt đối hoàn toàn, và một nhận thức hoàn toàn về Thiên Chúa nằm ở nơi đáy giếng, nơi cuối hành trình tôn giáo của chúng ta.

Điều này thay đổi triệt để cách hiểu của chúng ta về đại kết và đối thoại liên tôn giáo. Bởi không một ai, kể cả chúng ta, nắm giữ sự thật tuyệt đối, nên con con đường đại kết và liên tôn không được xem là kiểu người này thắng người kia bại, vốn vẫn đang rất thường diễn ra đến tận ngày nay, kiểu như: ‘Chúng tôi, chỉ có chúng tôi, mới có chân lý và các bạn phải theo chúng tôi!’ Không phải như thế, đúng ra phải hiểu con đường đại kết là việc ‘cùng đào giếng,’ cụ thể là, mỗi một người chúng ta, với một tâm hồn rộng mở, mong mỏi những người đang không đồng bàn với chúng ta, loại bỏ tất cả việc chiêu mộ, qua truyền thống tôn giáo của mình dấn thân tìm kiếm một sự biến đổi sâu sắc hơn. Cuộc tìm kiếm này chính xác là cuộc tìm kiếm đến tận đáy giếng, biết rằng một khi đến đó, chúng ta cũng như tất cả những người với lòng đạo chân thành, đích thực, sẽ đều tìm thấy nước của Chúa và sự hiệp nhất với tất cả những ai đang cùng hiện diện ở đó.

Nhà đại kết lừng danh, Avery Dulles, đã gọi đây là con đường ‘hội tụ lũy tiến.’ Sự hiệp nhất tận cùng giữa các giáo hội và đức tin khác nhau, sẽ không đến từ việc tất cả mọi người trên thế giới đều cải đạo sang một giáo phái hay một tôn giáo. Nhưng, điều này sẽ đến, và chỉ có thể đến, nhờ mỗi người chúng ta biến đổi sâu hơn bên trong truyền thống của chính mình Khi mỗi một người chúng ta và mỗi đức tin đi sâu hơn vào mầu nhiệm Thiên Chúa, thì chúng ta sẽ dần dần đến gần và gần hơn với người khác. Câu chuyện của đan phụ Christian de Cherge soi sáng tuyệt vời cho chúng ta về điều này.

Và con đường này, khi được thực hiện đúng đắn, không dẫn chúng ta đến chủ nghĩa tương đối và niềm tin ngây thơ rằng mọi tôn giáo đều như nhau Cũng không có nghĩa là chúng ta không nhiệt tâm và công khai cử hành truyền thống đức tin của đạo chúng ta, hay không sẵn sàng bảo vệ đạo mình, không sẵn sàn chào đón bất kỳ ai vào đạo. Nhưng, ý nghĩa của điều này phải là, chúng ta khiêm nhượng nhìn nhận rằng, chúng ta có chân lý sự thật, nhưng sự thật không phải chỉ có duy nhất nơi chúng ta. Thiên Chúa không phải là thần linh bộ lạc, mà ý định cứu rỗi của Thiên Chúa là cho toàn thể nhân loại. Thiên Chúa khao khát ơn cứu độ cho những người thuộc các phái và truyền thống tôn giáo khác, cũng hệt như Ngài muốn cho chúng ta vậy. Do đó, như Chúa Giêsu đã dạy, Thiên Chúa có ‘các con chiên khác,’ những cá nhân và cộng đoàn khác được Ngài yêu thương, dù không thuộc trong đàn của chúng ta. Tình yêu và mặc khải của Thiên Chúa ôm trọn hết thảy mọi người.

Con đường hiệp nhất giữa các Kitô hữu thuộc các phái khác nhau, và con đường hiệp nhất giữa các tôn giáo khác nhau trên thế giới, không phải là con đường chiêu mộ, tự nhận chân lý tuyệt đối về mình, và xem sự hiệp nhất chỉ có thể có được khi tất cả mọi người cải sang đạo mình. Không phải thế, con đường hiệp nhất nằm ở việc ‘cùng đào giếng,’ nghĩa là, trong mỗi chúng ta, trong mỗi truyền thống của chúng ta, phải biến đổi sâu sắc hơn vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa và trong tất cả những gì đòi buộc chúng ta. Khi đi vào sâu hơn trong mầu nhiệm Thiên Chúa, chúng ta sẽ thấy mình ngày càng nên một, như các anh chị em trong đức tin.

Không một tôn giáo nào tuyệt đối, chỉ một mình Thiên Chúa tuyệt đối. Biết như thế, sẽ cho chúng ta bớt thiển cận tự mãn trong việc hành đạo của mình, và biết tôn trọng hơn các phái và tôn giáo khác, và sẵn sàng hơn trong việc mang lấy cái nhìn của Thiên Chúa hơn là của chúng ta.

J.B. Thái Hòa dịch

Bài mới nhất