Đức Phanxicô và Đức Gioan-Phaolô II có rất nhiều điểm chung

153

Đức Phanxicô và Đức Gioan-Phaolô II có rất nhiều điểm chung

lepoint.fr, Jérôme Cordelier, 2025-04-01

Cách đây 20 năm, Đức Gioan-Phaolô II qua đời sau những ngày bệnh nặng. Tác giả Bernard Lecomte, người viết tiểu sử của ngài phân tích di sản của ngài qua hành động của người kế nhiệm.

Ngày 2 tháng 4 năm 2025, Giáo hội công giáo kỷ niệm 20 năm ngày Đức Gioan-Phaolô II qua đời. Ngày 16 tháng 10 năm 1978, việc bầu một người không phải là người Ý làm Giáo hoàng là một bất ngờ lớn. Chỉ mới 58 tuổi, năng động, khỏe mạnh, thích đi khắp thế giới, cực kỳ lôi cuốn, người được mệnh danh là “vận động viên của Chúa” đã mang luồng gió trẻ trung đến cho Giáo hội, khuấy động đám đông mỗi lần ngài xuất hiện, và trong thế giới này, trước và sau khi Bức tường Bá Linh sụp đổ, ngài đã là nhân vật quan trọng của Lịch sử, đáng chú ý: ngài ủng hộ phong trào Đoàn kết ở Ba Lan do người công nhân điện Lech Walesa lãnh đạo và đã lật đổ chế độ độc tài quân sự cộng sản. Những ngày tháng cuối đời ngài – sau hơn 26 năm làm giáo hoàng – là một thử thách dài, tác giả Bernard Lecomte, người viết tiểu sử của ngài, phân tích triều của ngài. Nhà báo và nhà văn cho chúng ta góc nhìn của ông về Giáo hoàng phi thường này, ông nêu các điểm chung giữa ngài và Đức Phanxicô.

Bernard Lecomte – Vim / Vim/ABACA

Le Point: Cách đây 20 năm, Thánh Gioan-Phaolô II qua đời. Cái chết của ngài là sự đau đớn kéo dài trước sự chứng kiến của công chúng. Ông có kỷ niệm gì về những tháng ngày này?

Bernard Lecomte: Gần đây Đức Phanxicô vào bệnh viện làm chúng ta nhớ lại hình ảnh đau thương cuối đời của Đức Gioan-Phaolô II ở tầng thứ 10 bệnh viện Gemelli, Rôma. Đó là câu chuyện của 20 năm trước. Giáo hoàng già nua, ốm yếu, kiệt sức, không thể đi lại, gần như không thể nói. Bối cảnh thương tâm, gây sốc và gần như khó chứng kiến này đã truyền đi một thông điệp mạnh mẽ, duy nhất và đáng lo: sự vĩ đại của con người, mà ngài đã nêu cao trong suốt đời ngài cũng chính là sự vĩ đại của con người bệnh tật, tàn tật, nằm liệt giường. Con người vẫn là con người cho đến cuối đời. Một giáo hoàng yếu đuối, đau khổ vẫn là một giáo hoàng. Điều đó có lý, và không chỉ dành cho người có đạo. Chuyến đi Pháp cuối cùng của ngài là chuyến đi Lộ Đức năm 2004: một người bệnh giữa những người bệnh, đó là thông điệp cuối cùng của người được cho là “vận động viên của Chúa” ở Paris một phần tư thế kỷ trước!

Mỗi giáo hoàng đều có tính cách riêng, khiêm tốn riêng, đức tin riêng của các ngài. Đức Gioan-Phaolô II là Giáo hoàng rất thân thiện với giới truyền thông; ngài là diễn viên hài khi còn trẻ, ngài biết cách và thích nói chuyện trước các đám đông khổng lồ có khi trước cả triệu người, như ở Krakow năm 1979, ở Manila năm 1995, ở Paris năm 1997. Đức Phanxicô thì không thích xuất hiện trước công chúng khi ngài bệnh; chúng ta thấy rõ ở bệnh viện Gemelli tháng 3, khi báo chí chúng tôi được thông báo từng chi tiết nhỏ nhất về bệnh viêm phổi của ngài nhưng lại không thấy ngài qua hình ảnh hoặc video cho đến khi ngài xuất viện.

Giữa Đức Gioan-Phaolô II và Đức Phanxicô có một khác biệt rõ ràng: giữa hai triều có một sự kiện bất ngờ và quan trọng đã diễn ra: Đức Bênêđíctô XVI từ nhiệm. Vào thời Giáo hoàng Ba Lan, không ai nghĩ có thể phá vỡ truyền thống lâu đời trong lịch sử các giáo hoàng: giáo hoàng phải tại vị cho đến hơi thở cuối cùng. Lần cuối cùng một giáo hoàng rời nhiệm sở trước khi kết thúc là tu sĩ lớn tuổi Celestine V năm 1294! Khi Đức Bênêđíctô XVI từ nhiệm năm 2013, ngài đã làm thế giới sửng sốt và nhất là ngài đã phá vỡ truyền thống lâu đời này.

Ngày nay, sẽ không ai ngạc nhiên nếu một giáo hoàng từ nhiệm. Vào thời điểm mà tiến bộ y học làm chúng ta hình dung có thể có một giáo hoàng sống đến 110 hoặc 115 tuổi, chúng ta phải dùng đến lý lẽ thông thường: liệu một người sống trăm tuổi có phù hợp để lãnh đạo một tổ chức có 1,4 tỷ tín hữu trên khắp thế giới và trong một giai đoạn địa chính trị đặc biệt hỗn loạn này không? Đức Phanxicô đã ủng hộ quyết định của Đức Bênêđíctô XVI, nhưng sau đó ngài trở lại vấn đề của ngài với câu nói nổi tiếng: “Chúng ta không điều hành Giáo hội bằng đầu gối.” Ngài trả lời khi được hỏi liệu ngài có thể chịu được việc ngồi xe lăn không. Chúng ta chờ xem liệu ngài có đủ sức khỏe để cử hành các phụng vụ Tuần Thánh. Tuần Thánh cũng như năm Toàn xá 2025 là một thử thách thể chất. Quyết định ngày mai của giáo hoàng là gì? Không ai biết… và có lẽ cả chính giáo hoàng cũng không biết!

Đức Phanxicô có điểm gì giống với Đức Gioan-Phaolô II?

Hai giáo hoàng, tuy có vẻ rất khác nhau, nhưng lại có nhiều điểm chung. Trong lịch sử gần đây của các giáo hoàng, mỗi giáo hoàng đều có tính cách và cách lãnh đạo Giáo hội riêng. Giáo hoàng trước hết và quan trọng nhất là một con người, với những phẩm chất, khuyết điểm, đặc điểm tính cách của mình. Đức Piô XII là một vị vua. Đức Gioan XXIII là mục tử. Đức Phaolô VI là chính trị gia. Đức Gioan-Phaolô II là nhà tiên tri. Đức Bênêđíctô XVI là người trí thức. Đức Phanxicô là mục tử toàn cầu, hơi giống với Đức Gioan-Phaolô II: hai giáo hoàng phá vỡ truyền thống giáo hoàng người Ý, đã “toàn cầu hóa” Giáo hội công giáo. Giáo hoàng Ba Lan và Giáo hoàng Argentina đều đến từ những đất nước “xa xôi” như các ngài đã nhấn mạnh trong cuộc bầu chọn, đã buộc Giáo triều La-mã phải mở cửa với phần còn lại của thế giới.

Vì thế Đức Gioan-Phaolô II đã bổ nhiệm nhiều người không phải người Ý đến Rôma. Ngài ngài hiện thân cho việc quản lý Giáo hội qua vô số chuyến tông du trên khắp thế giới: ngài đã phong chân phước, phong thánh cho các thánh ở các nước Châu Phi, Châu Á, những nơi giáo dân quen với việc kính các thánh nước ngoài như thánh Bernadette Lộ Đức! Đức Phanxicô tiếp tục và mở rộng con đường này đến những nơi mà ngài gọi là “ngoại vi”, đã bao nhiêu lần ngài kêu gọi Giáo hội nên “chuyển động”.

Sẽ không nói quá khi nói vào thời của ngài, Đức Gioan-Phaolô II đã để lại dấu ấn cho thời đại của ngài, đến mức giáo dân vẫn còn nói đến “thế hệ Gioan-Phaolô II”. Nhưng chúng ta nên nhớ ngài đứng đầu Giáo hội trong hơn 26 năm, điều này phần nào giải thích vì sao ngài để lại một di sản đặc biệt. Trong số 266 giáo hoàng, chỉ có Đức Piô IX ở thế kỷ 19 ở tại ngôi lâu hơn Đức Gioan-Phaolô II – nếu không tính đến Thánh Phêrô, người được cho đã dẫn dắt những bước đầu tiên của Giáo hội trong 34 năm. Đây không phải là chi tiết nhỏ: Đức Gioan-Phaolô II đã nói chuyện với năm Tổng thống Hoa Kỳ, sáu nhà lãnh đạo tối cao Nga, ba Tổng thống Pháp! Trước hết, chúng ta nhớ đến ngài vì ngài đã phá vỡ chuỗi dài các giáo hoàng người Ý lãnh đạo Giáo hội trong gần năm thế kỷ. Khi ngài xuất hiện ở ban-công nhìn ra Quảng trường Thánh Phêrô vào buổi tối đắc cử, giới truyền thông quốc tế đưa tin… trước khi nhận ra ngài không chỉ “không phải là người Ý” mà còn là người Ba Lan, người đến từ phía sau Bức màn sắt. Một Giáo hoàng người Slavơ, một Giáo hoàng từ Đông Âu, chưa từng có tiền lệ!

Giáo hội đã có những tiến bộ dưới triều của ngài, trước sự phi kitô hóa nhanh chóng ở Châu Âu, sự thuyên chuyển đức tin về Nam bán cầu, sự cạnh tranh ngày càng tăng của các giáo phái, sự thức tỉnh của chủ nghĩa chính thống tôn giáo, dẫn đến sự từ chối chung mọi thẩm quyền, đặc biệt là thẩm quyền đạo đức trong các xã hội phương Tây giàu có. Vào thời điểm ngài được bầu chọn tháng 10 năm 1978, ai có thể lường trước được những biến động sâu sắc như sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, sự mở rộng của Châu Âu lên 27 quốc gia, sự trỗi dậy của chủ nghĩa Hồi giáo, sự phát triển của chủ nghĩa khủng bố, sự toàn cầu hóa, sự phát triển của Trung Quốc?

Nếu tôi phải nêu lên điểm nổi bật trong chân dung của ngài, tôi sẽ nhấn mạnh đến trực giác ngài đã có từ năm 1983, khi ngài đề nghị các người trẻ trên thế giới gặp nhau thường xuyên trong các “Ngày Thế Giới Trẻ”, từ Rôma đến Paris, từ Czestochowa đến Toronto, từ Denver đến Manila, những cuộc tụ họp khổng lồ này đã để lại dấu ấn sâu sắc cho thế hệ trẻ, đến mức các ngày này được lặp lại sau khi người phát minh qua đời: từ Cologne đến Madrid (dưới thời Đức Bênêđíctô XVI), từ Rio đến Lisbon (dưới thời Đức Phanxicô), Ngày Thế Giới Trẻ đã hòa giải Giáo hội công giáo với giới trẻ thế giới một cách lâu dài, đây không phải là một chiến công nhỏ!

Chỉ có một Giáo hoàng của Ba Lan mới dám tuyên bố chủ nghĩa cộng sản chỉ là “dấu ngoặc đơn” trong cuộc sống của những quốc gia này, và việc châu Âu bị chia cắt thành hai là một “tai nạn” của lịch sử.

Và ngài là người có công trong việc xích lại gần với người Do thái…

Đúng, ngài cũng là nhà phát minh và là tiền nhiệm của Giáo hoàng Phanxicô. Chúng ta nhớ chuyến đi lịch sử của ngài đến Giáo đường Do thái ở Rôma tháng 4 năm 1986. Công đồng Vatican II đã ảnh hưởng sâu sắc đến ngài, ngài đã tích cực tham dự khi ngài còn là Giám mục Karol Wojtyla, một giám mục trẻ của Krakow. Nhưng ngài cũng là con của một dân tộc chịu ảnh hưởng dữ dội bởi vấn đề Do thái. Khi còn nhỏ, ngài có nhiều bạn Do thái ở Wadowice, ngài trích lời của nhà thơ Ba Lan Mickiewicz nói với người Do Thái: “Các bạn là anh cả của chúng tôi” Theo cùng quan điểm này, Đức Phanxicô là nhà hoạt động của “văn hóa gặp gỡ”, ngài thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa các tôn giáo, cả với người Do thái và người Hồi giáo.

Karol Wojtyla, Giáo hoàng tương lai Gioan Phaolô II. Laski/Sipa 

Đức Gioan Phaolô II cũng để lại dấu ấn sâu đậm trên chính trường…

Chắc chắn. Bắt đầu với những gì đã được ghi vào sách lịch sử: vai trò của ngài trong sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Dù sự kiện có ý nghĩa quan trọng như vậy có nhiều nguyên nhân, nhưng không ai tranh cãi về vai trò chính của “Giáo hoàng người Slav”. Chúng ta nhớ chuyến về thăm quê phi thường của cựu Tổng Giám mục Krakow tháng 6 năm 1979, người dân đã nhận lời kêu gọi đầu tiên của ngài như lời khuyến khích: “Xin anh chị em đừng sợ!” Với các sử gia, chuyến đi này là chuyến đi đầu tiên phá vỡ “bức màn sắt”. Sẽ không bao giờ có một giáo hoàng người Ý, người Pháp hay người Brazil nào lại tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh của Công đoàn Đoàn kết và sự mở rộng của nó ở các nước Đông Âu cho đến khi Bức tường Bá Linh sụp đổ năm 1989. Vào thời điểm “hòa hoãn” giữa Đông và Tây, trong khi chủ nghĩa cộng sản tiếp tục lan rộng khắp thế giới (ở Lào, Mozambique, Afghanistan…) chỉ có một giáo hoàng từ Ba Lan mới dám khẳng định chủ nghĩa cộng sản chỉ là “dấu ngoặc đơn” trong cuộc sống của các quốc gia này, và rằng sự chia cắt châu Âu thành hai là một “tai nạn” lịch sử.

Đức Gioan-Phaolô II không phải là nhà lãnh đạo chiến tranh hay nhà hoạt động chính trị, lại càng không phải là chiến binh đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản. Ngài không bảo vệ bất kỳ một chế độ cụ thể nào mà chỉ bảo vệ nhân phẩm tối cao của con người. Ngài lặp đi lặp lại nhiều lần: “Con người là con đường dẫn đến Giáo hội.” Trong mọi cơ hội, ngài đều ủng hộ nhân quyền, tự do tôn giáo, phẩm giá con người, quyền được biết sự thật. Đó là những giá trị đặc biệt mang tính lật đổ ở các quốc gia “xã hội chủ nghĩa” nhưng chúng ta cũng nên nhớ còn các chế độ độc tài khác ở Haiti, Phi Luật Tân, Paraguay…

Ngày nay, Centesimus Annus (Đệ bách Chu niên) của ngài năm 1991 vẫn còn tính thời sự. Trong đó, ngài nói đến “cuộc hành hương dài hướng tới tự do”, ngài liệt kê các giai đoạn: Warsaw, Prague, Sofia, v.v. Về bản chất, ngài cho rằng xã hội chủ nghĩa thất bại vì nó biến con người thành “một bánh xe trong cỗ máy xã hội”, trong khi con người chỉ có thể là trọng tâm và là mục đích cuối cùng của bất kỳ dự án chính trị nào. Ngài nói thêm, nếu chủ nghĩa tư bản mắc phải sai lầm tương tự, nó cũng sẽ thất bại. Một lời khuyên cho người khôn ngoan…

Hành động của ngài có thể làm sáng tỏ tình hình hiện tại như thế nào, khi Đông Âu một lần nữa trở thành tâm điểm căng thẳng của Châu Âu?

Chúng ta sẽ thấy sự khác biệt thực sự giữa ngài với Đức Phanxicô! Về cuộc xung đột đã tàn phá Ukraine trong ba năm qua, Đức Gioan-Phaolô II sẽ không có thái độ mơ hồ như Đức Phanxicô – ngài sẽ làm cho người công giáo Châu Âu bối rối. Tôi xin độc giả nên tìm hiểu chuyến đi bị lãng quên của ngài: ngài đã đi Ukraine tháng 6 năm 2001. Ngài đã có chuyến đi đến các nước thuộc Khối Đông Âu đã giành độc lập sau năm 1989: Tiệp Khắc, Hungary, Albania, các nước vùng Baltic, Slovakia, Slovenia, Croatia, Romania, Kazakhstan, Armenia, v.v. Quốc gia mà ngài biết rõ nhất là Ukraine, nơi ngài đã ngạc nhiên khó chịu khi chứng kiến cuộc biểu tình thù địch chống chuyến đi của ngài đến Kyiv do… Tòa Thượng phụ Matxcơva tổ chức! Ngày hôm đó, ngài nói một câu mang tính tiên tri: “Cám ơn Ukraine đã bảo vệ Châu Âu trong cuộc đấu tranh không mệt mỏi và anh dũng chống lại những kẻ xâm lược!”

Kể từ khi ngài qua đời, hình ảnh của ngài bị lu mờ vì yếu đuối, vì ngài có một thái độ nào đó khi đối diện với các vụ lạm dụng tình dục. Vì sự thiếu sót này, liệu Giáo hội có đi thụt lùi trước tai họa này không?

Đó là điều bình thường. Vấn đề ấu dâm trong những năm gần đây, Giáo hội đã mở một cuộc điều tra về thời kỳ Giám mục Wojtyla phụ trách giáo phận Krakow trong những năm 1960 và 1970. Cuộc điều tra không dễ dàng, vì một trong những phương pháp phổ biến nhất để chống các linh mục và giám mục ở các nước cộng sản là cáo buộc họ phạm tội ấu dâm! Những lời khai trong thời kỳ này gần như hoàn toàn do cảnh sát chính trị (UB) dựng lên.

Tuy nhiên, một điều chúng ta biết rõ là ngài đã phản ứng chậm khi các vụ bê bối đầu tiên nổ ra ở Châu Âu và Hoa Kỳ trong những năm 1995-1996. Những lời buộc tội, Tổng Giám mục Paetz, giáo phận Poznan, đã cảnh báo ngài về vấn đề này và đã làm cho những người thân cận ngài chia rẽ. Bất chấp lời khuyên của các Hồng y Sodano, Reù và Castrillon-Hoyos năm 2001, Hồng y Ratzinger đã thuyết phục Đức Gioan-Phaolô II giải quyết vấn đề này một cách trực tiếp. Mọi trường hợp lạm dụng tình dục trong thực tế hoặc bị cáo buộc trong Giáo hội đều được Bộ Giáo lý Đức tin tập trung xử lý, khi đó Hồng y Ratzinger là chủ tịch và đã làm việc rất tích cực. Năm sau, Đức Gioan-Phaolô II triệu tập các hồng y và giám mục người Mỹ về Rôma để áp dụng chính sách “không khoan nhượng” và quan tâm đến các nạn nhân bị lạm dụng tình dục. Bây giờ chúng ta hiểu, điều này không đủ để giải quyết vấn đề.

Trong những năm cuối đời, ngài đã không đề cập đến trường hợp cụ thể của Cha Maciel, người sáng lập Dòng Chúa Kitô, một nhân vật đặc biệt đồi trụy và khó gần đã thuyết phục được những người thân cận Đức Gioan-Phaolô II, đặc biệt  là giám mục Dziwisz của ngài. Vừa lên ngôi giáo hoàng năm 2005, lập tức Đức Bênêđíctô XVI cách chức linh mục Maciel. Nhưng những nỗ lực can đảm mà Đức Bênêđíctô XVI thực hiện để chống tệ nạn lạm dụng tình dục không dập tắt được những cuộc tranh cãi. Năm 2013, sau khi Đức Bênêđíctô XVI từ nhiệm, đến lượt mình, Đức Phanxicô sẽ phải làm mọi cách có thể để hạn chế, kiềm chế và phán xét những việc tai tiếng này, 20 năm sau khi chúng xuất hiện một cách tàn bạo vào cuối triều Đức Gioan-Phaolô II.

Đức Gioan Phaolô II đã thu hút đám đông bằng sự năng động và sức lôi cuốn của ngài. Đức Gioan Phaolô II mới của Giáo hội có hình ảnh như thế nào?

Câu hỏi tương tự cũng được đặt ra khi Đức Gioan Phaolô II qua đời cách đây 20 năm! Chúng ta luôn đặt câu hỏi này mỗi khi có một giáo hoàng qua đời… và nói chung, chúng ta đã sai. Mật nghị thường quy tụ phần lớn các hồng y được giáo hoàng quá cố bổ nhiệm, nhưng điều này không có nghĩa họ phải duy trì sự tiếp nối với giáo hoàng sắp mãn nhiệm. Mục tiêu chính của các cử tri trong mật nghị, họp kín “cum clave” tại Nhà nguyện Sixtine là hiệp nhất Giáo hội. Đó là lý do vì sao các ứng viên gây chia rẽ nhất, dù bảo thủ hay cấp tiến, đều nhanh chóng bị loại. Tổng giám mục trẻ của Krakow năm 1978, đã được chú ý hơn các Hồng y danh tiếng Siri (bảo thủ) và Benelli (cải cách), khi ngài gần như chưa ai biết đến Tổng giám mục trẻ này! Khi triều Đức Phanxicô kết thúc, chúng ta sẽ thấy trước tiên các hồng y cử tri sẽ tìm một nhân vật có khả năng đoàn kết Giáo hội có 2000 ngàn năm tuổi này, một Giáo hội bị giằng xé giữa nhiều khuynh hướng, họ sẽ tìm người có bàn tay cứng rắn trong những biến động địa chính trị sắp tới. Việc đưa ra dự đoán vào thời điểm hiện tại sẽ rất rủi ro!

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Sức khỏe của Đức Phanxicô tiếp tục cải thiện

Quá trình phục hồi hô hấp của Đức Phanxicô sẽ diễn ra như thế nào?

Đức Phanxicô, người bào chữa cho Đức Gioan-Phaolô II

Đức Phanxicô và việc điều hành Giáo hội

Sức khỏe của Đức Phanxicô đã cải thiện đôi chút