Năm bài học quan trọng của Đức Phanxicô giúp chúng ta điều chỉnh suy nghĩ của mình
Hình ảnh – Antoine Mekary | ALETEIA
fr.aleteia.org, Blanche Streb, 2025-04-28
Đức Phanxicô là Giáo hoàng của đức bác ái, ngài nhắc chúng ta phải có đạo đức của lòng nhân từ. Nhà báo Blanche Streb của trang Aleteia đã học được năm bài học quan trọng về tính nhất quán của ngài, ngài luôn nhấn mạnh chân lý phổ quát: “Tất cả đều có liên hệ với nhau.”
Ngài đã về nhà Cha ngày 21 tháng 4 lúc 7h35 sáng. Tính cách, sức mạnh và lời kêu gọi chăm sóc người nghèo của ngài đã đánh dấu triều của ngài. Tôi nhớ bài phân tích của cha Grosjean, ngay sau khi ngài được bầu. Cha là một trong những người sáng lập Blog Padre, theo cha, ba Giáo hoàng cuối cùng của chúng ta, mỗi người đều có sức lôi cuốn riêng, thể hiện cụ thể cho một trong ba nhân đức đối thần: đức hy vọng của Đức Gioan Phaolô II, đức tin của Đức Bênêđíctô XVI và đức ái của Đức Phanxicô. Không phải là chuyên gia về tư tưởng của cố Giáo hoàng nhưng một số hiểu biết sâu sắc, lời dạy của ngài đặc biệt tạo ấn tượng trong tôi. Những nhân đức này nuôi dưỡng suy nghĩ của chúng ta, giúp tâm hồn chúng ta được êm dịu, để tiếng nói của chúng ta thích ứng với hành động.
1- Khuôn mặt của lòng thương xót
Đức Phanxicô mở Cửa Thánh tại Đền thờ Thánh Phêrô nhân Năm Thánh Lòng Thương Xót ngày 8 tháng 12 năm 2015. VINCENZO PINTO/AFP / Hình ảnh Getty
Làm sao khi viết những hàng chữ này tôi lại không nhớ đến Chúa nhật Lòng Thương Xót ngài thiết lập năm 2015, Năm Lòng Thương Xót? Ngài muốn Năm Thánh đặc biệt này là thời điểm thuận lợi cho Giáo hội để lời chứng của giáo dân được mạnh mẽ và hiệu quả hơn. Nhờ tự sắc Khuôn mặt của Lòng thương xót (Misericordiae Vultus) chúng ta hiểu, không chỉ những việc bác ái về thể xác là những chuyện chúng ta thấy quen thuộc và hiển nhiên, nhưng trên hết là những việc ít được biết đến như các việc bác ái về mặt tinh thần.
Phần tôi, những việc này tôi chưa hề nghe nói trước đây. Vì vậy tôi không còn nhìn các việc này như trước được nữa… tôi xin cám ơn Đức Phanxicô! Các việc làm thương xót linh hồn là: Lấy lời lành mà khuyên người, Mở dậy kẻ mê muội, Yên ủi kẻ âu lo, Răn bảo kẻ có tội, Tha kẻ dể ta, Nhịn kẻ mất lòng ta, Cầu cho kẻ sống và kẻ chết
2- Thế gian và 15 căn bệnh
Tôi nhớ lời kêu gọi khẩn thiết của ngài để chống tinh thần thế tục về mặt tâm linh, 15 căn bệnh khủng khiếp của Giáo triều, mà trên thực tế đó là những căn bệnh chúng ta cần dành thời gian để suy ngẫm…: ảo tưởng của sự bất tử nghĩ rằng mình là người “không chết, không thể thiếu”, người làm việc quá mức như Thánh Marta, sự chai đá tinh thần và tâm hồn, tinh thần quan liêu, kém phối hợp. Bệnh Alzheimer tâm linh, vinh quang phù phiếm, tinh thần phân liệt hiện sinh. Tin đồn, nói xấu, buôn chuyện. Tôn sùng các nhà lãnh đạo. Thờ ơ với người khác. Gom của cải. Thế tục, lợi nhuận thế gian và thói phô trương… Một vòng khép kín của các tệ nạn.
3- Không có đạo đức nếu không có lòng tốt
Xin ngài giúp chúng con biết làm chứng cho sự hiệp thông, phục vụ, đức tin nồng nhiệt và quảng đại, công lý và tình yêu với người nghèo, để niềm vui Tin Mừng có thể đến tận cùng trái đất và không một vùng ngoại vi nào bị tước mất ánh sáng Tin Mừng. (Tông huấn Niềm vui Tin Mừng)
Hình ảnh / Marko Vombergar – ALETEIA
Trong Tông huấn Niềm vui Tin mừng Evangelii Gaudium, ngài đưa ra bốn nguyên tắc để xây dựng một dân tộc hòa bình, công bằng và huynh đệ. Trong đó, tôi thường nghĩ đến câu: “Thực tế vượt trội hơn ý tưởng.” Đây là một rủi ro thực sự: một ý tưởng không đối diện với thực tế có thể nhanh chóng thành một hệ tư tưởng. Tương tự như vậy, không có gì lạ khi trong cuộc sống, chúng ta phải đối diện với những lo lắng, hiểu lầm hoặc ác cảm nào đó vì chúng ta bị “kẹt” trong những ý tưởng của mình. Để rồi cuối cùng chúng phai nhạt dần vào thực tế của những gì đã sống, đã gặp, đã trải nghiệm…
Ngài giải thích: “Một cách đơn giản, thực tế là ý tưởng đã được phát triển. Giữa hai điều này, chúng ta phải thiết lập một cuộc đối thoại thường trực, tránh không để ý tưởng cuối cùng bị tách khỏi thực tế. Sống trong thế giới của những từ ngữ, của hình ảnh, của ngụy biện là điều nguy hiểm. Từ đó, ngài đưa ra nguyên tắc thực tế cao hơn ý tưởng. Điều này đòi hỏi phải tránh che khuất thực tế: chủ nghĩa thuần túy của thiên thần, chủ nghĩa toàn trị của chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa bản sắc, các dự án mang tính hình thức hơn là thực tế, chủ nghĩa chính thống phản lịch sử, đạo đức không có lòng tốt, chủ nghĩa duy lý, tất cả đều là những chủ nghĩa vô lý (EG, 231).
Và đó là những lời tôi muốn ghi nhớ: chúng ta phải cảnh giác với đạo đức không có lòng tốt…!
4- Mọi thứ đều được kết nối
Borgo Laudato Si Space – Vatican sẽ sản xuất rượu vang của riêng mình vào năm 2027
Tiếp nối các vị tiền nhiệm, Đức Phanxicô giúp chúng ta hiểu nhu cầu cấp thiết phải tôn trọng sự sống, trong tầm nhìn về hệ sinh thái toàn diện. Ngài nhấn mạnh rất nhiều về sự cần thiết phải nhất quán. Câu nói nổi tiếng của ngài: “Mọi thứ đều có mối liên hệ với nhau.” Một câu đơn giản nhưng phản ánh một chân lý vĩnh cửu. Đúng vậy, tất cả đều có mối liên hệ với nhau và không có lý do gì để chọn con người chống lại thiên nhiên hay thiên nhiên chống lại con người: “Trong thực tế, khi chúng ta không nhận ra giá trị của người nghèo, của phôi thai, của người khuyết tật…, chúng ta sẽ khó lắng nghe tiếng kêu của thiên nhiên. Tất cả đều kết nối với nhau” (Thông điệp Laudato si’, 117).
Cùng với ngài, chúng ta hiểu sự suy thoái môi trường có liên quan chặt chẽ đến văn hóa hình thành cộng đồng loài người, vì thế nhu cầu cấp thiết là bảo vệ các điều kiện đạo đức không thể thiếu làm nền tảng cho hành động con người. Vì một hệ sinh thái thực sự chỉ có thể toàn diện nếu được con người thực hiện, hòa giải trong chính hệ sinh thái con người và hệ sinh thái môi trường, kêu gọi mọi người tiến tới một thay đổi sinh thái toàn cầu đầy đau đớn và đòi hỏi.
5- Tầm nhìn toàn cầu về đạo đức sinh học
Alex_Traksel / Shutterstock
Về vấn đề sự sống, ngài nhấn mạnh đến tầm quan trọng phải có “tầm nhìn toàn cầu về đạo đức sinh học” Trong tông huấn Hiến chế Mục vụ Gaudete et Exsultate, ngài nhắc lại “việc bảo vệ người vô tội chưa chào đời phải rõ ràng, kiên quyết và mạnh mẽ, vì phẩm giá của sự sống con người luôn thiêng liêng, phẩm giá này đang bị đe dọa, tình yêu dành cho mọi người bất kể sự phát triển của họ đòi hỏi điều này. Nhưng cũng thiêng liêng với sự sống của những người nghèo đã được sinh ra, của những người đang đấu tranh trong cảnh nghèo đói, bị bỏ rơi, bị khinh miệt, của các nạn nhân nạn buôn người, của việc an tử ẩn giấu của người bệnh và người già, họ không được quan tâm, của những hình thức nô lệ mới và trong mọi hình thức gạt ra ngoài lề” (GE, 101). Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của đạo đức sinh học toàn cầu này, khi nó trở thành một phương thức cụ thể để phát triển quan điểm về sinh thái toàn diện.
Theo ngài, đạo đức sinh học phải được xem xét không phải từ góc độ bệnh tật và công việc ghê sợ của cái chết nhưng phải từ niềm tin sâu sắc vào phẩm giá con người. Một phẩm giá không thể thay đổi ở mọi giai đoạn và điều kiện tồn tại của con người. Ngài thực sự muốn nhắc đến tính liên tục của cuộc sống, ngài không bao giờ bỏ sót một giai đoạn nào: “Có một cuộc sống con người khi được thụ thai, khi đang mang thai, khi được sinh ra, một cuộc sống trẻ em, một cuộc sống vị thành niên, một cuộc sống trưởng thành, một cuộc sống già cả kiệt sức – và có cuộc sống vĩnh hằng. Và không ngây thơ, vì đó cũng là tồn tại sự sống con người mong manh, bệnh tật, bị tổn thương, bị hạ thấp, bị gạt ra ngoài lề, bị từ chối. Nhưng, đó luôn là sự sống con người.”
Chúng con xin cám ơn Giáo hoàng Phanxicô
Xin cám ơn Giáo hoàng Phanxicô vì cuộc sống ngài đã ban tặng. Giờ đây, đằng sau cánh cửa huyền nhiệm của Vương quốc Thiên đàng, cánh cửa mà chìa khóa được trao tượng trưng cho Thánh Phêrô, người tiền nhiệm thánh thiện của ngài, người mà Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo hội, với tâm hồn nhẹ nhàng, tôi nhớ lại lời tâm tình vĩnh cửu này: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết con yêu Chúa.”
Marta An Nguyễn dịch
Đức Phanxicô, một thiên tài truyền thông?