Đức Phanxicô trả lời “nghi ngờ” của năm hồng y
vaticannews.va, 2023-10-02
Các hồng y Brandmüller, Burke, Sandoval Íđiguez, Sarah và Zen Ze-kiun đã trình bày với Đức Phanxicô năm câu hỏi yêu cầu ngài làm sáng tỏ một số điểm liên quan đến việc giải thích Mặc khải Thiên Chúa, việc chúc phúc cho các kết hợp đồng giới, tính đồng nghị như một chiều kích cấu thành của Giáo hội, việc truyền chức cho phụ nữ và việc sám hối như điều kiện cần thiết để được lãnh nhận bí tích hòa giải.
Đức Phanxicô đã trả lời năm câu hỏi, “nghi ngờ” (dubia, tiếng la-tinh) do các hồng y Walter Brandmüller và Raymond Leo Burke hỏi ngài tháng 7 vừa qua, và được ba hồng y khác là Juan Sandoval Íđiguez, Robert Sarah và Joseph Zen Ze-kiun hỗ trợ. Các câu hỏi của các hồng y bằng tiếng Ý, các câu trả lời của Đức Phanxicô bằng tiếng Tây Ban Nha được công bố hôm nay (2 tháng 10) trên trang web của bộ Giáo lý Đức tin. Sau đây là văn bản và bản dịch (trong tiếng Pháp) về các câu trả lời của Đức Phanxicô:
1– Nghi ngờ về khẳng định Mặc khải Thiên Chúa phải được giải thích lại theo những thay đổi đang diễn ra về văn hóa và nhân học.
Tiếp theo những khẳng định của một số giám mục chưa được sửa chữa cũng như không rút lại, câu hỏi đặt ra là liệu Mặc khải Thiên Chúa trong Giáo hội có phải được giải thích lại theo những thay đổi văn hóa của thời đại chúng ta và tầm nhìn nhân học mới mà những thay đổi này thúc đẩy hay không; hoặc nếu Mặc khải Thiên Chúa có tính ràng buộc vĩnh viễn, bất biến và do đó không thể bị mâu thuẫn, theo những gì đã được Công đồng Vatican II đưa ra và quy định, đối với Thiên Chúa, Đấng mặc khải, phải có “sự vâng phục của đức tin” (Hiến chế Tín lý, Dei Verbum 5); rằng những gì được mặc khải để cứu rỗi mọi người vẫn phải “mãi mãi nguyên vẹn” và sống động, và được “truyền lại cho mọi thế hệ” (7) và tiến bộ của trí tuệ không bao hàm bất kỳ sự thay đổi nào về sự thật của các sự việc và các lời nói, bởi vì đức tin đã được “truyền một lần và mãi mãi” (8), và Huấn Quyền không cao hơn Lời Chúa, mà chỉ dạy những gì đã được truyền lại (10).
Trả lời của Đức Phanxicô
Anh em thân mến,
Mặc dù không phải lúc nào cũng có vẻ khôn ngoan khi trả lời các câu hỏi được gởi trực tiếp cho tôi và tôi không thể trả lời tất cả, nhưng trong trường hợp này, tôi nghĩ trả lời là thích hợp vì Thượng Hội đồng đã gần kề.
Trả lời câu hỏi đầu tiên
a. Câu trả lời phụ thuộc vào ý nghĩa chúng ta gán cho từ “diễn giải lại”. Nếu được hiểu là “diễn giải tốt hơn” thì diễn tả này hợp lệ. Theo nghĩa này, Công đồng Vatican II đã khẳng định, điều cần thiết là, thông qua công việc của các nhà chú giải – và tôi muốn nói thêm, các thần học gia – “sự phán xét của Giáo hội phải chín muồi” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý, Dei Verbum, 12).
b. Vì vậy, nếu đúng là Mặc khải của Thiên Chúa là bất biến và luôn ràng buộc, Giáo hội phải khiêm tốn và nhìn nhận, Giáo hội không bao giờ cạn kiệt sự phong phú khôn dò của mình và cần phải phát triển trong sự hiểu biết của mình.
c. Do đó, Giáo Hội lớn lên trong sự hiểu biết với những gì chính Giáo Hội đã khẳng định trong Huấn quyền.
d. Những thay đổi về văn hóa và những thách thức mới của lịch sử không làm thay đổi Mặc khải, nhưng có thể thúc đẩy chúng ta thể hiện tốt hơn những khía cạnh nào đó của sự phong phú tràn ngập và luôn mang lại nhiều hơn của Giáo hội.
e. Điều không thể tránh khỏi là nó có thể dẫn đến việc diễn đạt tốt hơn một số khẳng định trong quá khứ của Huấn quyền, và điều này thực sự đã xảy ra trong suốt lịch sử.
f. Mặt khác, đúng là Huấn quyền không cao hơn Lời Chúa, nhưng cũng đúng là cả các bản văn Kinh Thánh lẫn các chứng từ Thánh Truyền đều cần một lối giải thích giúp chúng ta phân biệt được bản chất lâu dài của chúng trong việc phù hợp với văn hóa. Chẳng hạn, điều này được thể hiện rõ ràng trong các văn bản Kinh thánh (như trong sách Xuất hành 21: 20-21) và trong một số biện pháp can thiệp của giáo quyền nhằm dung túng chế độ nô lệ (x. Nicholas V, sắc lệnh Dù khác nhau, Dum Diversas, 1452). Đây không phải là một lập luận thứ yếu, vì nó có mối liên hệ mật thiết với chân lý vĩnh cửu về phẩm giá bất khả nhượng của con người. Những văn bản này phải được giải thích. Điều tương tự cũng xảy ra đối với một số quan điểm trong Tân Ước về phụ nữ (1 Cô-rinh-tô 11:3-10; 1 Ti-mô-thê 2:11-14) và các đoạn Kinh thánh khác cũng như những chứng từ Truyền thống không thể lặp lại như ngày nay.
g. Điều quan trọng cần nhấn mạnh, điều không thể thay đổi là điều đã được mạc khải “để cứu rỗi mọi người” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý, Dei Verbum, 7). Vì vậy, Giáo hội phải liên tục phân định điều gì là thiết yếu cho sự cứu rỗi và điều gì là thứ yếu hoặc ít liên quan trực tiếp đến mục tiêu này. Tôi muốn nhắc lại những gì Thánh Tôma Aquinô đã nói: “Càng đi sâu vào chi tiết, tính bất định càng gia tăng” (Tổng Luận Thần Học, Summa Theologiae 1-1 1, q. 94, art. 4).
h. Cuối cùng, công thức duy nhất của một sự thật không bao giờ có thể được hiểu một cách đầy đủ nếu nó được trình bày một cách biệt lập, tách biệt khỏi bối cảnh phong phú và hài hòa của toàn bộ Mặc khải. “Phẩm trật của các chân lý” cũng bao gồm việc đặt mỗi chân lý trong mối liên hệ thích hợp với các chân lý trung tâm hơn và với giáo huấn của toàn thể Giáo hội. Điều này cuối cùng có thể dẫn đến những cách khác nhau để giải thích cùng một học thuyết, ngay cả khi “đối với những người mơ về một học thuyết nguyên khối được tất cả mọi người bảo vệ mà không có sắc thái, có vẻ như đây là một sự phân tán không hoàn hảo. Nhưng trên thực tế, sự đa dạng này giúp thể hiện và phát triển tốt hơn những khía cạnh khác nhau của sự phong phú vô tận của Tin Mừng” (tông huấn Niềm vui Tin mừng Evangelii Gaudium, 40). Bất kỳ trào lưu thần học nào cũng có những rủi ro nhưng cũng có những cơ hội.
2– Nghi ngờ khi khẳng định rằng việc thực hành rộng rãi chúc phúc cho các cặp đồng giới là phù hợp với Mạc khải và Huấn quyền (CCC 2357).
Theo Mặc Khải của Thiên Chúa, được chứng thực trong Thánh Kinh, Giáo Hội “theo lệnh truyền của Thiên Chúa và với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, sốt sắng lắng nghe, gìn giữ sự thánh thiện và trình bày một cách trung thành” (Hiến chế Mạc khải, Dei Verbum IO): “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Ngài sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều… ” (x. St 1,27-28), và vì lý do này Thánh Phaolô dạy rằng, việc phủ nhận sự khác biệt giới tính là hậu quả của việc phủ nhận Đấng Tạo Hóa (Rm 1, 24-32). Câu hỏi được đặt ra: liệu Giáo hội có thể đi chệch khỏi “sự khởi đầu” này hay không, bằng cách xem nó, trái ngược với những gì thông điệp Chân lý rạng ngời Veritatis splendor 103 dạy, như một lý tưởng đơn giản, và bằng cách chấp nhận “như có thể xảy ra” của những hoàn cảnh tội lỗi một cách khách quan, như các kết hợp của những người đồng giới, mà không vi phạm giáo lý được mặc khải không?
Câu trả lời của Đức Phanxicô cho câu hỏi thứ hai
a. Giáo Hội có một quan niệm rất rõ ràng về hôn nhân: một sự kết hợp độc nhất, ổn định và bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, mở ra một cách tự nhiên cho việc sinh sản con cái. Chỉ có sự kết hợp này mới có thể được gọi là “hôn nhân”. Các hình thức kết hợp khác chỉ có được điều này “một phần và loại suy” (tông huấn Amoris laetitia 292) và do đó không thể được gọi một cách chặt chẽ là “hôn nhân”.
b. Đây không chỉ là vấn đề về tên gọi, nhưng thực tế mà chúng ta gọi là hôn nhân có một cấu tạo thiết yếu duy nhất đòi hỏi một cái tên riêng biệt, không thể áp dụng cho những thực tại khác. Chắc chắn nó còn hơn cả một “lý tưởng” đơn giản.
c. Đó là lý do vì sao Giáo hội tránh bất kỳ loại nghi thức hay bí tích nào có thể mâu thuẫn với xác tín này và làm cho người ta nghĩ rằng có một điều gì đó được công nhận là hôn nhân nhưng lại không phải là hôn nhân.
d. Tuy nhiên, trong mối quan hệ của chúng ta với mọi người, chúng ta không được đánh mất lòng bác ái mục vụ, đức ái phải thấm nhuần trong mọi quyết định và thái độ của chúng ta. Việc bảo vệ sự thật khách quan không phải là biểu hiện duy nhất của lòng bác ái này, nó còn được tạo nên từ lòng nhân ái, kiên nhẫn, hiểu biết, dịu dàng và khích lệ. Vì thế chúng ta không thể là những quan tòa chỉ phủ nhận, bác bỏ hoặc loại trừ.
e. Do đó, sự khôn ngoan mục vụ phải phân định chính xác, xem có những hình thức chúc phúc nào được một hoặc nhiều người yêu cầu mà không truyền tải một quan niệm sai lầm về hôn nhân hay không. Thật vậy, khi chúng ta xin một chúc phúc, chúng ta nói lên lời xin Chúa giúp đỡ, để có thể sống tốt hơn, để tin tưởng vào Người Cha có thể giúp chúng ta sống tốt hơn.
f. Mặt khác, dù có những tình huống, trên quan điểm khách quan, không thể chấp nhận được về mặt đạo đức, nhưng đức ái mục vụ yêu cầu chúng ta không đơn thuần xử lý họ như “những kẻ phạm tội” khác mà tội lỗi hoặc trách nhiệm của họ có thể được giảm nhẹ bằng nhiều cách khác nhau, ảnh hưởng đến khả năng quy tội một cách chủ quan (x. Thánh Gioan Phaolô II, tông huấn Hòa giải và Sám hối, Reconciliatio et Paenitentia, n. 17).
g. Trong một số trường hợp, những quyết định có thể là một phần của sự khôn ngoan mục vụ nhưng không nhất thiết phải trở thành một quy luật. Nói cách khác, thật không thích hợp nếu một giáo phận, Hội đồng Giám mục hoặc bất kỳ cơ cấu giáo hội nào khác liên tục và chính thức ủy quyền cho các thủ tục hoặc nghi thức đối với mọi loại vấn đề, bởi vì mọi thứ “là một phần của việc phân định thực dụng trước một tình huống cụ thể” không thể được nâng lên hàng chuẩn mực”, vì điều này “sẽ làm nảy sinh lối ngụy biện không thể chịu nổi” (tông huấn Amoris laetitia 304). Giáo luật không nên và không thể bao trùm mọi thứ, các Hội đồng Giám mục, với các văn kiện và nghi thức khác nhau, không nên yêu cầu điều đó, vì đời sống của Giáo hội đi qua nhiều kênh ngoài các kênh quy phạm.
3– Nghi ngờ về khẳng định, rằng tính đồng nghị là một “chiều kích cấu thành của Giáo hội” (Const.Ap. Episcopalis Communio 6), để về bản chất, Giáo hội sẽ mang tính đồng nghị.
Vì Thượng hội đồng giám mục không đại diện cho Giám mục đoàn, mà chỉ là cơ quan tư vấn của giáo hoàng, nên các giám mục, với tư cách là nhân chứng của đức tin, không thể ủy quyền việc tuyên xưng sự thật của mình, tính đồng nghị có thể là tiêu chuẩn điều chỉnh tối cao của chính quyền thường trực của Giáo hội mà không làm biến chất cơ cấu cấu thành của Giáo hội, mà Người sáng lập mong muốn, theo đó, thẩm quyền tối cao và toàn thể của Giáo hội được thực thi, cả với Giáo hoàng theo quyền của ngài, cả với Giám mục đoàn với người đứng đầu là giáo hoàng la-mã (Hiến chế Tín lý về Giáo hội, Lumen Gentium 22).
Câu trả lời của Đức Phanxicô cho câu hỏi thứ ba
a. Mặc dù quý vị thừa nhận thẩm quyền tối cao và toàn thể của Giáo hội được giáo hoàng thực thi theo chức vụ của ngài và bởi Giám mục đoàn với người đứng đầu là giáo hoàng la-mã (x. Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý về Giáo hội, Lumen Gentium, 22), qua những câu hỏi này, quý vị chứng tỏ nhu cầu tham gia, tự do bày tỏ ý kiến và cộng tác của mình, từ đó yêu cầu một hình thức “tính đồng nghị” trong việc thi hành thừa tác vụ của tôi.
b. Giáo hội là một “mầu nhiệm hiệp thông truyền giáo”, nhưng sự hiệp thông này không chỉ mang tính cảm xúc hay thanh khiết, nó nhất thiết bao gồm sự tham gia thực sự: không chỉ với hàng giáo phẩm, mà với toàn thể Dân Chúa, theo những cách khác nhau và ở những cấp độ khác nhau, có thể làm cho tiếng nói của họ được lắng nghe và cảm nhận là một phần của tiến trình Giáo hội. Theo nghĩa này, chúng ta có thể nói tính đồng nghị, như một phong cách và tính năng động, một chiều kích thiết yếu của đời sống Giáo hội. Thánh Gioan Phaolô II đã nói những điều rất hay về điểm này trong tông thư Khởi đầu Thiên niên, Novo millennio ineunte.
c. Thánh thiện hóa hoặc áp đặt một phương pháp luận đồng nghị nào đó làm hài lòng một nhóm, biến nó thành một chuẩn mực và một con đường bắt buộc cho tất cả mọi người, là một điều khác, vì điều này sẽ chỉ dẫn đến việc “tê cứng” đường lối đồng nghị, bỏ qua những đặc điểm khác nhau của nhiều Giáo hội địa phương khác nhau và sự phong phú đa dạng của Giáo hội hoàn vũ.
4– Nghi ngờ về sự ủng hộ của các mục tử và các nhà thần học đối với lý thuyết cho rằng “thần học của Giáo hội đã thay đổi” và do đó có thể truyền chức cho phụ nữ.
Sau những khẳng định của một số giám chức chưa được sửa chữa cũng như không rút lại, rằng thần học của Giáo hội và ý nghĩa của Thánh lễ đã thay đổi theo Công đồng Vatican II, câu hỏi đặt ra là liệu mệnh lệnh của Công đồng Vatican II có còn hiệu lực hay không? “Chức tư tế chung của tín hữu và chức tư tế thừa tác có sự khác biệt thiết yếu chứ không chỉ về mức độ” (Hiến chế Tín lý về Giáo hội, Lumen Gentium IO) và các linh mục, nhờ “quyền thánh hiến để dâng Hy lễ và tha tội” (Sắc lệnh về Chức vụ và Đời sống Linh mục, Presbyterorum Ordinis 2), hành động nhân danh Chúa Kitô, Đấng Trung Gian, Đấng mà hy lễ thiêng liêng của các tín hữu được hoàn hảo? Người ta cũng hỏi liệu giáo huấn trong Tông thư Truyền chức Linh mục, Ordinatio Sacerdotalis của Thánh Gioan Phaolô II, vốn dạy như một sự thật để xem xét dứt khoát việc không thể phong chức linh mục cho phụ nữ, có còn hiệu lực hay không, để giáo huấn này không còn có thể thay đổi nữa, hoặc thảo luận tự do của các mục tử hay của các thần học gia.
Câu trả lời của Đức Phanxicô cho câu hỏi thứ tư
a. “Chức tư tế chung của các tín hữu và chức tư tế thừa tác có sự khác biệt cơ bản giữa chúng” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý về Giáo hội, Lumen Gentium, 10). Sẽ không thích hợp khi bảo vệ sự khác biệt về cấp độ vốn bao hàm việc xem chức tư tế chung của các tín hữu như một điều gì đó thuộc “bậc thứ hai” hoặc có giá trị thấp hơn (“mức độ thấp hơn”). Hai hình thức tư tế soi sáng và hỗ trợ lẫn nhau.
b. Khi Thánh Gioan Phaolô II dạy rằng phải khẳng định “dứt khoát”, không thể truyền chức linh mục cho phụ nữ, ngài không hề hạ thấp phụ nữ và trao quyền tối cao cho phụ nữ. Thánh Gioan Phaolô II còn khẳng định những điều khác. Chẳng hạn, khi chúng ta nói về quyền lực linh mục, “Chúng ta đang ở trong khái niệm về chức năng, chứ không về phẩm giá và sự thánh thiện”. (Thánh Gioan Phaolô II, Tông huấn Kitô giáo-Giáo dân, Christifideles Laici, 51). Đó là những lời chúng ta chưa đón nhận đủ. Ngài cũng khẳng định rõ, dù chỉ có linh mục chủ trì bí tích Thánh Thể, nhưng các nhiệm vụ “không tạo nên sự ưu việt của một số người so với những người khác” (Thánh Gioan Phaolô II, Christifideles laici, ghi chú 190; bộ Giáo lý Đức tin, tuyên bố Inter Insigniores, VI). Ngài cũng khẳng định, dù chức linh mục là “có tính chất phẩm trật”, nhưng không nên hiểu nó như một hình thức thống trị, mà là “hoàn toàn hướng tới sự thánh thiện của các phần tử của Chúa Kitô” (Thánh Gioan-Phaolô II, tông thư Phẩm giá của người phụ nữ, Mulieris dignitatem, 27). Nếu chúng ta không hiểu điều này và nếu chúng ta không rút ra những hậu quả thực tế từ những sự phân biệt này, thì sẽ khó chấp nhận chức linh mục chỉ dành riêng cho nam giới và chúng ta sẽ không thể thừa nhận các quyền của phụ nữ cũng như sự cần thiết của họ để tham dự bằng nhiều cách khác nhau, vào việc điều hành của Giáo hội.
c. Mặt khác, để nghiêm túc hơn, chúng tôi thừa nhận, một học thuyết rõ ràng và có thẩm quyền về bản chất chính xác của một “tuyên bố dứt khoát” vẫn chưa được phát triển một cách toàn diện. Đây không phải là một định nghĩa giáo điều, tuy nhiên, nó phải được tất cả mọi người chấp nhận. Không ai có thể phủ nhận nó một cách công khai nhưng nó có thể là chủ đề nghiên cứu, như trong trường hợp hiệu lực của việc truyền chức trong Giáo hội anh giáo.
5– Nghi ngờ liên quan đến tuyên bố “sự tha thứ là quyền của Con người” và việc Đức Phanxicô nhấn mạnh đến nghĩa vụ tha tội cho mọi người và luôn luôn, để việc sám hối sẽ không phải là điều kiện cần thiết cho việc xá tội theo bí tích.
Liệu giáo huấn của Công đồng Trent có hiệu lực hay không, theo đó, để bí tích xưng tội có hiệu lực, người đi xưng tội phải ăn năn thống hối, ghét tội đã làm và dốc lòng chưa còn hiệu lực (Phần XIV, Chương IV: DH 1676), thì linh mục có nên hoãn việc xá tội khi thấy rõ điều kiện này không được đáp ứng không.
Câu trả lời của Đức Phanxicô cho câu hỏi thứ năm
a. Việc sám hối là cần thiết để bí tích giải tội có hiệu lực và bao hàm ý định không phạm tội. Nhưng ở đây không có phép toán nào cả và tôi phải nhắc quý vị một lần nữa, tòa giải tội không phải là cơ quan hải quan. Chúng ta không phải là những ông chủ, nhưng là những người quản lý khiêm tốn các bí tích nuôi dưỡng các tín hữu, vì những ân sủng này từ Chúa, không phải là thánh tích phải canh giữ, nhưng là những trợ giúp của Chúa Thánh Thần cho cuộc sống của con người.
b. Có nhiều cách để bày tỏ sự ăn năn. Thường thường, nơi những người có lòng tự tin bị tổn thương nặng nề, việc nhận tội là một cực hình tàn nhẫn, nhưng việc đi xưng tội cũng là một biểu hiện của lòng ăn năn và nói lên tấm lòng đi tìm sự giúp đỡ của Chúa.
c. Tôi cũng muốn nhắc lại “đôi khi chúng ta phải trả giá rất nhiều để dành chỗ cho tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa trong việc chăm sóc mục vụ” (tông huấn Amoris Laetitia 311), nhưng chúng ta phải học điều đó. Theo Thánh Gioan Phaolô II, tôi cho rằng, chúng ta không nên đòi hỏi nơi tín hữu những ý định sửa chữa quá chính xác và chắc chắn, cuối cùng trở nên trừu tượng hoặc tự mê, nhưng ngay cả một dự đoán sẽ sa ngã lại “không mang theo cũng không ảnh hưởng đến tính xác thực” của ý định (Thánh Gioan Phaolô II, Thư gởi hồng y William W. Baum và gởi những người tham gia khóa học hàng năm của Tòa Ân Giải, ngày 22 tháng 3 năm 1996, 5).
d. Cuối cùng, phải làm rõ, tất cả các điều kiện thường áp đặt cho việc xưng tội nói chung không áp dụng khi người đó ở trong tình trạng hấp hối hay với những người có khả năng tinh thần và tâm hệ rất hạn chế.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Vatican trả lời “dubia” của năm hồng y chỉ trích Thượng hội đồng