Giáo sư và giám mục

213

Trích sách: Bênêđictô XVI, Những buổi nói chuyện cuối cùng với Peter Seewald. Nxb. Fayard.

Münster (1963-1966)

Mùa hè năm 1963, Joseph Ratzinger nhận một địa vị tại Khoa Công Giáo của Đại học Münster, một thành phố với nền văn hóa sinh viên rất nổi trội. Vị giáo sư trẻ và chị Maria trọ chung với các sinh viên miền Bavaria trong ngôi nhà một tầng ở đại lộ Annette-von-Droste-Hûlshoff. Ngày chúa nhật, họ ăn chung với nhau – đôi khi trong một quán rượu bên cạnh mang một cái tên rất đẹp là Thiên Quốc Quán (Gasthaus zum Himmeireich).

Sau các bất đồng, Ratzinger rời Bonn. Một phần vì, một số nghiên cứu sinh nước ngoài của cha gặp khó khăn ở phân khoa, một phần vì, một số đồng nghiệp có thế lực cảm thấy ghen tị và đố kị với chuyên gia công đồng trẻ. Theo giáo sư Hubert Jedin, Ratzinger quá chán nản đến mức phải quyết định ra đi. Chính Ratzinger nói về sự thay đổi này như “con đường Chúa Quan Phòng vạch ra cho mình”, thực vậy, một nhận xét ban đầu áp dụng cho hai nghiên cứu sinh, từ nay có lẽ tìm được điều kiện làm việc tốt hơn, như cha hy vọng.

Tại Münster, các bài giảng Mùa Vọng của cha tại nhà thờ Chính tòa nhanh chóng gây ấn tượng mạnh. Chẳng hạn trong các cuộc tranh luận được tổ chức với giáo sư thần học Đức Johann Baptist Metz và nhà thần học Thụy Sĩ Hans Urs von Balthasar, cha khẳng định mình như người dung hòa có thể gỡ rối cho các vấn đề phức tạp và làm sáng tỏ các lập trường.

*

Trọng kính Đức Thánh Cha, rời Bonn là một trong các quyết định cha quyết định một mình, một quyết định đầu hôm sớm mai, có thể đôi khi vì bực mình chăng?

Không. Đương nhiên cha có nói chuyện với Hồng y Frings, vì với tư cách là giáo sư tại phân khoa Bonn, cha đã là chuyên gia công đồng của ngài, và nếu cha chấp nhận việc bổ nhiệm ở Münster, thì buộc cha không thể tiếp tục thi hành chức vụ này. Hồng y Frings với tình phụ tử cố hữu, với lòng nhân từ và kinh nghiệm phong phú đã trả lời cho cha, rằng cha chỉ có thể chấp nhận sự bổ nhiệm này nếu thần học tín lý làm cho cha thích hơn là thần học cơ bản. Nhưng sẽ là sai lầm, khi cho rằng cha ra đi chỉ vì bất mãn. Sau khi đã suy nghĩ nhiều, cha nhận ra tầm nhìn của cha về thần học sẽ phát triển trong lãnh vực thần học tín lý hơn là trong lãnh vực thần học cơ bản. Như thế thì không phải là sai lầm khi cha chấp nhận việc bổ nhiệm tại Münster.

Tại Münster, cha tham gia câu lạc bộ các giáo sư do triết gia Josef Pieper (1904-1977) tổ chức tại nhà ông mỗi thứ bảy lúc 15 giờ ở số 10 đường Malmedy. Đó có phải là loại câu lạc bộ theo kiểu Anh không?

(Cha cười). Đúng, tất cả các buổi chiều thứ bảy, triết gia gặp gỡ Đức Giám mục Volk, chuyên gia luật Lausberg, và học giả la-tinh Beckmann. Cha cũng được nhận vào câu lạc bộ. Chúng tôi đã có các cuộc thảo luận rất hay, trong đó chủ yếu nói về những chuyến đi và suy tư của triết gia. Đó là một thế quân bình tuyệt vời bên trong trường đại học.

Câu lạc bộ này được tổ chức như thế nào? Như một hội bảo thủ chăng?

Không phải như thế. Theo cha, vào thời điểm đó triết gia Pieper được xem như người có khuynh hướng tiến bộ, như một người tìm cách đổi mới, nhất là qua cách chú giải mới về Thánh Tôma Aquinô. Các dự thính viên mê các khóa học của triết gia. Ông ở Münster như Guardini ở Munich. Mãi sau này, ông mới đi cùng đường hướng với thần học gia Lubac và cha. Chúng tôi nhận ra rằng, điều chúng tôi muốn, chính xác là sự mới lạ, đã bị phá hủy. Thế nên, ông càng cương quyết chống lại xu hướng phá hủy này.

Bây giờ chúng ta nói về linh mục thần học gia Dòng Tên Thụy Sĩ Hans Urs von Balthazar (1905-1988). Chính xác cha biết linh mục Balthazar khi nào?

Dĩ nhiên, cha đọc các bài viết của Linh mục khi cha còn đi học. Năm 1949, cha đã dự hội thảo do Linh mục thuyết trình ở Đại học Munich. Tại Freising, cha đã sử dụng bài viết của Linh mục trong các lớp học của cha. Nhưng bản thân cha chỉ biết Linh mục tại Bonn vào năm 1960. Quyển sách của Alfons Auer có tựa đề Chúa Kitô mở ra trên thế giới (Weltojffener Christ) vừa được xuất bản. Balthazar cảm thấy đường hướng này, tức là sự mở ra với thế giới, là tai hại nên Linh mục mời chúng tôi, Alfons Auer, Gustav Siewerth, cha và một người khác đến nói chuyện tại Bonn. Cha không biết vì sao ông mời cha. Tác giả Auer đã không đến, cuộc gặp không còn lý do tồn tại. Nhưng tình bạn được gắn bó từ đấy.

Tuy nhiên, Linh mục là một người rất khác với cha?

Linh mục Balthazar đúng là một nhà quý tộc, cao lớn, dong dỏng, quý phái, với phong cách chừng mực của một nhà quý tộc. Tuy nhiên, ngay lập tức chúng tôi đã rất hòa hợp.

Cha luôn nói: “Cha không phải là một nhà thần bí”, nhưng lại là bạn của nhà thần bí?

Vậy thì sao?

Năm 1965, cha ở Münster khi Balthazar đã có học vị tiến sĩ danh dự. Cùng năm đó, các cha đã gặp nhau ở Bâle. Các cha trao đổi nhiều thư tín và trong những năm 1980, các cha điện thoại nhiều cho nhau. Làm sao lại có những việc này với Linh mục Balthazar?

Ha! ha! hoàn toàn bình thường. Ngài luôn nói “Balthazar đây” (Da isch Balthazar), thứ tiếng Đức của người Thụy Sĩ chính hiệu. Và sau đó chúng tôi trò chuyện hoàn toàn bình thường trên điện thoại.

Cha gọi Linh mục là Urs?

Không, chúng tôi không xưng hô thân mật.

Cha đã dạy toàn bộ các bài giảng tại Học viện Công Giáo Munich, đã xuất bản một quyển sách về Đức Trinh Nữ. Tác phẩm thứ hai của cha có tựa đề Tín lý và Công bố (Dogma un Verkündigung) đề tặng Balthazar. Ngài đáp lại bằng cách đề tặng cha quyển Đề cương thần học (Skizzen zur Theologie) gồm năm tập. Xin cha cho biết mối liên hệ rất khăng khít này như thế nào?

Cha thực sự khám phá Balthazar vào năm 1961, khi tạp chí Hochland gửi cho cha hai tập các bài báo mới xuất bản để cha điểm báo – Verbum Caro và Sponsa Verbi. Để có thể làm việc này, cha cần phải đọc rất kỹ. Từ lúc đó, tác phẩm của Balthazar trở thành tài liệu tham khảo và viện dẫn của cha. Các bản văn của Linh mục đậm thần học các Giáo phụ, nhờ tầm nhìn thiêng liêng về thần học thực sự xuất phát từ đức tin và chiêm niệm, có nguồn gốc sâu xa nhưng đồng thời mới mẻ. Rốt cuộc cũng chẳng làm gì từ tất cả các tài liệu hàn lâm này, nhưng nó cho thấy sự tổng hợp giữa sự uyên bác, tính chuyên nghiệp đích thực và chiều sâu thiêng liêng. Cha đã bị chinh phục. Và từ đó, chúng tôi rất gắn bó với nhau.

Một sự tương cảm thiêng liêng chân chính?

Đúng. Ngay cả khi cha không thể tranh với ngài về học thức uyên bác. Nhưng chủ định nội tâm, cùng một tâàm nhìn thì chúng tôi giống nhau.

Cha không thể tranh với ngài về học thức uyên bác?

Không, tuyệt đối không. Thực sự là không thể. Những gì người này viết và làm thì thật không tưởng tượng được. Ngài không có bằng tiến sĩ thần học. Đầu tiên, ngài là nhà Đức học và mỗi khi người ta muốn bổ nhiệm ngài vào Ủy ban Thần học, ngài thường nói: “Vì tôi không phải là nhà thần học, tôi không thể làm được việc này”. Và ngài nói thêm: “Ông biết đó, ở Bâle, chúng tôi không có thư viện”.

Mối quan hệ của cha với Linh mục Balthazar hoàn toàn về mặt trí tuệ và tâm linh, hay cũng có tính cách cá nhân nữa?

Cũng có tính cách cá nhân nữa. Chẳng hạn một ngày nọ, ngài mời cha tới Rigi, trong ngôi nhà của một người giàu có dành riêng cho ngài. Chúng tôi ở với nhau vài ngày trong vùng núi. Khi chúng tôi đi lễ, ngài luôn mang theo một gói thư sẽ gửi. Linh mục đã viết các thư này lúc sáng sớm bằng nét chữ xinh xắn. Các từ ngữ như tuôn ra từ ngòi bút. Các sách của ngài cũng vậy, nó cũng như tự tuôn ra. Bà Capol, thư ký của ngài sau đó mới xem lại, sửa chữa các lỗi nhỏ và chuẩn bị bản sao để đưa in.

Những ngày các cha ở vùng núi là như thế nào?

(Cười). Chúng tôi làm việc riêng bên cạnh nhau suốt ngày, ăn trưa chung và sau đó là đi dạo. Dù sao, cũng không cần phải là nhà leo núi mới biết đi dạo ở đó.

Cha cũng biết Adrienne von Speyr, người phụ nữ bạn thiêng liêng của ngài? Bà là bác sĩ và là nhà thần bí, lúc đầu bà theo Tin Lành. Bà đọc các thị kiến của mình cho ngài, chẳng hạn thị kiến về sách Khải Huyền để ngài soạn lại và xuất bản.

Không, bà Adrienne đã qua đời. Vả lại, cha cũng không còn giữ liên lạc với ngài trong những năm Công Đồng. Nó chỉ có thể xảy ra trong thời gian cha ở Tübingen, và lúc đó thì bà đã qua đời.

Tác phẩm của bà không lôi cuốn cha mấy?

Không, thực sự là không. Đây là một điểm khác biệt giữa chúng tôi. Và Balthazar cũng vậy, rõ ràng ngài là người có khuynh hướng thần bí.

Balthazar cũng có chỉ trích cha phải không? Người ta thường gán cho ngài lời bình phẩm này: “Nếu Ratzinger không tiếp tục tiến triển, Ratzinger sẽ thiếu cả một chiều kích”. Dường như đó là vấn đề dùng Thập giá để hướng dẫn.

Thật sao? Ở đâu?

Dường như chính giáo sư thần học Đức Johann Baptist Metz, đồng nghiệp cũ của cha, đã nói với con.

Thật thú vị. Con có nói chuyện với Metz?

Có.

Và tốt chứ?

Con thấy đáng kể, là vào cuối đời, ông đã tự hỏi liệu khái niệm về “thần học chính trị” mà ông đã đặt ra có phải là một sai lầm, phải chăng tất cả điều này rốt cuộc không hẳn là trống rỗng. Có vẻ trong đầu ông có một cái gì khác hơn là việc giải thích những gì người ta đưa ra. Rõ ràng, ông lấy làm tiếc, cha đã chú giải thần học của ông gần như đi theo hướng thần học của Ernst Bloch.

Chỉ là một chút thôi. Và ông tỏ ra ông đã ngây thơ một cách nào đó. Vả lại, điều làm cha ngạc nhiên là ông đã phát triển một nền thần học chính trị sáng tạo tuyệt vời, dường như phớt đi bài báo mà Erik Peterson đã công bố vào năm 1935, trong đó ông đề cập lại cuộc tranh luận của mình với Carl Schmitt, chỉ trích triệt để quan niệm về một nền thần học chính trị. Nhưng cha muốn nói thêm, Metz đã luôn là một nguồn cảm hứng tuyệt vời cho thần học và luôn có lối nhìn đúng đắn về các vấn đề chính yếu. Ông cũng luôn ở trong đức tin của Giáo Hội. Ngoài ra, cha nhận thấy, mặc dù tất cả chúng tôi phản đối ông, ông vẫn mời cha đến nói chuyện trong dịp sinh nhật 70 tuổi của ông.

Chúng ta hãy trở lại với Balthazar và lời phê bình của linh mục…

Hoàn toàn có thể. Linh mục Balthazar là một người có tầm nhìn rộng lớn, và ngài có khả năng phân biệt những gì vẫn còn là vô hình với một cái khác. Với cha, điều đó dường như hoàn toàn bình thường.

Từ Münster, cha tiếp tục tham dự Công Đồng. Lớp học của cha luôn đông nghẹt, bài vở được sao hàng trăm bản và lưu hành trên toàn nước Đức. Nhưng chỉ sau ba năm thì lại chia tay, lần này cha đến Tübingen, nơi Linh mục, giáo sư thần học công giáo Thụy Sĩ Hans Küng đã mạnh mẽ can thiệp để cha được bổ nhiệm. Các bước khởi đầu gần như được lặp đi lặp lại trong suốt cuộc đời cha. Thêm một lần nữa, các bạn, các đồng nghiệp, những người ngoài lại không hiểu cha. Cha có lý do nào đó phải ra đi mà cha chưa thố lộ cho ai biết không?

(Cười). Không. Trên thực tế cha đã rất khó khăn khi quyết định. Đơn giản, một trong các lý do làm cho cha ra đi là Münster quá xa về phía bắc đối với cha. Cha đã gắn bó với miền Bavaria thân thiết đến nỗi cha đã rất khó khăn khi phải đến sống ở Münster, quá xa nhà. Nhất là cha cảm thấy rất dễ chịu khi ở với anh Georg ở Ratisbonne, lúc nào cha cũng muốn đến đó. Nếu đi bằng xe lửa thì đây là một chuyến đi dài không bao giờ xong. Một lý do khác, cha cảm thấy thần học chính trị của Johann Baptist Metz đề ra sẽ tai hại khi đưa chính trị vào đức tin. Liên tục gặp xung đột trong chính phân khoa của mình, đó thật sự không phải là chuyện dễ dàng. Hơn nữa, về phương diện nhân bản, cha rất hợp với Metz. Như thế sẽ sáng suốt hơn khi về Tübingen và tham dự vào truyền thống của trường đại học này.

Làm sao cha hình dung bối cảnh sẽ khác hơn ở Tübingen? Trong một thành phố theo Tin Lành, các giáo sư Tin Lành chắc chắn sẽ là mối lo âu không nhỏ đối với cha? Không kể là cha bắt đầu phê phán Công Đồng?

Cha chỉ ngạc nhiên cho chính sự ngây thơ của mình. Tuy nhiên, cha có mối quan hệ tuyệt vời với nhiều giáo sư của phân khoa thần học Tin Lành. Có những nhân vật thực sự lỗi lạc như Otto Michel, Ulrich Wickert và những người khác. Martin Hengel không ở đó vào lúc này. Thực tế, cha ngây thơ nghĩ rằng, rõ ràng nếu Küng có tài ứng đối và có quyết tâm táo bạo, về cơ bản, ông cũng vẫn là một nhà thần học công giáo. Ông đã thuyết trình một bài rất hay về tính thống nhất của Sách Thánh, thực sự rất tích cực và còn các điều khác nữa. Cha không thể dự đoán là ông sẽ mang đến sự đổ vỡ ngày càng xa hơn.

Tübingen (1966-1969)

Cha dọn nhà từ Münster đến Tübingen bằng chiếc xe Opel Kadett cũ kỹ của Vinzenz Pfhür, “học trò từ đầu” như cha hay gọi anh ấy. Vì sao cha không bao giờ thi bằng lái xe?

Cha không biết…

Vì chị của cha đã quá sợ phải không?

Không, điều này không ngăn cha học lái. Cha của cha muốn cả ba đứa con của mình có bằng lái xe. Thế mà không ai có. Cha không có thì giờ học, vậy thôi. Và cha phải thú nhận, cha có cảm giác như mình ngồi trong một cổ máy kỳ quái. Cha nghĩ, đi khắp thế giới bằng xe hơi thì quá nguy hiểm. Ý tưởng về chiếc xe Opel Kadett là sai. Thật ra một người phụ tá là Lehmann- Dronke đã chở cha từ Tübingen về Ratisbonne bằng chiếc xe cổ Coccinelle, khi đó một cảnh sát nghi ngờ về tình trạng chiếc xe nên đã gọi lại để kiểm tra, nhưng mọi sự tốt đẹp. Từ Münster tới Tübingen, cha đi xe lửa.

Ngay lập tức, cha bị Tübingen quyến rũ. Cha đã nói về “nét duyên dáng của thành phố nhỏ Schwaben” mà cha thấy nó có cả một “sức mạnh vĩ đại”?

Đúng vậy, đó là một thành phố rất đẹp. Dù chỉ có quảng trường để họp chợ, với nhà thờ Tin Lành, và khu phố cổ Gôgei, các đồng cỏ trải dài xuống phía nam, tới gần Neckar, chỉ có thế thôi. Từ nhà cha, cha nhìn thấy nhà nguyện Wurmlinger ngay trước mặt.

Các sinh viên của cha tại Tübingen mô tả cha là người rất hòa đồng. Tuy nhiên, dường như cha không nói nhiều?

Cha không biết (cha cười). Đúng là bản chất của cha, cha không phải là người nói nhiều. Anh  Georg của cha thì lại khác.

Cha làm việc thường xuyên với những người trong tay mình: có vẽ như cha luôn xem tinh thần hòa đồng là một nguyên tắc. Nhóm sinh viên của cha không thuần nhất vì ai cũng được vào học.

Đa dạng luôn là một điều tốt.

Cha luôn bắt đầu các cuộc hội thảo tiến sĩ của mình bằng thánh lễ, điều này được xem là khá kỳ lạ ở Tübingen. Một ngày, cùng với các sinh viên, cha đến thăm nhà thần học Tin Lành Karl Barth ở Thụy Sĩ. Mối quan hệ này được nối kết như thế nào?

Ít nhiều cha đã trở thành nhà Barth học, một nhà phê bình thực sự, qua trung gian của giáo sư Gotdieb Sưhngen. Giáo sư là một trong các Giáo phụ về thần học qua đó cha đã lớn lên. Thêm vào đó là mối liên hệ qua Linh mục Balthazar, một người bạn thân của Barth. Vì vậy, chúng tôi đến gặp nhà thần học Barth. Lúc đó ông đã rất lớn tuổi. Chúng tôi đã không thảo luận sâu với ông, nhưng đó là một cuộc gặp tuyệt vời.

Cha rất ngưỡng mộ ông?

Đúng. Ông cũng rất quý mến cha. Nhân chuyến thăm nước Đức của cha vào năm 2010, chủ tịch Giáo hội Tin Lành Schneider vùng Rhénan cho cha biết, lúc nào Karl Barth cũng nói với ông: “Đọc Ratzinger đi!”.

Và trong thời gian đó, cha đọc Sartre đúng không ạ?

Đó là một tác giả chúng ta cần phải đọc. Các vấn đề chủ yếu triết học của Sartre ông đều viết ở quán cà phê. Điều đó làm cho bài viết ít sâu sắc, nhưng thấm thía và thực tế hơn. Ông giải thích cụ thể về chủ nghĩa hiện sinh của Heidegger. Các xen kẻ toát ra một cách rõ ràng hơn. Pieper đã làm nổi bật những điều này.

Cha cũng tiếp xúc với Ernst Bloch ở Tübingen? (Bloch là triết gia mác-xít Đức)

Có, cha được mời đến nhà ông một lần. Một nhóm nhỏ, có lẽ là sáu hay bảy người. Đó là một buổi tối rất vui, cha phải lên tiếng. Cũng có một người Ả Rập, có lẽ chính cha là người đã đưa ông đến. Có một người trong nhóm hút ống điếu và Bloch nói: “Lâu lắm rồi tôi chưa hút lại”. Và rồi ông xác nhận, ông không biết làm thế nào để hút. (Cười).

Ai đã giúp cha có vinh dự được mời?

Cha không biết, cha không trả lời được câu hỏi này.

Chị Maria của cha có các vấn đề liên hệ với các giáo sư?

Chị Maria không thoải mái lắm với những người quá kỳ cục. Nhưng chúng tôi hay mời  một số người, chẳng hạn Küng và các người khác. Chị rất thích.

Chị khá dè dặt?

Đúng vậy.

Như thế có là một vấn đề cho cha không?

Không.

Chị không phải là người thích khách khứa?

Không, chắc chắn là không. Nhưng đó không phải là chuyện mình đòi hỏi ở chị.

Ở Tübingen, cha mua chiếc máy truyền hình đầu tiên. Thấy cha mua, anh Georg của cha nói cha “nghiện tin tức”?

(Mỉm cười). Không. Thực tế, cha không muốn, nhưng cha rất thân thiết với cha tuyên úy sinh viên Starzen; cha Starzen là người rất dũng cảm. Một ngày, cha Starzen đến gặp cha và nói: “Cha biết không? Hôm nay là ngày chúng ta sẽ đi chỗ này chỗ kia và mình sẽ mua một máy truyền hình”. Đó là một loại siêu thị. Ở đó, khách có thể mua xúc xích, thịt và trong đám đồ hộp có vài máy truyền hình. Chúng tôi mua một cái, loại thường thường.

Năm 1968, quyển Đức tin Kitô giáo hôm qua và hôm nay được xuất bản. Đây là một tác phẩm đặc biệt, vì ban đầu, nội dung không phải dành cho một quyển sách, thưa cha có đúng không?

Có chứ. Lúc cha còn ở Bonn, Tiến sĩ Will người phụ trách nhà xuất bản Kưsel đề nghị cha viết bài “Bản chất của Kitô giáo” (Wesen des Christentums). Ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần về đề tài này và càng ngày ông càng năn nỉ. Ở Tübingen, cha luân phiên dạy học với Küng. Một học kỳ, cha đảm nhận khóa học chính, học kỳ kia ông chịu trách nhiệm và cha được rãnh. Vào một trong các học kỳ này, cha tự nhủ: đã đến lúc, mình sẽ xem đây là chủ đề của khóa học, và sau đó gom lại thành một quyển sách như người ta yêu cầu mình.

Như thế quyển Đức tin Kitô giáo hôm qua và hôm nay không phải là thành quả các ghi chú của sinh viên trong các khóa học của cha?

Không. Cha đã biên soạn theo kiểu tốc ký cá nhân, sau đó, cha đọc lại và sửa chữa.

Tác phẩm nhanh chóng trở thành sách cổ điển, và nổi tiếng nhờ được xuất bản trên toàn thế giới. Nó đã có ảnh hưởng cho nhiều thế hệ độc giả, kể cả cho Karol Wojtyla, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tương lai. Thành công của tác phẩm hẳn làm cha ngạc nhiên?

Đúng, cha khá ngạc nhiên.

Không ai dự đoán được?

Không, thực sự là không. Quyển sách này vẫn còn được bán.

Và có lẽ sẽ tiếp tục được bán trong nhiều thập kỷ. Cha biên tập theo cách tốc ký riêng của cha, với những chữ viết tắt đặc biệt. Có người nói cha có thể viết một bài giảng dài trên một tờ giấy khổ A4. Cha cũng đã viết các quyển sách về Chúa Giêsu theo cách tốc ký này?

Tất cả đều theo cách đó. Nếu không, cha sẽ mất quá nhiều thì giờ cho việc viết lách. Điều này làm cho cha nghĩ đến Rahner, khi chúng tôi viết, ông hay thở dài và nói: “Ồ! Thật chán khi phải ghi chú tất cả như thế”. (Cười). Khi tốc ký, cha thấy dễ dàng hơn.

Năm 1968, ở Tübingen, cha vẫn quan hệ tốt với thần học gia Thụy Sĩ Hans Küng, người mà sau đó, trong nhiều thập kỷ, đã công kích cha, theo nghĩa đen, bằng những lời thóa mạ  vu khống, chẳng hạn cho rằng cha là người ham quyền khủng khiếp, cha đã thiết lập một hệ thống giám sát y như Tình báo Stasi và sau khi từ nhiệm, cha có ý định cai quản như một “Giáo Hoàng trong bóng tối”. Thêm nữa ông có lối sống rất khác cha. Trong khi đồng nghiệp của cha đi xe hiệu Alfa Romeo, cha vẫn đi chiếc xe đạp cũ kỹ. So với cha, ông đúng là một nhà đại tư bản?

Chắc chắn, ông có một xuất thân khác, ông là người Thụy Sĩ, gia đình ông có cửa hiệu bán giày, một ngôi nhà đẹp kiểu trưởng giả. Chắc chắn, đó là môi trường hoàn toàn khác với mội trường của cha.

Một trong những công thức quen thuộc của cha là: “Tôi hoàn toàn đồng ý với đồng nghiệp Küng của tôi,” và Küng tuyên bố: “Về cơ bản, tôi chia sẻ ý kiến vời đồng nghiệp Ratzinger của tôi”. Cha và ông, cả hai đều tham dự vào việc xuất bản loạt tác phẩm trong đó cũng có sách của Küng với tựa đề Giáo Hội là gì?

Đó là lúc mà cha thực sự cảm thấy mình không thể tiếp tục, và cha quyết định rút khỏi việc xuất bản này. Cha vẫn cộng tác trong việc xuất bản sách của ông, nhưng cha nghĩ đó là lần cuối cùng.

Cha báo việc rút lui với ai?

Cha viết, cha không còn là đồng chủ biên nữa.

Cha có viết cho Küng?

Có lẽ viết cho cả Herder. Cha không còn nhớ.

Cha không biện minh?

Để làm gì?

Küng đã phải thấy bị sỉ nhục.

Chúng tôi không bao giờ cãi nhau, nhưng chúng tôi đã buộc phải thừa nhận – cuối cùng có lẽ cha rõ ràng hơn ông ấy – rằng sự khác biệt của chúng tôi chỉ có thể thêm trầm trọng.

Ngày 25 tháng 7, trong bầu không khí căng thẳng của năm 1968, Thông điệp Sự sống Con người (Humanae Vitae), một thông điệp nổi tiếng của Đức Phaolô VI được gọi là thông điệp thuốc ngừa thai. Cha nghĩ gì khi đó?

Thông điệp Sự sống Con người là một văn bản có vấn đề đối với cha trong hoàn cảnh đó và trong bối cảnh suy tư thần học thời bấy giờ. Dĩ nhiên thông điệp chứa đựng các yếu tố hoàn toàn có giá trị, nhưng cách lập luận chưa thỏa đáng đối với chúng tôi, đối với cha, vào thời điểm đó. Cha tìm một tầm nhìn nhân học rộng lớn hơn. Thực tế, sau này Đức Gioan Phaolô II đã bổ túc cho thông điệp này, đáng kể qua luật tự nhiên, khi thêm vào đó một quan điểm về nhân vị.

Sau đó, như chúng ta đã hói, thần học gia Hans Küng sẽ nổi lên như một đối thủ đáng gờm. Không phải như Mozart và đối thủ của ông là Salieri, nhưng cha vẫn bị tiếng xấu rất nhiều, phần lớn do đồng nghiệp cũ này, cả sau này khi cha được bầu năm 2005. Điều gì ẩn giấu sau sự việc này?

Vậy đó, quá trình thần học của ông đã chuyển hướng qua một hướng khác và càng ngày càng cực đoan. Cha không thể và cha không muốn theo ông. Còn tại sao ông coi cha là kẻ thù riêng, cha không biết để trả lời. Cuối cùng, những người khác cũng đã viết bài chống lại ông, bắt đầu là Rahner.

Các vụ tấn công chống lại cha vẫn tiếp tục cho đến cùng?

Thực tế là như vậy.

Trong thời gian Công Đồng, cha đã cộng tác với thần học gia Karl Rahner và Hans Küng tiến cử cha nhận ghế giáo sư tại Tübingen và đến lượt mình, cha giới thiệu Metz, một người cánh tả, kế nhiệm cha tại Münster. Cha đã đổi phe vào một thời điểm nào đó? Điều gì đã xảy ra?

Cha nhận thấy, thần học đã không còn chỉ là giải thích đức tin của Giáo Hội Công Giáo, nhưng thần học lại bày ra cho chính mình những gì có thể là và phải là. Đối với cha, trong tư cách thần học gia Công Giáo, điều này không dung hòa được với thần học.

Vào thời điểm đó, đã có một bản kiến nghị bãi bỏ đời sống độc thân, và cha đã ký. Đó có phải là một bước đi sai không?

Bản dự thảo do Rahner và Lehmann chuẩn bị đã được thảo luận tại Ủy ban giáo lý của Hội Đồng Giám Mục Đức, và chúng tôi cùng tham dự. Văn bản này rất ngoắt ngoéo, như thường thấy ở Rahner. Một mặt, ông bảo vệ đời sống độc thân, một mặt ông mời mọi người thảo luận và tiếp tục suy tư thêm. Nếu cha đã ký, là vì tình bạn với những người khác. Rõ ràng điều này không đúng cho lắm. Cha khẳng định đó không phải là yêu cầu bãi bỏ luật độc thân, mà là một văn bản điển hình của Rahner, khó hiểu, có không ra có, không cũng không ra không, người ta có thể giải thích theo nghĩa này hay theo nghĩa kia cũng được.

Cha đã luôn phủ nhận bất kỳ một sự đổi ý kiến nào đối với tư tưởng trước đây của cha?

Cha nghĩ chỉ cần đọc các bài viết của cha là đủ để thuyết phục.

Chúng ta nói về giai đoạn khởi đầu nóng bỏng nhất của cuộc nổi dậy của sinh viên, bằng cách biểu tình ngồi, phong tỏa, bãi khóa. Cha đã tham dự sát các sự kiện này?

Không.

Với dáng trẻ trung nhanh nhẹn, cha có thể đi bất cứ nơi nào, người ta xem cha như một sinh viên?

Có lẽ vậy (Cười). Vào thời đó, cha rất thân thiết với giáo sư Peters, khoa trưởng phân khoa luật, người sống gần nhà cha. Nhân tiện cha cũng nói, trong thời gian này cha cũng gia nhập hiệp hội Tự do trong khoa học (Freiheit der Wissenschaft), ông Hans Maier lôi kéo cha. Chúng tôi hợp tác chặt chẽ với các đồng nghiệp, tìm cách tránh không cho mọi sự bị suy thoái hoàn toàn.

Cuộc nổi dậy của sinh viên có thực sự làm cho cha bị chấn thương như Hans Küng cứ lặp đi lặp lại hoài không?

Không. Vả lại, không có sự cố nào xảy ra trong các khóa học của cha. Nhưng nỗi lo sợ bao trùm là một kinh nghiệm bi đát.

Năm 1970, Hans Küng đã phối hợp xuất bản quyển sách nhỏ tựa đề “Không thể sai lầm” của ông? Một chất vấn Thông điệp Sự sống Con người (Humanae Vitae). Từ khi cha khẳng định trong bản báo cáo về quyển sách do đồng nghiệp Küng soạn thảo nằm ngoài phạm vi đạo lý Công Giáo, thì có phải mọi liên hệ giữa hai người hoàn toàn bị cắt đứt không?

Đúng, tất nhiên là như thế.

Trong chừng mực nào, cha đã góp phần trong việc Giáo Hội rút tư cách giáo sư dạy thần học của ông vào năm 1979?

Cha hoàn toàn không tham gia trực tiếp vào việc này. Trong những năm trước, cha có được hỏi ý kiến về yêu cầu chuyên môn, và cha luôn nói, hãy để ông ấy yên. Cha cảm thấy cần phải xác định rõ rằng, ông đã sai lầm về phương diện thần học, nhưng cha không bao giờ khuyên nên phạt ông. Đức Hồng Y Franjo Seper, vị tiền nhiệm của cha tại Bộ Giáo Lý Đức Tin, đã cực kỳ phật ý khi không có gì xảy ra. Hồng y thực sự rất giận. Ngài nói: “Trong vòng mười lăm năm tôi ở đây, người ta phá hủy Giáo Hội và chúng ta không can thiệp. Nếu chúng ta để điều ấy xảy ra, tôi sẽ ngừng tất cả”. Đến mức ngài không thể chịu nổi tình hình này thêm nữa. Sự không hành động này động đến lương tâm của ngài. Sau đó, Đức Gioan Phaolô II mời các Hồng y người Đức – Hưffner, Volk, và cha, cũng như Tổng Giám mục giáo phận Fribourg và Giám mục Rottenburg – Stuttgart, khi đó là lễ Giáng sinh – đến thảo luận lại với ngài. Nhưng quyết định đã được đưa ra. Và, mặc dù Giám mục Rottenburg không có ý kiến, chúng tôi đồng thuận không trở lại vấn đề này nữa, nhưng phải cáng đáng.

Việc kết án Küng đã được quyết định, như ông khẳng định, ông không được giải thích và không vào được hồ sơ?

Không. Lúc đó cha chưa đến Rôma, nhưng tất nhiên phải tuân thủ các trình tự tố tụng. Ông không quen thuộc khi đưa ra các tài liệu cho một vụ kiện, nhưng ông hoàn toàn biết thủ tục sẽ như thế nào, ông bị chất vấn và ông có thể trả lời.

Ratisbonne (1969-1977)

Tất cả cái gì tốt rồi sẽ cũng kết thúc tốt. Vị giáo sư trẻ trở lại quê hương Bavaria của mình, chị Maria và anh Georg rất vui. Ratzinger được bầu làm trưởng phân khoa Công Giáo, rồi năm 1976 được bầu làm Phó viện trưởng đại học. Cha mơ củng cố công trình thần học của mình. Chính trong thời gian này, cha xuất bản các tác phẩm lớn như Sự chết và thế giới bên kia: khảo luận ngắn về niềm hy vọng Kitô giáo, và Dân mới của Thiên Chúa, trong đó cha bàn luận đặc biệt về “tính tập đoàn của các Giám mục” và việc “canh tân Giáo Hội”. Cuối cùng, cha có thể đề cập đến một số vấn đề, nhất là về cái chết và sự bất tử, sự sống đời đời, sự trở lại của Chúa Kitô và cuộc phán xét cuối cùng. Cha xem tác phẩm viết về chủ đề này, “Cánh chung luận” là tác phẩm thành công nhất của cha.

    *

 Cha không bao giờ ở lâu một nơi. Có lẽ cha như người cô độc, không nhất thiết phải thích nghi. Cha đã rời Bonn, Münster, rồi Tübingen?

Cha cũng làm Tổng trưởng bộ Tín lý Đức tin từ năm 1982 đến năm 2005.

Nhưng cha đã định ngừng lại khi kết thúc nhiệm kỳ đầu tiên?

Có lẽ vậy. Nhưng rõ ràng nó lại không thực hiện được (cười).

 Còn Ratisbonne, nơi cha dự định ở lại thì lại không thể. Đó có phải điều may mắn nhất trong đời cha không?

Đúng, mình có thể nói như vậy.

Cha đã định cư ở Ratisbonne, đã xây một ngôi nhà cho anh Goerg, chị Maria và cha, rồi bất thình lình cha lại bị bứng đi. Cha đã rất rụng rời khi đích thân sứ thần Tòa Thánh thông báo Đức Giáo Hoàng muốn bổ nhiệm cha làm Giám mục Munich. Sự rụng rời và sự không hiểu nổi của cha vì qua việc bổ nhiệm này, cha không còn được dạy học, một chức vụ mà cha xem như một nghề thực sự của mình. Như cha đã bày tỏ sau này, cha xét thấy, cấp cao phải biết “cha ít kinh nghiệm trong việc lãnh đạo và quản trị”. Đây có phải là sự cắt đứt lớn nhất đời cha, một sự cắt đứt làm chấm dứt các giấc mơ của cha không?

Đúng, nhưng ai cũng hiểu, mình không thể sống theo các giấc mơ của mình.

Sau một đêm day dứt nội tâm, cha ký vào bản tuyên bố chấp thuận trong căn phòng của một khách sạn ở Ratisbonne. Đó là khách sạn nào vậy?

Đó là, lạy Chúa tôi, nó tên là gì nhỉ? Khi mình đi từ nhà ga vào thành phố…, dù sao thì cũng có một khách sạn ở bên phải. Cha không biết khách sạn ấy bây giờ còn không nữa.

Như cha viết trong hồi ký, cha giải tội của cha là giáo sư Johann Auer, người cùng cha nói chuyện trong đêm đau buồn này, người “đã có một cái nhìn rất thực tế về các giới hạn của cha về mặt thần học cũng như về mặt con người”. Cha nghĩ gì về cụm từ “giới hạn về mặt con người”?

Nói thế nào nhỉ, cha nghĩ rằng cha vẫn còn phải học hỏi nhiều, rằng còn lâu cha mới hoàn hảo, rằng cha có nhiều vấn đề. Chúng tôi là bạn với nhau, và với danh nghĩa đó mà giáo sư trách cứ cha trong tình anh em – chính xác vì giáo sư đã hiểu được những hạn chế của cha.

Dù vậy giáo sư cũng khuyến khích cha vượt qua bước này?

Đúng, chuyện này hết sức khôi hài. Cha chờ giáo sư sẽ nói: “Không, anh không thể làm việc này!”. Nhưng vì chung chung giáo sư cứ lặp đi lặp lại: “Việc này không phải của anh!”; hoặc trách cha đã làm chuyện này chuyện kia sai, cứ như thế mà giáo sư nói. Vì thế cha tin chắc giáo sư sẽ trả lời: “Việc này không phải của anh!”.

Vì có thể giáo sư biết cha rụt rè?

Cha không nghĩ vậy. Có lẽ rụt rè một chút thôi, nhưng…

Theo một trong các người phụ tá cũ của cha, sự dè dặt của cha trở nên quá mạnh, nên phải thật sự hiểu cha mới kéo cha ra khỏi vỏ sò của cha?

(Cha cười). Nói hơi quá một chút.

Dù sao với giáo sư Auer, cha đang ở với một người, mà với người này cha có thể đề cập đến mọi chuyện, kể cả những chuyện rất riêng tư.

Đúng.

Munich (1977-1982)

Ngày 25 tháng 3 năm 1977, sau gần hai mươi lăm năm giảng dạy tại các trường đại học Đức, tiến sĩ Joseph Ratzinger được Đức Phaolô VI bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Munich và Freising. Vì vậy thủ đô miền Bavaria khám phá một trong các nhà phân tích xã hội có sức thuyết phục nhất, với sự đóng góp rõ ràng cho các vấn đề đạo đức của thời đại. Các  bài giảng lễ của cha rất ác liệt. Hàng loạt tác phẩm xuất hiện: Thánh Thể: Giữa lòng Giáo Hội (Eucharistie. Mitte der Kirche); Đức tin Kitô giáo và Châu Âu (Christlicher Glaube und Europa); Đức tin, đổi mới, hy vọng (Glaube, Erneuerung, Hoffnung), với phụ đề Suy tư thần học về tình hình hiện tại của Giáo Hội (Theologisches Nachdenken über die heutige Situation der Kirche).

         *

Đức Phaolô VI qua đời ngày 06 tháng 8, năm 1978. Sau cuộc họp ngắn tại Thượng Hội Đồng Giám Mục một năm trước đó, cuộc họp Mật nghị cho cha có cơ hội đầu tiên có quan hệ cá nhân với Hồng y Karol Wojtyla, Cracovia. Cha còn giữ kỷ niệm nào về dịp này?

Cha đã rất ấn tượng với những lời nói của ngài trong các buổi họp tiền Mật nghị. Ngài đã làm cho cha ấn tượng về một con người có suy tư, có nền tảng vững chắc về triết học; một người đặc biệt thánh thiện và đầy lòng tin, nồng nhiệt và nhân từ. Ấn tượng này được xác nhận khi cha gặp ngài. Một người trí tuệ và đầy hài hước, với lòng nhân ái và một đức tin nồng ấm.

Cha nói chuyện với ngài trong ngôn ngữ nào?

Bằng tiếng Đức. Ngài nói rành tiếng Đức. Đó là ngoại ngữ đầu tiên ngài học ở năm đầu tiên đại học, và cũng là ngôn ngữ ngài nắm vững nhất.

Cũng như cha, đầu tiên hết Karol Wojtyla là Giám mục phụ tá, sau đó làm Tổng Giám mục Cracovia, tham dự Công Đồng. Trước đó, các cha có gặp nhau ở Rôma không?

Tại Công Đồng thì không. Nhưng cha đã nghe nói về ngài. Cha biết ngài là triết gia và ngài vừa có buổi nói chuyện ở hội nghị triết học ở Napoli.

Mật nghị tháng tám công bố Đức Albino Luciani trở thành Giáo Hoàng Gioan Phaolô I, người ta nhanh chóng đặt cho ngài biệt danh “Giáo Hoàng của nụ cười”. Và chỉ ba mươi ba ngày sau, Giáo Hội Công Giáo phải tiễn Tân Giáo Hoàng ra nghĩa trang. Hội nghị lớn của Giáo Hội lại tiếp tục họp. Với tư cách là Hồng y của Munich, cha tham dự hai Mật nghị. Một sự kiện giật gân sắp xảy ra. Thật vậy, lần đầu tiên trong năm trăm năm, một Giáo Hoàng không phải là người Ý được bầu, đó là Đức Karol Wojtyla. Cha có đóng một vai trò quan trọng trong cuộc bầu chọn này không?

Không, cha không nghĩ thế. Cha là một trong các Hồng y trẻ nhất, thêm nữa, cha sẽ không được phép khẳng định một vai trò nào đó. Về cơ bản, cha chống các âm mưu và những điều tương tự, nhất là khi bầu Giáo Hoàng. Mọi người đều phải bỏ phiếu đúng với lương tâm của mình. Dĩ nhiên các người nói tiếng Đức thảo luận với nhau, nhưng họ không có bất kỳ thỏa thuận nào.

Tuy vậy, họ nói các tham dự viên nói tiếng Đức, được Hồng y Kưnig của Vienna dẫn dắt đã rất ủng hộ việc bầu chọn Đức Wojtyla?

Được ủng hộ, chắc chắn là có rồi.

Và cha hoàn toàn giữ một khoảng cách?

Tất cả những gì cha có thể nói là, bên ngoài Mật nghị, Đức Hồng y Kưnig đã thảo luận với các hồng y khác. Những gì diễn ra bên trong vẫn là và sẽ vẫn là bí mật. Trong tư cách là Tân Tổng Giám mục, cha tránh tất cả các hoạt động công cộng. Chúng tôi, các hồng y nói tiếng Đức gặp nhau để cùng thảo luận một số điểm. Nhưng về mặt cá nhân, cha không làm chính trị theo bất kỳ cách thức nào. Nó không thích ứng cho hoàn cảnh của cha.

Chiến thắng của Hồng y người Ba Lan có làm cha sợ không?

Không. Hoàn toàn không. Cha ở Mật nghị cho cuộc bầu chọn của ngài. Đức Hồng y Kưnig có nói chuyện với cha. Và cuộc gặp của chúng tôi dù ngắn ngủi nhưng cũng đủ thuyết phục, ngài đúng là người thích hợp cho hoàn cảnh này.

Triều giáo hoàng thứ 264 của Giáo Hội Công Giáo Rôma bắt đầu ngày 16 tháng 10 năm 1978. Con người mới này, được giới thiệu như người đến từ “đất nước xa xôi”, đánh dấu bước đầu của một kỷ nguyên thay đổi, và sẽ làm biến chuyển thế giới mà không ai có thể tưởng tượng trước. Cuộc bầu chọn Đức Wojtyla đã đặt cha vào hoàn cảnh mới. Bởi vì, người vừa được bầu làm Giáo Hoàng sẽ giữ cha bên cạnh họ tại Rôma.

Khi đó cha vẫn còn chưa biết, nhưng cũng nhanh để cha hiểu điều này.

Cha có thể nói rõ? Chính xác cha nhận được lời mời đầu tiên này khi nào?

Cha không còn nhớ chính xác ngày tháng. Cha chỉ biết ngài muốn cha đến. Một năm trước đó, cần có một bổ nhiệm mới cho Bộ Giáo Dục Công Giáo. Ngài đã muốn cha nhận chức vụ này. Cha trả lời: “Không thể được. Điều này sẽ làm cho tôi không còn nhiều thì giở ở Munich, tôi đã hứa, tôi không thể đi như thế”. Vì thế Đức Hồng y Baum của Washington đã được bổ nhiệm vào chức vụ này. Nhưng sau đó cha không thể từ chối. Dù sao cha cũng đã đặt điều kiện, mà đối với cha thì khó mà được chấp nhận. Cha nói: “Tôi chỉ có thể đồng ý nếu tôi được tiếp tục xuất bản”. Lúc đầu ngài do dự, sau đó ngài hỏi thăm và biết Đức Hồng y Garrone, người cùng phụ trách các chức vụ này với Đức Hồng y Baum, đã xuất bản. Vậy nên, ngài nói: “Đồng ý”.

Có phải là làm bẽ mặt Đức Giáo Hoàng khi áp đặt các điều kiện này không?

(Cha cười). Có lẽ vậy, nhưng cha cảm thấy mình phải làm điều đó. Bởi vì cha xác tín sâu đậm, bổn phận của cha là phải nói một cái gì đó cho nhân loại.

Marta An Nguyễn chuyển dịch