Home Blog Page 991

Đúng, Giáo hội tội lỗi nặng nề

Đúng, Giáo hội tội lỗi nặng nề

lemonde.fr, Véronique Margron, 2018-09-25

Nữ tu thần học gia Véronique Margron kêu gọi “thực hiện sự thật, tất cả sự thật về đại dương đen tối này, dù phải trả một giá như thế nào”

Bắt đầu từ đâu? Trước hết là nghe. Nghe và nghe nữa, nghe nỗi buồn quá đặc biệt, không chịu đựng được, không xóa đi được, không dịu đi được. Các lạm dụng ấu dâm bị cho là không thích đáng. Thuật ngữ nguy hiểm. Bởi vì bất cứ người nào bình thường đều yêu trẻ con. Nhưng để thực sự yêu trẻ con thì phải tránh mọi lầm lẫn, tránh những gì biến tình thương thành sợ, tránh biến trẻ con thành đồ vật, thành con mồi của mình. Đó là phá vỡ, là hủy hoại trẻ con hay hủy hoại những người lớn mong manh. Đúng, Giáo hội có tội và tội rất nặng. Trách nhiệm của Giáo hội thì lớn hơn các thể chế khác, vì Giáo hội cho mình có sứ mạng, nhân danh chính Tin Mừng Chúa Kitô, trao truyền một nghệ thuật sống chung, nói sự thật, công chính, điều tốt, đạo đức và vô đạo đức. Giáo hội dựa trên sự tin cậy được giao, trên lời được chia sẻ. Trách nhiệm của Giáo hội vì thế là rất lớn, đầu tiên là lừa dối, sau là phá vỡ vì tầm to lớn các tội ác này.

Ngày nay làm sao có thể tin vào Giáo hội? Câu hỏi sâu thẳm cho người tín hữu là tôi, và cho nhiều người trong số quý vị. Năm 1967, Đức Phaolô-VI đã tuyên bố, ‘Giáo hội là chuyên ngành trong nhân tính’ khi ngài công bố Thông điệp Phát triển các Dân tộc (Populorum progressio) vì ‘Giáo hội mang tầm nhìn toàn cầu về con người và về nhân tính’. Nếu, trong bối cảnh này, lời nói này là sáng tạo, có nghĩa sự dấn thân của Giáo hội là cho hòa bình, công chính và phát triển thì chúng ta sẽ thích nếu Giáo hội cho mình là người ‘phục vụ’ nhân loại thay vì là ‘chuyên gia lão luyện’!

Sửa lại những gì có thể sửa

Đây không phải là một trong các lý do sâu sắc nhất cho nỗi đau của chúng ta hôm nay, cho sự bực tức của chúng ta, rằng vị trí của Giáo hội đã quá lâu,  quá thường xuyên nổi bật lên. Chắc chắn đó cũng là vị trí của hàng giáo sĩ và các giám mục, nhưng cũng của là người công giáo nói chung. Các kitô hữu theo một Đấng cứu thế bị đóng đinh. Một Đấng Thiên sai không có sứ mệnh nào khác, không có một ngọn lửa nhiệt thành nào khác, hơn là làm chứng cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người nghĩ mình là kẻ có tội, người lương dân hay phụ nữ… , mà Chúa của giao ước là Chúa của từng người. Một người đích thực, Giêsu Nadarét, không có một tham vọng nào khác hơn là bạn đồng hành với nhân loại, không bao giờ nắm giữ, luôn để cho nhân loại được tự do tiến tới tương lai của mình.

Đứng trước mức độ rộng lớn của tội ác đã phạm, các đồng lõa tích cực hay thụ động, ở đây và khắp nơi, điều cần thiết là quay lưng lại với mọi ý định cho mình là lão luyện, là thánh thiện, chân lý, đạo đức, thậm chí là nhân văn. Nếu không, thật đau đớn phải đi tìm thầy thuốc cho tất cả điều ô nhục của chúng ta. Một cách khiêm tốn, phải trở lại là người phục vụ cho nhân loại trong tính dễ bị tổn thương và phẩm giá không thể xâm phạm của mình. Điều mà rất nhiều tín hữu làm chứng trong cuộc sống được chia sẻ của họ, được dâng hiến của họ.

Công việc đòi hỏi ngày hôm nay trước hết là sự thật và công chính. Thực hiện sự thật, toàn bộ sự thật trên đại dương đen tối này, một cách tự nguyện, dấn thân, kiên trì dù phải trả giá như thế nào. Để làm việc này, phải phải dùng các phương tiện không thể tranh cãi, cần thiết, một công việc khoa học, điều tra, tham khảo hồ sơ… Phải làm, vì chúng ta có bổn phận với các nạn nhân của ngày hôm trước, ngày hôm qua và cả ngày hôm nay. Với các nạn nhân và với tất cả người thân của họ. Chỉ có sự thật mới làm cho chúng ta tự do.

Bằng cách là không thay thế cho tòa án Quốc gia, ngược lại, cũng không núp đằng sau nó. Làm công chính, là đặt tên và cân nhắc nghiêm nhặt những ai phạm tội để trút mặc cảm tội lỗi nặng nề và nhục nhã cho các nạn nhân, những chuyện đã nhận chìm họ sâu hơn nữa. Đó là tách rời ra và bắt đầu sửa những gì có thể sửa. Làm điều này một cách rõ ràng. Con đường cần thiết để có ngày niềm tin sẽ trở lại, hai mắt mở ra, làm mới lại như chúng ta làm lại da mới sau khi bị phỏng nặng.

Trách nhiệm không giới hạn

Và còn một đòi hỏi: xem lại và thay đổi các tập quán của chúng ta. Đặc biệt như Đức Phanxicô tố cáo, những gì là lạm dụng lương tâm, lạm dụng quyền lực, lạm dụng thiêng liêng.

Vì nhân danh Chúa mà đưa đến việc hỗ trợ cho những chuyện bi thảm và lạm dụng này. Một Thiên Chúa mà người săn mồi, người sành sỏi, thậm chí là người mật thiết, biết không những đâu là điều tốt cho người khác, mà còn tệ hơn, biết những gì Chúa mong chờ từ đứa trẻ này, từ người dễ bị tổn thương này.

Các tội ác này xoáy tận nơi sâu thẳm của trái tim, của tâm hồn, nơi trụ của đức tin và lòng tin tưởng vào Chúa, bị kẻ tấn công cướp đi. Vì thế trách nhiệm của Giáo hội là trách nhiệm không giới hạn. Thay đổi thói quen, chẳng hạn loại bỏ lại văn hóa tuần phục, tạo các quan hệ có trách nhiệm, hổ tương, mở ra với sự khác biệt, nhưng không ngăn sự tôn trọng các vai trò được tôn kính và địa vị của từng người.

Các quyết định này mang nặng hệ quả, nhưng chỉ với cái giá này, có lẽ, điều quan trọng đối với kitô hữu chúng ta, điều là trọng tâm cuộc sống làm chứng cho Chúa, Đấng cứu và làm cho đời sống có thể có một không gian nhỏ và chính đáng. Đời sống kitô giáo không khép kín trong thờ phượng. Nó tưới cho toàn bộ cuộc sống và cho tất cả những gì là sự sống, nó là hợp pháp và cần thiết mà các kitô hữu góp phần mình vào cuộc thảo luận công cộng và tham gia vào lợi ích chung. Lịch sử là một dấu vết cao siêu. Nhưng ngày nay, không có gì lớn chuyện để có thể được nghe mà không có công việc nhọc nhằn và đòi hỏi này. Công việc khó khăn, lâu dài và mạo hiểm, nhưng điều đó sẽ không bao giờ quá nhiều như cuộc chiến lâu dài mà mỗi nạn nhân phải đương đầu để chinh phục lại cho đời của mình, cho tự do của mình, một đoạn đường đi đến sự tin tưởng, đến sự sống.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: Để có một Giáo hội khả tín

Làm thế nào để giữ đức tin khi Giáo hội trải qua các vụ tai tiếng?

Xóa ảnh đại diện

Các tu sĩ dùng toa xe lửa cũ làm tu viện!

Các tu sĩ dùng toa xe lửa cũ làm tu viện!
fr.aleteia.org, Paola Daud, 2018-09-18
Tại Napoli nước Ý, một cộng đoàn các tu sĩ Dòng Phanxicô Canh tân sống trong năm toa xe lửa của những năm 1940.
Đây là tu viện độc đáo nhất thế giới. Ở La Scampia, khu phố bình dân vùng ngoại ô thành phố Napoli nước Ý, một cộng đoàn các tu sĩ Dòng Phanxicô đã sống ở đây từ năm 1976 nhờ tất cả những gì người dân vứt bỏ: trái cây và rau của các tiệm không bán được, thực phẩm sắp hết hạn… và dùng lại xe lửa Ferrovia dello Stato. Đây là năm toa xe rất đẹp của những năm 1940 được sửa chữa thành tu viện. Bây giờ toa xe có tên “Bến xe tâm hồn.”
Toa xe là phòng tu
Các toa xe dùng làm nhà nguyện, tịnh cốc, tòa giải tội, phòng tiếp khách, xưởng làm việc. Tám “sư huynh tiểu đệ Canh Tân” sống trong tu viện, trong tinh thần khó nghèo tuyệt đối, nhưng họ lại đi giúp những người khó nghèo nhất. Hàng ngày họ sống theo nguyên tắc của nhà sáng lập Dòng Phanxicô Axi, “ca ngợi Chúa trong mọi tạo vật”.
Một khu phố nguy hiểm
Khu phố nơi họ sống là khu phố nguy hiểm nhất Âu châu. Các tu sĩ ra đường và họ làm chứng tấm lòng thân tình của mình với những người họ gặp trên đường đi, lắng nghe và an ủi người dân.
Họ cũng phục vụ trong các giáo xứ, họ thường xuyên đến nhà tù, đến bệnh viện thăm hỏi. Họ không nhận tiền, chỉ nhận chăn mền và thức phẩm mà họ nấu trong chiếc lò bằng than. Những đồ thặng dư, họ cho lại người nghèo.
Trong một lần phỏng vấn với tạp chí công giáo Ý Famiglia Cristiana, sư huynh Carlo giải thích khía cạnh kỳ quặc nơi ở của họ: “Xe lửa là hành trình nhưng cũng là biểu tượng của đơn sơ và bấp bênh. Với các giá trị này, chúng tôi tìm cách làm mới lại linh đạo và lời giảng dạy của Thánh Phanxicô Axixi”.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Hình ảnh tu viện “Bến xe tâm hồn”

 

Geneviève Laurencin: “Luôn có một nền tảng thiêng liêng nơi trẻ con”

Geneviève Laurencin: “Luôn có một nền tảng thiêng liêng nơi trẻ con”

  fr.aleteia.org, Mathilde de Robien, 2018-09-27

Bằng cách nào trao truyền đức tin của mình? Đâu là thái độ cần để thích ứng với trẻ con khi chúng đã xa tôn giáo? Có nên bắt buộc trẻ con đi lễ không? Báo Aleteia đề cập các câu hỏi này với bà Geneviève Laurencin, tác giả quyển Bài học Giáo lý của một người bà, tập sách ghi lại các suy nghĩ của trẻ con, các đối thoại, các lời Phúc Âm, các bản văn của các bậc thầy thiêng liêng và các lời nguyện cá nhân.

“Luôn có một nền tảng thiêng liêng nơi trẻ con.” Với xác tín mạnh mẽ này, bà Geneviève Laurencin, người mẹ của hai người con, người bà của năm đứa cháu, tác giả quyển sách Bài học Giáo lý của một người bà (nxb. Salvator) đã cảm hứng để trao truyền đức tin của mình cho trẻ con chung quanh bà. Dù là ngoài đời hay trong sách, bà đều khéo léo làm.

Aleteia: Là bà ngoại và là người dạy giáo lý, khi đọc sách của bà, độc giả cảm thấy bà muốn trao truyền đức tin của mình cho trẻ con. Làm thế nào để bà làm được điều này?

Geneviève Laurencin: Tôi không biết tôi có truyền được đức tin của mình không. Chỉ ùmột mình Thiên Chúa là người duy nhất hành động. Nhưng những gì tôi biết, là tôi thích sống, thích nói cùng với trẻ con về Chúa. Với tôi, những giây phút ở với trẻ con là những giây phút ưu tiên. Tôi thích ở với chúng, tôi thích nghe chúng. Tôi bị mê hoặc bởi sự ngạc nhiên, bởi tính sáng tạo, bởi lòng nhiệt thành lây lan, bởi phong cách tự phát lãnh hội thế giới bên ngoài, bởi việc sát gần với ý nghĩa ẩn giấu của mọi thứ, bởi cách trẻ con chất vấn về thế giới, đôi khi rất nghiêm trọng, sâu đậm và đôi khi cũng đầy lo lắng. Tôi thích có mặt khi chúng đặt câu hỏi. Câu hỏi có thể bật ra bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, thường là những lúc chúng ta không ngờ! Khi đó tôi cảm thấy mình có sứ mạng trả lời cho lòng khát khao thiêng liêng này của chúng. Tôi cố gắng trả lời theo con người thật của tôi, với những gì tôi mong mình được trở thành: làm chứng cho Lời đã nuôi dưỡng tôi và qua đó là tôi tin, với sự khát khao không bao giờ thỏa là có Chúa Giêsu là người hướng dẫn. 

Bà nói chính bà và các cháu của bà cùng giảng Phúc Âm cho nhau? Các cháu của bà sẽ giảng những gì?

Luôn có một nền tảng thiêng liêng nơi đứa bé. Đó là điều làm cho đứa bé đặt các câu hỏi vượt quá khả năng của chúng, những chuyện chúng không hiểu. chúng cảm thấy có một cái gì khác, một cái gì vô tận, chẳng hạn như khi chúng ngắm bầu trời, có một cái gì vô hình, khi chúng thấy gió thổi. Và tất cả các câu hỏi này làm cho tôi đào sâu đức tin của tôi. Các nhận xét của chúng, dù là vô bổ cũng làm cho tôi đi tới. Chúnh nhờ trẻ con mà tôi càng ngày càng thích cầu nguyện, tôi có được cảm nghiệm khiêm tốn, tôi vun trồng cái nhìn trẻ thơ của mình. Như thử tôi cảm thấy tốt khi mình nhỏ bé và đến gần Chúa! Vì với những gì không hoàn hảo, có phải đó là những điều Chúa ban cho chúng ta không?

Bà nói gì với các ông bà nội ngoại có cháu không cùng chia sẻ đức tin hay không còn đức tin? Trong tình trạng này làm sao trao truyền đức tin?

Đối với tôi, điều cực kỳ quan trọng là phải tôn trọng cha mẹ chúng, tôn trọng sự khác biệt, thậm chí còn là sự thù nghịch của họ đối với tôn giáo. Vì chính cha mẹ là những người khai tâm đầu tiên cho con cái. Điều này đòi hỏi phải có một khoảng cách và phải kín đáo. Nhưng cũng không phải là im lặng hoàn toàn! Chúng ta có thể trao truyền khả năng kinh ngạc khi đứng trước nét đẹp thiên nhiên. Chúng ta cũng có thể nêu cao giá trị của thinh lặng, đó cũng là một chuyện tốt. Thinh lặng là cánh cửa đi vào đời sống nội tâm. Chúng ta có thể dạy sự quan tâm đến người khác, sự tôn trọng hoặc dạy cho trẻ con biết nhận. Như thế, chúng ta chuẩn bị một miếng đất màu mỡ để một ngày nào đó Lời Chúa được gieo mầm. Nếu bạn muốn đặt các câu hỏi, chẳng hạn nhân dịp viếng thăm một nhà thờ, nhân cơ hội đó bạn có thể trả lời cho các cháu: “Với bà, đó là những gì bà tin, nhưng bà chấp nhận người khác có thể họ suy nghĩ một cách khác”. 

Trong quyển sách của bà, một trong các cháu nói về bà của nó: “Bà không bao giờ ép buộc chúng con”. Dĩ nhiên, vai trò của ông-bà là làm cho nhẹ nhàng và tạo một khoảng cách. Nhưng bà có cùng thái độ này khi bà là mẹ không? Chẳng hạn bà có ép  con trai, con gái mình đi lễ không?

Đó là câu hỏi tế nhị. Tôi nghĩ, là người mẹ, trước hết tôi cố gắng hiểu xem lý do nào con cái mình không thích đi lễ. Nếu thật sự nó không muốn đi lễ, thì khi đó tôi sẽ không ép buộc. Nhưng đừng để tình trạng này kéo dài! Chắc chắn có một cái gì cần đào sâu để tìm lý do cho việc cắt đứt này. Và tôi sẽ tự hỏi tôi: cái gì đã xảy ra trong thời gian qua đối với tôi? Đức tin của tôi còn sống động không? Tôi đã làm gì để tổn thương đến con? Tôi nói với con đi theo con đường của Chúa Giêsu, nhưng còn tôi, tôi có đi theo không?

Bài học Giáo lý của một người bà (nxb. Salvator) tháng 9, 2018.

 

Xin đọc: 5 lời khuyên của bà Maïte Roche để trao truyền đức tin cho con cái 

Đức Phanxicô xin cha mẹ dùng “ngôn ngữ tình yêu” để trao truyền đức tin cho con cái

Trao truyền đức tin dựa trên gương

Sự khác biệt, niềm vui và thời gian

Sự khác biệt, niềm vui và thời gian

Trích sách “Chính trị và Xã hội“, Dominique Wolton và Đức Phanxicô, Nxb. L’Observatoira, 2017. Chương 5.

Tháng 7-2016. Chúng tôi gần như có thói quen của mình vì chúng tôi vừa gặp nhau ba ngày liền. Đơn giản và thân tình trong một đối thoại vừa ngoài thời gian vừa trong mọi thời của Lịch sử mênh mông này. Tất cả ở đây làm mọi sự trở thành khiêm tốn. Một mảnh đất nhỏ bé, nhưng có một lịch sử lâu dài. Và dĩ nhiên có sự giao thoa giữa văn hóa của xã hội chúng ta, gặm nhắm bởi sự kiện và bởi tính tức thì và khoảng không gian đúng là bình lặng, bất động và vĩnh cữu. Chúng tôi rất nghiêm túc tiếp tục buổi nói chuyện và theo tuần tự của quyển sách. Đức Thánh Cha rất thận trọng, buổi nói chuyện của chúng tôi luôn tự nhiên và dí dỏm. Dí dỏm, luồng điện thông minh là mãi mãi, là bao la… Giáo hội trong xã hội hiện đại. Các đóng góp và các chạm trán qua về. Giáo hội, truyền thông, con người và kỹ thuật, các cách biệt về kinh nghiệm và về tầm nhìn thế giới. Đâu là hiện đại tính? Làm thế nào mà con người này đảm trách được biểu tượng vô cùng to tát này? Sống với trách nhiệm của mình? Sự khiêm tốn có đó, trong tòa nhà này, nhưng bên cạnh đó là sự long trọng của Đền thờ Thánh Phêrô mà tiếng chuông nhắc lại sự mở ra với thế giới, tính tương đối của các nền văn minh và sự khó khăn vô cùng của việc các văn hóa cùng ở chung với nhau. Thời gian, thời gian định nghĩa cho chúng ta tất cả mọi sự. Cả một chiêm niệm. Và nơi ngài, trong các lời của ngài, luôn nhắc lại điều thiết yếu, điều cốt tử, nghĩa vụ luận của vai trò cầu nguyện. Bài học của mọi chuyện như ngày xưa người ta vẫn thường nói. Dù sao, các thinh lặng, các dò tìm, các suy tư ở dưới vực thẳm… Tuy nhiên các trao đổi của chúng tôi nói lên một cách hoàn hảo cho cuộc đối thoại cần thiết, khó khăn giữa người tu sĩ và giáo dân. Giữa người mang trong mình các giá trị, các điểm quy chiếu khác và người trí thức, mà các tiêu chuẩn gần với nhân chủng học hơn. 

Dominique Wolton: Làm thế nào để đối thoại được với người vô thần và người không tin, người không biết tội tổ tông, và lỗi phạm là gì? Làm sao đối thoại được với họ vì họ thường ở trong thế giới thế tục và không tôn giáo?

Đức Phanxicô: Họ là một phần của thực tại. Phần của nhiều quyền lực. Và khi người ta nói đến thực tại, ngay lập tức người ta đụng đến các quan điểm khác nhau. Nhưng thực tại tạo nên các cây cầu cho các quan điểm khác nhau. Và đó là điều ngược lại. Thực tại, đó là sự thật. Các cây cầu, đó là cuộc nói chuyện của chúng ta. Nhưng chúng ta phải khởi đi từ thực tại, chứ không từ lý thuyết. Chúng ta có thể nói những chuyện nan giải cho đến tận thế, nhưng vô ích.

Đâu là thực tại? Mỗi người nhìn thực tại theo cách của mình. Còn tôi, tôi nhìn nó như tôi nghĩ nó phải là. Tôi hiểu nó theo nó là. Vì thế phải cùng nhau đi tìm. Đó là con đường tìm tòi. Tìm tòi.

Dominique Wolton: Cũng vậy, làm gì, nói gì với những người vô thần? Làm thế nào để tôn trọng những người vô thần, đối thoại như thế nào? Từ thế kỷ 18, những người vô thần đã làm rất nhiều, rất nhiều cho sự giải thoát xã hội, chính trị, cho dân chủ. Nhưng Giáo hội làm gì? Giáo hội thường nói “chúng ta chờ.” Nhưng họ là người vô thần, họ không cần sự mong chờ của Giáo hội. Họ không chờ gì hết. Vậy thì làm sao đối thoại? Thêm nữa họ thường là những người của hòa bình! Làm gì với những người vô thần này? Vì Giáo hội cũng đã giết họ rất nhiều… 

Đức Phanxicô: Ở một thời buổi khác, có người còn nói: “Để họ yên, trước sau gì họ cũng xuống hỏa ngục!”

Dominique Wolton: (Cười) Đương nhiên!

Đức Phanxicô: Nhưng chúng ta không bao giờ nên dùng tính từ. Truyền thông đích thực là với thể từ. Có nghĩa là với một người. Người này có thể là người bất khả tri, vô thần, công giáo, do thái giáo… nhưng đó là những tính từ. Tôi, tôi nói với một người. Mình phải nói với một người. Đó là một người đàn ông, một người đàn bà, như tôi. Ở Krakow, trong một bữa ăn với một nhóm trẻ công giáo từ 12 đến 14 tuổi. Các thanh niên nam nữ, hai người trẻ cho mỗi châu lục, nước Ba Lan có thêm hai, một em đặt cho tôi câu hỏi:“Nhưng nói gì với người vô thần?” 

Dominique Wolton: Nhưng đó không phải là câu hỏi của tôi. Câu hỏi của tôi là: làm thế nào đối thoại với người vô thần?

Đức Phanxicô: Nói gì với người vô thần? Tôi đã trả lời cho em đó như sau: “Nhưng điều cuối cùng mà con phải làm, đó là nói với (giảng) một người vô thần. Con, con phải sống cuộc sống của con, con lắng nghe họ, nhưng con không được ca tụng. Ca tụng, gạt ra ngoài. Nếu họ hỏi con điều gì, con trả lời theo kinh nghiệm nhân bản của con. Đối thoại phải đối thoại với kinh nghiệm con người. Tôi, tôi tin, nhưng đức tin là một ơn, một ơn của Chúa. Không ai tự chính mình có đức tin. Không ai. Dù cho ông có học cả một thư viện. Đó là một ơn. Và nếu ông không có ơn này, thì Chúa sẽ cứu ông theo một cách khác. Và chúng ta có thể nói nhiều chủ đề mà chúng ta có nhiều điểm chung: vấn đề luân lý, những chuyện thần nghiệm, những chuyện con người… Rất nhiều chuyện. Từ những chuyện mình nghĩ, những vấn đề con người, đối xử với nhau như thế nào… Chúng ta có thể thảo luận về vấn đề phát triển nhân loại… Nói đến những điểm chung. Họ, họ sẽ có những quan điểm khác, tôi, tôi cũng có các quan điểm khác. Nhưng chúng ta có thể nói chuyện, và khi bàn đến vấn đề Thiên Chúa, mỗi người nói chọn lựa của mình. Nhưng lắng nghe người khác với sự tôn trọng.

Có một lần, tôi có kinh nghiệm này: một bà hỏi tôi, bà có nghe một bài giảng hay một bài diễn văn gì đó, tôi không nhớ rõ. Bà nói bà là người vô thần, nhưng lúc đó, bà bắt đầu nghi ngờ sự không-hiện hữu của Chúa. Đó là điều làm bà xúc động. Các người bất khả tri cũng vậy. Họ khác biệt. 

Dominique Wolton: Có một câu của Giáo hội mà tôi thấy khủng khiếp: “Cứ quên Chúa thì quên con người.”

Đức Phanxicô: Đúng.

Dominique Wolton: Đúng, nhưng còn người vô thần? 

Đức Phanxicô: Đó là một khái niệm khác. Ông có lý. Chúng ta lấy ví dụ cụ thể của một người vô thần như Hitler, với tiền đề như ông vừa nói… 

Dominique Wolton: Ông đó không phải là người vô thần bình thường. 

Đức Phanxicô: Nhưng cứ quên Chúa thì quên con người.

Dominique Wolton: Đó là câu Hồng y Jean-Marie Lustiger nói khi tôi đối thoại với ngài. Nhưng câu hỏi vẫn còn đó. Cứ quên Chúa là quên con người sao? Trước hết, trong lịch sử có rất nhiều tín hữu và các linh mục giết rất nhiều người. Và bây giờ, có nhiều người vô thần cũng là những người làm việc nhân đạo như các tín hữu…

Bởi vì người ta nói “cứ quên Chúa là quên con người”, có nghĩa là không có giải pháp nào ngoài Chúa. Thế thì, một người vô thần có thể nói:“Tôi, tôi vô thần và thỉnh thoảng tôi làm điều tốt, tôi cũng làm nhiều điều tốt như các tín hữu.” Cũng là chuyện kỳ lạ: người ta có nhiều đối thoại liên tôn, có nhiều buổi họp đại kết, nhưng chúng ta làm gì với những người vô thần?

Chẳng hạn, làm sao chuyển được sứ điệp năm Lòng thương xót? Làm sao nói với người vô thần về chuyện này? Họ không hiểu.

Đức Phanxicô: Hãy làm chuyện tốt cho một người nào đó. Phải làm. Và nếu ông không quan tâm đến chủ đề này thì hãy nghĩ đến những người đang thiếu thốn. Hãy nghĩ đến các trẻ em Syria. Hãy có một tư tưởng của lòng thương xót. Một xúc động nội tâm.

Dominique Wolton: Cha thường hay nói: “Làm thế nào để mọi người hiểu, nhân loại vừa bị tổn thương, vừa được chúc phúc?”

Đức Phanxicô: Đó là theo kinh nghiệm của mỗi người. Mỗi người, đàn ông cũng như đàn bà, họ ngã và họ đứng dậy. Làm thế nào để đứng dậy sau khi ngã không biết bao nhiêu lần và tìm được một con đường mới? Người ta có thể nói mà không sợ – bạn, bạn là người vô thần, còn tôi thì không… nhưng chúng ta cùng nói chuyện! Cả hai, chúng ta đều kết thúc ở một nơi. Chúng ta tất cả đều bị giòi bọ ăn!

Dominique Wolton: Cha nghĩ gì về câu nói của Đức Piô XII: “Thảm kịch của thời buổi chúng ta là đã đánh mất ý nghĩa về tội?” Còn cha, cha cũng sẽ nói như vậy?

Đức Phanxicô: Đúng, câu đó đúng. Đúng vậy, thời buổi này chúng ta đã đánh mất ý nghĩa về tội. Khi bây giờ chúng ta thấy một người ôm bom tự sát, họ giết hàng năm chục người. Khi bây giờ chúng ta thấy những người buôn người, họ làm cho nhiều người chết đuối ở kênh Sicile… Nếu có một người trung chính hỏi “vì sao họ làm như vậy?”, câu trả lời là những người này không có kim chỉ nam luân lý. Tối thiểu là như vậy. Kim chỉ nam luân lý là kim chỉ nam được mọi người chấp nhận. Từ đó để nói về tội là cả một tiến trình, đó cũng là liên hệ với Chúa vì tội giả thiết là phải có đức tin. Nhưng không có kim chỉ nam luân lý là một ý tưởng chung cho tất cả mọi người. Dù là người vô thần. Và dù là người vô thần cứng rắn và ngay thẳng thì họ cũng nói đúng, thế giới này thiếu kim chỉ nam đạo đức. Nếu một nhà kinh tế cực kỳ tự do, nếu họ đọc một vài đoạn trong Thông điệp Chúc Tụng Chúa (Laudate si’) thì rồi họ cũng sẽ nói thế giới này thiếu kim chỉ nam đạo đức cho kinh tế. Đạo đức là một đòi hỏi cho cách ứng xử của chúng ta trong xã hội. Nhưng đây không phải là sự nghiêm ngặt cũng không phải là sự cứng nhắc của các điều răn. Đạo đức, là trả lương đúng cho thợ, trả lương đúng cho người làm… Và đôi khi có những nghịch lý khủng khiếp.

Một phụ nữ rất tốt lành, rất công giáo, bà ở trong một nhóm làm việc thiện năng nổ, bà có ba đứa con trai tuổi vị thành niên, 16, 17 và 20 tuổi, bà nói, “tôi, tôi chọn người làm rất kỹ”, bởi vì, nghe rõ này, “tôi không muốn các con tôi đi ra ngoài để biết, tôi muốn ở nhà chúng được phục vụ đầy đủ.” Đó, đó là vô luân.

Ngày nay có một vấn đề xã hội mà tôi lên án truyền thông rất nhiều. Bây giờ, toàn thế giới bị tai tiếng vì các vụ lạm dụng tình dục các em tuổi vị thành niên. Nhưng trong thế giới này lại có những người sản xuất các video trên internet, các video bày cho các em bé trai nhỏ, các cô gái nhỏ, cho đàn ông, đàn bà các “chuyện đồi bại”, các quan hệ tình dục với các em tuổi vị thành niên, các người đồng tính, các người lưỡng tính, bằng tất cả cách nào họ tưởng tượng ra. 

Dominique Wolton: Đúng, đó là đạo đức giả. 

Đức Phanxicô: Và ai cho phép làm như vậy? Cũng lại chính quyền đó lên án các lạm dụng trên trẻ vị thành niên. Người ta còn phát hành các phim bày cách nào lạm dụng trẻ vị thành niên…

Dominique Wolton: Sản phẩm khiêu dâm là một trong các kỹ nghệ lớn nhất thế giới…

Đức Phanxicô: Và đó chính là cái nghịch lý mà tôi muốn nhấn mạnh. Kim chỉ nam đạo đức, chúng ta tất cả đều có trong lòng. Tất cả chúng ta đều biết cái gì là tốt, cái gì là xấu. 

Dominique Wolton: Từ ba mươi năm nay, tiền bạc thống trị! Chỉ có tiền bạc, nhân danh tự do kinh tế. Có thể đạo đức sẽ trở lại như một chất vấn về ý nghĩa, chứ không phải như một loạt cấm đoán.

Đức Phanxicô: Ước mong Chúa nghe ông nói! Nhưng người công giáo chúng tôi, chúng tôi không thể dạy đạo đức với những nguyên tắc như: “Con không thể làm này, con không thể làm kia, con phải làm này, con phải làm kia, con có thể làm này, con không thể làm kia.” Đạo đức là hệ quả của một sự gặp gỡ với Chúa Giêsu-Kitô. Đối với người công giáo chúng tôi, đó là hệ quả của đức tin. Còn đối với người khác, đạo đức là hệ quả của một sự gặp gỡ với một lý tưởng, hay với Chúa, hay với chính mình nhưng với phần tốt nhất của chính mình. Đạo đức luôn là một hệ quả.

Dominique Wolton: Nhưng người ta thường nói không có đạo đức trong kinh tế. Và đó là sai, chắc chắn phải có đạo đức trong kinh tế. Từ ba mươi năm nay, chủ nghĩa tư bản tự do là như vậy, không đạo đức. Nhất là từ khi toàn cầu hóa và từ khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ.

Đức Phanxicô: Nó sẽ sụp.

Dominique Wolton: Chắc chắn rồi.

Đức Phanxicô: Tôi nghĩ là tôi sẽ không thấy chuyện này xảy ra…

Dominique Wolton: Người ta cảm nhận Giáo hội tiến bộ trên các vấn đề tình yêu cho người khác, cho người di dân nhưng trong các lãnh vực khác như gia đình, vợ chồng, các phong tục, đồng tính, Giáo hội còn rất “cứng nhắc.” Cha còn phải cất “cái roi” trong phòng thánh, tuy vậy người ta vẫn có cảm tưởng, Giáo hội là “cái roi.”

Đức Phanxicô: Nhưng đã có những tiến bộ lớn trong việc giải thích quan điểm của Giáo hội, từ Đức Piô XI cho đến ngày nay. Chẳng hạn Đức Gioan-Phaolô II đã thực hiện được khoa nhân chủng học về gia đình thật là quan trọng. Và rồi những gì tôi làm sau hai thượng hội đồng, Tông huấn Niềm vui Yêu thương (Amoris Laetitia)… Đó là cái gì rất rõ ràng và tích cực, mà một vài người có khuynh hướng quá truyền thống, cho rằng đây không phải là giáo điều thật. Về vấn đề các gia đình bị tổn thương, tôi viết trong chương tám, có bốn tiêu chuẩn: tiếp nhận, tháp tùng, phân định các trường hợp và hội nhập. Và đó không phải là tiêu chuẩn cứng nhắc. Đó là mở ra một con đường, một con đường truyền thông. Và người ta hỏi tôi ngay: “Nhưng mình có cho người ly dị rước lễ không?” Tôi trả lời: “Hãy nói chuyện với người đàn ông ly dị, người phụ nữ ly dị, hãy tiếp nhận, hãy tháp tùng, hãy hội nhập và hãy phân định!” Khổ thay, linh mục chúng tôi, chúng tôi quen với chuẩn mực cứng nhắc. Những chuẩn mực cố định. Và thật khó cho chúng tôi, “con đường tháp tùng, hội nhập, phân định, nói điều tốt” này. Nhưng đề nghị của tôi là vậy. Đức Gioan-Phaolô II cũng vậy, với thần học thân xác của ngài, một vấn đề rất quan trọng còn đi xa hơn về mặt tính dục và gia đình. Tôi có trích trong tông huấn Niềm vui Yêu thương, lấy quy chiếu ở đó, vì tất cả đều có trong đó. Một câu làm chói tai một số người: “Tình dục là một chuyện tốt và đẹp”.

Dominique Wolton: Cha có thấy là rắc rối cho người thế tục khi họ nghe các linh mục, là những người từ bỏ tình yêu thể lý, lại nói tình yêu thể lý là đẹp.

Đức Phanxicô: Từ bỏ tình dục và chọn con đường khiết tịnh hay giữ đồng trinh, đó là cả một đời sống thánh hiến. Và đâu là điều kiện và nếu không có điều kiện này thì con đường này sẽ chết? Đó là con đường mang tình phụ tử và mẫu tử thiêng liêng. Một trong các điều không tốt của Giáo hội, đó là có các linh mục “trai già”, các nữ tu “gái già”. Bởi vì họ đầy cay đắng. Ngược lại, ai phát triển được tình phụ tử thiêng liêng, dù họ làm việc ở trường học, ở bệnh viện, ở giáo xứ, những người này sẽ phát triển tốt… Cũng vậy với các nữ tu, vì họ là “ mẹ”.

Dominique Wolton: Về các vấn đề này, hồng y Philippe Barbarin gặp rất nhiều khó khăn. Hồng y André Vingt-Trois, giáo phận Paris và một vài người khác đã nâng đỡ ngài…

Đức Phanxicô: Có phải những người khác như quan tổng trấn Philatô?

Dominique Wolton: Rất nhiều, rất nhiều người là Philatô, họ rửa tay.

Đức Phanxicô: Tôi biết rõ hồng y Philippe Barbarin. Cha có đến đây. Cha rất can đảm. Đây là một vấn đề đã có từ bốn mươi năm nay và ngài nghĩ đã có chỉ thị theo quy trình thời gian. Ngài tự do. Đó là một con người tự do, rất quảng đại. Ngài là nhà truyền giáo ở Madagascar…

Dominique Wolton: Phải có quyền uy của giáo hoàng, vì áp lực của báo chí và dư luận quần chúng rất mạnh, trong nghĩa họ kêu lên “Từ chức! Từ chức!”.

Đức Phanxicô: Trong số các người phạm tội ấu dâm, các linh mục công giáo có trên dưới 2%. Có vẻ ít nhưng cũng đã là quá nhiều. Dù chỉ một linh mục công giáo làm là cũng đủ thấy khủng khiếp.  Mức dung thứ là “zero”! Bởi vì linh mục phải mang trẻ con đến với Chúa, chứ không phải hủy hoại đời của chúng. Rồi phản ứng dây chuyền: trên bốn trẻ em bị hiếp thì hai trẻ trở thành người đi hiếp lại.

Dominique Wolton: Về vấn đề ấu dâm, tôi thấy Giáo hội ở trên thế phòng vệ quá nhiều. Dĩ nhiên, Giáo hội thường nhắm mắt, bao che chuyện không thể chấp nhận được, nhưng đồng thời, thời gian của Giáo hội không phải lúc nào cũng là thời gian của xã hội. Cũng không phải là thời gian của báo chí. Vậy mà bây giờ truyền thông lại trở thành tòa án cho các vụ đồi bại.

Tại sao Giáo hội không có thể nói: “Đúng tôi tôn trọng luật, nhưng tôi có trách nhiệm với các vấn đề của lương tâm, của hòa bình, của luân lý, những chuyện không phù theo lôgic và tiến trình của báo giới hay của dư luận quần chúng”. Tôi thấy từ năm mươi năm nay, Giáo hội công giáo thường ở trên thế phòng vệ, không giải thích sự khác biệt về thời gian tính cũng như về lôgic. Giáo hội muốn phù nhiều vào thời buổi hiện đại. Giáo hội không ở ngoài luật, nhưng Giáo hội là một cái gì khác hơn là luật.

Đức Phanxicô: Và cũng có bác sĩ, mutatis mutandis, bí mật nghề nghiệp, và những chuyện đi theo chiều hướng mà ông vừa nêu lên. Phần lớn các vụ ấu dâm đến từ trong vòng gia đình, từ các người láng giềng trong khu phố.

Dominique Wolton: Và người ta không nói gì đến quyền lực tuyệt đối của gia đình.

Đức Phanxicô: Trước, người ta thuyên chuyển linh mục nhưng vấn đề đi theo đương sự. Đường lối hiện nay, là đường lối của Đức Bênêđictô XVI và của tôi, chúng tôi có Hội đồng bảo vệ trẻ vị thành niên, được thành lập cách đây hai năm ở Vatican. Bảo vệ tất cả trẻ vị thành niên. Là để ý thức thế nào là vấn đề. Giáo hội mẹ dạy làm cách nào để đề phòng, làm cách nào để nói với một em bé, làm thế nào để các em nói sự thật với cha mẹ, kể những gì đã xảy ra, vv. Đó là con đường xây dựng. Giáo hội không nên đi theo hướng phòng vệ. Nếu linh mục là người đi lạm dụng, thì đó là một người bệnh. Trên bốn người đi lạm dụng thì có hai đã từng bị lạm dụng khi họ còn nhỏ. Đó là theo thống kê của các bác sĩ tâm thần. Nhưng Giáo hội cố gắng làm theo cách này để bảo vệ trẻ em.

Dominique Wolton: Đó là câu hỏi tôi đặt cho cha lúc nãy: làm thế nào Giáo hội có thể làm cho người ta hiểu, dĩ nhiên là Giáo hội phải tôn trọng luật, nhưng Giáo hội cũng có thể du di về thời gian, về các giá trị, những thứ khác nhau không?

Đức Phanxicô: Giáo hội phải làm để điều này được hiểu. thời gian. Chúng ta cần thời gian để lớn lên, để chín chắn, để ăn năn, để khóc. Mỗi sự có thời của nó. Đó là huyền nhiệm của thời gian.

Dominique Wolton:  Đúng vậy, nhưng bây giờ mọi sự đi quá nhanh. Và Giáo hội cũng càng ngày càng đi nhanh. Giáo hội chưa áp đặt một tính chất thời gian khác, một tầm nhìn sự việc, Giáo hội chạy theo hiện đại, thuận theo luật của thời buổi, trong khi cha nói, tất cả thì rắc rối nhiều hơn. Vậy mà, các bác sĩ tâm thần, các nhà phân tâm đều nói như cha, tất cả đều rất chậm, tất cả đều rất rắc rối. Tuy nhiên về chủ đề này, chủ đề phức tạp của thời gian, người ta không nghe nói nhiều, kể cả các bác sĩ tâm thần, các nhà phân tâm…

Đức Phanxicô: Phải bắt đầu bằng có kinh nghiệm. Có kinh nghiệm với thời gian. Cầm tay với họ, đi với họ. Bốn tiêu chuẩn trong tông huấn Niềm vui Yêu thương: đón nhận, tháp tùng, phân định, hội nhập.

Đón nhận, chúng ta có thể làm trong một thời gian ngắn. Nhưng tháp tùng là một con đường dài. Phân định: minh triết của phân định là minh triết của tình phụ tử, của tình mẫu tử, minh triết của người lớn tuổi. Phải để cả một đời để học.

Dominique Wolton: Trong thời thế giới hóa, các Giáo hội kitô giáo, nhất là Giáo hội công giáo, có thể nói một cái gì về sự bạo ngược của sự kiện, của tức thời, của ý kiến quần chúng. Qua di sản lý thuyết và lịch sử của mình, Giáo hội phải nói, không cao ngạo, không phải chỉ có thời gian của hiện đại, không phải chỉ có vận tốc, không phải chỉ có tự do cá nhân. Dù có các sai lầm của mình, kinh nghiệm của Giáo hội là phải nói một cái gì khác. Và chuyện khác này, sau một thời gian, nó sẽ có thể được nghe.

Tôi có một câu hỏi về niềm vui. Hôm qua cha có nói niềm vui là một trong những chữ cha thích, nhưng tại sao Giáo hội không còn niềm vui nữa?

Đức Phanxicô: Nhưng mình có thể tìm niềm vui trong Giáo hội…

Dominique Wolton: Đúng, nhưng, chung chung không phải lúc nào cũng vui, Giáo hội… Trừ những ngày Thế Giới Trẻ JMJ là còn giữ được niềm vui nơi giới trẻ. Người ta vui ở tuổi 20 hơn là ở tuổi 60. Nhưng đâu là sứ điệp tình yêu và niềm vui của Giáo hội? Sự khác biệt giữa các tín hữu kitô và những người theo trào lưu chính thống phải là niềm vui. Và sự khác biệt văn hóa, tâm lý hàng ngày, người ta không thấy. Niềm vui của Giáo hội sẽ là giá trị hàng đầu cho hòa bình, như một đường lối chính. Trong tinh thần này, phải có một câu cho niềm vui. Chúng ta cần vui, cần hạnh phúc để chống hận thù, một hận thù đến từ thói ích kỷ, từ chính thống cực đoan.

Đức Phanxicô: Đúng vậy, khi các nhà lãnh đạo Giáo hội, những người chúng ta gọi là mục tử, giám mục, linh mục, họ tách khỏi dân – dân ở đây là dân của Chúa – và khi họ trở nên quá nghiêm khắc, quá trịnh trọng, họ có gương mặt “hồ bột”.

Dominique Wolton: Đúng, một Giáo hội hồ bột, chính xác như vậy. 

Đức Phanxicô: Điều này xảy ra khi mình tách ra khỏi giáo dân, nói cách khác là tách ra khỏi Chúa.

Dominique Wolton: Nhưng, cha biết, trên quan điểm này, hồi mới đầu chủ nghĩa cộng sản cũng không tưởng về “Dân”. Chủ nghĩa cộng sản đã thất bại nhưng chủ nghĩa cộng sản phi thường trong các giá trị của nó. Tự do, bình đẳng, yêu thương. Đó cũng là giá trị kitô giáo.

Đức Phanxicô: Và người ta cũng đã nói tôi: “Nhưng cha là người cộng sản!” Không. Người cộng sản là người tín hữu kitô. Chính người cộng sản đã lấy khẩu hiệu của chúng tôi!

Dominique Wolton: (cười) Đúng vậy, nhưng nó thật sự không chạy. Giáo hội không phải lúc nào cũng tuyệt vời, nhưng dù sao, trên mười, mười lăm thế kỷ, Giáo hội cũng tốt hơn chủ nghĩa cộng sản… 

Đức Phanxicô: Đức Phaolô VI cũng đã viết một tông huấn về niềm vui. Tông huấn Hãy Vui mừng trong Chúa (Gaudete in Domino, 9 tháng 5-1975)

Dominique Wolton: À đúng, tôi đã quên… Nhưng có thể dùng lại đề tài này vì tông huấn trong thời thế giới hóa không phải cùng bối cảnh với thời Đức Phaolô VI. Khác ngược, vì tất cả đã thay đổi từ bốn mươi năm nay. Thất đáng lo cho loại thế giới “trong vắt”, tương tác, mà người ta không hiểu gì hết. Người ta thấy, nhưng người ta không hiểu. Với chủ đề quan trọng “thông hiểu” mà cha có một cái gì để nói.

Vào thời Đức Phaolô VI, còn có các cơ cấu, còn Đông còn Tây, còn chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội. Còn bây giờ thì không có gì hết. Không còn chủ nghĩa tư bản. Không còn các giá trị, không còn căn tính. Giáo hội còn chờ gì? Không phải chỉ là niềm vui mà còn là khiêm tốn. Ai cũng đi tìm một ý nghĩa. Và ý nghĩa của tôn giáo thì không độc quyền, nhưng ít nhất nó là một chứng tá. Một thông điệp nữa? 

Đức Phanxicô: Tôi đã làm ba. Một thông điệp và hai tông huấn. Cả ba đều có tựa “niềm vui”. Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, Tông huấn Niềm vui Yêu thương và Thông điệp Chúc tụng Chúa (Evangelii gaudium, Amoris laetitia và Laudato si’). 

Dominique Wolton: Đúng vậy, nhưng niềm vui trước hết là thuộc tính của con người. Cha, cha dùng rất nhiều các câu tweet, kỹ thuật truyền thông, internet. Cha có 32 triệu cư dân mạng theo cha – một kỷ lục, thật đáng nễ. Nhưng cùng một lúc, các kỹ thuật truyền thông, nhất là với internet, trở nên một đế quốc kinh tế, tài chánh, chính trị: các công ty Google, Apple, Facebook và Amazon (GAFA) kiểm soát tất cả các mạng xã hội. Sự suy tư mang tính phê phán này, trên các giới hạn của internet, một kinh nghiệm không phải nhân bản và quá kỹ thuật, phải cho phép Giáo hội nói một cái gì khác hơn. Và trong thế giới hiện nay, không có ai nói một cái gì lớn. Các Quốc gia không, các cá nhân thì lại ít vì mọi người cảm thấy mình “tự do” truyền thông. Giáo hội có thể tương đối hóa các hiệu năng của kỹ thuật truyền thông, nó có bất trắc làm giảm giá trị giao tiếp của con người. Giáo hội không nói gì.

Nếu Giáo hội không nói, không ai sẽ nói. Một ngày nào đó các Quốc gia sẽ làm. Chắc chắn sẽ có một sự thức tỉnh của nền dân chủ. Nhưng lúc nào và với giá nào?

Các linh mục thường là những người buồn. Một ngày nọ, tôi có một cuộc hội thảo với các giám mục Pháp ở Lộ Đức. Tôi vào phòng, có 80 giám mục… khá buồn. Tôi nói với họ: “Xin các cha cười lên! Chúa ở cùng các cha!”

Đức Phanxicô: Tôi nghĩ Thánh Têrêxa Avila từng nói, một thánh buồn là một thánh buồn. Không, thật sự niềm vui ở trọng tâm Phúc Âm! Ông đọc các trang Phúc Âm đầu tiên. Đó là những trang của niềm vui. Ông sẽ thấy khi dân chúng nghe Chúa Giêsu nói. Họ tràn ngập niềm vui. Bởi vì Ngài nói như một người có quyền uy, chứ không như những người đó, quá buồn.

Dominique Wolton: Đúng, nhưng theo kinh nghiệm linh mục của cha, vì sao có nhiều linh mục buồn như thế? 

Đức Phanxicô: Nhưng ông nhìn các nữ tu dòng Mẹ Têrêxa kìa, ông thấy họ không buồn. Niềm vui! Quá nhiều niềm vui!

Dominique Wolton: Đúng, nhưng họ không phải là đa số!

Đức Phanxicô: Ông nói họ là “Giáo hội”, nhưng đó là các kitô hữu không có Chúa Giêsu.

Dominique Wolton: Ồ hay quá! 

Đức Phanxicô: Đó là các kitô hữu ý thức hệ. Họ có một ý thức hệ kitô. Ông có thể nói, họ có cả một giáo điều kitô. Họ biết hết về giáo lý. Họ thuộc lòng ngay cả các tác phẩm của Denzinger. Chúa Giêsu thì ngược lại.

Dominique Wolton: Tôi là nhà trí thức nhưng tôi không thích nét lạnh lùng của những người trí thức. Những người trí thức giống như các linh mục, luôn luôn…

Đức Phanxicô: Nhưng trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã cảnh báo chúng ta chuyện này. Nếu các con không giống như trẻ em thì sẽ không được vào Nước Trời. Niềm vui của trẻ con, hy vọng của trẻ con… không khép lại. Những người buồn họ khép các chân trời. Một Giáo hội không sinh lực. Nhưng trong sách Khải huyền, có một đoạn rất đẹp về Chúa Giêsu, Ngài nói trước Nhà thờ: “Ta là cánh cửa và Ta gõ, hãy để Ta vào.” Chúa Giêsu là cánh cửa, và Ngài gõ. Nhưng Ngài ở bên trong, còn chúng ta, chúng ta không để Ngài đi ra. Và chính vì vậy mà một vài người có thể cảm nhận nỗi buồn.

Dominique Wolton: Ở các nhà thờ Phi châu, Việt Nam, Châu Mỹ La Tinh, người ta nhảy, người ta hát. Ngay cả ở Đông-Âu, cũng vui. Vì sao cha không thử để nói một cách vui vẻ, “chúng ta biết các yếu kém, các bội phản, chúng ta biết rõ hết về con người, nhưng luôn có một cái gì khác”… Điều tôi muốn nói, là Giáo hội có một “chuyên ngành” về tâm hồn con người mà không một thể chế nào có được như Giáo hội. Bởi vì Giáo hội đã sống qua tất cả mọi bội phản. Và tất cả mọi cứu chuộc. Cuối cùng, Giáo hội có trình độ chuyên cao nhất về truyền thông của con người!

Đức Phanxicô: Giáo hội nói những chuyện này. Nhưng nếu chỉ nói thôi thì chưa đủ. Tôi sẽ nói sự khác biệt. Điều ông muốn đi tìm là Giáo hội làm chứng nhiều hơn, đây là vấn đề của làm chứng. Kitô giáo không phải là một khoa học của hiểu biết, cũng không phải là một ý thức hệ, một cơ quan Phi Chính Phủ: “ Kitô giáo là cuộc gặp gỡ với một người. Đó là kinh nghiệm của sự kinh ngạc, của ngạc nhiên vì đã gặp Chúa, gặp Chúa Giêsu Kitô, với lời thánh, và đó là điều làm tôi kinh ngạc. Và Giáo hội là người bảo trợ, là người mẹ của sự kinh ngạc này, của cuộc gặp gỡ này. Khi Giáo hội quên điều này, thì Giáo hội biến thành một cơ quan Phi Chính Phủ. Và như thế thì không phải là làm chứng. Khi có sự kinh ngạc, thì có làm chứng.

Dominique Wolton: Giáo hội không thể phát minh một cái gì khác để được nghe đến hơn không? Trong bản văn về lòng thương xót, cha có nói về “việc tông đồ của lắng nghe”. Làm thế nào để mở rộng các khả năng lắng nghe đối với người khác? 

Đức Phanxicô: Đó là sự ngẫu biến mà Giáo hội phải làm. Trong tông huấn Niềm vui Yêu thương, khi tôi nói bốn tiêu chuẩn – tiếp nhận, tháp tùng, phân định, hội nhập -, thì đó là những điều ông nói… 

Dominique Wolton: Quả thật đó là cả một đường lối to lớn… 

Đức Phanxicô: Khi Giáo hội trở thành nhà luân lý… Giáo hội không phải là một đạo đức, kitô giáo không phải là một đạo đức. Đạo đức, là hệ quả của sự gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô. Nhưng nếu không có sự gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô, thì đạo đức “kitô” này không có giá trị gì. 

Dominique Wolton: Thật là ngạc nhiên khi nghe cha nói những điều này… Tôi muốn trở lại chủ đề các ngôn ngữ. Trên thế giới có một tỷ người nói các ngôn ngữ la-mã, có nghĩa là các ngôn ngữ từ tiếng la-tinh. Tiếng la-tinh là dạ cưu mang của một tỷ người. Đây là một sức mạnh phi thường, một sức mạnh sáng tạo chứ không phải là một ngôn ngữ chết của quá khứ… Vì sao Giáo hội không đánh giá cao di sản phong phú này? Mặt khác vì sao Giáo hội không long trọng nói sự đa dạng ngôn ngữ là vấn đề hòa bình và chiến tranh của ngày mai? Những căn tính này, đặc biệt là về ngôn ngữ học phải được bảo vệ để gìn giữ các nét đa dạng về văn hóa? Hơn nữa, công đồng Vatican II đã đi tiên phong trong hướng này. Công đồng đã hợp pháp hóa tất cả các ngôn ngữ bản xứ! Ngày nay, mọi người đều cầu nguyện với ngôn ngữ của mình. Đó là một tiến bộ đáng kể mà một trăm năm trước đây là chuyện không thể hình dung. Thật là một lực phi thường đối với thế giới công giáo, và nói một cách rộng là với kitô hữu!

Điều này mở ra một khoảng không gian khác so với tiếng Anh, Nga, Trung quốc. Nó đánh thức sự hiệp thông của một tỷ người Ý, người Pháp, Tây Ban Nha, Rumania… và năm trăm triệu người Châu Mỹ La Tinh. Bên cạnh đó, không phải chỉ là phương Tây. Trong truyền thông toàn cầu, Giáo hội công giáo, giản dị, không độc quyền, có thể nói các ngôn ngữ la-mã đại diện cho di sản của nhân loại, cho sự phong phú, cho nét đa dạng văn hóa đáng kể. Tóm gọn, với tiếng la-tinh, cha giữ một kho báu. 

Đức Phanxicô: Dạ cưu mang của một bà mẹ? Đó là bà cố!

Dominique Wolton: (Cười) Đúng. Âu châu đã là bà ngoại. 

Đức Phanxicô: Các ngôn ngữ sống đến từ cùng một người mẹ. Các ngôn ngữ vẫn còn sống và nó đi tới đàng trước.

Dominique Wolton: Đúng, nhưng biết rằng một phần lớn các ngôn ngữ sống này có gốc rễ la-tinh, là bao gồm cả một di sản.

Đức Phanxicô: Đúng, một di sản. Một di sản của gia đình. Nhưng tính phổ quát của Giáo Hội ngày nay giả định có thể nói với tất cả mọi người. Đó là cá tính của người mẹ. Cọng thêm. Không dừng lại. Giáo Hội phải lấy khía cạnh tốt trong tất cả mọi thứ. Không mất đi bản sắc riêng của mình, nhưng làm phong phú thêm. Không chận đứng lại. Và đây là trực giác của công đồng Vatican II. Nhưng những gì đã xảy ra sau đó? Sức nặng của tội, thói quen, lợi ích, ý thức hệ đã chấm dứt tất cả điều đó.

Dominique Wolton: Ngược lại, cái gì thế giới đã mang lại cho Giáo hội trong năm mươi năm qua?

Đức Phanxicô: Có rất nhiều thứ. Rất nhiều. Trong giao tiếp có rất nhiều chuyện tốt. Có những người làm việc trong lãnh vực truyền thông, họ đã học, không những về mặt kỹ thuật mà còn về chiều sâu của truyền thông. Và Giáo hội đã học ở họ. Ông nghĩ xem, khi tôi còn nhỏ, ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, có một nghi thức với 12 bài đọc bằng tiếng la-tinh. Dài vô tận. Chán như một ngày không có cơm ăn. Rồi chuông rung. Và các bà nội ngoại và các bà mẹ có con nhỏ ở nhà, họ sẽ làm gì? Họ mở vòi nước và họ rửa mắt. Để nước của Chúa Kitô rửa chúng ta. Cử chỉ này có tính cách giao tiếp hơn là buổi lễ kéo dài ba giờ.

Tôi còn một kinh nghiệm giao tiếp khác mà tôi không bao giờ quên. Ở nhà tôi có một bức tường, không cao lắm, giữa vườn nhà tôi và vườn bên cạnh. Các bà, mẹ tôi và các bà khác nói chuyện, thảo luận với nhau bên này bên kia, còn chúng tôi thì vui chơi. Tôi không bao giờ quên giây phút này. Đó là vào năm 1945. Bà láng giềng nghiêng mình phía bên kia tường: “Mẹ con ở đâu? – Mẹ con ở trong nhà. Con gọi mẹ con ra đây! – Mẹ ơi, mẹ ơi, có người gọi mẹ!” Và mẹ tôi đi ra, bà nói: “Có chuyện gì vậy? – Chiến tranh đã chấm dứt!”

Cử chỉ giao tiếp này tôi sẽ không bao giờ quên. Niềm vui của các bà không dính gì với tin này, vì các bà không có gia đình ở Âu châu-, nhưng các bà có niềm vui chuyền cho nhau tin vui, thông hiệp niềm vui với nhau qua một tin. Cử chỉ này tôi không bao giờ quên. Họ ôm nhau, họ khóc vì mừng: tôi còn nhớ như chuyện xảy ra hôm nay. Khi đó tôi 9 tuổi, 8 hoặc 9. Thật tuyệt vời!

Để truyền thông với nhau, chúng ta phải trở về với các cử chỉ nguyên sơ. Các cử chỉ, các lời nói nguyên sơ của truyền thông. Và từ đó, tái xây dựng một một truyền thông đã bị hệ thống hóa, bị tẩy trùng, chỉ còn kỹ thuật, một truyền thông không có sự sống.

Dominique Wolton: Ngày nay, với các kỹ thuật mới, máy vi tính, mạng xã hội, máy truyền thanh, máy truyền hình, đâu đâu cũng là truyền thông kỹ thuật. Vậy mà chưa bao giờ có nhiều hiểu lầm, hay đúng hơn, thế giới hóa của truyền thông không còn mang lại hòa bình.

Đức Phanxicô: Đúng vậy, nhưng vì nó thiếu một cái khác…

Dominique Wolton: Tôi cũng nói y như vậy… Tại sao Giáo hội lại không tích cực hơn, không phải để lên án, nhưng để mỉm cười với các thành tích kỹ thuật hấp dẫn này, nhưng lại có giới hạn? Mỉm cười với một chút châm biếm ý thức hệ kỹ thuật chăng?

Đức Phanxicô: Vì tôi nghĩ có một sự xấu hổ nào đó. Một mặc cảm chậm trễ nào đó. Đó là điều đáng tiếc với các chuyện mới: tất cả những gì mới đáng lý phải tốt. Nhưng lại không phải vậy…

Dominique Wolton: Tôi đồng ý. Giáo hội có mặc cảm này, than ôi, đó là mình không hiện đại, khi Giáo hội cho rằng chẳng ích gì để hiện đại. Nhất là trong lãnh vực truyền thông. Và nếu Giáo hội nói điều này một cách vui vẻ thì sẽ hữu ích, vì từ ba mươi năm nay, toàn thế giới quỳ gối trước ý thức hệ kỹ thuật và điều này sẽ còn kéo dài. Ngoài thông điệp về truyền thông, có thể có thêm ba vấn đề khác, về các thách thức chính trị của văn hóa đa dạng, về giáo dục và về địa vị của hiểu biết trong thế giới hóa. Ba lãnh vực mà các thách đố về mặt chính trị, văn hóa và nhân chủng học là rất quan trọng và kinh nghiệm của Giáo hội cho phép Giáo hội nói những điều chênh lệch và hữu ích…

Nhiều người nghĩ rằng lúc này, có một sự “chậm trễ” của Giáo hội trên ba vấn đề lớn về văn hóa đa dạng, về hiểu biết và về giao tiếp con người… Nhưng nghĩ kỹ, Giáo hội không chậm trễ, có khi còn đi trước! 

Đức Phanxicô: Đúng, nhưng tôi không biết làm thế nào để trả lời. Phải còn làm việc trên các vấn đề này.

Dominique Wolton: Giáo hội có kinh nghiệm vô cùng to lớn về giao tiếp con người, tích tụ từ bao nhiêu thế kỷ. Ngày nay, có một xung đột giữa truyền thông hiện đại với kỹ thuật, với tốc độ và với truyền thông Giáo hội, được đánh dấu bằng sự im lặng, bằng sự chậm chạp, bằng lời nói…

Đức Phanxicô: Cách đây khoảng bốn mươi năm, người Hà Lan có phát minh ra chữ “tốc độ” (rapidation), đó là sự tiến triển về mặt hình học của tốc độ. Tôi không nói là phải ngừng lại, nhưng ít nhất phải làm một cái gì đó ít lông bông hơn. Vào bàn ăn khi trẻ con đã ngồi vào bàn, cha xem truyền hình, mẹ làm chuyện khác, họ không nói chuyện với nhau. Tất cả như lông bông. Mỗi người giao tiếp… về đâu người ta cũng không biết. Chúng ta cần trao đổi một cách cụ thể hơn. Nó được thực hiện qua giao tiếp con người.

Bây giờ chúng ta nói về một cách truyền thông làm tôi cười – nó không bao gồm các kỹ thuật mới, các máy tính. Trong các bài điếu văn ở các tang lễ, ở nghĩa trang, người ta đọc điếu văn. Người ta nói “ông đã làm những chuyện này, ông đã làm những chuyện kia…”. Như bài hát của Mina, “lời, lời và lời”. Và đây là một ví dụ về truyền thông lông bông, không cụ thể. Gần với những người đang đau khổ vì mất người thân, đó là ôm họ, cầm tay họ, chạm vào họ, không lời. Một giao tiếp cụ thể. Tìm lại ý nghĩa của chạm vào. Giao tiếp toàn hảo được thực hiện qua chạm vào. Chạm vào là cách hay nhất để giao tiếp. 

Dominique Wolton: Tôi đã nói với cha, chúng tôi có làm một số trong tạp chí của tôi tháng 5, năm 2016 ở Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS) về năm ý nghĩa của truyền thông. Tôi nói y hệt như cha nói. Quan trọng là sờ vào, chạm vào, ngữi… ngược với nhìn và nghe.

Khi cha đi Thụy Điển trong ước mong xích lại gần nhau giữa người công giáo và người cải cách, nhật báo công giáo Pháp đã có một tựa đề rất hay: “Quá gần mà cũng quá xa”. Có phải đó là hình ảnh của đại kết? 

Đức Phanxicô: Đúng. Đừng sợ căng thẳng. Ở đây chúng ta nói về một sự căng thẳng. Làm thế nào giải quyết một căng thẳng? Ở một tầm mức cao.

Dominique Wolton: Đó là triết gia Đức Hegel, rằng…

Đức Phanxicô: Hegel làm một tổng hợp. Tôi nói một cái gì khác, tôi nói tổng hợp được làm trên một mặt bằng cao hơn cho cả hai bên. Và người ta thấy, mặt bằng cao vẫn giữ các gốc rễ của mình ở hai điểm ban đầu. Bởi vì cuộc sống luôn căng thẳng, cuộc sống không ở trong tổng hợp. Tổng hợp không thật sự sinh động. Căng thẳng, về phần nó là sinh động. Về thể lý, khi cơ thể mất sức căng thẳng của nó, giữa thăng bằng các chất lỏng và điện của tim, không khí của phổi, tất cả mọi thứ trở nên mất cân bằng.

Dominique Wolton: Trong vòng một thế kỷ, một trăm năm mươi năm, có rất nhiều tiến bộ trong truyền thông giữa con người – điều này độc lập với kỹ thuật: tự do, bình đẳng, bình đẳng giữa đàn ông đàn bà, trẻ con… Vì sao Giáo hội, người có kinh nghiệm đích thực về truyền thông, tỉ mỉ cho đến tận tu từ học (communicare, “chia sẻ”) lại không đi theo nhiều hơn trong các đấu tranh để có một truyền thông tự do hơn, đích thực hơn?

Đức Phanxicô: Có thể những gì ông nói là đúng. Nhưng cũng có nhiều truyền thông khác trong Giáo hội. Khi Giáo hội truyền thông tốt nhất là khi Giáo hội giao tiếp với người nghèo, người bệnh… Khi Giáo hội đi trên con đường Tám Mối Phước Thật.

Thật thú vị khi giao tiếp qua các việc làm của Tám Mối Phước Thật. Nếu ông đọc kỹ, thì đó cũng là các quy tắc để giao tiếp tốt hơn đó thôi.

Tôi sống một kinh nghiệm ở Buenos Aires, chúng tôi có một bệnh viện do các nữ tu người Đức săn sóc. Nhưng khổ thay cho các nữ tu này, Dòng của họ giảm nên họ phải rời bệnh viện. Một linh mục Đại Hàn nói với tôi, cha quen các nữ tu Đại Hàn, họ muốn đến đây. Và một vài nữ tu đã đến. Các nữ tu nói tiếng Tây Ban Nha như tôi nói tiếng Trung quốc: không một chữ! Họ đến ngày thứ hai, ngày thứ ba họ thu xếp công việc, ngày thứ tư họ xuống làm việc, không một chữ tiếng Tây Ban Nha. Nhưng các người bệnh rất bằng lòng. Tại sao? Vì các xơ biết giao tiếp bằng nụ cười, bằng mắt. Trên bình diện này, Giáo hội là bậc thầy truyền thông. Trước khi học ngôn ngữ, họ đã giao tiếp. Và đó là kinh nghiệm cụ thể. Ở đó có các công việc của lòng thương xót, lấy Tám Mối Phước Thật làm tiêu chuẩn, tôi nghĩ Giáo hội luôn đạt được một mức độ giao tiếp ngoại hạng. Nó thật sự đáng kể.

Và cũng đừng quên hai cột trụ của kitô giáo, của Giáo hội: Tám Mối Phước Thật và Phúc Âm Thánh Mát-thêu chương 25, trên những điều này mà chúng ta bị phán xét. Các việc làm của lòng thương xót.

Các cột trụ này – dù là Tám Mối Phước Thật hay chương 25 Phúc Âm Thánh Mát-thêu – đã làm cho Giáo hội vô địch trong lãnh vực giao tiếp. Khi ông nói, Giáo hội không giao tiếp là ông nói một Giáo hội của giới tinh hoa, của giới trí thức, của khép kín. Tôi không nói trí tuệ nhưng các nhà trí thức.

Dominique Wolton: Nếu chúng ta ở trong lịch sử lâu dài để giải phóng truyền thông, Giáo hội có thể dựa vào chương 25 của Phúc Âm Thánh Mát-thêu. Vì sao từ một thế kỷ nay Giáo hội không nói: “Chúng tôi vui vì con người cố gắng giao tiếp tốt hơn, đó là đường lối của chúng ta vì vậy chúng ta có tìm thấy lại được không?” Chắc chắn, cha không phải là người có trách nhiệm của lịch sử Giáo hội!

Đức Phanxicô: Đúng, khi chúng ta đọc một số văn bản của Giáo hội, các tài liệu nói sự thật, nhưng thật là chán. Chúng không có niềm vui, không có sự nhẹ nhàng của một giao tiếp đẹp.

Dominique Wolton: Đã rất lâu, Giáo hội không nói gì lớn chuyện về sự cực mạnh của kỹ thuật trong ngành truyền thông. Có thể vì Giáo hội không muốn bị xem mình như người “phản động” không?

Đức Phanxicô: Sự lo sợ bị xem như “phản động” có lẽ thật. Và không những trên điểm này. Đó là cám dỗ của Giáo hội ngày nay. Mình phải “hiện đại”. Muốn được hiện đại thì trẻ con phải tự giáo dục lấy một mình, 16 tuổi là có chìa khóa xe… Và đó là cám dỗ của ngày nay, và đúng vậy. Cám dỗ sợ mình không hiện đại. Điều này có thể dẫn đến những chuyện khủng khiếp.

Dominique Wolton: Chúng ta hãy lấy ví dụ của giáo dục. Thị trường toàn cầu lớn nhất của internet là thị trường giáo dục. Có nghĩa là khắp nơi đều có máy vi tính, có máy bảng, có hệ thống liên mạng, tất cả được cá nhân hóa. Người ta nói rằng, nếu một đứa bé 3 tuổi biết dùng máy, thì nó sẽ thông minh hơn, sẽ có lợi hơn cho nó… Giáo hội không độc quyền về giáo dục, nhưng Giáo hội có kinh nghiệm. Giáo hội không nói gì nhiều về sự cực mạnh về mặt kinh tế, tài chánh, văn hóa của các kỹ thuật này. Vì sợ đi ngược với ý thức hệ của tính hiện đại chăng? Chẳng hạn sự mất cân đối so với những gì Giáo hội nói về phong tục tập quán…

Đức Phanxicô: Tôi nghĩ Giáo hội đang thực hiện một số kinh nghiệm thú vị trong lãnh vực giáo dục. Khi tôi còn ở Buenos Aires, tôi có thành lập trường học của các láng giềng để tạo một nền giáo dục hỗ tương. Bây giờ trường này đã ở tầm mức toàn cầu, như một nơi gặp gỡ của các người trẻ trên toàn cầu. Ở Buenos Aires, với hệ thống “trường học của các láng giềng”, 24 luật được xây dựng từ các cuộc thảo luận với các người trẻ đã được nghị viện thành phố thông qua. Nhưng đó là những chuyện nhỏ. Tôi đồng ý với ông, hiệp ước giáo dục đã bị phá vỡ. Và Giáo hội phải là nhân vật chính để tái xây dựng lại tất cả những chuyện này.

Dominique Wolton: Đúng, bởi vì cho đến giờ phút này, đứng trước nạn độc tài của kỹ thuật, về mặt giáo dục cũng như các mặt khác, có một sự im lặng của tất cả. Đó là điều tôi quan tâm. Sự im lặng này. Vì sao Giáo hội góp phần vào sự im lặng này? Về đạo đức sinh học, về phong tục tập quán, Giáo hội biết làm thế nào để tiếng nói của mình được nghe! Nhưng về giáo dục, lãnh vực Giáo hội nắm giữ một chuyên môn đích thực, thì sao Giáo hội lại im lặng?

Đức Phanxicô: Một vài người nói như vậy. Một cách chính thức, tôi không biết trả lời sao. Nhưng tôi nghĩ mình phải nói.

Dominique Wolton: Điều này đụng đến giáo dục, đến hiểu biết, đến giao tiếp cá nhân. Nạn độc tài, đó là “Thần Tài”, cũng như tiền bạc. Ý thức hệ thế giới ngày nay, đó là các kỹ thuật truyền thông. Vì, cùng một lúc, đó là không tưởng của nhân văn, nhưng nhất là đó là kỹ nghệ kỹ thuật, tài chánh và chính trị đáng kể. Và không ai vội vã để chuẩn mực hóa. Mặt khác, trước đây, Giáo hội đã có nói một cái gì về giáo dục, về khoa học và ngay cả về việc làm… Bây giờ, Giáo hội ít nói hơn. Giống như chẳng có suy nghĩ gì đặc biệt về việc làm, giáo dục, khoa học, kỹ thuật và về văn hóa nói chung… 

Đức Phanxicô: Các đại học công giáo đang làm một công việc rất tốt đẹp. 

Dominique Wolton: Đúng, có thể. Nhưng có một khoảng trống. Về đạo đức sinh học, Giáo hội nói những gì mình nghĩ, nhưng về văn hóa, khoa học, kỹ thuật cũng như hóa học, hạt nhân, các quan hệ giữa khoa học, kỹ thuật và xã hội, người ta không có cảm tưởng hiện nay Giáo hội thật sự quan tâm đến các vấn đề này.

Đức Phanxicô: Ở các trường đại học thì có.

Dominique Wolton: Cái gì đã làm thay đổi trong quan hệ với Người Khác trong năm mươi năm vừa qua? 

Đức Phanxicô: Có một chữ đến trong trí tôi, nhưng tôi sợ bị lầm. Tất cả đã thay đổi, nhưng các nền tảng vẫn còn. Các phương thức của các quan hệ đã thay đổi. Nhưng các nền tảng không thay đổi. Nhưng nền tảng, yếu tố cần thiết, các yếu tố thực sự là một phần của con người thì không thay đổi. Nhu cầu giao tiếp không thay đổi dù có rất nhiều chuyện đã thay đổi.

Dominique Wolton: Tôi lấy một ví dụ. Các xã hội càng ngày càng đa văn hóa và Giáo hội, từ rất lâu đã dùng khái niệm huynh đệ. Làm thế nào di sản này có thể hữu ích để góp phần suy nghĩ về hòa bình trong xã hội đa văn hóa?

Đức Phanxicô: Điều này thường được thực hiện và được tiến triển tốt. Thử nghĩ một cái gì đó đang diễn ra từ hai mươi năm nay, dàn nhạc giao hường israel-palestin của nhạc trưởng Daniel Barenboim… người Argentina! (Cười). Cũng như các ngày Thế Giới Trẻ do Đức Gioan-Phaolô II thành lập năm 1986, đó là các trực giác của gặp gỡ. Ở những nơi đó, giới trẻ gặp nhau, các em nhìn một văn hóa khác, một cách suy nghĩ khác. Các em xây cầu. Kinh nghiệm của việc xây cầu, dù thoáng qua nhưng vẫn được ghi khắc lại. Ngày nay, đó là thời buổi của những cuộc gặp gỡ để nói về các luật của xã hội, của công ăn việc làm, mối quan hệ với y khoa… Có một nhu cầu của gặp gỡ, của kinh nghiệm chứ không phải chỉ để thực hiện các cuộc hội thảo khoa học. “Làm thế nào bạn làm cái này?” , “Tôi, tôi làm như vậy”… Cho. Rất, rất quan trọng. Thông qua các cuộc gặp gỡ, chúng ta có thể đi xa trên con đường truyền thông, vì có sự nhưng không, rất nhiều nhưng không trong các cuộc gặp gỡ này. Có một bầu khí khác. Cùng nghiên cứu làm thế nào để phát triển một cuộc gặp gỡ. Ngày đầu tiên, tất cả đều nghiêm túc. Tất cả đều có hình thức nghiêm túc này.

Sau đó, có một lời nói và cuối cùng họ nói: “Chào, hẹn gặp nhau lần sau, chào”. Dù có thể không bao giờ họ gặp nhau lại, nhưng trong ý thức của họ, họ có một kinh nghiệm không bao giờ phai mờ.

Dominique Wolton: Trong xã hội của tốc độ, của tiếng động, sức mạnh của Giáo hội vẫn là sự im lặng, sự chậm rãi, những cuộc hành hương, các đan viện. Tại sao không nói những chuyện này rõ hơn? 

Đức Phanxicô: Đúng. Ngày nay người ta nói nhiều đến tu sĩ Charles de Foucauld, các thánh của Giáo hội, các nữ tu dòng kín.

Dominique Wolton: Một câu hỏi xưa cổ về mối quan hệ với thế giới. Đạo công giáo là đạo của tình yêu và chia sẻ, tuy vậy, các linh mục lại phải từ bỏ thú vui thể xác, dục tính. 

Đức Phanxicô: Đó là tự nguyện từ bỏ. Trinh tính, dù của đàn ông hay đàn bà là một truyền thống tu viện có từ trước thời kỳ công giáo. Đó là cuộc tìm kiếm của con người: từ bỏ để đi tìm Chúa ở tận gốc, để chiêm ngắm. Nhưng một từ bỏ phải là một từ bỏ súc tích, giữ cho mình một loại súc tích khác súc tích xác thịt, súc tích tình dục. Ngay cả trong Giáo hội cũng có nhiều linh mục lập gia đình. Tất cả các linh mục giáo hội đông phương đều lập gia đình, và vẫn còn. Nhưng từ bỏ đám cưới để hiến mình cho nước Chúa là một giá trị tự chính nó. Điều này có nghĩa từ bỏ để phục vụ, để chiêm niệm tốt hơn. 

Dominique Wolton: Nghịch lý của Giáo hội công giáo là Giáo hội lên án chủ nghĩa tư bản, tiền bạc, các bất bình đẳng, nhưng các lời chỉ trích này ít được nghe. Mặt khác, về phong tục tập quán, Giáo hội biết làm cho các lời chỉ trích, lên án của mình được nghe… 

Đức Phanxicô: Những tội nhẹ nhất là tội của xác thịt.

Dominique Wolton: Đúng vậy, nhưng phải nói mạnh hơn, người ta chưa nghe đủ… 

Đức Phanxicô: Các tội của xác thịt không nhất thiết (luôn luôn) là các tội nặng nhất. Bởi vì xác thịt thì yếu đuối. Các tội nặng nhất là các tội của tinh thần. Tôi đã nói về thiên thần luận, thuyết chủ trương tuyệt đối tinh tuyền: kiêu ngạo, huyênh hoang là các tội thuộc thuyết thiên thần luận. Tôi hiểu câu hỏi của ông. Giáo hội là Giáo hội. Các linh mục thường có khuynh hướng – không phải tất cả, nhưng khá nhiều – tập trung trên các tội về dục tính. Đó là điều tôi đã nói với ông: cái mà tôi gọi là đạo đức dưới lưng quần. Các tội nặng nhất ở chỗ khác.

Dominique Wolton: Những gì cha nói thì chưa được nghe. 

Đức Phanxicô: Không, nhưng có các linh mục tốt… Tôi biết có một hồng y ở đây, cha là một ví dụ gương mẫu. Khi nói những chuyện này, cha nói với tôi, khi có người đến gặp cha và nói những tội dưới lưng quần, cha nói ngay: “Tôi hiểu, chúng ta nói qua chuyện khác”. Cha chận họ lại, như thử cha nói: “Tôi hiểu, nhưng anh có cái gì quan trọng để nói không?” . “Tôi không biết. – Nhưng anh có cầu nguyện không? Anh có tìm Chúa không? anh có đọc Phúc Âm không?”

Cha nói cho họ hiểu có những thất bại quan trọng hơn thế. Đúng… đó là một tội, nhưng… cha nói “tôi hiểu” và nói qua chuyện khác.

Ngược lại, có một vài cha giải tội, khi nghe xưng tội này đã hỏi: “Con đã phạm như thế nào, khi nào con phạm và phạm bao nhiêu lần?”… Và họ “quay cuốn phim” trong đầu họ. Những người đó, họ cần đi khám bác sĩ tâm thần.

Dominique Wolton: Đúng vậy. Có những “tội” nặng hơn tội xác thịt, nhưng những gì cha nói không ở trong truyền thống văn hóa…

Câu hỏi cuối cùng: Nhân đạo. Không có độc quyền trong nhân đạo. Ngày nay có một cơn khủng hoảng nhân đạo, chỉ vì kỹ thuật, kinh tế, tiền bạc… đã ăn tất cả. Vì sao Giáo hội không có một độc quyền nào về nhân đạo, Giáo hội lại thật sự có kinh nghiệm về vấn đề này thì lại không nói gì? Giáo hội là nguồn sinh lực giúp thế giới hân hoan lại.

Đức Phanxicô: Những thời buổi trong đó sứ vụ Giáo hội được hiểu nhất là những lúc Giáo hội tôn trọng nhân bản. Giáo hội tôn trọng nhân phẩm con người. Giáo hội không làm hạ nhân phẩm. Có hai hiểm nguy rất nặng chống nhân đạo, và có thể gọi đó là “dị giáo”: chủ thuyết duy tri, nhiều ít họ nói rằng tất cả là ý tưởng, là có từ thời các tông đồ, và chủ nghĩa lạc giáo pêlagiô, không cần ơn Chúa, mà người Pháp các ông là vô địch. Ông nghĩ đến Port-Royal và Pascal. Nhưng triết gia lớn Pascal, ông cũng gần như rơi vào thuyết lạc giáop pêlagiô, vậy mà ông là bậc thầy về tư tưởng và nhân văn. Chúng ta bây giờ ở trong thế giới lạc giáo pêlagiô và chủ thuyết duy tri, chủ thuyết loại bỏ xác thịt. Xác thịt. Tôi thách ông tìm được trong tác phẩm của văn hào Nga Dostoyevski một chi tiết nào của chủ thuyết lạc giáo pêlagiô hay chủ thuyết duy tri. Tôi nghĩ ông nên đọc sách của nhà thần học Romano Guardini về vũ trụ tôn giáo của Dostoyevski, một quyển sách rất hay.

Dominique Wolton: Từ Công đồng Vatican II, sức mạnh của Giáo hội là đảm đương căng thẳng giữa bản sắc ngôn ngữ và chủ nghĩa phổ quát. Thế mà bây giờ toàn cầu hóa là tiêu chuẩn hóa và hợp lý hóa. Vì vậy biến mất sự đa dạng của ngôn ngữ.

Đức Phanxicô: Đó là toàn cầu hóa, toàn cầu hóa dưới hình thức hình cầu. Thật tệ. Mặt khác, khía cạnh đa diện mà Giáo hội nói đến thì tốt hơn… 

Dominique Wolton: Trong các mâu thuẫn văn hóa toàn cầu, điều mà Giáo hội nắm giữ như một chuyên môn trong tương quan giữa ngôn ngữ và tính phổ quát là một di sản “phổ quát”. Các mâu thuẫn sẽ càng ngày càng có tính cách văn hóa, hung bạo và ngôn ngữ học chống lại các hành vi sai trái của toàn cầu hóa, làm hạ xuống chỉ còn là kinh tế tiền mặt.

Đức Phanxicô: Có thể…

Dominique Wolton: Xin cám ơn cha! (cười) Vậy thì tôi sẽ không bị lửa hỏa ngục thiêu ngay?

Marta An Nguyễn dịch

 

Trích sách “Chính trị và Xã hội“, Dominique Wolton và Đức Phanxicô, Nxb. L’Observatoira, 2017. Chương 5.

Xin đọc: “Không dễ, không dễ…”

Hòa bình và chiến tranh   

Âu châu và văn hóa đa dạng 

Văn hóa và truyền thông

 

Thượng hội đồng giới trẻ với 5 vấn đề được đặt ra

Thượng hội đồng giới trẻ với 5 vấn đề được đặt ra

lavie.fr, Marie-Lucile Kubacki, 2018-09-27

Từ 3 đến 28 tháng 10, các giám mục và các chuyên gia trên thế giới về họp ở Rôma. Với một thách đố cho Giáo hội, thượng hội đồng phải đối diện với các vấn đề gai góc.

Được loan báo cách đây hai năm, thượng hội đồng giám mục về “giới trẻ, đức tin và phân định ơn gọi” có vẻ không phải là sự kiện được chạy tít lớn, dù Vatican cố gắng để bên ngoài Giáo hội biết đến nhiều hơn – chẳng hạn qua các câu hỏi trên Internet gởi đến tất cả các bạn trẻ, công giáo hay không, thêm nữa, có một bạn trẻ vô thần Pháp đại diện trong số năm chứng nhân trong kỳ họp tiền thượng hội đồng vào tháng 3-2018 vừa qua. Tuy vậy cũng rất khó để vận động các bạn trẻ ngoài vòng quen thuộc.

  1. Cơn khủng hoảng tình dục có tác động trên thượng hội đồng không?

Từ khi cơn khủng hoảng lạm dụng đánh thức sự chú ý của giới truyền thông thì tình hình đã thay đổi. Trọng tâm cơn địa chấn hiện nay là ở Mỹ, –  khi bản báo cáo của Bồi thẩm đoàn Pennsylvania được công bố vào mùa hè vừa qua, đưa ra các vụ lạm dụng trên một ngàn trẻ em, rồi vụ tai tiếng của hồng y McCarrick -, thì vào đầu tháng 9, Tổng Giám mục giáo phận Philadelphia, Charles Chaput trong một bức thư gởi Đức Giáo hoàng đã đề nghị hủy thượng hội đồng này. Trong một buổi họp báo, ngài tuyên bố: “Hiện nay, các giám mục không có một uy tín nào để nói về chủ đề này.” Thay vào đó, ngài xin có một suy tư về đời sống của các giám mục. Tuy đề nghị của ngài không được nghe, nhưng cũng đủ để có một ý tưởng về trạng thái tinh thần các giám mục hiện nay, nhất là các giám mục ở Mỹ tiếp cận với sự kiện này, cũng như có nguy cơ áp lực của giới truyền thông tác động trên họ.

  1. Thượng hội đồng có nói về giới tính?

Trong một buổi phỏng vấn đầu năm nay với nhật báo tiếng Tây Ban Nha Vida Nueva, Đức Hồng y Lorenzo Baldisseri, tổng thư ký thượng hội đồng giải thích: “Giới tính sẽ không là chủ đề trọng tâm, nếu không, các ký giả sẽ chỉ tập trung vào chủ đề này như trong lần thượng hội đồng gia đình, họ chỉ để ý đến vấn đề của những người ly dị.” Một quan điểm không được các bạn trẻ tham dự tiền thượng hội đồng ở Vatican vào tháng 3 vừa qua đồng ý. Trong tài liệu tổng hợp các trao đổi, họ nhấn mạnh mong muốn Giáo hội đào sâu một vài vấn đề.

Yêu cầu của họ gồm ba điểm đặc biệt: có một lời “về cơn khủng hoảng chung về khiêu dâm, kể cả việc bảo vệ trẻ vị thành niên trên Internet, và (…) về các tác động của chuyện này đối với nhân loại chúng ta”, “các người có trách nhiệm trong Giáo hội đề cập (…) một cách cụ thể các chủ đề nhạy cảm như đồng tính và các vấn đề về ‘giới’” và củng cố sự không khoan nhượng trong việc chống các vụ lạm dụng tình dục. Tình hình thời sự đã mang lại tính khẩn cấp cho các yêu cầu này.

Xác định mức độ trưởng thành tình cảm trong việc phân định ơn gọi, trên các bản văn của Giáo hội về các người trẻ đồng tính nói chung và đặc biệt với những người có ơn gọi đi tu, làm linh mục… các vấn đề rạn nứt có vẻ như bây giờ khó lẫn tránh trong thượng hội đồng này. 

  1. Đâu là các vấn đề quan trọng khác?

Tài liệu làm việc sẽ được dùng để hỗ trợ cho công việc của các giám mục và đã được triển khai từ các quan sát của các bạn trẻ trên một số chủ đề. Trong số này có các chủ đề lớn: tương quan với toàn cầu hóa, vai trò của gia đình, tương quan liên thế hệ, chọn lựa cuộc sống, đời sống ở trường học, ở đại học, việc làm, tương quan với các người trẻ của các tôn giáo khác, dấn thân trong xã hội, thiêng liêng và lòng mộ đạo, kỹ thuật số, thể thao, người di dân, bệnh tật, tương quan với sự thật, thất vọng với thể chế, trưởng thành trong đức tin, tháp tùng thiêng liêng, sự thánh thiện, phân định ơn gọi cho tu sĩ, cho giáo dân… v.v.

Tháng 3 vừa qua, các bạn trẻ đã đề cập đến tầm quan trọng các hình ảnh gương mẫu trong việc trưởng thành khi có các chọn lựa trong cuộc sống. Điều này đặt vấn đề nhận thức các khác biệt về ơn gọi trong Giáo hội, nhất là các cha mẹ, để họ suy nghĩ về ơn gọi của các nam nữ tu sĩ và giáo dân. 

  1. Sẽ có các người trẻ trong thượng hội đồng giám mục này không?

Ở thượng hội đồng về gia đình, một số quan sát viên (trong đó có bà Lucetta Scaraffia, chủ bút phụ trương Phụ nữ, Giáo hội, Thế giới của báo Osservatore Romano, nhật báo của Vatican) than phiền thiếu sự hiện diện của phụ nữ và giáo dân trong phòng họp thượng hội đồng và trong các trao đổi, vấn đề này lại được đặt ra cho thượng hội đồng giới trẻ lần này. Đức Phanxicô luôn nhấn mạnh ngài mong có một thượng hội đồng “của” người trẻ hơn là thượng hội đồng “về” người trẻ. Một mong muốn ngược với bản chất của thượng hội đồng các giám mục, vì như tên đã được chỉ định, thượng hội đồng chỉ gồm… các giám mục, dù họ là mục tử phải đại diện nói lên lời của Chúa cho giáo dân.

Nhưng từ khi được Đức Phaolô-VI thành lập, cơ cấu thượng hội đồng đã được cố định. Từ khi được bầu chọn, trong mục đích lắng nghe tiếng nói của giáo dân, Đức Phanxicô đã mang lại một số thay đổi đáng kể. Vào giữa tháng 9, ngài đã công bố một hiến chế mới về thượng hội đồng, trong đó nhấn mạnh đến công việc cần phải tham khảo trước, dưới hình thức các câu hỏi, các buổi họp chuẩn bị, các thượng hội đồng vùng… Một giai đoạn làm việc để đưa ra các khó khăn, với sự tham dự của giáo dân, giúp họ quan tâm đến các kết quả cuối cùng. Chính trong quan điểm này mà Đức Phanxicô đã mời các bạn trẻ về Vatican vào tháng 3 vừa qua. Lần này họ sẽ có mặt đông hơn trong phòng họp và như thế các nhận xét của họ sẽ được chú ý, và khả năng các nghị phụ sẽ có các lời “với” họ chứ không phải “về” họ.

  1. Liệu hội đồng có được nghe thấy ngoài các vấn đề ở phương Tây không?

Khuynh hướng bình thường cho những ai quan tâm đến thượng hội đồng, là chỉ chăm chú vào các đề xuất cuối cùng dính đến đất nước của họ hay các tình trạng đặc biệt… Vì thế, Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle, tổng giám mục Manila đã lấy làm tiếc sau thượng hội đồng về gia đình, vai trò lãnh đạo của phương tiện truyền thông phương Tây đã đặt kính lúp vào các vấn đề của phương Tây – người ly dị tái hôn -, xa với thực tế của các vùng khác – chế độ đa thê hoặc gia đình bị phá vỡ vì nạn nghèo đói .

Một dấu chỉ báo trước, nếu có người Âu châu trong số các nghị phụ và các chuyên gia thì sẽ có bốn chủ tịch thượng hội đồng được chọn là hồng y Sako, thượng phụ người Chaldea (Irak), hồng y Tsarahazana (Madagascar), hồng y Maung Bo (Miến Điện) và hồng y Ribat (Papua Tân Guinea). Như thế là giải trung tâm các vấn đề và cho thấy đây là thượng hội đồng của giới trẻ chứ không phải thượng hội đồng của người trẻ phương Tây, Mỹ hay châu Âu.

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc: “Chúng tôi cần những gương mẫu xác thực” 

Tài liệu cuối cùng của các người trẻ là “kim chỉ nam” cho Thượng Hội đồng Giám mục tháng 10 sắp tới

François Huguenin: “Không phải vì một linh mục tự tử mà linh mục đó không còn tin nữa”

François Huguenin: “Không phải vì một linh mục tự tử mà linh mục đó không còn tin nữa”

lacroix.com, Céline Hoyeau, 2018-09-26

Theo nhà khảo luận và sử gia François Huguenin, việc linh mục Jean-Baptiste Sèbe tự tử làm giao động người công giáo Pháp, họ rất nhạy cảm với tình nhân đạo và sự mong manh của các linh mục.

Báo Thập giá đặt câu hỏi với nhà khảo luận François Huguenin.

Việc linh mục Jean-Baptiste Sèbe tự tử đã gây xúc động cho tín hữu công giáo Pháp rất nhiều, vượt ra ngoài giáo xứ của cha. Ông giải thích như thế nào về việc này?

François Huguenin: Theo tôi thì việc này có hai mặt. Một mặt là tâm lý, vụ tự tử này đã tạo nơi người công giáo một lòng thương cảm chân thành dành cho hình ảnh linh mục, có thể vì ngày hôm nay hình ảnh này bị nứt rạn, bị chao đảo do các vụ tai tiếng tình dục và với bài diễn văn tố cáo nạn giáo quyền của Đức Phanxicô. Họ có thể chỉ trích nạn giáo quyền, họ giận – và họ có lý – với các linh mục đã làm những hành vi kinh khủng, nhưng họ cũng biết nhận định để thấy các linh mục là những người hy sinh đời sống của mình, họ biểu lộ tình thương của mình vào thời điểm cực kỳ mong manh này.

Mặt kia là mặt siêu nhiên, việc một linh mục tự tử là rất hiếm và rất bi thảm. Mọi tự tử đều bi thảm, nhưng ở đây lại còn bi thảm hơn vì một cách tiêu biểu, linh mục là người có sứ mạng rao giảng hy vọng của sự chiến thắng tuyệt đối của Chúa Kitô trên cái chết…

… Mà lại ở trong tình trạng tuyệt vọng?

Chúng ta đừng lầm thất vọng và tuyệt vọng. Tôi nghĩ, trong một vài hoàn cảnh của cuộc sống, một người, dù người đó là người thánh thiện nhất cũng có thể bị thất vọng, bị lâm vào cảnh cùng khốn, bị đứng trước bức tường. Tự tử là tiếng kêu cứu, là cho thấy cuộc sống mình đang sống là không thể, nhưng không phải vì thế mà tuyệt vọng. Nói cách khác, không phải vì một linh mục tự tử mà linh mục đó không còn tin nữa, bỏ mọi hy vọng vào sự chiến thắng tối hậu của sự sống. Đó sẽ là phán xét vào cõi nội tâm chứ không phải khẳng định, và không ai có thể cho phép mình làm chuyện này.

Theo ông, vụ tự tử này có phải là kết quả tai ác của bầu khí nghi ngờ mà một vài linh mục tố cáo?

Tôi không muốn đi vào sâu hơn vì tôi không biết lý do tại sao linh mục Sèbe tự tử và cũng không ai biết được. Linh mục đã có làm một hành vi không đúng với một cô gái trẻ và đã nói với giám mục của mình, trong bầu khí hiện tại… Đúng, tất cả chuyện này có thể có tác động, làm cho tình trạng trở thành mong manh, nhưng ai có thể khẳng định đây là lý do, là yếu tố quyết định để tự tử? Thường thường chúng ta muốn cố gắng tìm hiểu, muốn phân tích nhưng đứng trước một cái chết tự ý, chúng ta phải cực kỳ tế nhị.

Đặt hành vi này vào bầu khí nghi ngờ thì hơi dễ dàng. Tôi không thoải mái mấy với hình thức bảo vệ thể chế một cách vụng về. Đứng trước một hành vi tận căn như vậy, câu trả lời duy nhất là thập giá Chúa Kitô. Chúng ta chỉ có thể cầu nguyện. Phần còn lại chỉ là những lời bàn tán.

Việc này có dẫn đến đến việc phải suy nghĩ nhiều hơn về việc tháp tùng về mặt tâm lý cho các linh mục không?

Có, nhưng cần phải phân biệt rõ việc đào tạo các linh mục, nhất là về mặt tâm lý – với các quan hệ tình cảm – một vấn đề được đặt ra từ lâu và bao gồm tất cả. Đó là một vấn đề thực sự, nhưng nó đã bị mất tương liên trong vụ tự tử của linh mục Sèbe. Điều này được đặt ra, tôi nghĩ, đến một lúc nào đó trong cuộc đời, cũng như với giáo dân, các linh mục cũng nên đi tư vấn ở tâm lý gia để làm việc về những vấn đề được đặt ra cho tất cả mọi người.

Đây là một đòi hỏi của cuộc sống để lớn lên trong tính nhân văn của mình, để có thể giữ ơn gọi của mình dù mình là giáo dân, là người cha gia đình hay người linh mục. Điều này cực kỳ quan trọng nhất là khi chúng ta ở địa vị mang trách nhiệm, mà các linh mục là những người này.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: Ở Rouen, lời cầu nguyện của tín hữu mồ côi cha Sèbe

Các linh mục trong cơn bão tápLinh mục Jean-Baptiste Sèbe

Erik Salobir: “Trí thông minh nhân tạo có thể là cơ hội để tăng cường lợi ích chung”

Erik Salobir: “Trí thông minh nhân tạo có thể là cơ hội để tăng cường lợi ích chung”

lavie.fr, Isabelle Francq và Yoann Labroux-Satabin, 2018-09-26

Từ Vatican đến Thung lũng Silicon, tu sĩ Dòng Đa Minh Ezric Salobir tìm cách thúc để đẩy đối thoại giữa những người ủng hộ trí thông minh nhân tạo (AI) và Giáo hội. Sự tiến bộ nhanh chóng của một huyền thoại cực mạnh Prometheus, người biết trước tương lai.

Từ xe hơi tự động cho đến người cần trợ giúp, từ các chẩn đoán y khoa trị lệu đến các trò chơi video thần kỳ, đến các mạng hướng dẫn Parcoursup gây tranh luận: trí tuệ nhân tạo can thiệp gần như ở khắp mọi nơi. Chữ “gần như” còn treo đó. Với một số người, trí tuệ nhân tạo là “Cách mạng”, với một số khác là “huyền thoại vĩ đại về thời đại của chúng ta”, trí thông minh nhân tạo đặt câu hỏi cho mỗi chúng ta về quan hệ của nó với kỹ thuật công nghệ, thậm chí … với tính nhân loại của nó! Linh mục Éric Salobir là người đứng đầu mạng Optic (Dòng của những người rao giảng cho kỹ thuật, thông tin, truyền thông, Ordre des prêcheurs pour les technologies, l’information et la communication) do sáng kiến của Dòng Đa Minh, linh mục Salobir được thuyết phục: Giáo hội và tín hữu kitô không thể tỏ ra xa lạ với các kỹ thuật mới này vì Giáo hội có sứ điệp mang đến cho các nhà công nghệ, những người có nhiều khả năng lắng nghe chứ không như chúng ta nghĩ. Linh mục Salobir có nhiều ‘móc nối’ ở Thung lũng Silicon. Chúng tôi gặp linh mục ở văn phòng của cha tại Nhà Dòng Truyền Tin, quận 8, Paris, nhà Dòng có kiến trúc vừa truyền thống vừa hiện đại, đá bên cạnh kiếng. Tất cả là một biểu tượng. 

Cha nói đến trí thông minh nhân tạo như một “công nghệ đột phá”, theo cha điều này có nghĩa là gì?

Trí thông minh nhân tạo mở một kẽ hở ra trong nhiều lãnh vực, đổi mới một cách sâu đậm luật chơi. Thuật ngữ tiếng Anh là “công nghệ đột phá” (disruptive technology) có nghĩa là một công nghệ làm xáo trộn, làm phiền phức. Trong trường hợp của trí thông minh nhân tạo, nó theo dõi không những cách chúng ta làm việc, nhưng còn theo dõi những gì chúng ta làm. Đó là hình thức “sáng tạo phá hủy”, lấy lại những chữ của kinh tế gia Schumpeter: một số hoạt động biến mất, một số khác xuất hiện. Nhưng thường là chúng ta chỉ biết những gì mình đã bị lấy mất, nhưng không để ý tới những gì mình được, nên dẫn đến sự lo lắng và gạt bỏ nó. Do đó nó được gọi là nhân tạo nhưng chưa thật sự là thông minh. Sự lạm dụng thuật ngữ này lại có lợi ích trong thực tế, chưa có một chuyên gia nào trên thực tế cho rằng máy móc “thông minh” đã có sẵn. Thà nói “học việc sâu” : các kỹ thuật này nắm rất vững mọi thứ từ việc lặp đi lặp lại, công nhận, thống kê. Chúng rất mạnh nhưng vẫn còn thiếu loại thông minh mà chúng ta gọi là “hợp lý.”

Vì sao bây giờ trí thông minh nhân tạo bùng ra và điều này có ý nghĩa gì với chúng ta?

Trên hết, trí thông minh nhân tạo đã trải qua một sự tăng tốc đột ngột bởi vì bây giờ chúng ta có thể thu thập hết tất cả khả năng gom lại – qua công cụ tìm kiếm, mạng xã hội hoặc lưu trữ vào máy – các khối lượng lớn dữ liệu cần thiết cho hoạt động của nó. Nhưng một công nghệ chỉ phù được với xã hội trong chừng mực nó tương ứng với nhu cầu. Nếu tạo nên những người phục vụ (robot là từ tiếng Tiệp robota ‘công việc phục dịch’) đáp ứng cho giấc mơ lâu đời của nhân loại theo hình ảnh golem (theo truyền thuyết Do thái, Golem là tên của con quái vật làm từ bùn giống con người nhưng khỏe hơn con người), thì nó cũng là một cách để trấn an cho tình trạng riêng của mình. Nhưng chúng ta đang trong giai đoạn không chắc chắn, ít nhất là ở phía bắc phương Tây, nơi mà các cá nhân đặt câu hỏi về căn tính của họ. Nhiều rào cản xã hội bị rơi xuống, và người ta tự hỏi về thế nào là con người. Vừa hình thành một mối lo mới (con người thích sợ hãi): điều gì sẽ xảy ra khi máy nói ‘không’? Chính nỗi sợ này đáp ứng cho các luật được tưởng tượng ra bởi nhà văn khoa học giả tưởng Isaac Asimov, loại Các Bàn của Luật máy móc!”

Mặc dù, trong thực tế, khả năng nhận biết của cái gọi là máy thông minh vẫn còn kém xa so với khả năng hiểu biết của một đứa trẻ, việc thiết kế các hệ thống như thế này vượt lên tình trạng tạo vật của chúng ta để đến lượt chúng ta, chúng ta là người tạo dựng. Nhưng hành vi sáng chế là một phần của bản chất con người, mà nhiều người quên khi chống một cách có hệ thống bản chất nhân tạo. Không những công nghệ này giống chúng ta (nó chỉ là những gì chúng ta muốn), nhưng nó giống chúng ta khi xây dựng kỹ thuật. Chính vì điều đó, nó cũng là hình ảnh của một Thiên Chúa sáng tạo.

Điều này giống như chúng ta xây dựng công nghệ. Và cũng chính điều này là giống hình ảnh một Thiên Chúa sáng tạo. 

Như thế hiểm nguy không phải về phía máy, mà về phía con người?

Nguy cơ là rơi vào ngạo mạn, rơi vào thái quá. Nó không những chỉ ở phía các nhà phát triển các công nghệ này, mà còn ở phía người dùng, họ có thể có ấn tượng toàn năng nhờ vào kỹ thuật này. Giấc mơ toàn năng này là mầm mống của các vỡ mộng, và còn có nguy cơ “tự cho mình là Chúa”, chắc chắn nó có nhiều ở đây hơn là ở việc tạo ra các cỗ máy nhân tạo. Từ quan điểm này, khoa học giả tưởng phục vụ chúng ta, vì nó cho phép chúng ta khám phá miễn phí một số nguy cơ nào đó, và từ đó giúp chúng ta lãnh hội chúng. Đây là, ví dụ trường hợp của bộ phim Ex Machina (của Alex Garland, 2015), đặt chúng ta đối đầu với một trí thông minh nhân tạo cực kỳ thực tế.

 Trí thông minh nhân tạo có thể ảnh hưởng như thế nào đến tính xã hội của chúng ta, mối quan hệ của chúng ta với người khác, hoặc thậm chí là sống chung với nhau?

Một phần đây là những công nghệ hòa giải, chủ yếu khuyến khích giao tiếp qua trung gian giao tiếp tức thời. Như thế cả hai đều bổ sung cho nhau. Giao tiếp trung gian là mở kẽ hở; nó đến để lấp đầy chỗ trống trong giao tiếp. Chẳng hạn khi tôi ở xa người thân, tôi đăng hình lên. Như bất cứ một công nghệ mới nào, nguy cơ nằm ở độ lệch của nó. Một số vụ bê bối gần đây đã cho thấy tác động mạnh mẽ của việc dùng sai các mạng xã hội về việc hoạt động đúng đắn cho dân chủ. Nhưng nếu chúng ta có phương tiện, trí thông minh nhân tạo có thể là cơ hội để tăng cường lợi ích chung. Điều quan trọng là giữ cho xã hội “trong vòng”. Một số người nghĩ rằng việc thay thế người bằng máy thì chỉ như thay đổi một cấu trúc trong dây chuyền. Nhưng nó còn hơn thế nữa!

Chẳng hạn lấy ví dụ về luật pháp, con người thực hiện công lý nhân quả: bạn phạm một hành vi bất hợp pháp, bạn bị xử phạt. Máy tính mang công bằng của sự tương quan: các biện pháp cưỡng chế có thể áp đặt nếu bạn chỉ ở giai đoạn có ý định, hoặc tệ hơn, vì bạn thuộc về một nhóm các cá nhân mà theo thống kê, có nhiều khả năng hành động hơn. Giữa hai bên, sống cùng nhau có thể bị ảnh hưởng. Từ đó, một tiêu chỉ đạo đức tốt là hỏi xem công nghệ phát triển có giúp chúng ta nhân văn hơn khi sống chung với nhau hay không.

Một cách cá nhân, làm thế nào trí thông minh nhân tạo đưa chúng ta suy nghĩ lại một cách nhân văn không? Có hiểm nguy nào giảm thiểu để chỉ còn thấy con người chỉ là một tinh thần trong cái hộp không?

Con người được xác định, giữa các yếu tố khác, qua cách nhận thức những gì xung quanh nó. Giảm thiểu con người là loại bỏ tất cả những gì không thể mô hình hóa trên quan điểm toán học. Trong trường hợp này, mọi thứ được dự đoán và mọi thứ đều được giải quyết. Về lâu dài, nguy hiểm là sống trong một xã hội mà con người không còn chịu đựng một rủi ro nhỏ nào và xem mọi chuyện phải được lên kế hoạch. Thêm nữa, con người có nguy cơ giao phó cho máy khả năng gánh vác trách nhiệm của mình, và, mặt khác, là chờ đợi sự siêu trách nhiệm hóa nơi người khác.

Các vấn đề mà trí thông minh nhân tạo có thể đặt ra không đến từ công nghệ mà từ cách con người sử dụng nó.

Vậy, để mượn từ vựng của ngành phân tâm học, con người trở thành con người hơn khi con người đau buồn cho sự toàn năng ấu trĩ, như khi chúng ta đô hộ người nô lệ để phục vụ chúng ta, và chấp nhận các nỗ lực đó đôi khi cần thiết. Và trên tất cả, ngày mà người ta nhận trách nhiệm của mình: đó là điều mà bài thơ tuyệt vời của Rudyard Kipling, bài Con sẽ là một người, con trai cha (1910). Một số cách sử dụng trí thông minh nhân tạo làm cho chúng ta trở thành người không có trách nhiệm, từ đó đụng vào tính nhân văn của chúng ta. Nhưng chúng ta đừng để bị lừa: các vấn đề mà trí thông minh nhân tạo có thể đặt ra không đến từ công nghệ mà đến từ cách con người chấp nhận và sử dụng nó. Và đây là một hình thức trách nhiệm: chúng ta phải là con người trọn vẹn, để máy là máy trọn vẹn. 

Có phải ở đây là trách nhiệm của chính trị không?

Theo nghĩa này, báo cáo được nhà toán học nghị viên Cédric Villani gởi lên Tổng thống Pháp vào tháng 3 năm 2018 là đáng khích lệ. Bởi vì nếu ban đầu, nhiệm vụ của nó có vẻ như định hướng kinh doanh, nhưng văn bản cuối cùng tranh luận về “một trí thông minh nhân tạo phục vụ cho con người”: đó là một chuyển động rất tích cực. Vẫn còn xem liệu ý kiến công chúng sẽ cho phép chính trị hướng dẫn các dự án này không, cho một số ngành chuyên sâu như cải cách giáo dục, biến đổi thị trường lao động … Bởi vì chúng sẽ thực sự thích đáng nếu làm đến nơi đến chốn. 

Đâu là tiếng nói của Giáo hội? Các tín hữu kitô có trách nhiệm đặc biệt nào không?

Giáo hội có kinh nghiệm, một kinh nghiệm sống, đó là kho báu để chia sẻ từ quan điểm nhân loại học. Đối diện với nhiều loại nhân chủng học lắp ráp, hoặc ngắt kết nối tinh thần khỏi thể xác, trong đó chúng ta sẵn sàng bỏ đi một phần nhân văn của mình, Giáo hội thực sự am tường về những gì là con người. Giáo hội đã trải qua đủ trạng huống và văn hóa khác nhau, để có thể nói đâu là các nền tảng chung của  nhân loại và đưa ra các giới hạn không được vượt qua. Nhưng còn hơn là việc cung cấp các câu trả lời, Giáo hội có thể chất vấn theo một cách khác, nên Giáo hội có thể nói chuyện với các nhà phát triển công nghệ cũng như với người tiêu người dùng, chính trị gia và nhà quản lý. Thay vì đưa ra các văn bản có thể nhanh chóng bị lỗi thời do các tiến bộ kỹ thuật, con đường ưu tiên của tôi là đối thoại. Đây là những gì chúng tôi đang cố gắng làm qua mạng Optic, khi cá cược với các lãnh vực liên ngành khác nhau. Giáo hội không những chỉ mang lại rất nhiều, nhưng Giáo hội còn học hỏi ở đó. Có một sự khẩn thiết để đào tạo, không quá nhiều với các công nghệ này, nhưng đặc biệt là tương tác với chúng. Một số nhân viên chung quanh Đức Phanxicô và cả chính ngài đều hiểu rằng trí thông minh nhân tạo là chủ đề chính. Đức Phanxicô là người rất được lắng nghe. Thật đáng ngạc nhiên khi thấy uy quyền đạo đức của ngài có tác động trên các nhà ra quyết định cấp cao nhất, những người thường gặp gỡ các nguyên thủ quốc gia và những người lãnh đạo ý kiến quần chúng. Các công ty ở Thung lũng Silicon lắng nghe nhiều hơn là chúng tôi nghĩ: có những tương tác có thể có, chỉ cần chúng ta kích động họ.

Cha có nghĩ Giáo hội có thể giúp xây dựng tầm nhìn châu Âu về trí thông minh nhân tạo, một lãnh vực cần phát triển không?

Giáo hội đã phát triển một tầm nhìn đặc biệt về nhân văn của mình, tương tác với triết học lục địa. Do đó, Giáo hội được trang bị một thiết bị khái niệm có thể giúp các nhà phát triển trí thông minh nhân tạo, đặc biệt là những người mong khám phá các con đường khác hơn là các con đường vay mượn của các nhân vật chính hiện nay như Trung quốc và Hoa Kỳ. Châu Âu có thể dựa vào nền tảng này để phát triển các giải pháp kỹ thuật đáp ứng cho các mong chờ của mình. Là một thể chế, Giáo hội góp phần vào việc tranh luận, nhưng Giáo hội cũng là một dân tộc của các tín hữu. Mỗi kitô hữu đều được kêu gọi để nắm lấy chủ đề này, một chủ đề có tác động trên nền kinh tế và xã hội của chúng ta rất mạnh. Là người tiêu dùng và cũng là công dân, cũng như trong công việc của mình, người tín hữu có thể mang đến dấu ấn của mình. Như vậy, có thể mở một con đường thực dụng cho những người xấu miệng gào lên đây là chuyện bi thảm hay những người ngây thơ nghĩ mọi chuyện rồi sẽ xảy ra tốt đẹp. 

Linh mục Éric Salobir: Cựu giám đốc ngân hàng, vào Dòng Đa Minh năm 2000, người đam mê vi tính, cha đã thành lập mạng Optic, một nhóm chuyên gia suy nghĩ về đạo đức công nghệ mới. Linh mục là nhà tư vấn cho Vatican.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: “Trí thông minh nhân tạo sẽ biến đổi một số lớn nghề”

Trang nhất báo New Yorker đặt câu hỏi về tương lai Con Người

Ở Rouen, lời cầu nguyện của tín hữu mồ côi cha Sèbe

Ở Rouen, lời cầu nguyện của tín hữu mồ côi cha Sèbe

la-croix.com, Gauthier Vaillant (Rouen), 2018-09-27

Ngày thứ tư 26 tháng 9, trước ngày tang lễ của linh mục Jean-Baptiste Sèbe (27-9), một buổi canh thức đã được tổ chức để cầu nguyện cho linh mục Sèbe tại nhà thờ Saint Romain (Rien), nơi sẽ cử hành tang lễ của linh mục Sèbe, 38 tuổi tự tử ngày 18 tháng 9-2018.

Tối thứ tư 20 h 15, một hàng dài giáo dân đứng tràn cả bên ngoài nhà thờ Saint Romain, cách nhà ga Rouen (Seine-Maritime) hai bước. Chính tại đây là nơi linh mục  Jean-Baptiste Sèbe đã tự tử. Chiều thứ tư 26-9, hàng trăm tín hữu đã đến cầu nguyện cho linh mục Sèbe. Giáo dân đủ mọi thành phần, đủ mọi lứa tuổi quy tụ về đây. Các gia đình mang theo em bé, các cặp vợ chồng trẻ, các người lớn tuổi, nhiều hướng đạo sinh mặc đồng phục, nhiều linh mục. Từ sau cái chết của linh mục Sèbe, rất nhiều người làm chứng cho vị linh mục có nhiều tài năng và được mọi người mến chuộng này.

“Từ thứ ba, chúng tôi vừa buồn vừa hy vọng”

Quan tài của linh mục đã ở đó, chỉ cách bàn thờ vài mét. Quan tài đóng, gỗ nhạt cùng màu với sàn nhà. Một ít lâu sau, các em bé trong giáo xứ đến đặt nến chung quanh quan tài. Buổi canh thức bắt đầu lúc 20 h 30, với lời nói đơn giản: “Chúng ta cùng ở đây với nhau để tưởng nhớ linh mục Jean-Baptiste.”

Suốt buổi canh thức, nhiều người thay phiên nhau nói, chứng tỏ mọi người đều muốn nói lên sự gắn bó của mình với linh mục. Một nữ giáo dân cho biết: “Từ thứ ba vừa qua, chúng tôi vừa buồn vừa hy vọng.” Trưởng đoàn hướng đạo Âu châu của giáo phận Rouen mà linh mục Sèbe là người cố vấn thiêng liêng, nhớ lại các thánh lễ mà linh mục Sèbe dâng ngoài trời, “trên bàn thờ làm bằng các túi xách trên lưng”.

Các bạn đồng nghiệp của linh mục ở Trường Thần học Công giáo Paris (Theologicum de l’Institut catholique de Paris) nơi linh mục giảng dạy đã có chứng từ rất cảm động, chứng từ này được một nữ sinh viên đọc: “Thật không thể hiểu được, thật không thể hiểu được, quá bi thảm…”, ám chỉ đến cái chết của linh mục, dĩ nhiên các lời chứng buổi tối canh thức rất kín đáo.

Bầu khí nghiêm trang và khuôn mặt buồn bã

Mọi người đều nhớ đến các buổi ăn nhẹ linh mục tổ chức cho các em bé, các lớp học tiếng Pháp cho người di dân, đến sự quan tâm về phụng vụ của linh mục, đến các bài phê bình văn học của cha được đăng trên báo Dòng Tên Études. Cùng với khoảng mười hai nhạc sĩ đệm đàn, giáo dân ca hát, họ hát bài Thánh vịnh 22 “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn”. Bầu khí nghiêm trang và các khuôn mặt buồn bã.

Nét buồn còn đậm hơn khi vào cuối buổi canh thức. Giáo dân được mời đi quanh quan tài để rảy nước thánh, từng giọt nước mắt lăn trên vài khuôn mặt. Khi ra ngoài nhà thờ, mọi người ôm nhau và thì thầm những lời an ủi nhau, nói lên cảm xúc của mình với người thân.

Và rồi các tín hữu như những người con mồ côi ra về trong cái lạnh đêm về của vùng Normande. Nhiều người còn ở lại đến khuya để cầu nguyện bên quan tài.

Ngày thứ năm 27 tháng 9, sẽ có nhiều người đến dự tang lễ do Tổng Giám mục Dominique Lebrun, giáo phận  Rouen cử hành lúc 14h30. Sau đó linh mục Sèbe sẽ được chôn ở nghĩa trang dành cho các linh mục ở Bonsecours.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc:François Huguenin: “Không phải vì một linh mục tự tử mà linh mục đó không còn tin nữa”Linh mục Jean-Baptiste Sèbe

“Allô, Antonio? Cha biết là con rất can đảm. Vững lên con.”

“Allô, Antonio? Cha biết là con rất can đảm. Vững lên con.”

 

Tiệm thuốc Farmacia Vaticana

Thầy Antonio

Trích sách “Các cuộc gọi của Đức Phanxicô”, Rosario Carello, nxb. Fidélité

Toa thuốc để trên quầy. Một người mặc áo sơ-mi trắng cầm lên. Khi ông trở lại, trên tay ông cầm mấy hộp thuốc. Giám mục Giuseppe Favale, giáo phận Conversano-Monopoli chờ ông gói thuốc. Vài phút sau, giám mục ra khỏi nhà thuốc tây Farmacia Vaticana, cha đi về hướng Molfetta. Đây là các thuốc thử nghiệm, chỉ có ở tiệm thuốc Farmacia Vaticana mới bán.

Vài ngày sau đó, ngày 18 tháng 3 – 2016, khoảng 4 giờ chiều, ở Chủng viện giáo hoàng Piô XI vùng Pouilles, điện thoại của niên trưởng Polignano a Mare reo. Đó là của thầy Antonio Esposito. Thầy bị bệnh và sắp được chịu chức linh mục.

Ngạc nhiên

“Allô?”

“Allô, Antonio? Cha là Giáo hoàng Phanxicô. Con thế nào rồi? Cha được tin con bệnh và cha gọi con để nâng đỡ con”.

Thầy Antonio không nói được chữ nào.

“Cha biết con là một chủng sinh tốt, con đã học hết sức mình và con đang tin tưởng chống chỏi với căn bệnh. Cha khen con: con đã đối diện căn bệnh với nụ cười thì thật cao quý. Và trên con đường này, ơn gọi của con thật quan trọng”.

“Dạ, trọng kính Đức Thánh Cha, ơn gọi và đức tin mang cho con sức sống để con chiến đấu và chống chỏi với căn bệnh”.

“Antonio, cha xin con: con hãy vững mạnh và kiên trì trên con đường của con. Con đừng buông tay vì Chúa luôn ở với con và cha, cha cầu nguyện cho con, cho sức khỏe của con”.

“Trọng kính Đức Thánh Cha, xin cha ban phép lành cho con được không?”.

“Cha ban phép lành cho con và cho cả gia đình con. Cha thương mến chào con”.

Đức Phanxicô biết tin này qua một linh mục làm việc ở Phủ Quốc Vụ Khanh, bạn của Giám mục Favale ở giáo phận Conversano-Monopoli mà linh mục gặp khi đi ra khỏi tiệm thuốc tây Farmacia Vaticana. Đức Bergoglio có mạng lưới thông tin và nhiều người thường xuyên cho ngài tin tức. Thầy Antonio chưa bao giờ viết thư cho Đức Phanxicô nên thầy lại càng ngạc nhiên hơn.

Marta An Nguyễn dịch

Xin đọc:  Các cuộc gọi của Đức Phanxicô

Đan viện Lucena

“Allô, Linh mục Luca? Cha làm cho tôi khóc.” 

“Allô? Cha xin các con khoan về hưu”

Các linh mục trong cơn bão táp

Các linh mục trong cơn bão táp

la-croix.com, Mélinée le Priol, 2018-09-26

Tuần tĩnh tâm của các linh mục từ 24 đến 29 tháng 9 ở Ars, 250 linh mục từ 34 quốc gia về tham dự tuần tĩnh tâm này.

Trong bối cảnh xáo trộn của cơn khủng hoảng các vụ lạm dụng tình dục trong Giáo hội, các linh mục ý thức các vấn đề về nạn giáo quyền mà Đức Phanxicô đưa ra, họ cho biết họ rất đau khổ trong bầu khí này.

Không nghi ngờ gì, đối với các linh mục trên toàn thế giới, thời gian này thật khó khăn. Nét nghiêm trọng tỏa ra trên khuôn mặt của 250 linh mục tham dự tuần tĩnh tâm tổ chức ở đền thánh Ars, kỳ tĩnh tâm trước là vào năm 2009 dưới thời Đức Bênêđictô XVI nhân dịp Năm Linh mục, năm đó có 1200 linh mục về tham dự tuần tĩnh tâm. Đa số các linh mục không ngần ngại nói lên lo âu của mình, “chắc chắn là chúng ta đang qua cơn khủng hoảng” và các linh mục hoàn toàn sáng suốt, “cơn khủng hoảng chưa chấm dứt được.” Từ nhiều tháng này, không có tuần nào mà không có một vụ lạm dụng bùng nổ ra, ở Mỹ, ở Đức, ở Pháp, ở Chi-lê, ở Úc.

Đôi khi thực tế bi thảm này lại quá gần: rất nhiều linh mục ở đây biết linh mục Jean-Baptiste Sèbe, người vừa tự tử ngày 18 tháng 9 vừa qua ở giáo phận Rouen và sẽ được an táng vào ngày 27 tháng 9. Còn về cha Pascal Poirier, cha vừa được tin trong giáo xứ cũ của mình ở Massiac (Cantal), một linh mục cha quen biết vừa bị hỏi cung vào ngày 14 tháng 9, linh mục này tấn công tình dục bốn em bé trong cùng một gia đình. Cha Poirier quản nhiệm đền thánh Ars ngao ngán: “Thật là sốc, tôi không bao giờ tưởng tượng một chuyện như vậy lại do linh mục đó phạm.” Cha Poirier đón tiếp các linh mục đến dự tuần tĩnh tâm ở nhà thờ Đức Mẹ Lòng thương xót. 

Bầu khí nghi ngờ hàng ngày

Đa số các linh mục họp tại đây đều lên án các vụ lạm dụng và họ đều thấy cơn khủng hoảng này là dịp để Giáo hội “thanh tẩy”, nhưng các linh mục cho biết họ đau khổ với bầu khí nghi ngờ mỗi ngày. (“Đây là tội ác mà chúng tôi phải trả giá”, “Giáo hội không phải là thể chế phải bảo vệ bằng mọi giá”, “Ưu tiên của chúng tôi là lắng nghe các nạn nhân”).

Một trong các linh mục tham dự cho biết, trong một trại hè do Giáo hội tổ chức ở Ý mùa hè vừa qua, trên thân cây gần trại hè có hàng chữ: “Cẩn thận, các linh mục ấu dâm”. Một linh mục khác cho biết, linh mục cảm thấy “nhục nhã” khi đến tiệm hớt tóc, khi câu chuyện nhắc đến các vụ ấu dâm trong Giáo hội, mọi người đều quay lại nhìn cổ cồn Rôma của mình. Linh mục Roger Hébert, cựu linh mục phụ tá giáo phận Belley-Ars cho biết: “Chúng tôi buộc phải ẩn mặt, đôi khi tôi có cảm tưởng mình gánh gánh nặng của các anh em đã làm những chuyện quá nặng.”

“Tôi bình thường, tôi có sống không?!”

Sợ bị nghi ngờ, một vài linh mục cẩn thận gấp đôi trong thái độ của họ với giáo dân: không bao giờ ở một mình với trẻ em, “đương nhiên” và cũng không còn đặt tay trên vai sau khi giải tội xong, thậm chí còn ngần ngại không dám cầm tay các cháu ruột của mình. Linh mục Stéphan Lange, cha xứ giáo xứ Reims thì ngược lại: “Tôi không muốn vì các linh mục hư hỏng mà tôi bị chới với. Tôi thoải mái trong vai trò linh mục của tôi. Tôi bình thường, tôi không sống được sao?!”

Đan sĩ Enzo Bianchi, bề trên cộng đoàn Bose (Ý) giải thích: “Nguy cơ là trở nên xa lánh và tránh các tiếp xúc với giáo dân, như thế có thể đưa đến những chuyện hoang tưởng, để rồi biểu lộ qua hung bạo.” Đan sĩ Bianchi giảng tuần tĩnh tâm với đề tài “Ngọn lửa Phúc Âm”. Trong hai bài giảng hàng ngày của mình, đan sĩ Bianchi xin các linh mục đừng có “cái nhìn lý tưởng hóa” bậc sống độc thân.

Đan sĩ canh phòng: “Chúng ta phải biết cơ thể của mình, với sức mạnh cũng như với yếu đuối của nó”, đan sĩ khuyến khích các linh mục phải có một “đời sống đẹp”, một đời sống có chỗ cho tình âu yếm, tình bằng hữu kể cả với phụ nữ.

Ngoài vấn đề duy nhất là cơ thể, chung chung thái độ của các linh mục đối với giáo dân có tạo vấn đề không: như nạn giáo quyền mà Đức Phanxicô công kích trong Thư gởi Dân Chúa ngày 20 tháng 8. Linh mục Pascal Poirier hiểu bức thư này như “lời kêu gọi chúng ta phải có chỗ của mình, trọn chỗ của mình, nhưng không được có chỗ cho các ưu tiên”. Còn đối với linh mục Jean-Marie-Nicolas Mbuyi-Tshiyombo, đến từ Công-gô, cha cho biết văn hóa giáo quyền vẫn rất phổ biến, cha nghĩ linh mục phải “ở giữa dân Chúa chứ không ở trên đầu, để đưa dân Chúa về với Chúa Kitô”. 

“Giáo dân đòi hỏi chúng tôi nhiều quá”

Một vài linh mục cho biết họ không cảm thấy mình dính với nạn giáo quyền, họ quen hợp tác với giáo dân, nhưng cũng có linh mục thú nhận họ có khuynh hướng “kiêu ngạo” và “cửa quyền” đối với giáo dân, cũng như thiếu sẵn sàng và dễ nổi giận. Một linh mục biện minh: “Giáo dân đòi hỏi chúng tôi quá”, một linh mục khác hỗ trợ “chính xã hội hiện nay dạy cho chúng ta ích kỷ”.

Linh mục Robert Sadlak, 35 tuổi ở miền nam Ba Lan, than phiền có một khoảng cách với giáo dân, mà linh mục biết “rất cần thiết cho đời sống Giáo hội”. Cha công nhận: “Chúng ta phải học để tin tưởng họ, đây là thay đổi não trạng”. Linh mục Sadlak vẫn còn mặc áo chùng và cho biết cha cảm thấy mình gần với Đức Bênêđictô XVI, tuy nhiên cha hơi “khó chấp nhận” việc phụ nữ cho rước lễ và rửa chân cho phụ nữ, dù Đức Phanxicô kêu gọi rất nhiều lần.

“Cùng đi chung với nhau qua cơn khủng hoảng này”

Vấn đề nạn giáo quyền vang lên thường xuyên ở thành phố Ars nhỏ bé phía bắc Lyon, thành phố có cha xứ nổi danh thường được cho là gương mẫu cho các linh mục gắn bó với truyền thống. Linh mục Patrice Chocholski, cha phụ trách đền thánh nhấn mạnh: “Cha xứ Gioan-Maria Vianê luôn mặc áo chùng vì ngài sống ở thế kỷ 19, nhưng ngài không có gì là giáo quyền!” Linh mục Juan-José Dosado từ Phi Luật Tân có suy nghĩ: “Cha xứ Ars là người đơn sơ, gần với giáo dân. và đó là điều mà giám mục của cha xứ Ars đã nói: ‘Chúng ta không những cần các linh mục giỏi nhưng cần cả các linh mục thánh thiện.”

Buổi chiều hôm đó, các linh mục đi tĩnh tâm nghe bài giảng về “Cha Thánh Ars”, cha là cha xứ giáo xứ Ars cách đây đúng 200 năm. Và chủ đề chiều hôm đó là tình bằng hữu giữa các linh mục: tình bằng hữu này không phải là nhiệm ý nhưng là “một cái gì linh thiêng.” Linh mục Patrice Gasser đến từ Thụy Sĩ, cha xác định: “Cơn khủng hoảng này, chúng ta cùng đi chung với nhau. Chính mỗi chúng ta, linh mục, phải canh chừng nhau.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Xin đọc: “Khủng hoảng niềm tin sâu đậm và toàn thể”

Bài mới nhất