Home Blog Page 374

Mười quyển sách hàng đầu của tôi năm 2022

Mười quyển sách hàng đầu của tôi năm 2022

Ronald Rolheiser, 2022-12-26

Những quyển sách chúng ta cần đọc tìm đến chúng ta, và tìm đến đúng vào lúc mình cần đọc nó. Tôi tin câu ngạn ngữ cổ xưa này, và xin dùng nó làm lời giải thích cho các sách tôi chọn trong năm 2022. Văn học và nghệ thuật luôn có yếu tố khách quan, một chiều sâu và tính thẩm mỹ không phụ thuộc vào con mắt người thưởng thức, nhưng có một câu ngạn ngữ cổ cũng khẳng định bất kỳ điều gì được hấp thụ thì đều chiếu theo trạng thái của người hấp thụ. Vì thế luôn có yếu tố chủ quan trong cách chúng ta xem xét và đánh giá bất kỳ điều gì. Tôi nói trước như thế là để nói mười quyển sách này là những quyển đi sâu vào lòng tôi nhất trong năm qua. Chúng nằm trong danh sách top 10 của tôi là vì chúng đã tìm đến tôi và đi vào lòng tôi.

Về lĩnh vực linh đạo, cả về phạm vi rộng và và phạm vi giới hạn, đây là những quyển sách đặc biệt có ý nghĩa với tôi:

1- Jim Forest, Vui chơi ở hang sư tử, tiểu sử về Daniel Berrigan (At Play in the Lion’s Den, A Biography of Daniel Berrigan). Một tiểu sử viết rất đẹp về linh mục Daniel Berrigan, của một người biết rõ cha, ủng hộ chính nghĩa của cha, đã đi tù cùng cha nhưng vẫn giữ một khoảng cách đủ với cha.

2- Robert Ellsberg, Sơ Wendy yêu dấu, Một câu chuyện ngạc nhiên về đức tin và tình bạn (Dearest Sister Wendy, A Surprising Story of Faith and Friendship). Một quyển sách gần gũi, cảm động và ấm áp, chia sẻ một số thư từ giữa nhà phê bình nghệ thuật nổi danh Wendy Beckett (qua đời năm 2018) và Robert Ellsberg, nhà xuất bản Orbis Press. Những trao đổi của họ nói đến mọi chủ đề về tôn giáo.

3- Maria Ruiz Scaperlanda, Mục tử không chạy trốn, Chân phước Stanley Rother, bậc tử đạo gốc Oklahoma (The Shepherd Who Didn’t Run, Blessed Stanley Rother, Martyr from Oklahoma). Một tiểu sử rất hay về con đường cha Stanley Rother trở nên ngôn sứ và tử đạo vì người nghèo. Một hạnh các thánh cho thời nay.

4- Sherry Turkle, Nhật ký cảm thông (The Empathy Diaries). Sherry Turkle là nhà khoa học hàng đầu và là ngòi bút sâu sắc về tâm hồn. Về căn bản, đây là tự truyện, nhưng khi họa nên con người mình, bà giúp chúng ta cũng làm như thế. Tiêu đề quyển sách, tự nó đã nói lên luận đề của mình rồi.

5- Amia Srinivasan, Quyền tình dục – Nữ quyền trong thế kỷ 20 (The Right to Sex – Feminism in the Twenty-First Century). Một quyển sách mạnh không hạn chế bất kỳ điều gì. Tôi không đồng ý với một vài điểm chính, nhưng Amia đã nêu ra những câu hỏi đúng và đem lại nhiều câu trả lời trung dung giữa các ý thức hữu khuynh và tả khuynh.

6- Jane Goodall & Douglas Abrams, Quyển sách Hy vọng, Hướng dẫn sống còn cho thời buổi khó khăn (The Book of Hope, A Survival Guide for Trying Times). Nội cái tên Jane Goodall là đủ đáng đọc. Abrams thêm chất của mình cho quyển sách, khẳng định việc tạo nên các giống người có lẽ là sai lầm lớn nhất của tiến hóa.

7- Roosevelt Montas, Giải cứu Socrates – Cách những quyển sách hay thay đổi đời tôi và vì sao nó quan trọng cho thế hệ mới (Rescuing Socrates – How The Great Books Changed My Life and Why They Matter For A New Generation). Đây là một biện giải mạnh mẽ cho giáo dục tư tưởng, cũng gần như quyển Ý tưởng về Đại học (The Idea of a University) của John Henry Nouwen, trừ việc Nouwen không phải đương đầu với nhiều chỉ trích nặng về cảm tính dành cho các nhà tư tưởng kinh điển Tây phương.

Trong số các tiểu thuyết đã đọc, tôi yêu thích những quyển sau:

Sally Rooney, Thế giới tươi đẹp, ngươi ở đâu (Beautiful World, Where Are You). Được đặt trong bối cảnh Ireland thời hậu Công giáo La Mã và hậu hiện đại, tiểu thuyết ghi lại những trò chuyện (email và tin nhắn) giữa hai phụ nữ trẻ đầy cảm xúc. Họ đang cố tìm ý nghĩa cho đời mình và thời đại, khi đối chiếu kitô giáo truyền thống vẫn giúp họ xác định bản thân với nhóm bạn và nơi làm việc đang định hình họ theo cách khác. Khi một người từ bỏ việc sống đạo rõ ràng nhưng vẫn vật lộn với đức tin còn thai nghén, thì sẽ thế nào?

Valerie Perrin, Nước trong lành cho hoa (Fresh Water for Flowers). Một bản dịch từ tiếng Pháp, một kiệt tác, một bức tranh thật đẹp. Trong câu chuyện này, không có gì nhiều, trừ nhiều cái rất đẹp.

Jeanine Cummins, Bùn đất Mỹ (American Dirt). Cummins đã chịu nhiều phê bình tiêu cực về quyển sách này, không phải vì viết không hay và không đánh động nhưng vì tác giả không phải người gốc Tây Ban Nha nên việc cô viết “câu chuyện của người khác” bị xem là tâm thế kẻ cả và trộm cắp văn hóa. Nhưng dù có thế, đây vẫn là một câu chuyện cảm động về một người mẹ và con trai mình bị đe dọa tính mạng ở Trung Mỹ và chạy trốn đến biên giới Hoa Kỳ.

Vậy là đủ 10 quyển, nhưng còn một quyển đáng vinh danh nữa.

Joyce Aitken, Chân thành phân ưu – Lời để nói khi không biết nói gì (Sincere Condolences – What to Say When You Don’t Know What to Say). Chồng Aitken tự vẫn, và cô thấy nhiều người ngại ngùng khi nói chuyện này với cô, dù cho đó lại chính là điều cô cần khi thương tiếc chồng. Quyển sách thấu suốt và thực tế. Chúng ta, ai cũng đã gặp tình huống ngại ngùng, không biết nói gì? Còn nữa, khi nói về sự bất lực của mình trong việc ngăn cản chồng tự tử, cô cũng thêm một câu mà những ai từng mất người thân về tự tử nên nghe: Ý muốn cứu mạng ai đó đâu có cấu thành sức mạnh để ngăn chặn cái chết.

Và đó là mười quyển sách yêu thích của tôi năm 2022, tôi xin gởi đến quý độc giả.

J.B. Thái Hòa dịch

Bài đọc thêm: Mười quyển sách hàng đầu của tôi năm 2021

Triết gia Denis Moreau: sáu điều tôi thích nơi Đức Bênêđictô XVI

Triết gia Denis Moreau: sáu điều tôi thích nơi Đức Bênêđictô XVI

Vào lúc mọi người ca ngợi và đánh giá triều giáo hoàng của Bênêđictô XVI, triết gia Denis Moreau đi ra khỏi lối mòn, ông có bản tổng hợp cá nhân và trìu mến về cảm nhận mình mắc nợ Joseph Ratzinger rất nhiều.

lavie.fr, Triết gia Denis Moreau, 2023-01-09

Denis Moreau, triết gia, giáo sư triết tại đại học Nantes.  THOMAS LOUAPRE

Trong những ngày gần đây, các nhà báo và người công giáo, mỗi người đều có ý kiến riêng của mình, ủng hộ hay phản đối triều giáo hoàng của Đức Bênêđictô XVI. Một công việc dễ làm vì đây là sự kiện độc đáo trong lịch sử của Giáo hội hiện nay: cái chết của giáo hoàng sau gần mười năm kết thúc triều giáo hoàng tốt đẹp của ngài, chúng ta đánh giá ngài muộn màng mà chúng ta đã không có vào thời điểm sau cái chết của người tiền nhiệm ngài.

Đức Bênêđictô XVI: một tang lễ thanh đạm và đầy xúc động

Không có gì độc đáo để thêm vào những gì tôi đã đọc đây đó, tôi sẽ không viết bài tổng kết. Và vì nói tốt thì tốt hơn là nói xấu, nên tôi sẽ chỉ nêu ra sáu điều tôi thích nơi ngài hoặc những điều ngài đã dạy và mang lại cho tôi. Đọc bài này quý độc giả sẽ hiểu vì sao cái chết của ngài lại ảnh hưởng đến tôi nhiều hơn cái chết của nữ hoàng Anh, hay ngay cả Pelé – dĩ nhiên Chúa biết tôi yêu Pelé biết chừng nào!

1- Cám ơn cha vì cha đã không giỏi quản lý

Nghịch lý thay, điều tôi thích nơi Đức Bênêđictô XVI, theo một nghĩa nào đó, ngài là một giáo hoàng khá tệ – ít nhất nếu bạn cho rằng giáo hoàng trước hết là “ông chủ” của Giáo hội công giáo. Ngài rõ ràng không giỏi trong việc cai trị và rõ ràng ngài không thích quyền lực (ít nhất là quyền của một giáo hoàng). Ngài không giống như người tiền nhiệm hoặc người kế nhiệm, cảm thấy thoải mái trước giới truyền thông hoặc trước đám đông, điều này rất dễ nhận thấy.

Chẳng hạn như, trong những tình cờ của cuộc sống, tôi có mặt ở Rôma vào ngày lễ nhậm chức của ngài. Tôi đến đó, thấy ngài trên màn hình khổng lồ ở Đền thờ Thánh Phêrô, cái nhìn của ngài là cái nhìn hoảng sợ của con thú bị săn mồi, tôi hiểu ngay đây sẽ là một giáo hoàng khác với giáo hoàng Gioan-Phaolô II, người quen ra trước công chúng như người dẫn chương trình. Sau đó, có lẽ chung quanh ngài không có những người có kỹ năng và chính trực nhất để giúp ngài làm nhiệm vụ của mình.

Tóm lại, ngài thấy mình làm nghề ‘ông chủ’ mà ngài không phù hợp, từ cái nhìn này, triều giáo hoàng của ngài không thiếu những sai lầm ngớ ngẩn, hỏng việc, lái trước đạp sau mà một số phương tiện truyền thông thiếu bác ái ác ý vui vẻ nhắc lại trong những ngày này: bài diễn văn ở Regensburg, dỡ bỏ vạ tuyệt thông cho một giám mục theo chủ nghĩa chính thống phủ định, không thể nắm vững một phần Giáo triều, tranh biếm họa trên bao cao su, vụ “Vatileaks”, v.v. Rõ ràng, họ có thể tìm thấy trong tất cả các tài liệu dồi dào này chất liệu để chỉ trích Đức Bênêđictô XVI tội nghiệp.

Nhưng những điều này lại làm tôi quý mến ngài, ngài là tấm gương tiêu biểu của một người cố gắng làm hết sức mình ở vị trí Chúa đã đặt, dù không muốn ở đó. Ở tầm vóc nhỏ của tôi, tôi là người không có năng khiếu tổ chức và quản lý những việc tôi phải làm, tôi cảm thấy mình gần gũi với ngài, và tôi yên tâm khi có người bạn đồng hành như ngài.

2- Cám ơn cha đã làm những gì cha có thể

Sau tất cả những im lặng và những việc khất lại ở cuối triều giáo hoàng Gioan-Phaolô II, tôi biết ơn Đức Bênêđíctô XVI vì cuối cùng ngài đã đập tay lên bàn nói “đủ rồi, không thể dung thứ được” về bạo lực tình dục, về ấu dâm trong Giáo hội. Nhưng than ôi (xem điểm trên), ngài không thể hoặc không biết cách đánh đủ mạnh, cũng như không thể hiện quyền hạn cần thiết để dọn dẹp chuồng ngựa Augias – đúng là ngài có việc phải làm. Nhưng ít nhất ngài đã cố gắng. Tôi nghi đó là lựa chọn của Vatican, nhưng để ghi câu trên mộ Đức Bênêđictô XVI, tôi muốn gợi ý câu 8 đoạn 14 Phúc âm Thánh Marcô: “Quod haec habuit, fecit” (Điều gì làm được thì cô đã làm).

3- Cám ơn cha vì cha đã tôn vinh lý trí trong đức tin

Với Đức Bênêđictô XVI, tôi đặc biệt mang ơn vì ngài đã kiên trì nhắc đi nhắc lại đặc tính thiết yếu của mối tương quan giữa đức tin và lý trí. Để tóm tắt thái độ của ngài về vấn đề này, chúng ta có thể nói, ngài đã quyết định xem trọng huấn thị trong Thư Thứ Nhất của Thánh Phêrô (3, 15): “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em”, có nghĩa phải luôn sẵn sàng giải thích với những ai hỏi mình về lý trí (trong tiếng hy lạp là logos, công cụ của các triết gia) do đó là về hy vọng có trong lòng bạn.

Ngay từ những năm 1990, khi ngài mới chỉ là hồng y Ratzinger, các bài viết của ngài về “tính hợp lý mở rộng” đã kéo tôi ra khỏi lối mòn của chủ nghĩa duy tín (chỉ đức tin thôi là đủ, lý trí và triết học là vô ích trong vấn đề tôn giáo) nơi tôi khi đó tự nhốt mình, trong một thời gian tôi từng tuyên bố bằng lòng với một đức tin mơ hồ, thậm chí mù quáng, một đức tin bị giảm xuống thành cảm giác và chỉ thu mình vào “nội tâm”, bằng lòng co cụm cho riêng mình, “được sống, được cảm nhận”, “được chân thực” – dĩ nhiên đó không phải là không có gì – nhưng không bao giờ suy nghĩ kỹ, và do đó tránh tránh mọi tranh luận.

Đức Bênêđíctô XVI làm cho tôi hiểu, một thái độ như thế là tai hại: nếu đối diện với những gì chất vấn mình hoặc chất vấn về đức tin của mình, người công giáo chỉ biết trả lời “tôi không biết”, “tôi cảm nhận nhưng tôi không có gì để nói”, sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi người khác xem mình là thành viên của một tà phái kỳ quái và thuyết duy tín này được diễn giải như một khuynh hướng bản sắc đối với chủ nghĩa cộng đồng, một sự co quặp vào chính mình, thiết lập giữa những người cùng máu mũ trong một tâm lý pháo đài bị bao vây.

Tất cả những hình thức co quặp này, về bản chất là không phù hợp với mục tiêu “phổ quát”, có nghĩa là “công giáo”, theo nghĩa từ nguyên của sứ điệp kitô giáo. Chống lại chủ nghĩa duy tín này, Đức Bênêđictô XVI sẵn sàng tranh luận (xem điểm 5), ngài cổ động một quan niệm về công giáo như một học thuyết chắc chắn không hoàn toàn hợp lý (ý thức hệ hay tầm nhìn nào của thế giới có thể tự hào về một phẩm chất như vậy?), nhưng hoàn toàn hợp lý, theo nghĩa là người ta có thể và có lý do để làm cho nó “có lý”.

Ngài làm cho sinh động vì ngài xác tín, chỉ có lý trí, tính phổ quát cho phép nó đối thoại mới có thể giao tiếp (theo nghĩa mạnh: chia sẻ, đặt chung), trao đổi, giải thích quyết định của mình, và nhờ đó thoát khỏi chủ nghĩa nhiệt tình lôi kéo một chiều, chủ nghĩa cuồng tín, chủ nghĩa ngu dân, đe dọa cho mọi tuyên xưng đức tin theo kiểu giáo điều hoặc bất cứ một diễn từ đức tin nào chỉ dựa trên nội tâm, không thể truyền đạt kinh nghiệm tôn giáo được.

Tôi cám ơn ngài đã làm cho tôi hiểu tất cả những điều này. Nếu không có ngài, tôi nghĩ tôi sẽ chóng thành người công giáo nhỏ nhen theo giáo điều và kiêu ngạo (cuối cùng có lẽ tôi vẫn thành người, ai biết được, nhưng theo một cách khác và chậm hơn nếu không có Joseph Ratzinger / Đức Bênêđictô XVI đã ở đó!).

4- Cám ơn cha đã là một giáo sư vĩ đại

Ngược với những gì chúng ta đọc gần như khắp nơi kể từ khi ngài qua đời, tôi không chắc Đức Bênêđictô XVI đã là “nhà thần học vĩ đại”. Một nhà thần học vĩ đại luôn đổi mới, họ định hình lại lãnh vực tư tưởng và phương pháp trong thần học, và từ đo thường tự đặt mình vào những giới hạn mà thời của mình xem là có thể chấp nhận được theo quan điểm giáo lý chính thống.

Bênêđictô XVI đúng hơn là giáo sư thần học vĩ đại (chúng ta có thể thấy sự khác biệt giống nhau này giữa “một triết gia vĩ đại” và “một giáo sư triết vĩ đại”), người chu đáo bảo vệ chính thống. Trong bối cảnh này, với những điểm quan trọng đặc biệt và đặc trưng, ngài có năng khiếu hiếm có khi trình bày cách sáng sủa, tinh tế và sắc thái những điều cốt yếu của giáo lý kitô giáo.

Chúng ta có thể thấy trong ba tập sách ngài viết về Chúa Giêsu, đáng ngưỡng mộ ở sự tinh tế và cân đối, nhưng không thực sự đổi mới trong lĩnh vực và thể loại văn học của kitô giáo. Chúng ta có thể nghĩ về thông điệp đầu tiên Thiên Chúa là tình yêu của ngài, tổng hợp một cách đáng kể mọi thứ theo một nghĩa đã từng được nói đến nhưng theo cách rải rác, rời rạc và không trang nhã. Chúng ta có thể nghĩ (và chúng ta không nói đủ về điều này kể từ khi ngài qua đời) về những lời nhắc nhở liên lỉ của ngài về học thuyết xã hội của Giáo hội.

Đức Bênêđictô… Và cho phụ nữ một tiếng nói

Đọc bài vở của Đức Bênêđictô XVI không chỉ đọc các thông điệp, mà còn cả các bài giảng, các diễn văn của ngài luôn là niềm vui bổ dưỡng, ngài nhắc lại những điều cốt yếu và “làm chúng ta phải suy nghĩ”. Vì thế với tôi, là người trí thức, triều giáo hoàng của ngài là bữa tiệc linh đình. Nhưng đây có lẽ cũng là một trong những giới hạn của ngài: về cơ bản là triều giáo hoàng “giảng dạy” và “tinh thần”, chủ yếu dành cho các học giả và trí thức. Và đâu chỉ có học vấn và trí thức trong cuộc sống, đúng không?

5- Cám ơn cha đã khai mở trí tuệ

Trong các bài viết của ngài, Đức Bênêđictô XVI đã nhân cách hóa lòng bác ái trí thức một cách mẫu mực. Đó gần như là thói quen trong phong cách của ngài: ngài luôn tìm kiếm điều tốt đẹp trong các luận điểm mà ngài không đồng ý.

Trái với hình ảnh hẹp hòi của một “Hồng y xe tăng, Panzerkardinal” mà chúng ta thường có về ngài, thật ra ngài có một tư duy cởi mở, theo cách ngài đứng về phía đối thủ hơn là gièm pha họ. Và trước những luồng tư tưởng đối lập, ngài luôn tìm cách xác định điểm quan tâm chung để có thể làm cơ sở thảo luận.

Như thế, một cách chưa từng có, chúng ta tìm thấy trong các bài viết, các thông điệp của ngài có những đoạn ngài nói tốt về các nhà tư tưởng vô thần như Nietzsche, Adorno, v.v. Đó là thái độ quảng đại, cao quý, điều tôi hiếm thấy trong các cuộc tranh luận trí tuệ và học thuật tôi từng tham dự. Và điều này thật tuyệt vời!

6- Cám ơn cha vì cha đã hích một cú không thể ngờ trước

Tôi xin kết thúc với một kỷ niệm cá nhân hơn. Vào đầu năm 2007, năm sinh nhật thứ 40 của tôi, tôi đang ở trong thời kỳ, nói một cách trí tuệ, tôi đang tìm lại chính mình một chút. Cho đến lúc đó, hầu hết các bài viết của tôi là những bài nghiên cứu học thuật về triết học thế kỷ 17.

Nhưng lúc đó, tuy không phủ nhận tất cả những hoạt động học thuật thuần túy đã rất hình thành này, tôi có một băn khoăn chung quanh câu hỏi: “Tôi, một trí thức công giáo, thực sự có hợp lý không nếu tôi vẫn tiếp tục viết một cách thuần túy học thuật các bài báo về ‘sự phát triển của học thuyết về bản chất nơi triết gia Descartes giữa những năm 1641 và 1644’ trong khi tôn giáo của tôi, ở đất nước của tôi đang ở trong tình trạng rất tệ không?”

Mùa xuân năm 2007, một Đức ông ở Rôma mời tôi tham dự một hội thảo của các học giả châu Âu, được tổ chức tại Vatican theo sáng kiến của Đức Bênêđictô XVI. Lúc đó tôi đã viết sách về lý thuyết bản chất của Descartes, bán được 250 quyển (gồm cả những quyển bố mẹ tôi mua), là giáo sư nhỏ ở trường đại học tỉnh bang, tôi rất ngạc nhiên khi được mời! Tôi trả lời Đức ông rằng tôi không có gì để nói về chủ đề dự kiến cho cuộc hội thảo. Ngài trả lời: “Không thành vấn đề, dù sao anh cũng nên đi.” Vậy thì tốt, đi Rôma là điều bạn không thể từ chối, họ trả mọi chi phí, chuyến đi, chỗ ăn chỗ ở, vậy thì phải đi.

Tôi ở đó ba ngày bên cạnh rất nhiều tên tuổi lớn của các đại học Âu châu, các triết gia, các thần học gia nổi tiếng. đã làm cho tôi bối rối thêm, “tôi làm cái quái gì ở đây, vì sao tôi lại được mời đến đây?”.

 

Sau khi làm một điều tra nhỏ, cuối cùng tôi biết ở Vatican luôn rất lộn xộn khi tổ chức một cái gì đó, họ đã có một ý tưởng kỳ lạ là hỏi ý kiến một tu sĩ lớn tuổi để xem ai là những nhân vật “quan trọng” trong tư tưởng kitô giáo ở Pháp. Vị tu sĩ này hẳn không biết nhiều trong lãnh vực này, nhưng đã tình cờ đọc bản dịch của tôi về Thánh Tôma Aquinô công bố vài năm trước, nên ông đưa tên tôi vào danh sách người “quan trọng”, điều này không đúng chút nào! Đôi khi đời sống thật khôi hài.

Nói tóm lại, tôi trải qua ba ngày choáng váng với cảm giác được “nâng cấp” như khi bạn ở trên máy bay mà tình cờ được lên ngồi… hạng nhất! Và cuối buổi hội thảo, nói như bà ngoại tôi hay nói, ‘đến thế là cùng’: Đức Bênêđictô XVI tiếp chúng tôi tại Vatican – đến mức này thì tôi phải nhéo mạnh vào người để biết chắc mình không nằm mơ.

Ngài có một bài phát biểu khuyến khích chúng tôi và cho chúng tôi hiểu, ngài trông cậy vào những học giả công giáo chúng tôi để bảo vệ kitô giáo và chúng tôi phải dám tham gia vào cuộc tranh luận công khai. Tôi không phải là người quá tin vào quan phòng, cũng không phải là người thấy “dấu hiệu” của Chúa ở khắp nơi nhưng ngày 24 tháng 6 năm 2007, trên chuyến bay từ Rôma về, tôi tin chắc tôi đã được hưởng lợi từ một nháy mắt nhỏ của Chúa Quan Phòng về chuyện này.

Di chúc thiêng liêng của Đức Bênêđictô

Tôi mở máy tính và viết vài trang đầu tiên những ý tưởng đã lởn vởn trong đầu gần đây và đó là quyển sách biện giải đầu tiên của tôi về “cứu rỗi”. Quyển sách không tệ lắm, kể từ đó tôi đã viết thêm một quyển nữa theo theo phong cách đó.

Như thế Đức Bênêđictô XVI rõ ràng là gốc rễ cho việc định hướng lại hành trình tri thức của tôi và của phần lớn những gì tôi đã viết trong 15 năm qua. Dĩ nhiên chính độc giả là người đánh giá xem tôi có làm tốt công việc của tôi hay không. Nhưng vì tôi rất vui khi viết những loại sách này và cảm thấy ít nhiều tìm được con đường của tôi khi viết những quyển sách này, nên về mặt trí tuệ, tôi cảm thấy mắc nợ ngài (và cả người tu sĩ lớn tuổi kỳ dị, tôi vẫn chưa biết tên ngài!).

Một “giáo hoàng tốt”?

Triều giáo hoàng của Đức Bênêđictô XVI có những thăng trầm, có những thành công thất bại, bóng tối và ánh sáng. Đức Bênêđictô XVI có phải là một “giáo hoàng tốt” không? Thành thật mà nói, tôi không biết, tôi bối rối trước những người trong những ngày này, bằng cách này hay cách khác, đưa ra câu trả lời dứt khoát cho câu hỏi này – chỉ vì tôi không chắc mình có ý tưởng rõ ràng về thế nào là một “giáo hoàng tốt”. Nhưng ngược lại, tôi tin chắc tôi có rất nhiều lý do để nói: “Cám ơn Đức Bênêđictô, ngài đã làm những gì có thể và với con, như thế là rất nhiều! Cám ơn Đức Bênêđictô XVI, cám ơn ngài!”

Marta An Nguyễn dịch

Bài đọc thêm: Bênêđictô XVI, giáo hoàng của đức tin trưởng thành của chúng ta

Andrea Riccardi: “Có phải đây là kết thúc của Giáo hội hay khởi đầu của một lối sống mới của kitô giáo?”

Andrea Riccardi: “Có phải đây là kết thúc của Giáo hội hay khởi đầu của một lối sống mới của kitô giáo?”

lemonde.fr, Gaetan Supertino, 2023-01-08

Trong một cuộc phỏng vấn với báo Le Monde ngày chúa nhật lễ Hiển Linh, ông Andrea Riccardi cảnh báo. Ông là người sáng lập cộng đoàn Sant’Egidio, tác giả quyển sách “Giáo hội đang cháy”, ông cho biết ông vẫn giữ lạc quan và xin người công giáo nên thoát khỏi cảm giác suy sụp.

Sử gia Andrea Riccardi, một trong những người sáng lập chính của cộng đồng Sant’Egidio, một cộng đồng giáo dân công giáo nổi tiếng, có vai trò trung gian hòa giải trong một số xung đột quốc tế, trong số các vai trò khác của cộng đồng. Trong quyển sách Giáo hội đang cháy (L’Eglise brûle, nxb. Cerf), sử gia phân tích cuộc khủng hoảng mà Giáo hội công giáo đang trải qua và đưa ra một số lý do để duy trì lạc quan.

Tựa đề quyển sách liên hệ đến vụ Nhà thờ Đức Bà Paris bị cháy năm 2019. Theo ông, người ta có thể liên tưởng đến ẩn dụ về Giáo hội. Ý của ông như thế nào?

Andrea Riccardi: Vụ hỏa hoạn này làm tôi suy nghĩ vì sao toàn bộ Giáo hội chúng ta đang cháy, có nghĩa đang suy tàn. Giáo hội cứ nói về truyền giáo mà người công giáo ngày càng ít đến nhà thờ, ít nhất là ở châu Âu.

Nguyên nhân thứ nhất, theo tôi, là do sự trao truyền giữa các thế hệ: đạo công giáo không còn lưu truyền trong gia đình. Cuộc di cư từ nông thôn ra thành thị trong thế kỷ 20 đè nặng, vì nông thôn là cái nôi của Giáo hội. Đây là một phần của hiện tượng xã hội rất sâu đậm, được đánh dấu bằng sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân đã làm phá vỡ mọi ý tưởng về cộng đồng.

Nhưng cũng có những nguyên nhân nội tại của Giáo hội, chẳng hạn như khủng hoảng ơn gọi – “nghề” linh mục không còn được ưa chuộng – hay sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong việc tiếp cận các trách nhiệm.

Đối diện với tất cả những vấn đề này, tôi tự hỏi: đây là dấu chấm hết của Giáo hội hay là khởi đầu của một lối sống kitô giáo mới? Chúng ta đang chứng kiến sự trỗi dậy của các cộng đồng hoàn toàn thích nghi với thời đại chúng ta, với toàn cầu hóa hoặc với xã hội tiêu dùng, như chủ nghĩa tân-truyền giáo hoặc chủ nghĩa tân-ngũ tuần. Thử thách lớn nhất của Giáo hội hiện nay là tìm chỗ đứng của mình trước các tôn giáo dựa trên cảm xúc và thành công kinh tế, mà không phủ nhận chính mình.

Quyển sách của ông mang một thông điệp lạc quan cho đạo công giáo. Nhưng theo ông, cần phải nghĩ đến một cách sống mới của Giáo hội. Cụ thể điều này có nghĩa gì?

Trước tiên chúng ta cần cải cách cho nhất quán. Lấy vấn đề về chỗ đứng của phụ nữ, đó là điều cốt yếu. Ngay cả không cần nói về việc họ đến với chức tư tế, phải đưa họ ra khỏi tình trạng cô lập. Họ phải tham dự vào vận mệnh của Giáo hội trên cơ sở bình đẳng với nam giới. Họ phải được trao những trách nhiệm chính thức trong các giáo xứ, để họ có thể tham gia vào những quyết định quan trọng nhất của Giáo hội. Mọi thứ đang bắt đầu thay đổi, đặc biệt là ở Pháp và Đức. Nhưng chúng ta phải đi xa hơn nữa theo hướng này.

Chúng ta lấy ví dụ về chức tư tế. Ngày càng có ít linh mục, nhưng có ý nghĩa gì khi Giáo hội công giáo không có thừa tác vụ tư tế và không có cử hành Thánh Thể? Nó không còn là Giáo hội công giáo, nó là một cái gì đó khác.

Chúng ta phải hình dung những cách khác để có được chức tư tế. Vì sao không phong chức cho các ông đã lập gia đình. Đó là một con đường.

Nhưng theo tôi, cải cách đầu tiên cần thực hiện là tầm nhìn mà chúng ta có về cộng đồng của chính mình: chúng ta phải thoát khỏi cảm giác suy sụp. Người tín hữu kitô không chỉ là một nhóm các ông, các bà đến nhà thờ cầu nguyện. Họ là những người mang đến một cách sống khác, một quan niệm khác về xã hội, ví dụ đặt người nghèo làm trọng tâm. Bây giờ chúng ta cần mang đến một hình thức “tưởng tượng luân phiên”. Giáo hội luôn là phòng thí nghiệm của những tầm nhìn mới và trí tưởng tượng mới. Giáo hội vẫn còn có thể làm mới ngày hôm nay.

Ông đã từng nói, có nhiều cách để là người tín hữu kitô ngày nay. Tại sao việc cứu Giáo hội công giáo lại quan trọng như vậy?

Ngày nay có vô số kinh nghiệm đa dạng, đó là sự thật. Tôi nghĩ, thực sự Giáo hội công giáo mang lại sự cân bằng quý giá giữa sự gần gũi – mỗi giáo xứ đều khác biệt, sáng tạo theo cách riêng của mình – và tính phổ quát – với tầm nhìn toàn cầu, truyền thống chung, tính liên tục xuyên suốt lịch sử.

Giáo hội công giáo cũng có mối quan hệ đặc biệt với hòa bình. Nó không thể bị quy giảm thành một quốc gia, một nhóm sắc tộc hay một đảng phái chính trị. Ngay cả khi không phải lúc nào nó cũng thành công, nhưng điều này giúp Giáo hội hướng tới sự thống nhất giữa các dân tộc. Chẳng hạn ở Phi châu, phong trào tân-tin lành bị chia cắt nhiều vì thế dễ bị quyền lực chính trị thao túng hơn.

Giáo hội công giáo ngày nay chấn động vì những vụ tai tiếng tình dục. Giáo hội có còn uy tín khi không giải quyết được vấn đề này không?

Tôi nghĩ thực sự đây là “câu hỏi” cần giải quyết, nếu không nó như chất độc sẽ nổi lên mỗi khi chúng ta cố gắng nói về một điều gì khác. Nhưng thật không may, tôi nghĩ muốn giải quyết phải mất nhiều năm.

Nhưng có những vấn đề cấp bách khác. Nghèo đói tiếp tục tấn công mọi nơi trên hành tinh, khủng hoảng khí hậu hứa hẹn ngày càng khốc liệt hơn, các quốc gia lâm vào chiến tranh, v.v. Trong bối cảnh khó khăn này, Giáo hội phải có khả năng mang thông điệp hy vọng.

Cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục cho thấy một số khiếm khuyết trong Giáo hội. Ở Pháp, báo cáo của ủy ban Sauvé (Ủy ban Độc lập về các vụ Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp) đưa ra, trong số những điều khác quyền của các linh mục là quá độ. Ông nghĩ gì?

Trong một thời gian dài, Giáo hội đã phát triển quan niệm về quyền lực là nam tính và giáo sĩ: chúng ta phải thoát ra khỏi cái bẫy di sản này của quá khứ. Ngày nay, các linh mục vừa có quyền lực – trong phẩm trật của Giáo hội – vừa thường bất lực trước cộng đồng của họ. Họ già đi và cảm thấy ngày càng bị lịch sử gạt ra bên lề.

Chúng ta phải phát triển hướng tới một cộng đồng mới cùng chia sẻ trách nhiệm, trong đó linh mục cũng như giáo dân, phụ nữ và nam giới cùng chia sẻ trách nhiệm. Tiến trình đồng nghị hiện đang được Đức Phanxicô khởi xướng trên quy mô toàn cầu sẽ giúp tái tạo đời sống của Giáo hội theo nghĩa này.

Chính xác, trong tiến trình này, những người sáng tạo nhất dường như là các giám mục Đức. Nhưng họ bị chỉ trích nặng nề, đặc biệt là ở Vatican, họ bị cáo buộc có nguy cơ làm người công giáo ly giáo… Ông có thực sự nghĩ Giáo hội có khả năng tự cải cách không?

Giáo hội công giáo là một cộng đồng lớn và quá trình thay đổi luôn diễn ra rất lâu dài, đặc biệt là khi bắt đầu từ thực tế của địa phương. Nếu những cải cách được áp đặt từ bên trên, nó sẽ diễn ra nhanh hơn nhiều nhưng sẽ không được nồng nhiệt đón nhận.

Giáo hoàng muốn một quá trình bắt đầu từ cơ sở, từ thực địa. Và đây sẽ không phải là chuyện đầu hôm sớm mai. Nó có thể sẽ làm chúng ta bận rộn trong nhiều thập kỷ tới.

Chúng ta luôn nghĩ Giáo hội là một cơ cấu rất độc đoán. Nhưng thực tế, Giáo hội có một dư luận quần chúng rất quan trọng, ngày nay được củng cố bởi các mạng xã hội. Nhiều người công giáo bày tỏ lập trường công khai và họ trả lời với nhau trên mạng. Bây giờ vấn đề là đi đến đồng thuận. Nó sẽ rất dài, nhưng tôi lạc quan.

Tại châu Phi, Đức Phanxicô sẽ đến Nam Sudan và Cộng hòa Dân chủ Congo vào cuối tháng 1 – Giáo hội rất năng động. Giáo hội tiếp tục tuyển các tín hữu và linh mục, một số người trong số họ được gửi đến châu Âu. Tương lai của Giáo hội có bị đe dọa ở lục địa này không?

Trong một thời gian dài, người ta nói tương lai của Giáo hội đang bị đe dọa ở Nam Mỹ. Trước đây, đó là châu Âu. Tôi nghĩ không có một miền đất hứa của Giáo hội.

Mặt khác, tôi nghĩ rằng Giáo hội có vai trò rất quan trọng ở châu Phi và Công giáo châu Phi thực sự rất phong phú. Ví dụ, ở Cộng hòa Dân chủ Congo, Giáo hội đã thiết lập các nghi thức rất đổi mới, có trường đại học công giáo năng động, có nhiều trí thức, nhưng cũng có các hoạt động xã hội và hòa giải đang được thiết lập theo sáng kiến của người công giáo, v.v.

Trái lại, tôi không ngạc nhiên khi thấy các linh mục châu Phi đến Âu châu. Họ phải đến với tư cách là người truyền giáo, làm chứng cho đức tin của họ và chia sẻ kinh nghiệm của họ. Châu Phi là phòng thí nghiệm cho tương lai thế giới. Những vấn đề về mối quan hệ với hồi giáo hay với người tân-tin lành, về tương quan với chiến tranh, nảy sinh ở đó một cách rất sống động và Giáo hội đang ở tuyến đầu khi đối diện với những thách thức này. Liệu chúng ta có nên kết luận rằng giáo hoàng tiếp theo sẽ là người châu Phi không? Tôi không biết. Nhưng dù sao, tại sao lại không?

Cộng đồng Sant’Egidio được thành lập năm 1968, nổi bật nhờ những thành công ngoại giao. Ông có nghĩ Giáo hội nên tham gia nhiều hơn vào các mối quan hệ quốc tế?

Trong lịch sử gần đây, Giáo hội chưa bao giờ có cán cân nặng trong lãnh vực ngoại giao. Chúng ta nghĩ đến sự thận trọng của Đức Piô XII trong Thế chiến thứ hai hoặc của các giáo hoàng là tù nhân của Napoléon. Giáo hoàng duy nhất của thế kỷ 20 thực sự đặt nặng vấn đề ngoại giao là Đức Gioan-Phaolô II, ngài là nhân vật đối thoại quan trọng về mặt chính trị vào cuối thời Chiến tranh Lạnh. Tuy vậy, Giáo hội luôn có một ảnh hưởng luân lý rất quan trọng. Đức Phanxicô là người rất được lắng nghe, kể cả những người không có đạo.

Nếu chúng ta muốn đấu tranh cho hòa bình, tôi nghĩ chúng ta cần đầu tư nhiều hơn vào ngoại giao, dù chỉ về mặt trí tuệ. Theo một cách nào đó, Đức Phanxicô tin vào các mối quan hệ quốc tế. Ngài muốn gặp các nguyên thủ quốc gia, ngài có thể một vai trò nào đó như ở Syria, khi ngài phản đối sự can thiệp vũ trang của Mỹ.

Nhưng sẽ luôn có một giới hạn. Khi tổng thống Roosevelt nói với Stalin: “Giáo hoàng muốn điều này, giáo hoàng muốn điều kia.” Stalin trả lời: “Ông ta có bao nhiêu quân đoàn?” Giáo hoàng không có quân đội và quân đội ở trong các mối quan hệ quốc tế!

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Andrea Riccardi: “Đức Phanxicô đã trở thành nhà lãnh đạo không lẩn tránh vào đâu được”

Trong quyển sách Giáo hội đang cháy (L’Eglise brûle, nxb. Cerf), sử gia phân tích cuộc khủng hoảng mà Giáo hội công giáo đang trải qua và đưa ra một số lý do để duy trì lạc quan.

Đức Bênêđictô XVI và cuộc chiến chống lạm dụng trong Giáo hội, ngài để lại di sản gì?

Đức Bênêđictô XVI và cuộc chiến chống lạm dụng trong Giáo hội, ngài để lại di sản gì?

Chuyên gia vatican học Massimo Faggioli thảo luận về tiến bộ đạt được nhờ cách xử lý của Đức Bênêđictô XVI với các vụ lạm dụng tình dục và bạo lực trong Giáo hội, cũng như những thiếu sót của ngài.

lavie.fr, Sophie Lebrun, 2023-01-06

Đức Bênêđictô XVI tại Vatican ngày thứ tư 31 tháng 10 năm 2012.  GREGORIO BORGIA/AP/SIPA

Là người thực hiện các cải cách luật pháp vào cuối những năm 1990 và là nghệ nhân đối thoại với các nạn nhân trong suốt triều giáo hoàng của mình, Đức Bênêđictô XVI đã mở ra một bước đột phá trong cuộc chiến chống lạm dụng tình dục và bạo lực trong Giáo hội… nhưng ngài không xử lý được để ra khỏi tầm nhìn về gốc rễ của cái ác. Phân tích của Massimo Faggioli, giáo sư thần học và lịch sử tôn giáo tại Đại học Villanova, Philadelphia (Mỹ).

Đức Bênêđictô XVI là giáo hoàng đầu tiên gặp các nạn nhân bị lạm dụng trong Giáo hội và phát triển một diễn từ chính thức về ấu dâm được xem là “tội ác” đã rất hiện diện trong Giáo hội công giáo. Đó là một bước ngoặt như thế nào?

Giáo sư Massimo Faggioli. Đó là một bước ngoặt quan trọng. Đức Bênêđictô XVI biết các vấn đề lạm dụng khi biết hồ sơ vào cuối triều giáo hoàng của Đức Gioan Phaolô II; thêm nữa, đôi khi ngài cố gắng thay đổi mọi thứ. Ngài chỉ thành công khi làm từ năm 2005. Sau khi được bầu làm giáo hoàng, ngài có một bài diễn văn mới của Vatican về những vấn đề này: thừa nhận tội ác, gặp gỡ và xin lỗi “những người sống sót” và đặt ra các giáo luật mới.

Nhưng điều cũng đã thay đổi, là chính ngài lại thành mục tiêu của những câu hỏi liên quan đến những năm ngài làm tổng giám mục München. Chuyện này chưa bao giờ xảy ra trong triều giáo hoàng Đức Gioan-Phaolô II, tiền nhiệm của ngài. Tất cả vấn đề đặt vai trò của giáo hoàng thành trọng tâm trong cuộc khủng hoảng lạm dụng.

Sau khi được bầu làm giáo hoàng, Đức Bênêđictô XVI đã hành động chống lại một số kẻ gây hấn hàng loạt, những “đạo sư” trong các cộng đồng, bằng cách rút họ ra khỏi các môi trường giáo hội nơi họ hoành hành…

Ngài đã có những biện pháp cưỡng bức chống lại một số người sáng lập cộng đồng, đặc biệt là Marcial Maciel của Binh đoàn Chúa Kitô và cũng chống lại những người khác, ít phổ biến hơn, ít tai tiếng hơn. Điều này rất quan trọng, vì nghịch lý thay, trong tư cách là thần học gia, Joseph Ratzinger đã nhìn thấy tương lai của Giáo hội qua các cộng đồng sáng tạo nhỏ. Giờ đây, chúng ta đã nhận ra một số hành vi lạm dụng nào đó lại thích hợp ở những nơi này do các nhà lãnh đạo có sức lôi cuốn tạo ra.

Tại sao việc tập trung hóa các hồ sơ ở Vatican (hồi đó là một giải pháp để chận hồ sơ của các giám mục vào đầu những năm 2000) lại trở thành một trở ngại trong cuộc chiến chống lạm dụng?

Cuộc khủng hoảng lạm dụng đã thay đổi các điều khoản của cuộc tranh luận về mối quan hệ giữa tập trung hóa và giải tập trung trong tổ chức Giáo hội. Trong tư cách hồng y, Ratzinger cho rằng không phải các Hội đồng Giám mục địa phương có quyền hành động, vì họ không có thẩm quyền quản lý các giáo phận, cũng như nhiệm vụ cụ thể của từng giám mục trong vùng đất của mình.

Mặt khác, ngài nhận ra cuộc khủng hoảng lạm dụng có ảnh hưởng toàn cầu và cần có sự can thiệp từ Vatican, lập pháp, tư pháp. Giải tập trung hóa cuộc chiến chống lạm dụng có thể hiệu quả ở một số quốc gia, nhưng không hiệu quả ở một số quốc gia khác…

Trong những năm gần đây, nguyên giáo hoàng muốn nhắc lại phân tích của mình: theo ngài, xét cho cùng, gốc rễ của sự dữ trong cuộc khủng hoảng lạm dụng được tìm thấy trong cuộc cách mạng tình dục của những năm 1960. Một cách tiếp cận bị nhiều chuyên gia trong lãnh vực này của Giáo hội công giáo đánh giá là giới hạn, thậm chí là sai lầm…

Thứ nhất, không thể khẳng định Đức Bênêđictô XVI có thể đã chủ động hiệu đính văn bản cuối cùng có chữ ký của ngài về chủ đề này trong một bài tiểu luận được công bố vào tháng 4 năm 2019. Nhưng phải công nhận, ngài luôn có một tiếp cận về cuộc khủng hoảng lạm dụng qua cách nhìn đây là “chiến tranh văn hóa”, tức là cách nhìn về cuộc khủng hoảng lạm dụng do hậu quả của những xung đột văn hóa kéo dài đến hậu bán thế kỷ 20 cho đến ngày nay. Thực sự có những yếu tố văn hóa trong cuộc khủng hoảng lạm dụng, nhưng những yếu tố này không xuất hiện vào những năm 1960, chúng đã bắt đầu từ lâu: trong Giáo hội công giáo cũng như trong gia đình, trường học, trong lãnh vực thể thao…. Trên hết, văn bản năm 2019 tạo ấn tượng minh oan cho Giáo hội, mang lại một kiểu xá tội cho Giáo hội.

Cuối cùng, di sản của Đức Bênêđictô XVI để lại cho Giáo hội công giáo trong cuộc chiến chống lạm dụng là gì?

Đó là một di sản hỗn hợp. Một mặt nó mang lại một nhận thức mới cũng như một cải tiến quy định của pháp luật về vấn đề này. Nhưng cách tiếp cận của ngài với các vụ tai tiếng lạm dụng luôn được định hình bởi ý tưởng cho rằng các yếu tố nằm ngoài Giáo hội, nó đến từ ảnh hưởng văn hóa và xã hội. Ngài không bao giờ muốn đối diện với khả năng bắt nguồn từ gốc rễ giáo sĩ với cuộc khủng hoảng lạm dụng.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Các câu tweet của Đức Phanxicô tháng 12-2022

Các câu tweet của Đức Phanxicô tháng 12-2022

Hôm nay cũng như hôm qua, Chúa Giêsu đến với một thế giới không tiếp nhận Ngài, nhưng từ chối hoặc phớt lờ Ngài như chúng ta vẫn thường làm với người khách lạ và người nghèo. Chúng ta đừng quên người tị nạn, người bị gạt ra ngoài lề xã hội, người cô đơn, các em bé mồ côi, các người già và các tù nhân. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 25 tháng 12-2022

Chúa Giêsu Hài đồng cùng với Mẹ Maria và Thánh Giuse, tỏa sáng lòng thương xót và ơn cứu độ cho gia đình nhân loại và cho từng gia đình. Ánh sáng này khuyến khích chúng ta mang hơi ấm tình người đến những gia đình đang gặp hoàn cảnh khó khăn. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 30 tháng 12-2022

Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài chia sẻ nhân tính và cuộc sống của chúng ta. Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta một mình, trong hân hoan cũng như trong đau khổ, vì Ngài là Emmanuen, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, là ánh sáng chiếu soi bóng tối và là sự hiện diện đồng hành với chúng ta trên con đường. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 29 tháng 12-2022

Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo hoàng danh dự Bênêđictô XVI, trong thinh lặng ngài tiếp tục cầu nguyện cho Giáo Hội. Chúng ta xin Chúa an ủi và nâng đỡ ngài trong chứng từ tình yêu này với Giáo hội cho đến cùng. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 28 tháng 12-2022

“Tất cả đều quy về tình yêu”, đó là tựa đề của Tông thư được công bố hôm nay nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày mất của Thánh Tiến sĩ Hội thánh Phanxicô Salê. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 28 tháng 12-2022

Xin tình yêu Thiên Chúa thể hiện ở Bêlem mang lại niềm an ủi cho tâm hồn chúng ta đang đau khổ trước thảm kịch chiến tranh Ukraine và các nơi khác trên thế giới. Chúng ta nhớ rằng, trong lịch sử nhân loại, lời cuối cùng là của Chúa vì “mọi sự đều thuộc về tình yêu”. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 28 tháng 12-2022

Cầu nguyện là cách tốt nhất để nói lên lời tạ ơn Chúa Giêsu, Đấng sẵn sàng bước vào nhà và trái tim chúng ta. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 27 tháng 12-2022

Chúng ta xin Hài Nhi sự mới mẻ của một trái tim có khả năng tha thứ: sức mạnh để cầu nguyện cho những người đã làm tổn thương chúng ta và thể hiện tinh thần cởi mở và hòa giải. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 26 tháng 12-2022

Bêlem cho chúng ta thấy sự đơn sơ của Thiên Chúa, Đấng mạc khải cho những ai có tâm hồn trong sạch và cởi mở. Chúng ta cảm động trước tình yêu Thiên Chúa, Đấng xuống thế làm người để cứu chúng ta. Chúng ta theo Chúa Giêsu, Đấng đã bỏ vinh quang của mình để cho chúng ta dự phần vào sung mãn của Ngài. Xin chúc anh chị em một Giáng sinh vui vẻ! Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 25 tháng 12-2022.

Thời đại của chúng ta cũng biết đến những cuộc xung đột ở Syria, ở Thánh địa, ở Lebanon, ở Sahel, ở Yemen… Xin Chúa hướng những khu vực này đến hòa bình và mang lại hòa giải cho lục địa châu Mỹ, cho Iran và cho Miến Điện để mọi đổ máu được chấm dứt. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 25 tháng 12-2022

Chúng ta hãy nhìn khuôn mặt của anh chị em chúng ta ở Ukraine, họ sống lễ Giáng sinh này trong bóng tối, trong giá lạnh hoặc phải xa nhà vì chiến tranh. Xin Chúa soi sáng tâm trí của những người có khả năng chấm dứt ngay cuộc chiến vô nghĩa này! Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 25 tháng 12-2022

Hôm nay cũng như hôm qua, Chúa Giêsu đến với một thế giới không tiếp nhận Ngài, nhưng từ chối hoặc phớt lờ Ngài như chúng ta vẫn thường làm với người khách lạ và người nghèo. Chúng ta đừng quên người tị nạn, người bị gạt ra ngoài lề xã hội, người cô đơn, các em bé mồ côi, các người già và các tù nhân. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 25 tháng 12-2022

Nếu chúng ta mong muốn một lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu và của bình an, chúng ta hãy nhìn vào khuôn mặt Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta! Trên khuôn mặt bé nhỏ ngây thơ này, chúng ta nhận ra khuôn mặt của những em bé đang khao khát hòa bình ở khắp nơi trên thế giới. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 25 tháng 12-2022

Thiên Chúa gần chúng ta đêm nay vì Ngài lo cho chúng ta. Từ máng cỏ, như lương thực cuộc sống cho đời chúng ta, Ngài nói với chúng ta: “Nếu con cảm thấy bị các biến cố làm kiệt quệ, nếu cảm giác tội lỗi và sự yếu đuối dày xé con, nếu con khao khát công lý, thì Cha ở bên con.” Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 24 tháng 12-2022

Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm chúng ta nên con cái của Ngài, nuôi dưỡng chúng ta bằng sự dịu dàng. Ngài đến để chạm vào trái tim chúng ta và nói với chúng ta, sức mạnh duy nhất thay đổi tiến trình lịch sử là tình yêu. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 24 tháng 12-2022

Chúa Giêsu xin chúng ta đến với thực tế khó khăn của mọi sự, đặt dưới chân máng cỏ lời bào chữa, biện minh và giả hình. Ngài được Mẹ Maria bảo bọc, Ngài muốn chúng ta mặc lấy tình yêu. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 24 tháng 12-2022

Nếu chúng ta thực sự muốn cử hành lễ Giáng sinh, chúng ta hãy khám phá lại sự kinh ngạc trước Thiên Chúa, Đấng đã trở nên bé nhỏ, Đấng không sinh ra trong huy hoàng của bề ngoài, nhưng trong khó nghèo của máng cỏ hang lừa. Để gặp Ngài, chúng ta phải đến đó, đến nơi Ngài ở, hạ mình xuống để trở nên bé nhỏ. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 24 tháng 12-2022

Chúng ta xin Đức Trinh Nữ Maria, Đấng của Mong chờ Ngọt ngào dạy chúng ta “tỉnh thức và cầu nguyện” để không bị chia trí khi chờ Con của Mẹ, và để khám phá ra sự hiện diện cứu độ của Ngài trong các sự việc trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 23 tháng 12-2022

Chúa trở nên Hài Nhi để rồi chịu đóng đinh trên thập giá. Trong sự yếu đuối này, toàn năng của Thiên Chúa được biểu lộ. Trong tha thứ, toàn năng của Thiên Chúa luôn hoạt động. Vì thế xin cho những món quà Noel của chúng ta là lòng biết ơn, hoán cải và bình an. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 22 tháng 12-2022

Trong ngày lễ Thiên Chúa là Hài nhi, chúng ta nghĩ đến các trẻ em Ukraine, các em đã gánh chịu quá nhiều đau khổ vì cuộc chiến vô nhân đạo này. Chúng ta nghĩ đến người dân Ukraine, họ bị tước hết tất cả những gì cần thiết để sống, chúng ta cầu nguyện xin Chúa sớm mang hòa bình đến cho họ. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 21 tháng 12-2022

Chúa Thánh Thần giúp chúng ta nhận ra tình phụ tử của Thiên Chúa. Chúng ta có một người Cha dịu dàng, trìu mến yêu thương, luôn yêu thương chúng ta: khi chúng ta trải nghiệm điều này, trái tim chúng ta mềm ra, nghi ngờ và sợ hãi tan biến. Không có gì có thể cưỡng lại tình yêu này. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 21 tháng 12-2022

Trong thời điểm khó khăn hiện nay, chúng ta đáp ứng lời kêu gọi của Chúa Thánh Thần với đức tin để thể hiện tình đoàn kết với những người chúng ta gặp gỡ, những người trông cậy vào sự hỗ trợ trong tình huynh đệ của chúng ta. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 20 tháng 12-2022

Trong cuộc sống và trong đức tin, điều quan trọng là giữ gốc rễ. Thánh Phaolô nhắc chúng ta nền tảng qua đó chúng ta phải bám rễ để cuộc sống được vững vàng: cắm rễ sâu vào Chúa Giêsu Kitô. Đó là điều cây thông Noel nhắc chúng ta trong dịp lễ Giáng Sinh: cắm rễ sâu vào Chúa Giêsu. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 19 tháng 12-2022

Chúng ta xin Đức Mẹ đánh động trái tim của những người có thể ngăn chặn cuộc chiến ở Ukraine. Chúng ta đừng quên những đau khổ của người dân Ukraine, đặc biệt là trẻ em, người già, người bệnh. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 18 tháng 12-2022

Khi chúng ta thấy mình gặp khủng hoảng, chúng ta không nên quyết định cách vội vàng hoặc theo bản năng, nhưng, giống như Thánh Giuse, chúng ta “cân nhắc mọi sự”, và dựa trên sự chắc chắn tiềm ẩn lòng thương xót của Thiên Chúa. (Mt 1,18-24) Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 18 tháng 12-2022

Xin Đức Mẹ dắt tay chúng con trong những ngày chuẩn bị lễ Giáng Sinh, xin Mẹ giúp chúng con nhận ra nơi sự nhỏ bé của Hài Nhi sự cao cả của Thiên Chúa là Đấng đang đến. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 17 tháng 12 năm 2022

Thiên Chúa trung thành với lời hứa của Ngài, Ngài hướng dẫn bước đi hòa bình của chúng ta, hướng dẫn những người bước đi trên Trái đất với cái nhìn hướng về Thiên đàng. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 16 tháng 12 năm 2022

Đã đến lúc chúng ta dành thì giờ  để tự vấn, để học hỏi, trưởng thành và để mình được biến đổi, cả về mặt cá nhân lẫn về mặt cộng đoàn; một thời gian đặc biệt để chuẩn bị cho “ngày của Chúa”. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 16 tháng 12 năm 2022

Đôi khi chúng ta không thể nhận ra sự mới mẻ của Chúa, vì cho rằng chúng ta đã biết quá nhiều về Ngài. Vì thế Mùa Vọng là lúc đảo ngược các quan điểm, trong đó chúng ta cho phép mình ngạc nhiên trước sự vĩ đại của lòng thương xót Chúa. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 15 tháng 12 năm 2022

Chúng ta hãy nối lại sự gần gũi của chúng ta với những người tử đạo ở Ukraine, kiên trì cầu nguyện cho anh em chúng ta đang chịu đau khổ. Chúng ta nên có một Giáng sinh khiêm tốn với những món quà khiêm tốn và gửi những gì chúng ta tiết kiệm được cho người dân Ukraine, những người đang cần đến. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 14 tháng 12-2022

Mùa Vọng nhắc chúng ta thái độ cơ bản của kitô hữu: cảnh giác. Chúng ta chờ Chúa đến khi chú ý đến những người anh em mong manh nhất đang gõ cửa trái tim chúng ta. Chúng ta xin Chúa gìn giữ chúng ta luôn cảnh giác trong khiêm tốn và sẵn sàng. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 14 tháng 12-2022

Chuẩn bị máng cỏ cho Chúa Giêsu, một lần nữa chúng ta biết được Chúa của chúng ta là ai. Ngài là Thiên Chúa của hiền lành khiêm nhường, của lòng thương xót và tình yêu, là Đấng luôn can thiệp, tôn trọng tự do và các lựa chọn của chúng ta. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 13 tháng 12-2022

Thời gian khó khăn này cũng là thời gian cứu độ, trong đó, Thiên Chúa qua Đức Trinh Nữ Maria tiếp tục ban cho chúng ta Con của Người, Đấng mời gọi chúng ta sống tình huynh đệ, loại bỏ tính ích kỷ, dửng dưng, đối kháng, giúp chúng ta lo cho nhau. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 12 tháng 12-2022

Ở ngã rẽ đau thương của lịch sử đương đại, Thiên Chúa vẫn gởi đến cho chúng ta Mẹ của Con Ngài. Đức Mẹ Guadalupe mời gọi chúng ta phó thác cho “Thiên Chúa thật, vì Ngài mà chúng ta sống”, hướng dẫn chúng ta, với niềm vui và lòng tin tưởng, để tái khẳng định chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 12 tháng 12-2022

Tôi xin cám ơn tất cả những ai đã theo dõi tôi trên tài khoản Twitter đã mở ra cách đây 10 năm để loan báo niềm vui Tin Mừng. Chúng ta tiếp tục xây dựng mạng lưới này như một không gian tự do để thúc đẩy gặp gỡ, đối thoại và đánh giá cao những gì liên kết chúng ta. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 12 tháng 12-2022

Thời gian khó khăn này cũng là thời gian cứu độ, trong đó, Thiên Chúa qua Đức Trinh Nữ Maria tiếp tục ban cho chúng ta Con của Người, Đấng mời gọi chúng ta sống tình huynh đệ, loại bỏ tính ích kỷ, dửng dưng, đối kháng, giúp chúng ta lo cho nhau. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 12 tháng 12-2022

Ở ngã rẽ đau thương của lịch sử đương đại, Thiên Chúa vẫn gởi đến cho chúng ta Mẹ của Con Ngài. Đức Mẹ Guadalupe mời gọi chúng ta phó thác cho “Thiên Chúa thật, vì Ngài mà chúng ta sống”, hướng dẫn chúng ta, với niềm vui và lòng tin tưởng, để tái khẳng định chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 12 tháng 12-2022

Tôi xin cám ơn tất cả những ai đã theo dõi tôi trên tài khoản Twitter đã mở ra cách đây 10 năm để loan báo niềm vui Tin Mừng. Chúng ta tiếp tục xây dựng mạng lưới này như một không gian tự do để thúc đẩy gặp gỡ, đối thoại và đánh giá cao những gì liên kết chúng ta. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 12 tháng 12-2022

Tôi xin anh chị em cầu nguyện trước máng cỏ để Chúa giáng sinh mang bình an đến cho trẻ em trên toàn thế giới, đặc biệt những trẻ em phải sống những ngày khủng khiếp và đen tối của chiến tranh. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 11 tháng 12-2022

Tôi đau buồn và lo lắng khi theo dõi tin tức ở Nam Sudan về các cuộc đụng độ bạo lực trong những ngày gần đây. Chúng ta cùng cầu nguyện xin Chúa ban hòa bình và hòa giải dân tộc, cho các cuộc tấn công chấm dứt và cho thường dân luôn được tôn trọng. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 11 tháng 12-2022

Thiên Chúa luôn vĩ đại hơn chúng ta tưởng tượng: công trình của Ngài thật đáng kinh ngạc so với các toan tính của chúng ta; hành động của Ngài vượt quá nhu cầu và mong đợi của chúng ta. Đó là lý do vì sao chúng ta không bao giờ được ngừng đi tìm Ngài và hoán cải để theo hình ảnh thật của Ngài. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 11 tháng 12-2022

Thánh Gioan Tẩy giả không biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế được mong đợi, ngài sai các môn đệ đi kiểm tra. Ngay cả người có đức tin lớn nhất cũng đi qua đường hầm của nghi ngờ. Đây không phải là một chuyện xấu. Ngược lại, đôi khi nó rất cần thiết cho sự phát triển thiêng liêng. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 11 tháng 12-2022

Bảo vệ nhân phẩm của những người yếu đuối nhất bằng cách khẳng định quyền của họ, đó là góp phần làm cho tình huynh đệ nhân loại lớn lên và không làm xấu đi hình ảnh Thiên Chúa đã in dấu nơi mỗi người. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 10 tháng 12-2022 #HumanRightsDay

Nếu chúng ta mở rộng vòng tay tiếp nhận Chúa Kitô, thì chúng ta cũng sẽ tiếp nhận người khác với lòng tin tưởng và khiêm tốn. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 9 tháng 12-2022

Chúng ta phó thác cho Mẹ Thiên Chúa lời cầu bàu cho ước vọng hòa bình của toàn thế giới, đặc biệt cho đất nước Ukraine tử đạo, vốn chịu nhiều đau khổ. Với sự giúp đỡ của Chúa, hòa bình là có thể; giải trừ quân bị là có thể. Xin Đức Mẹ giúp chúng ta hoán cải theo kế hoạch của Thiên Chúa. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 8 tháng 12-2022

Chúng ta phó thác cho Mẹ Thiên Chúa lời cầu bàu cho ước vọng hòa bình của toàn thế giới, đặc biệt cho đất nước Ukraine tử đạo, vốn chịu nhiều đau khổ. Với sự giúp đỡ của Chúa, hòa bình là có thể; giải trừ quân bị là có thể. Xin Đức Mẹ giúp chúng ta hoán cải theo kế hoạch của Thiên Chúa. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 8 tháng 12-2022 Qua bí tích rửa tội, chúng ta mãi mãi trở thành con yêu dấu của Thiên Chúa. Đó là nét đẹp nguyên thủy của chúng ta, chúng ta phải vui mừng! Mẹ Maria ngạc nhiên trước ân phúc đã làm cho Mẹ đẹp ngay từ giây phút đầu tiên trong đời, làm chúng ta phải kinh ngạc trước vẻ đẹp của chúng ta. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 8 tháng 12-2022

Trong bài Tin Mừng hôm nay (Lc 1, 26-38), thiên thần không gọi tên Mẹ Maria, nhưng gọi bằng một tên mới: đầy ơn phước. Đầy ơn phước, và vì thế là không có tội, là tên Thiên Chúa ban cho Mẹ và chúng ta mừng lễ hôm nay. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 8 tháng 12-2022 Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên #ImmaculateConception

Đức Trinh Nữ Maria là “con đường” mà chính Thiên Chúa đã chuẩn bị để đến thế gian. Chúng ta cùng cầu nguyện bằng cách phó thác cho lời chuyển cầu của Mẹ, trong mong đợi ơn cứu độ và bình an cho tất cả mọi người nam nữ trong thời đại chúng ta. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 8 tháng 12-2022 Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội

Chúng ta hãy tin tưởng vào Thiên Chúa của vũ trụ, Đấng yêu thương chúng ta vô cùng và biết chúng ta có thể cùng Ngài xây dựng một điều gì đó tuyệt vời, vĩnh cửu. Cuộc đời của các thánh cho chúng ta thấy điều này một cách đẹp nhất. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 7 tháng 12-2022

Tôi xin chúc anh chị em một Mùa Vọng tốt đẹp được tạo thành từ những cử chỉ nhỏ của hòa bình mỗi ngày: tiếp nhận, thấu hiểu, gần gũi, tha thứ và phục vụ… Những cử chỉ từ trái tim, như bước chân hướng về Bêlem, hướng về Chúa Giêsu, Vua bình an. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 6  tháng 12-2022

Lời Chúa ở với chúng ta trong các tình huống hàng ngày, lắng nghe đau khổ của anh chị em chúng ta, nghe tiếng kêu của người nghèo, của bạo lực và bất công đang làm tổn thương xã hội, để chúng ta không là người tín hữu kitô dửng dưng, nhưng năng động, sáng tạo và sứ ngôn. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 5 tháng 12-2022

Chúng ta hãy nghe tiếng kêu yêu thương của Thánh Gioan Tẩy Giả để trở về với Chúa và đừng để Mùa Vọng này trôi qua như năm tháng trôi qua, vì đây là thời gian ân sủng cho chúng ta, bây giờ và ở đây! Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 4 tháng 12-2022

Trong Tin Mừng hôm nay (Mt 3, 1-12), Thánh Gioan Tẩy Giả nói: “Hãy sinh hoa trái để chứng tỏ lòng sám hối!” Đó là tiếng kêu yêu thương, như tiếng kêu của người cha khi thấy đứa con tự hủy đời mình và nói với con: “Con đừng lãng phí đời con!”. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 4 tháng 12-2022

Hôm nay chúng ta nhớ đến tất cả những người bị khuyết tật, đặc biệt những người đau khổ vì họ sống trong bối cảnh chiến tranh hoặc bị khuyết tật do chiến đấu. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 3 tháng 12-2022 @laityfamilylife

Tất cả chúng ta đều được gọi để cùng nhau phát triển một xã hội đổi mới hướng tới tự do, công lý và hòa bình, vượt qua mọi hình thức bất bình đẳng và phân biệt đối xử để không ai có thể làm người khác thành nô lệ. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 2 tháng 12-2022

Chúng ta cùng cầu nguyện để các tổ chức thiện nguyện và hiệp hội nhân đạo tìm được những người sẵn sàng dấn thân vì lợi ích chung và tìm kiếm những hình thức cộng tác mới ở cấp độ quốc tế. Câu tweet của Đức Phanxicô ngày 1 tháng 12-2022. #ClickToPray

 

Chôn cất Đức Bênêđictô XVI xong để lại Đức Phanxicô một mình, không ràng buộc

Chôn cất Đức Bênêđictô XVI xong để lại Đức Phanxicô một mình, không ràng buộc

Những người cánh tự do ủng hộ Đức Phanxicô, một giáo hoàng không bao giờ e ngại thực thi quyền lực, giờ đây họ dự trù cho một thời kỳ thay đổi bùng nổ muộn.

Đức Phanxicô trong tang lễ Đức Bênêđictô XVI ngày thứ năm 5 tháng 1-2023. / Andrew Medichini/Associated Press

nytimes.com, Jason Horowitz, 2023-01-07

Kể từ ngày ở trên cương vị giáo hoàng cách đây gần mười năm, Đức Phanxicô đã phải phải giải quyết một vấn đề phức tạp chưa từng có trong Giáo hội công giáo la mã: cùng sống ở Vatican với người tiền nhiệm về hưu của mình. Những người ủng hộ Đức Phanxicô cố gắng giảm thiểu sự bất thường giữa hai giáo hoàng, nhưng điều này cũng tạo hoang mang, đặc biệt khi những người theo đường lối bảo thủ của giáo hoàng danh dự Bênêđictô XVI tìm cách che đậy sự phản đối mạnh mẽ của họ trong chiếc áo chùng trắng của nhà lãnh đạo của họ.

Bây giờ sau khi chôn cất Đức Bênêđictô XVI xong, Đức Phanxicô người không bao giờ ngại ngùng khi thực thi quyền lực, lần đầu tiên ngài không bị ràng buộc.

Tổng giám mục Oswald Gracias, tổng giáo phận Mumbai nói khi ngài ở Quảng trường Thánh Phêrô trước tang lễ: “Bây giờ, tôi chắc chắn ngài sẽ thúc đẩy.”

Những người cánh tự do ủng hộ Đức Phanxicô, họ thường ngần ngại trước việc thúc đẩy các cải cách lớn đang mong chờ cho một thời kỳ thay đổi bùng nổ muộn.

Nhà báo Gerard O’Connell, đặc phái viên của trang America ở Vatican tin rằng, “ngài đã suy tính trước”: “Điều thay đổi bây giờ là phe đối lập sẽ không có nhân vật để họ tập hợp, để họ thao túng, Đức Bênêđictô XVI. Đức Phanxicô có một chương trình nghị sự rất rõ ràng.”

Nhà báo O’Connell, tác giả quyển “Cuộc bầu chọn giáo hoàng Phanxicô: Câu chuyện bên trong Mật nghị đã thay đổi lịch sử,” đã hình dung tương lai trước mắt của các quyết định nhân sự nhanh chóng hơn và đặt nhiều giáo dân hơn lên nắm quyền. Ông nói đó là một tài liệu mới về luân lý, tính dục và ngừa thai. Ông cũng dự đoán việc xem xét lại các vấn đề lớn.

Thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô năm 2015. Dù từ nhiệm, Đức Bênêđictô XVI vẫn có ảnh hưởng trong Giáo hội. Tony Gentile/Reuters

Đức Phanxicô đã cho phép tranh luận về các chủ đề quan trọng mà trước đây cấm kỵ, như hội nhập hơn với người đồng tính, trao cho phụ nữ những vai trò lớn hơn trong Giáo hội. Năm 2021, ngài dường như sẵn sàng cho phép các ông đã lập gia đình ở những vùng xa xôi như Amazon được làm linh mục. Và khi đó đã có một biểu hiện chống đối bất ngờ từ Đức Bênêđictô XVI hoặc từ những người nói nhân danh ngài, có lẽ đã góp phần làm cho Đức Phanxicô rút lui, ngài để cánh cửa mở.

Vốn đã triệt để, quyền lãnh đạo của Đức Phanxicô trong Giáo hội ngày càng được củng cố bởi hệ thống phân cấp theo hình ảnh của ngài. Từ đây đến cuối năm, gần như chắc chắn Đức Phanxicô sẽ họp công nghị hồng y để chọn hồng y. Vì thế các giám mục được chọn sẽ chiếm hai phần ba Hồng y đoàn, túc số cần thiết để bầu chọn giáo hoàng tiếp theo.

Con số này có thể còn cao hơn nữa nếu ngài còn nắm quyền cho đến cuối năm 2024, khi cuộc họp thứ hai trong số hai cuộc họp lớn của các giám mục trên thế giới mà ngài triệu tập sẽ kết thúc. Cái gọi là Thượng hội đồng, bị những người thân Đức Bênêđictô XVI chê bai, là chu toàn tầm nhìn của Đức Phanxicô nhằm thúc đẩy sự đồng thuận cho những thay đổi lớn trong giáo hội.

Dù tất cả vẫn còn trong tương lai, nhưng điều gần như chắc chắn, đó là Đức Phanxicô mong muốn chấm dứt những bất bình trong quá khứ. Ngày thứ sáu, một ngày sau tang lễ Đức Bênêđictô XVI, ngài dường như cố gắng dập tắt sự càu nhàu của những người trung thành với Đức Bênêđictô, họ chỉ trích ngài nói ngắn gọn về Đức Bênêđictô XVI trong bài giảng và nhiều lần đã làm giáo hoàng danh dự thất vọng trong mười năm qua, khi trích dẫn chính lời của Đức Bênêđictô XVI về việc tránh xa những điều tầm thường và trần tục và đặt đức tin lên trên tất cả.

Trong một nhận xét đã được giải thích rộng rãi ở Vatican như một phản ứng trực tiếp với những lời phàn nàn của tổng giám mục thư ký riêng Georg Gänswein của Đức Bênêđictô XVI, Đức Phanxicô giảng trong thánh lễ, “Chúng ta thờ phượng Thiên Chúa chứ không thờ chính mình; chúng ta thờ phượng Thiên Chúa chứ không thờ thần tượng giả dối bị quyến rũ bởi sự quyến rũ của uy tín hoặc quyền lực, hoặc quyến rũ của tin tức giả.”

Kỷ nguyên mới cũng kết thúc công việc kỳ lạ của những người có trách nhiệm trong Giáo hội phủ nhận bất kỳ sự khó xử nào trong thời hai giáo hoàng.

Hồng y Gracias nói, có tính liên tục giữa Đức Bênêđíctô, người mà ngài ngưỡng mộ và đã phong hồng y cho ngài và Đức Phanxicô, người mà ngài nghĩ là Đức Bênêđíctô luôn là người ủng hộ.

Hồng y Juan José Omella của Tây Ban Nha cho biết trong ngày tang lễ của Đức Bênêđictô XVI: “Đức Phanxicô không bị ảnh hưởng.”

Tổng giám mục Mario Iceta Gavicagogeascoa, giáo phận Burgos, Tây Ban Nha đồng ý: “Không có hai giáo hoàng. Đức Bênêđictô XVI đã về ở ẩn ở đan viện Mẹ Giáo hội, vì vậy chỉ có một giáo hoàng, giáo hoàng Phanxicô.”

Nhưng sau cái chết của Đức Bênêđictô XVI, mọi tính toán ở Vatican rõ ràng đã thay đổi.

Ngày thứ năm 5 tháng1, giám mục người Pháp Jean-Yves Riocreux cho biết: “Thật khó để có hai giáo hoàng hưu trí.”

Điều khác biệt chính với Đức Phanxicô sau cái chết của Đức Bênêđictô là “bây giờ ngài có thể từ chức.”

Trong khi Đức Phanxicô đã nghĩ đến viễn cảnh nghỉ hưu, các nhà phân tích của Vatican nói, nếu sức khỏe của ngài vẫn ổn định và ngài tiếp tục yêu quý công việc, thì ngài sẽ không vội vàng giao mọi việc cho người kế vị, người có thể xóa bỏ di sản của ngài, giống như ngài đã làm với Đức Bênêđictô.

Thật vậy, những người bảo thủ chỉ trích Đức Phanxicô đã lo sợ điều tồi tệ nhất.

Ông Rod Dreher, một người theo chủ nghĩa truyền thống cực hữu đã rời Giáo hội nhưng vẫn tích cực hoạt động trong đường lối của mình, ngày thứ năm ông viết trên Twitter điều mà ông xem là bài giảng tầm thường của Đức Phanxicô đối với Đức Bênêđictô XVI: “Dường như Đức Phanxicô đã tuyên bố ‘năm zero’, giã từ tất cả những chuyện này, v.v.. Thời gian xấu sẽ đến với người công giáo chính thống trung thành.”

Nhưng một số nhà phân tích Vatican có ý kiến ngược lại, theo đó bây giờ Đức Phanxicô sẽ không là lực lượng duy nhất có bàn tay tự do. Họ nói, những người bảo thủ và những người theo chủ nghĩa truyền thống thất vọng sẽ không còn cảm thấy bị Đức Bênêđictô XVI trừng phạt, ngài lúc nào cũng nâng đỡ cho Đức Phanxicô bằng cách nói họ hãy làm dịu đi. Thay vào đó, với việc Đức Phanxicô đã giáng búa xuống các thánh lễ la-tinh cổ kính yêu thích của họ, một số người dự đoán họ sẽ tiến hành một cuộc chiến thậm chí còn công khai hơn để chống lại Đức Phanxicô.

Thánh lễ la-tinh năm ngoái tại Đền thánh Joseph ở Detroit. Đức Phanxicô phản đối việc sử dụng tiếng la-tinh cho nghi thức, ngay cả khi một số người bảo thủ đã tìm cách làm sống lại truyền thống.. Nick Hagen / The New York Times

Đức Phanxicô dường như không quá lo lắng. Ngài gần như phớt lờ những lời chỉ trích của họ, năm 2019, ngài trả lời câu hỏi về khả năng ly giáo của những người bảo thủ trong Giáo hội công giáo: “Tôi cầu nguyện để không ly giáo, nhưng tôi không sợ.”

Ông O’Connell nói, hơn cả phe đối lập bảo thủ, điều đã cản Đức Phanxicô trong các vấn đề lớn là việc đi tìm đồng thuận của tập thể để đưa toàn thể Giáo hội tiến tới những thay đổi lớn. Ông nói: “Mục đích của ngài là giữ sự hiệp nhất của Giáo hội và đó là điều ngược lại.”

Đức Phanxicô hy vọng sẽ có được đồng thuận, hoặc một điều gì đó gần giống như vậy, qua hai cuộc họp lớn của các giám mục trong hai năm tới. Nhưng ở Vatican, hai năm là đủ thời gian để có điều gì đó không ổn xảy ra và làm cho Đức Phanxicô chậm lại.

Trước sự thất vọng của những người chỉ trích mình, Đức Phanxicô cho thấy sự nhạy bén về chính trị, hiểu biết về truyền thông và một bề ngoài bình tĩnh trước những vụ bê bối và khủng hoảng đã làm cho Đức Bênêđictô đi khập khiễng trong suốt 8 năm làm giáo hoàng của mình.

Đức Bênêđictô XVI thường vấp phải những sai lầm chính trị. Ngài công khai thừa nhận ngài không phải là nhà quản trị và thích sách vở thần học hơn là mục tử quyền năng nhất thế giới. Chung quanh ngài là những người Ý mưu mô ở Giáo triều, bộ máy quan liêu la-mã cai trị Giáo hội, cuối cùng ngài đã từ nhiệm giữa những vụ tai tiếng âm thầm ở Vatican, kể cả việc một quản gia đánh cắp tài liệu của ngài.

Ngược lại, Đức Phanxicô dựa vào một số giáo sĩ tin cậy, thường là các tu sĩ Dòng Tên, những người hoạt động bên ngoài cơ cấu quyền lực truyền thống của Vatican. Ngài cho thấy có khả năng phục hồi sau những sai lầm và xoay sở để ngăn chặn âm mưu thông thường của Vatican bằng sự kết hợp với những người được ngài tuyển chọn tốt và cách quản lý nghiêm ngặt.

Nếu với Đức Bênêđictô XVI, ngài chỉ mấp máy, thì với Đức Phanxicô, sẽ có người mất ghế.

Hồng y Giovanni Angelo Becciu đã bị Đức Phanxicô cách chức năm 2020 sau khi dính líu vào một vụ tai tiếng tài chính. / Guglielmo Mangiapane/Reuters

Khi vụ tai tiếng xấu hổ bùng nổ năm 2020 về việc dùng sai quỹ để mua tòa nhà ở London, Đức Phanxicô đã công khai làm nhục một trong những hồng y hàng đầu của ngài và tước bỏ các đặc quyền hồng y kể cả việc bỏ phiếu trong mật nghị.

Trong cuộc khủng hoảng thực chất hơn, khi Đức Phanxicô đứng về phía các giám mục của ngài ở Chi-lê một cách sai trái trong các vụ lạm dụng tình dục, ngài cáo buộc các nhà báo “vu khống”, nhưng chính ngài đã đảo ngược chính mình, ra lệnh điều tra và đã đồng ý cho một số giám mục từ chức.

Ông Joshua J. McElwee, biên tập viên của The National Catholic Reporter nói: “Ngài cho thấy có một khả năng đáng kinh ngạc trong việc thay đổi suy nghĩ và thích nghi với việc biết mình đã sai.”

Hay như nhà báo John L. Allen Jr., biên tập viên của Crux, trang chuyên đưa tin về Vatican và Giáo hội công giáo cho rằng, về mặt chính trị, Đức Phanxicô và nhóm của ngài “có thể thấy một vụ đắm tàu sắp xảy ra, và cố gắng vượt lên trước theo cách mà Đức Bênêđictô XVI và nhóm của ngài không bao giờ có thể làm được.”

Sự hiểu biết về quản lý khủng hoảng, chương trình nghị sự rõ ràng và phe đối lập bảo thủ hiện đang bị phân tán đã đặt Đức Phanxicô vào một vị trí để thực hiện những thay đổi mà những người ủng hộ ngài rất mong muốn.

Linh mục Alberto Fernandez ở Madrid đến Rôma dự tang lễ của Đức Bênêđictô XVI nói: “Theo thời gian, việc nhìn thấy hai giáo hoàng ở Vatican đã trở nên bình thường”. Bây giờ có một lần nữa, linh mục mong thấy Đức Phanxicô đi trên con đường cũ: “giáo hoàng Phanxicô đã gần 10 năm.” “Đó là sự thay đổi.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Ratzinger đích thực

“Phong thánh ngay” cho Đức Bênêđictô XVI, một cảnh báo nghiêm trọng

“Phong thánh ngay” cho Đức Bênêđictô XVI, một cảnh báo nghiêm trọng

katholisch.de, Massimo Faggioli, 2023-01-09

 Giáo dân trong tang lễ Đức Bênêđictô XVI / © Cristian Gennari/Romano Siciliani/KNA

Giáo sư thần học Massimo Faggioli cảnh báo chống lại việc phong thánh cho giáo hoàng. Trong phần đóng góp của ông, ông khuyên nên nhìn vào quá khứ và hiện tại. Giáo hội đang ở trong “cuộc khủng hoảng sâu đậm nhất kể từ thời Cải cách” – sự tự thánh hóa giáo hoàng gây tai hại nhiều hơn là có lợi.

Ngay cả trước tang lễ đã có yêu cầu “phong thánh ngay lập tức”, santo subito, lặp lại những gì đã xảy ra sau cái chết của Đức Gioan Phaolô II (1978-2005) và với việc phong thánh cho ngài cùng với Đức Gioan XXIII (1958 đến 1963) tháng 4 năm 2014. Đó là chuyện chúng ta đã thấy. Tuy nhiên nhìn bối cảnh lịch sử một cách lớn hơn, chúng ta sẽ hiểu được tầm quan trọng của vấn đề.

Trước hết, chúng ta nên nhớ việc phong thánh cho các giáo hoàng vừa cũ vừa mới. Trong số 48 giáo hoàng đầu tiên qua đời trước năm 500, 47 người đã được phong thánh; một nửa trong số họ tử đạo. Việc phong thánh cho các giáo hoàng trong 15 thế kỷ tiếp theo là rất hiếm, nhưng đã tăng lên với tốc độ chóng mặt trong những thập kỷ gần đây.

Sự thay đổi thực sự bắt đầu vào thế kỷ 19 với điều mà các nhà sử học và thần học gọi là “la-mã hóa” hay “giáo hoàng hóa” của công giáo, đặc biệt là với Công đồng Vatican I (1869-1870), với tuyên bố về tính tối thượng và không thể sai lầm của giáo hoàng. Điều này dẫn đến việc lãnh đạo Giáo hội hướng về giáo hoàng nhiều hơn, nhưng cũng dẫn đến các hình thức mới trong việc tôn kính giáo hoàng.

Đức Gioan-Phaolô II và các vụ phong thánh

Khuynh hướng phong thánh cho các giáo hoàng gia tăng dưới thời Đức Gioan Phaolô II, ngài đã phong thánh cho một số  lớn các thánh (giáo dân, phụ nữ và những người đã lập gia đình). Ngài cũng rút ngắn thời gian chờ đợi 50 năm trong tiến trình phong thánh từ xuống còn 5 năm. Với Mẹ Têrêxa Calcutta, ngài miễn trừ thời gian rút ngắn này. Khi Đức Gioan Phaolô II qua đời tháng 4 năm 2005, Đức Bênêđictô XVI tăng thời gian chờ cho người tiền nhiệm của mình.

Từ năm 2000 đến năm 2022, ba giáo hoàng của Công đồng Vatican II (Gioan XXIII, Phaolô VI và Gioan Phaolô II) đã được phong chân phước và phong thánh. Giáo hoàng Gioan-Phaolô I tại vị chỉ 33 ngày, được Đức Phanxicô phong chân phước ngày 4 tháng 9 năm 2022 và đang tiến hành tiến trình phong thánh. Thế kỷ 20 có tám giáo hoàng, bắt đầu với Đức Piô X (chưa có Đức Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô): một nửa đã là thánh. Ba giáo hoàng cuối cùng lần lượt được phong thánh.

Tuy nhiên khuynh hướng có từ thế kỷ 20 này nên dừng lại vì ba lý do. Một lý do cho điều này là việc phong thánh cho các giáo hoàng ngày nay có nghĩa là phong thánh cho chức vụ giáo hoàng ở Vatican. Ngược lại, quá trình phong thánh (về mặt kỹ thuật nó là một quá trình) từng ít bị Vatican kiểm soát hơn. Mãi cho đến cuộc Cải cách Phản đối thế kỷ 17, Giáo triều la-mã ngày càng nắm quyền kiểm soát quá trình này. Vào thời điểm đó, việc phong thánh cho các giáo hoàng vẫn là ngoại lệ. Bây giờ, giáo hoàng tự phong thánh mà không cần có giai đoạn phân định trong toàn Giáo hội và trải dài theo thời gian về sự khôn ngoan của việc phong thánh cho giáo hoàng. Đây có thể được xem là cách để che chắn cho giáo hoàng khỏi những phán xét về mặt đạo đức và lịch sử, có thể nói là củng cố những tuyên bố mà Vatican I đã đưa ra về địa vị giáo hoàng. Đồng thời, Vatican dường như đang phản ứng với một logic mang tính truyền thông đại chúng hơn là giáo hội: với việc phong thánh, họ muốn chứng minh tính truyền thông hóa của giáo hoàng đương thời.

Massimo Faggioli là giáo sư tại Khoa Thần học và Nghiên cứu Tôn giáo tại Đại học Villanova ở Philadelphia, Mỹ. / © Wenceslao Cruz

Lý do thứ hai là chính sách của Giáo hội đằng sau các quyết định phong thánh hay không phong thánh cho một giáo hoàng. Giai đoạn sau Công đồng Vatican II mang tính hướng dẫn. Đề xuất của Công đồng Vatican II về việc phong thánh cho Đức Gioan XXIII, người đã qua đời trong công đồng ngày 3 tháng 6 năm 1963, trong và thông qua công đồng (một cách tuyên bố phong thánh cũ) đã gây ra một loạt chống đối của những người công giáo bảo thủ. Một tập hợp các đối trọng đã được tạo ra: so sánh ngài với việc phong chân phước Đức Piô IX năm 2000 và phong thánh Đức Gioan Phaolô II năm 2014. Vào thế kỷ 19, ngầm hiểu việc nâng giáo hoàng lên vị trí tối cao và không thể sai lầm là một hành động chính trị – một phần chống lại tính hiện đại thế tục, một phần là chiếm lại các cơ chế điển hình của tính hiện đại chính trị và nhà nước hiện đại. Sự khác biệt so với thế kỷ 19 là việc các giáo hoàng được các giáo hoàng phong thánh giờ đây đã trở thành một phần của chính trị nội bộ công giáo và không có lợi cho sự hiệp nhất Giáo hội.

Lý do thứ ba liên quan đến cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục của hàng giáo sĩ. Cách giáo hoàng đối phó với lạm dụng tình dục của hàng giáo sĩ là vấn đề gây tranh cãi trong Giáo hội ngày nay và sẽ tiếp tục như vậy trong tương lai. Nếu Giáo hội công giáo muốn phát triển trong việc phân định thần loại như Đức Phanxicô kêu gọi để đối phó với cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục, thì thể chế phải ngừng phong thánh cho các giáo hoàng.

Gia hạn trong các vụ phong thánh cho giáo hoàng

Việc gia hạn phong thánh cho các giáo hoàng rất quan trọng để “tẩy rửa ký ức” đang phổ biến hiện nay. Điển hình cho các giai đoạn gần đây trong lịch sử của cuộc khủng hoảng lạm dụng trong Giáo hội công giáo, sự tập trung chú ý vào vai trò của Giáo triều Rôma, và từ đó là vai trò của các giáo hoàng trong việc xử lý các trường hợp cá nhân và vấn đề trong toàn thể. Khi một giáo hoàng phong thánh cho những người tiền nhiệm của mình, bây giờ như thể, thể chế Giáo hội vừa là người buộc tội, vừa là quan tòa vừa bồi thẩm đoàn.

Những thời gian đó đã qua lâu rồi. Danh tiếng của Đức Gioan Phaolô II đã bị tai tiếng vì việc xử lý các vụ lạm dụng, cả khi ngài là giám mục và giáo hoàng. Gần đây đã có những lời kêu gọi không tuyên xưng ngài là thánh vì cách xử lý lạm dụng của các giáo sĩ và vì thần học của ngài về phụ nữ và tình dục. Dù tôi chưa bao giờ được thuyết phục về sự khôn ngoan trong quyết định phong thánh cho Đức Gioan Phaolô II, nhưng tôi cũng phản đối ý tưởng loại việc phong thánh cho ngài (nếu điều đó thậm chí có thể thực hiện được chỉ bằng một quyết định hay bằng một hành động). Đối với việc các giáo hoàng vội vã phong thánh trong những thập kỷ gần đây, quyết định phong thánh cho Đức Gioan Phaolô II sẽ mang tính chất chính trị, như quyết định phong thánh cho ngài ngay sau khi ngài qua đời.

Theo giáo sư Massimo Faggioli, việc các giáo hoàng được phong thánh đã trở thành một phần của chính trị nội bộ Công giáo ngày nay. Hình ảnh Đức Gioan XXIII và Đức Gioan-Phaolô II / ©picture Alliance/Pressefoto ULMER/Markus Ulmer

Ba yếu tố này đã có trước khi Đức Bênêđictô XVI qua đời. Nó đóng một vai trò. Tuy nhiên, bây giờ có hai yếu tố mới rõ ràng cần xem xét, vì chúng tạo ra một tình huống khác với năm 2005.

Đầu tiên là vào năm 2005, những lời kêu gọi “phong thánh ngay” đến từ Phong trào Focolare. Họ làm những tấm bích chương giăng ở Quảng trường Thánh Phêrô, tuyên bố “phong thánh ngay” vào cuối bài giảng của hồng y Ratzinger và cuối thánh lễ an táng, kèm theo những tiếng hô “phong thánh ngay”. Sự bùng nổ lòng tôn kính với cố giáo hoàng Gioan-Phaolô II có thể xem là biểu hiện của tiếng nói quần chúng, vox populi – dù lời yêu cầu phong thánh này do một phong trào uy tín đưa ra. Lời kêu gọi phong thánh nhanh chóng sau đó được các phong trào và tiếng nói thể chế khác lặp lại, đáng chú ý là các hồng y và cả Đức Bênêđictô XVI cũng thuận tình chấp nhận.

Lần này cũng vậy, chúng ta đã nghe tiếng hô “phong thánh ngay” ở Quảng trường Thánh Phêrô trong tang lễ, dù im lặng hơn nhiều so với năm 2005. Trước tang lễ cũng đã có những tiếng nói trong thể chế như tiếng nói của tổng giám mục thư ký Georg Gänswein kêu gọi phong thánh, người đã tạo ra bầu không khí đặc biệt và khác thường trong việc đưa tin trên các phương tiện truyền thông trong những giờ đầu tiên sau khi Đức Bênêđictô qua đời.

Cũng là một bài học khôn ngoan và xây dựng để so sánh sự kín đáo và thận trọng của thư ký Đức Gioan XXIII, hồng y Loris Francesco Capovilla (1915-2016) sau cái chết của ngài năm 1963 cho đến khi ngài được phong chân phước và cuối cùng là phong thánh. Điều này rất quan trọng cho các yêu cầu phong thánh Đức Bênêđictô XVI được nêu lên cùng tiếng nói và đồng thời thúc đẩy một chương trình nghị sự về chính sách tín lý cụ thể (đặc biệt là về cải cách phụng vụ của Công đồng Vatican II và về thần học của Công đồng nói chung). Mối liên hệ này củng cố tầm quan trọng của giáo hội-chính trị đối với việc phong thánh nhanh chóng. Điều đáng chú ý ở đây là những phàn nàn về cải cách phụng vụ của Công đồng Vatican II đã biến tự sắc ‘Traditionis Custodes’ và qua đó là Đức Phanxicô trở thành mục tiêu luận chiến trong một cuộc tranh cãi đặc biệt gay gắt và gây chia rẽ (nhất là ở Hoa Kỳ, nơi tôi sống, làm việc và đi nhà thờ). Những xung đột này trong Giáo hội đã không tồn tại trong tang lễ của Đức Gioan-Phaolô II ngày 8 tháng 4 năm 2005 tại Quảng trường Thánh Phêrô khi giáo dân đòi ‘phong thánh ngay’ cho ngài.

Tổng giám mục Georg Ganswẹn nghĩ rằng Đức Bênêđictô XVI có thể được phong thánh. Ngay sau khi ngài qua đời, ông đã nói lên suy nghĩ này. Theo Massimo Faggioli, đây là một điều mới lạ. / © KNA/Cristian Gennari/Romano Siciliani

Yếu tố thứ hai không tồn tại vào năm 2005, đó là làn sóng khủng hoảng lạm dụng mới trong Giáo hội công giáo. Trong Năm Thánh 2000, Đức Gioan-Phaolô II xin tha thứ cho những lỗi lầm của Giáo hội, nhưng ngài không xin tha thứ cho việc giáo sĩ lạm dụng tình dục – khi đó không ai để ý. Vụ tai tiếng đầu tiên bùng ra năm 2002 với nghiên cứu “Đèn chiếu”, Spotlight của tờ Boston Globe. Nhưng khi Đức Gioan-Phaolô II qua đời, không có yêu cầu nào trong lãnh vực pháp lý giáo hội hoặc thế tục để có các thông tin về cách một giáo hoàng đã hành động trong các trường hợp cụ thể. Điều đó đã khác khi ngài được phong chân phước năm 2011, lúc đó đã có những tiếng nói đặt câu hỏi về sự thánh thiện của ngài trước cuộc khủng hoảng lạm dụng.

Báo cáo các vụ lạm dụng ở Munich

Kể từ đó, bóng tối cuộc khủng hoảng lạm dụng đã bao trùm lên triều giáo hoàng. Những nỗ lực của Vatican nhằm tăng tính minh bạch chỉ mới bắt đầu gần đây. Chúng ta nhớ lại vụ hồng y Theodore McCarrick chỉ được Tòa thánh công bố vào tháng 11 năm 2020. Cho đến triều giáo hoàng của Đức Bênêđictô XVI, không có giáo hoàng nào (còn sống hay đã qua đời) chú ý đến vấn đề này. Và điều này đã thay đổi mạnh mẽ trong những năm gần đây. Nhưng đó là một phần trong triều giáo hoàng của ngài (đặc biệt là từ năm 2010) và đời sống của ngài sau triều giáo hoàng (báo cáo về việc xử lý các trường hợp lạm dụng ở tổng giáo phận Munich và Freising của Đức, nơi ngài là tổng giám mục từ năm 1977 đến 1981 chỉ được công bố vào tháng 1 năm 2022 ).

Đức Bênêđictô XVI đã đưa cuộc chiến chống lạm dụng trong Giáo hội lên một tầm cao mới, ngài đưa ra các thủ tục chặt chẽ hơn và luật mới. Ngài là giáo hoàng đầu tiên gặp các nạn nhân bị lạm dụng và hành động chống lại những kẻ lạm dụng. Nhưng trước khi được bầu làm giáo hoàng, ngài đã là tổng giám mục, đã là hồng y bộ trưởng bộ Tín Lý trong hơn 20 năm. Đây cũng là thời điểm rất khó khăn cho các thần học gia công giáo, những người đã bị Bộ điều tra và trong nhiều trường hợp bị im tiếng, cũng như với các nữ tu.

Tất cả điều này đòi hỏi phải hết sức thận trọng trong vấn đề phong thánh cho các giáo hoàng, ngay cả với những người tôn trọng di sản và ký ức của Đức Bênêđictô XVI, họ không muốn làm hỏng và không muốn tạo ấn tượng bị bôi trắng. Tôi cũng nói điều này trong tư cách là người đã xuất bản năm 2008 phiên bản tiếng Ý một tập tiểu luận của Đức Bênêđictô XVI và dạy trong các lớp thần học, trong đó việc đọc các văn bản của Đức Bênêđictô XVI là điều bắt buộc. Đây không phải là phán xét về sự thánh thiện của Đức Bênêđictô XVI nhưng là vấn đề thời điểm và cần hiểu vấn đề phong thánh cho các giáo hoàng (chứ không chỉ riêng Đức Bênêđictô XVI) trong bối cảnh Giáo hội ngày nay.

Cuối cùng, chúng ta nên đánh giá cao và tôn trọng truyền thống kiềm chế của Giáo hội trong quá trình phong thánh. Gần bốn thế kỷ trước, giữa năm 1628 và 1634, giáo hoàng Urbanô VIII đã quyết định phải 50 năm sau khi ứng viên qua đời thì người đó mới có thể được phong thánh. Ngài phản ứng ở thời điểm có sự sùng kính mới dành cho các vị thánh mới liên tục xuất hiện. Cần phải khám phá lại khôn ngoan của quy tắc cổ xưa này, đặc biệt khi liên quan đến việc phong chân phước và phong thánh cho các giáo hoàng. Cũng cần đẩy lùi lại thuyết thần bí về chức vụ giáo hoàng trong đạo công giáo ngày nay. Và cuối cùng, đây là điều cần thiết, vì Giáo hội cần một quá trình lâu dài để làm sáng tỏ vai trò của giáo hoàng và Giáo triều la-mã trong cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục, vụ bê bối lớn nhất trong lịch sử Giáo hội hiện đại và là cuộc khủng hoảng sâu đậm nhất kể từ thời Cải cách Tin lành.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Hồng y Kasper chống việc phong thánh quá sớm cho Đức Bênêđíctô XVI

 Đức Bênêđictô XVI ‘phong thánh’ ngay? Tổng giám mục Bätzing cho rằng còn quá sớm

Hồng y Kasper chống việc phong thánh quá sớm cho Đức Bênêđíctô XVI

Hồng y Kasper chống việc phong thánh quá sớm cho Đức Bênêđíctô XVI

Hồng y người Đức Walter Kasper phản đối việc phong thánh quá sớm cho Đức Bênêđíctô XVI, ngài thấy bây giờ không phải là thời điểm. | © flickr/catholicism/CC BY-NC-SA 2.0

cath.ch, Raphael Zbinden, 2023-01-09

Hồng y Walter Kasper lên tiếng phản đối việc phong thánh cho Đức Bênêđictô XVI quá sớm. Tổng giám mục Georg Bätzing, chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức cũng bày tỏ sự khó nghĩ của ngài trước lời kêu gọi “phong thánh ngay”.

“Chúng ta không lên thiên đàng bằng tàu tốc hành”, hồng y Kasper trả lời trên báo Ý La Repubblica. Trong tang lễ của Đức Bênêđictô XVI ngày 5 tháng 1 năm 2023, ở Quảng trường Thánh Phêrô, giáo dân xin đẩy nhanh việc phong chân phước và phong thánh cho ngài. Nhưng hồng y Walter Kasper đề nghị giữ thời gian chờ đợi 5 năm sau khi qua đời để bắt đầu tiến trình như luật Giáo hội quy định.

Các chủ tịch của các hội đồng giám mục Đức và Ý cũng bày tỏ quan điểm của họ theo cùng một hướng. Tổng giám mục chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức Bätzing nhấn mạnh, hiện tượng thấy trong tang lễ Đức Gioan-Phaolô II năm 2005 không thể lặp lại. Giáo dân đã ồ ạt xin phong thánh nhanh chóng cho giáo hoàng người Ba Lan. Ngài gọi sự kiện này là “độc nhất vô nhị trong lịch sử Giáo hội”.

Đáng tiếc về những tiết lộ của giám mục Gänswein

 Trong cuộc phỏng vấn với báo La Repubblica, hồng y Kasper cũng nói về cựu thư ký riêng của Đức Bênêđictô XVI, tổng giám mục Georg Gänswein. Giám mục gây chú ý khi phát hành một quyển sách mới. Trong các đoạn trích dẫn được công bố trước, tổng giám mục Gänswein 66 tuổi kể chi tiết về việc hai giáo hoàng cùng tồn tại, việc chung sống giữa hai ngài không phải không có xung đột, hồng y cho rằng, “tốt hơn nên giữ im lặng. Bây giờ không phải lúc để nói những chuyện này.”

Hồng y cho biết ngài không biết liệu triều giáo hoàng của Đức Phanxicô có thay đổi sau cái chết của vị tiền nhiệm hay không. Tuy nhiên, ngài cho rằng việc từ chức trong tương lai gần là khó xảy ra. Đức Phanxicô ưu tiên mong muốn tiếp tục tiến trình đồng nghị của Giáo hội hoàn vũ và đã nghĩ đến Năm Thánh 2025.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Bài đọc thêm: Đức Bênêđictô XVI ‘phong thánh’ ngay? Tổng giám mục Bätzing cho rằng còn quá sớm

Các câu trên Instagram của Đức Phanxicô tháng 12-2022  

Các câu trên Instagram của Đức Phanxicô tháng 12-2022

Mỗi lúc, mỗi giây phút hiện hữu của chúng ta là thời gian quý giá để yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 17 tháng 12-2022.

Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo hoàng danh dự Bênêđictô XVI, trong thinh lặng ngài tiếp tục cầu nguyện cho Giáo Hội. Chúng ta xin Chúa an ủi và nâng đỡ ngài trong chứng từ tình yêu này với Giáo hội cho đến cùng. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 28 tháng 12-2022

Chúng ta xin Hài Nhi sự mới mẻ của một trái tim có khả năng tha thứ: sức mạnh để cầu nguyện cho những người đã làm tổn thương chúng ta và thể hiện tinh thần cởi mở và hòa giải. Tôi xin lặp lời chúc hòa bình, hòa bình trong gia đình, hòa bình trong các giáo xứ, trong cộng đoàn dòng tu, hòa bình trong các phong trào và hiệp hội, hòa bình cho những người dân bị đau khổ vì chiến tranh, hòa bình cho Ukraine thân yêu, đã tử vì đạo. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 26 tháng 12-2022

Nếu chúng ta mong muốn một lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu và của bình an, chúng ta hãy nhìn vào khuôn mặt Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta! Trên khuôn mặt bé nhỏ ngây thơ này, chúng ta nhận ra khuôn mặt của những em bé đang khao khát hòa bình ở khắp nơi trên thế giới. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 25 tháng 12-2022

Thiên Chúa gần chúng ta đêm nay vì Ngài lo cho chúng ta. Từ máng cỏ, như lương thực cuộc sống cho đời chúng ta, Ngài nói với chúng ta: “Nếu con cảm thấy bị các biến cố làm kiệt quệ, nếu cảm giác tội lỗi và sự yếu đuối dày xé con, nếu con khao khát công lý, thì Cha ở bên con.” Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 24 tháng 12-2022

Tôi xin hỏi anh chị em: anh chị em có cầu nguyện với Chúa Thánh Thần không? Nhưng Đấng Ẩn Danh vĩ đại này là ai? Chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha, đúng, lạy Cha chúng con; chúng ta cầu nguyện với Chúa Giêsu, nhưng chúng ta quên Chúa Thánh Thần! Một lần nọ khi dạy giáo lý cho các em, tôi hỏi các em: “Ai biết Chúa Thánh Thần là ai?” Một em nói: Con biết!”, “Ngài là ai?”, “Là người bại liệt!” Em nghe ‘Paraclitus’ và em nghĩ đó là ‘người bị liệt’. Điều này làm cho tôi nghĩ, nhiều lần Chúa Thánh Thần ở đó với chúng ta, như người chúng ta không hề hay biết. Chúa Thánh Thần là linh hồn của sự sống! Chúng ta hãy để Ngài vào. Chúng ta nói chuyện với Ngài như nói chuyện với Chúa Cha và Chúa Con. Nói chuyện với Ngài, không có gì làm tê liệt: Ngài là sức mạnh của Giáo hội, Ngài là Đấng đưa chúng ta vượt qua. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 21 tháng 12-2022

Mỗi lúc, mỗi giây phút hiện hữu của chúng ta là thời gian quý giá để yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 17 tháng 12-2022.

Chúng ta gần gũi với người tử đạo Ukraine, kiên trì sốt sắng cầu nguyện cho anh chị em chúng ta, những người đang phải chịu đau khổ. Anh chị em thân mến, tôi xin nói với anh chị em: có quá nhiều đau khổ ở Ukraine, quá nhiều! Và tôi muốn anh chị em chú ý một chút vào Giáng sinh tới và các lễ hội. Đón Giáng sinh, tiệc tùng là tốt… nhưng chúng ta nên giảm chi tiêu, hãy làm một Giáng sinh khiêm tốn hơn với những món quà khiêm tốn. Xin anh chị em gửi những gì chúng ta tiết kiệm được cho người dân Ukraine, những người đang cần giúp đỡ, họ chịu đựng rất nhiều, họ đói, họ lạnh và nhiều người chết vì không có bác sĩ, không có y tá. Xin anh chị em đừng quên: một Giáng sinh hòa bình với Chúa, với người Ukraine trong trái tim chúng ta. Và xin anh chị em hãy làm những việc cụ thể cho họ. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 14 tháng 12-2022

Tôi xin anh chị em cầu nguyện trước máng cỏ để Chúa giáng sinh mang bình an đến cho trẻ em trên toàn thế giới, đặc biệt những trẻ em phải sống những ngày khủng khiếp và đen tối của chiến tranh. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 11 tháng 12-2022

Chúng con tạ ơn Mẹ chúng con! Chúng con xin hướng về Mẹ là Đấng Vô nhiễm để chúng con có thể tiếp tục tin tưởng và hy vọng, rằng tình yêu sẽ chiến thắng hận thù, sự thật sẽ chiến thắng dối trá, cũng như xúc phạm có thể được tha thứ, hòa bình chiến thắng chiến tranh. Amen! Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 8 tháng 12-2022  #ImmaculeeConception

Theo truyền thống, Đức Phanxicô cầu nguyện tại quảng trường Tây Ban Nha nhân ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ngài dâng lời cầu nguyện xin cho đất nước Ukraine được hòa bình: “Con muốn dâng lên Mẹ lời tạ ơn của người dân Ukraine về hòa bình mà chúng con đã xin Chúa từ lâu. Nhưng hôm nay chúng con vẫn còn xin Mẹ cầu bàu cho vùng đất tử đạo này.” Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 8 tháng 12-2022

Thiên Chúa yêu thương tất cả chúng ta với tình thương phụ tử, dịu dàng và không điều kiện. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 4 tháng 12-2022

tàn khốc đã làm cho các em ở một mình.” Mục sư đã làm những gì Chúa xin mục sư làm: chăm sóc các em bé trong thảm kịch. Và khi tôi đọc bức thư viết trong đau khổ này, tôi đã rất xúc động, tôi nói với Chúa: “’Lạy Chúa, con thấy Chúa tiếp tục truyền cảm hứng cho chúng con thấy những giá trị đích thực của Nước Trời.” Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 2 tháng 11-2022

Hôm nay, Thiên Chúa nhắc nhở chúng ta, cái chết đến để làm nên chân lý cho sự sống. Tin Mừng giải thích cách sống khi chờ đợi: chúng ta đến gặp Thiên Chúa bằng cách yêu thương, vì Ngài là tình yêu. Trên Instagram của Đức Phanxicô ngày 2 tháng 11-2022

Đức Bênêđictô XVI: một trí thông minh nhân từ

Đức Bênêđictô XVI: một trí thông minh nhân từ

plunkett.hautetfort.com, Patrice de Plunkett, 2023-01-02

Đó là ấn tượng không thể phai mờ tôi lưu giữ trong cuộc gặp với Joseph Ratzinger…

Tang lễ của Đức Bênêđictô XVI sẽ diễn ra tại Rôma ngày thứ năm. Trong 48 giờ, tất cả các nhà bình luận đều đưa ra ý kiến của họ về ngài. Tôi không biết có bao nhiêu người trong số họ đã gặp ngài… Cá nhân tôi may mắn và tôi muốn nói đôi lời về cuộc gặp này. Đó là trước khi ngài được bầu làm giáo hoàng: khi ngài ghé Paris để dự một cuộc họp của Viện (mà ngài là thành viên), ngài dành cho tôi một giờ phỏng vấn. Tôi có nhiều câu hỏi và ngài đã thẳng thắn trả lời: nhưng điều khiến tôi bối rối là ngài cũng đặt câu hỏi cho tôi – và lắng nghe câu trả lời của tôi với một chiều sâu nhân từ mà tôi chưa từng thấy vào thời điểm này ở bất cứ ai khác. Tôi nhớ các sinh viên đã nói về ngài khi ngài dạy tại Đại học Tübingen: “Ratzinger là duy nhất. Khi chúng tôi nghe ngài giảng, chúng tôi cảm thấy mình thông minh. Ngài là người cho chúng tôi thấy trí thông minh của mình.” Rất ít sinh viên nói điều này về giáo sư của họ.

Trí thông minh nhân từ và cởi mở với người khác là những đặc điểm của Joseph Ratzinger. Nhưng có một số người nói ngài không khoan dung… Ý kiến không chính xác, nhưng đó không hoàn toàn do lỗi của họ: Đức Bênêđictô XVI tương lai đã làm bộ trưởng bộ Tín Lý hơn hai mươi năm – nhưng thời đại chúng ta xem đó là điều bất thường có một “giáo lý đức tin”. Thay vì “đức tin”, thời đại chúng ta thích nói “tâm linh” hơn: và với họ, tâm linh thuộc lãnh vực độc quyền cá nhân, không thuộc đoàn thể, không thể chế nào được can thiệp vào…

Nhưng Đức Bênêđictô XVI ý thức rất rõ về chủ nghĩa cá nhân bất di bất dịch này của thời đại chúng ta, ngài hết sức khiêm tốn nhận định (một đặc điểm khác trong nhân cách của ngài). Mặt khác, con người vẫn nhận thấy “mình còn thiếu một cái gì đó…” Đây là lãnh vực của rao giảng Tin Mừng – lãnh vực làm chứng của người tín hữu kitô trong thế giới ngày nay. Làm thế nào để tiếp cận với lĩnh vực này? Đức Bênêđictô XVI đặt câu hỏi rất hay. Đức Phanxicô cố gắng thực hiện các câu trả lời. Giữa hai triều giáo hoàng này, tính liên tục quan trọng hơn những khác biệt.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Nhà văn Vittorio Messori nói về Đức Bênêđictô XVI: “Tôi chưa bao giờ biết một người nào tốt như vậy”

Bài mới nhất